Tải bản đầy đủ (.docx) (29 trang)

Những cách tân về nghệ thuật trong truyện ngắn của một số cây bút nữ thời kỳ 1986 đến nay (nguyễn thị thu huệ, nguyễn ngọc tư, đỗ bích thúy)

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (258.48 KB, 29 trang )

ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
TRƯỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC XÃ HỘI VÀ NHÂN VĂN

NGUYỄN THANH HỒNG

NHỮNG CÁCH TÂN VỀ NGHỆ THUẬT TRONG TRUYỆN
NGẮN CỦA MỘT SỐ CÂY BÚT NỮ THỜI KÌ 1986 ĐẾN NAY
(NGUYỄN THỊ THU HUỆ, NGUYỄN NGỌC TƯ, ĐỖ BÍCH
THUÝ)

Chuyên ngành: Văn học Việt Nam
Mã số: 62 22 34 01

TÓM TẮT LUẬN ÁN TIẾN SĨ VĂN HỌC


Hà Nội - 2016


Công trình được hoàn thành tại:
Trường Đại học khoa học Xã hội và Nhân văn,
Đại học Quốc gia Hà Nội

Người hướng dẫn khoa học: PGS.TS. Hà Văn Đức
Phản biện:
Phản biện:
Phản biện:

Luận án sẽ được bảo vệ trước Hội đồng chấn luận án cấp
cơ sở họp tại . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . . .
vào hồi



giờ

ngày

Có thể tìm hiểu luận án tại:
- Thư viện Quốc gia Việt Nam

tháng

năm 20...


- Trung tâm Thông tin - Thư viện, Đại học Quốc gia Hà
Nội


DANH MỤC CÁC CÔNG TRÌNH KHOA HỌC CỦA TÁC GIẢ
LIÊN QUAN ĐẾN LUẬN ÁN

1. Nguyễn Thanh Hồng (2010), “Nhân vật trong truyện ngắn Nguyễn
Ngọc Tư”, Tạp chí Diễn đàn văn nghệ Việt Nam, (187), tr.17-20.
2. Nguyễn Thanh Hồng (2016), “Kiểu cốt truyện trong truyện ngắn
của một số tác giả nữ gần đây”, Tạp chí Diễn đàn văn nghệ Việt
Nam (262), tr. 17-21.
3. Nguyễn Thanh Hồng (2016), “Nghệ thuật miêu tả nhân vật trong
truyện ngắn Nguyễn Thị Thu Huệ”, Tạp chí Diễn đàn văn nghệ
Việt Nam (263), tr.18-22.
4. Nguyễn Thanh Hồng (2016), “Kiểu kết cấu đảo lộn thời gian của sự
kiện trong truyện ngắn Bảy ngày trong đời (Nguyễn Thị Thu Huệ)”,

Tạp chí Dạy và học ngày nay (11), tr.70,71,28.

5


MỞ ĐẦU

1. Lí do chọn đề tài và mục đích nghiên cứu
1.1. Sau năm 1986, văn học Việt Nam đã có những khởi sắc đặc biệt.
Không giống như ở thời kỳ trước, văn học thời kỳ này đã phản ánh hiện
thực theo cách mới, quan niệm mới. Với đặc thù là một thể loại nhỏ gọn
và cơ động, truyện ngắn bắt nhịp rất nhanh với những vấn đề của đời
sống.
1.2. Bước vào thời kỳ đổi mới sau Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ VI
năm 1986, các cây bút nữ ngày càng thể hiện rõ thế mạnh của mình
trong lĩnh vực văn chương.
1.3.Trong nền văn học Việt Nam thời kỳ đổi mới, Nguyễn Thị Thu Huệ,
Nguyễn Ngọc Tư, Đỗ Bích Thúy chưa hẳn đã là những đại diện tiêu
biểu nhất. Nhưng họ là những phong cách riêng rất độc đáo không thể
trộn lẫn.
2. Đối tượng, phạm vi, nhiệm vụ nghiên cứu
2.1. Đối tượng, phạm vi nghiên cứu
2.1.1.Tìm hiểu một số cách tân về nghệ thuật của một số cây bút nữ
thời kỳ đổi mới có thể đem lại cho chúng ta một cái nhìn sâu sắc trước
sự vận động, chuyển biến của một tư duy văn học mới về con người
thời kỳ đổi mới.
2.1.2. Chọn đề tài Những cách tân về nghệ thuật trong truyện ngắn của
một số cây bút nữ thời kỳ 1986 đến nay (Nguyễn Thị Thu Huệ, Nguyễn
Ngọc Tư, Đỗ Bích Thúy), chúng tôi tìm hiểu ở ba phương diện:
- Những cách tân nghệ thuật trên phương diện tình huống và kết

cấu truyện
- Sự Đổi mới quan niệm nghệ thuật về con người và những cách
tân trong nghệ thuật xây dựng nhân vật
- Sự đổi mới về nghệ thuật trần thuật (Ngôn ngữ và giọng điệu)

6


2.2. Nhiệm vụ nghiên cứu
Luận án xác định các nhiệm vụ nghiên cứu cơ bản như sau: Khảo
sát, nghiên cứu, tổng kết và đưa ra nhận định về một số cách tân nghệ
thuật của một số cây bút nữ thời kì 1986 đến nay (Nguyễn Thị Thu Huệ,
Nguyễn Ngọc Tư, Đỗ Bích Thúy)
3. Phương pháp nghiên cứu
3.1. Phương pháp loại hình
3.2. Phương pháp hệ thống
3.3. Phương pháp so sánh
3.4. Phương pháp phân tích tổng hợp, khái quát
4. Đóng góp của luận án
Luận án bước đầu hệ thống, phân tích và đưa ra một số nhận
định, đánh giá ban đầu về sự đổi mới, cách tân về nghệ thuật truyện
ngắn thông qua sáng tác của một số cây bút nữ tiêu biểu thời kì sau đổi
mới như: Nguyễn Thị Thu Huệ, Nguyễn Ngọc Tư, Đỗ Bích Thúy. Từ
bình diện tìm hiểu những cách tân nghệ thuật, luận án muốn tìm hiểu
sâu hơn nữa về những cách tân của thể loại truyện ngắn Việt Nam nói
riêng, cũng như văn học Việt Nam nói chung, thời kì sau 1986.
Luận án mong muốn tìm hiểu để thấy được những nét độc đáo
riêng trong phong cách nghệ thuật của ba cây bút nữ: Nguyễn Ngọc Tư,
Nguyễn Thị Thu Huệ, Đỗ Bích Thúy.
Luận án cũng góp phần khẳng định những thành tựu, đóng góp

của ba cây bút nữ nói riêng và sáng tác của các nhà văn trong tiến trình
đổi mới và hội nhập của văn học Việt Nam đương đại.
Ứng dụng vào khảo sát một vài tác giả văn học Việt Nam đương
đại, kết quả nghiên cứu của luận án có ý nghĩa cung cấp phương pháp
luận và kiến văn cần thiết cho việc tham khảo trong nghiên cứu và
giảng dạy ở nhiều cấp độ.

7


5. Cấu trúc của luận án
Ngoài phần mở đầu, phần kết luận và phần thư mục tham khảo,
nội dung chính của luận án gồm bốn chương như sau:
Chương 1: Tổng quan về vấn đề nghiên cứu
Chương 2: Những cách tân về tình huống và kết cấu truyện
Chương 3: Đổi mới quan niệm nghệ thuật về con người và những
cách tân trong nghệ thuật xây dựng nhân vật
Chương 4: Những cách tân trên phương diện ngôn ngữ và giọng
điệu

8


CHƯƠNG 1: TỔNG QUAN VẤN ĐỀ NGHIÊN CỨU
1.1. Giới thuyết về truyện ngắn và xu hướng cách tân nghệ thuật
trong truyện ngắn Việt Nam thời kì 1986 đến nay
1.1.1. Giới thuyết về truyện ngắn
Truyện ngắn, một thể loại văn tự sự, nó thường là các câu chuyện
kể bằng văn xuôi, có xu hướng ngắn gọn, súc tích và hàm nghĩa hơn các
câu chuyện dài như tiểu thuyết. Thông thường, truyện ngắn có độ dài từ

vài dòng đến vài chục trang và chỉ tập trung vào một tình huống, một
chủ đề nhất định. Trong Từ điển văn học do nhà xuất bản Khoa học Xã
hội ấn hành năm 1984, truyện ngắn được quan niệm là một loại
“truyện”. Paul Bouurget, nhà văn và là nhà phê bình người Pháp cũng
có những nhận định về thể loại truyện ngắn, các công trình Ngôn ngữ
với sáng tạo và tiếp nhận văn học của Nguyễn Lai, Những vấn đề của
thi pháp truyện, tác giả Nguyễn Thái Hòa, hai cuốn sách Nghệ thuật
viết truyện ngắn và kí do Tạ Duy Anh chủ biên và Sổ tay truyện ngắn do
Vương Trí Nhàn sưu tầm, biên soạn, hai công trình Truyện ngắn –
những vấn đề lí thuyết và thực tiễn thể loại của Bùi Việt Thắng và
Truyện ngắn: lý luận tác gia và tác phẩm của Lê Huy Bắc đều đã cố
gắng đưa ra cách nhìn nhận tổng quan về truyện ngắn, phân loại truyện
ngắn, vai trò của truyện ngắn trong cấu trúc của nền văn học, những đặc
điểm cơ bản của truyện ngắn và phân chia truyện ngắn thành những thể
loại cơ bản.
1.1.2. Xu hướng cách tân nghệ thuật trong truyện ngắn từ 1986 đến
nay
Cách tân được coi là một vấn đề then chốt của sự phát triển. Ta có
thể gọi bằng những khái niệm thay thế khác như “tiền phong”, “đổi
mới”, “thử nghiệm” hoặc “hậu hiện đại”.

9


Trong giai đoạn từ 1986 đến nay, sự cách tân trong thể loại truyện
ngắn có thể được khái quát ở một số nội dung cơ bản như sau:
Thứ nhất, bên cạnh yếu tố truyền thống, truyện ngắn Việt Nam
đã xuất hiện nhiều yếu tố của chủ nghĩa “hậu hiện đại”.
Thứ hai, xuất hiện xu thế tiểu thuyết hóa truyện ngắn.
Tuy nhiên, xét một cách tổng thể, trong xu hướng chung của một

“làn sóng mới” ít nhiều còn mang tính chất “tìm đường”, một số truyện
ngắn còn mang tính chất “thử nghiệm”, chưa thực sự đạt đến độ hài hòa,
nhuần nhuyễn giữa ý tưởng, ý nghĩa của tác phẩm với hình thức nghệ
thuật mới lạ
1.2. Tình hình nghiên cứu truyện ngắn nữ Việt Nam sau 1986
Trong lịch sử văn học Việt Nam trước 1986, đặc biệt là trước
1975, dường như ít thấy xuất hiện bóng dáng của các cây bút nữ. Những
năm sau chiến tranh, đặc biệt là thời kỳ đổi mới, văn học Việt Nam khởi
sắc với sự xuất hiện của hàng loạt cây bút nữ. Ngày càng nhiều những
gương mặt nữ xuất hiện và chiếm ưu thế đã tạo nên sự mới mẻ, hấp dẫn.
Các cây bút nữ thực sự khẳng định được tài năng và bản lĩnh nghệ thuật
của mình. Sáng tác của các cây bút nữ thường đi sâu vào bi kịch, những
nỗi đau với sự trải nghiệm sâu sắc. Không chỉ có những khám phá mới
về nội dung mà các cây bút nữ còn có những cố gắng trong tìm tòi nghệ
thuật nhằm xây dựng cho mình một phong cách riêng
1.3 .Tình hình nghiên cứu về các tác giả
1.3.1. Nguyễn Thị Thu Huệ
1.3.2.Nguyễn Ngọc Tư
1.3.3. Đỗ Bích Thúy

10


CHƯƠNG 2: NHỮNG CÁCH TÂN TRONG NGHỆ THUẬT XÂY
DỰNG TÌNH HUỐNG VÀ KẾT CẤU TRUYỆN
2.1. Những cách tân trong nghệ thuật xây dựng tình huống truyện
Tình huống truyện ngắn thường là sự tái hiện ở mức đậm đặc nhất,
tiêu biểu nhất những mâu thuẫn, xung đột, những vấn đề lớn của xã hội,
của thời đại, của nhân loại thông qua một sự kiện có tác động mạnh mẽ
đến nhận thức, cảm xúc, sự lựa chọn và cách thức hành động, để thể

hiện tính cách nhân vật. Tình huống chi phối sự phát triển tính cách
nhân vật, chi phối diễn biến cốt truyện, và tính độc đáo, duy nhất,
nhưng lại chứa đựng những vấn đề cốt lõi, phổ quát trong hiện thực của
tình huống sẽ phản ánh kinh nghiệm sống, sự lịch lãm và khả năng sáng
tạo của nhà văn.
2.1.1. Những cách tân trong nghệ thuật xây dựng tình huống trong
truyện ngắn Việt Nam từ 1986 đến nay
Trong văn học kháng chiến, truyện ngắn thường khai thác những
tình huống liên quan đến các vấn đề về mối quan hệ giữa cá nhân và
cộng đồng, về số phận của nhân vật trong những biến cố lớn của lịch sử,
của thời đại. Bước sang giai đoạn sau năm 1975, đặc biệt là thời kì sau
1986, các nhà văn dần chuyển hướng, xây dựng những tình huống
truyện liên quan đến thế sự - đời tư.
2.1.2. Những kiểu tình huống chính trong truyện ngắn Nguyễn Thị
Thu Huệ, Nguyễn Ngọc Tư, Đỗ Bích Thúy
2.1.2.1. Tình huống nhận thức
Truyện ngắn được xây dựng trên tình huống nhận thức đặt nhân
vật vào một thời điểm, một khoảnh khắc chứa đựng những sự kiện có
thể khiến nhân vật thay đổi một xác tín nào đó của mình về hiện thực,
khiến cho những niềm tin mà nhân vật cho là lẽ phải trước đó bị lung
lay, rạn vỡ, từ đó, nhân vật tiếp cận gần hơn với một chân lí mới. Nói

11


khác đi, tình huống nhận thức chủ yếu cắt nghĩa giây phút “giác ngộ
chân lí” của nhân vật.
2.1.2.2. Tình huống hành động
Tình huống hành động là tình huống chứa đựng những mâu
thuẫn, xung đột của đời sống, buộc nhân vật phải có một hành động nào

đó mang tính quyết định để giải quyết mâu thuẫn, đưa cuộc sống vận
động theo một hướng quyết định, chuyển sang một trạng thái khác
trước.
2.1.2.3. Tình huống tâm trạng
Tình huống tâm trạng là kiểu tình huống phổ biến trong truyện
ngắn trữ tình. Với kiểu tình huống này, nhân vật trải qua một trạng thái
phức tạp, nhưng tính chất phức tạp đó không được chú trọng ở hành
động mà hiện lên qua những trạng thái tâm lí, tình cảm, cảm xúc của
nhân vật. Với tình huống tâm trạng, truyện để lại trong tâm trí người
đọc ấn tượng, dư ba về đời sống tinh thần, thế giới tâm hồn phong phú
của nhân vật trong một hoàn cảnh nào đó.
2.2. Những đổi mới trong kết cấu truyện ngắn
Kết cấu là phạm trù nằm ở trung tâm những nghiên cứu có tính
nội quan về tác phẩm văn học (thi pháp học, ký hiệu học, tự sự học…).
Kết cấu là toàn bộ tổ chức phức tạp và sinh động của tác phẩm, bao
gồm sự liên kết bề mặt và kiến trúc nội dung bên trong, đồng thời “kết
cấu là phương tiện cơ bản và tất yếu của khái quát nghệ thuật”, đảm
nhận những chức năng nghệ thuật rất đa dạng. Trong văn học, kết cấu là
một phương tiện cơ bản của sáng tác nghệ thuật, đảm nhận vai trò tổ
chức các thành tố: quan niệm, không – thời gian, điểm nhìn trần thuật,
lời văn…. Kết cấu góp phần truyền tải nội dung tư tưởng của nhà văn
muốn gửi gắm tới bạn đọc, tạo cho tác phẩm một bố cục chặt chẽ, rõ
ràng, đồng thời, kết cấu cũng thể hiện bản lĩnh sáng tạo của mỗi tác giả.

12


2.2.1. Kết cấu đảo lộn thời gian của sự kiện
Một trong những hình thức mới mẻ mà truyện ngắn Việt Nam
thời kỳ sau 1986 đem lại và đạt được nhiều thành tựu trên phương diện

kết cấu cốt truyện là sự đảo lộn thời gian của sự kiện – tức là nghệ thuật
trần thuật không theo trình tự diễn tiến của cốt truyện tự nhiên theo thời
gian tuyến tính (đi từ nhân tới quả). Đây là kết cấu trong đó cách tổ
chức sắp xếp các chi tiết, sự kiện hoàn toàn không theo trật tự thời gian
tuyến tính. Tức là, thời gian lịch sử và thời gian trần thuật không trùng
khít. Việc tạo ra sự xáo trộn về thời gian của hệ thống sự kiện xảy ra
trong truyện thực là do sự sắp xếp của nhà văn nhằm phục vụ ý đồ sáng
tác. Một truyện ngắn thường bắt đầu từ sự xuất hiện của các nhân vật,
phát triển thông qua các mối quan hệ, nảy sinh mâu thuẫn, đưa đến cao
trào và kết thúc. Không theo trình tự ấy, kiểu kết cấu hồi cố đưa kết luận
lên đầu tác phẩm, sau đó là quá trình tìm hiểu nguyên nhân. Hay nói
cách khác là truyện ngắn có sự đan xen thời gian quá khứ, hiện tại,
tương lai. Kiểu kết cấu này được thể hiện rõ trong các tác phẩm Bảy
ngày trong đời (Nguyễn Thị Thu Huệ), Cánh đồng bất tận (Nguyễn
Ngọc Tư), Tiếng kèn môi sau bờ rào đá (Đỗ Bích Thúy).
2.2.2. Kết cấu tâm lí
Trong truyện ngắn hôm nay, kết cấu tâm lí đã được sử dụng khá
nhuần nhuyễn. Hẳn nhiên, mạch truyện được triển khai theo tâm lí nhân
vật nhưng vẫn phải neo vào các sự kiện, dựa vào sự kiện. Do vậy, để có
một truyện hay, người viết không chỉ miêu tả tâm lý mà là phân tích tâm
lý, phân tích gắn với sự kiện, bởi vì chỉ có sự kiện ấy thì tâm lý nhân vật
mới có biểu hiện như vậy. Ngoài việc sử dụng kết cấu đơn tuyến, kết
cấu đảo lộn thời gian của sự kiện, tác giả còn đi sâu khai thác kết cấu
tâm lý trong các tác phẩm: Hậu thiên đường, Nước mắt đàn ông,

13


Cát đợi, Giai nhân, Biển ấm, Phù thủy…(Nguyễn Thị Thu
Huệ), Ngày mai của những ngày mai (Nguyễn Ngọc Tư),

Gió không ngừng thổi, Ngải đắng ở trên núi (Đỗ Bích
Thúy),…
2.2.3. Kết cấu mở (Kiểu kết thúc để ngỏ)
Kết cấu mở là cách thức tổ chức chi tiết, sự kiện trong thế phát
triển “chưa hoàn thành” của hiện thực; tác phẩm đã kết thúc nhưng vẫn
còn những dư âm và khoảng để ngỏ trong lòng người đọc. Truyện ngắn
có thể không có kết thúc hoặc kết thúc chưa đưa ra một kết luận thỏa
đáng sau cùng. Ở những truyện ngắn theo kết cấu mở, nhà văn có vai
trò đặt vấn đề, gợi mở những cách tiếp cận, đánh giá…độc giả trở thành
người đồng sáng tạo với tác giả, mỗi câu chuyện sẽ đi trọn hành trình
của nó trong nhận thức, tư tưởng của bạn đọc. Để tạo nên những khoảng
trống cho tác phẩm, nhà văn thường tạo ra những chi tiết bất ngờ vào
cuối truyện mà không đưa ra lời giải thích thỏa đáng.
2.2.4. Hiện tượng vượt khung thể loại trong truyện ngắn của
các tác giả nữ
Một trong những đặc điểm nổi bật của văn học Việt Nam sau
1986 là sự đan xen, thâm nhập lẫn nhau giữa các thể loại. Sự giao thoa
này cho phép các thể loại mở rộng đường biên của mình, vừa phát huy
thế mạnh mà mình vốn có, vừa thu hút được những ưu thế của các thể
loại khác. Với những đặc điểm tương đồng và dị biệt, trong quá trình
phát triển giữa truyện ngắn và tiểu thuyết có sự tương tác, ảnh hưởng
lẫn nhau.

14


CHƯƠNG 3: NHỮNG ĐỔI MỚI TRONG QUAN NIỆM NGHỆ
THUẬT VỀ CON NGƯỜI VÀ CÁCH TÂN TRONG NGHỆ
THUẬT XÂY DỰNG NHÂN VẬT
3.1. Đổi mới trong quan niệm nghệ thuật về con người

3.1.1. Quan niệm nghệ thuật về con người
Quan niệm nghệ thuật về con người, là sự lí giải, cắt nghĩa, sự
cảm thấy con người đã được hóa thân thành các nguyên tắc, phương
tiện, biện pháp thể hiện con người trong văn học, tạo nên giá trị nghệ
thuật và thẩm mĩ cho các hình tượng nhân vật trong đó.
3.1.2. Hình tượng con người trong truyện ngắn của Nguyễn Thị Thu
Huệ, Nguyễn Ngọc Tư, Đỗ Bích Thúy
Nằm trong mạch vận động và đổi mới của quan niệm nghệ thuật
về con người của văn học thời kì sau 1986, Nguyễn Thị Thu Huệ,
Nguyễn Ngọc Tư, Đỗ Bích Thúy cũng có những quan niệm nghệ thuật
về con người rất đa dạng, phong phú.
3.1.2.1. Con người có nhân cách cao đẹp
Trong sáng tác của các tác giả Nguyễn Thị Thu Huệ, Nguyễn
Ngọc Tư, Đỗ Bích Thúy xuất hiện khá nhiều hình ảnh những con người
có nhân cách cao đẹp. Chiếm đại đa số trong đó là những người mẹ,
người chị, người phụ nữ, chấp nhận nhiều thiệt thòi, hi sinh, mất mát
trong cuộc sống. Tuy nhiên, con người có nhân cách cao đẹp trong tác
phẩm của các nhà văn nữ không hẳn chỉ là người phụ nữ, những phẩm
chất tốt đẹp còn có ở những người đàn ông chân chính.
3.1.2.2. Con người tha hóa
Kiểu nhân vật tha hóa đã xuất hiện từ lâu trong văn học thế giới,
tồn tại với tư cách là kiểu nhân vật trung tâm của trào lưu hiện thực.
Trong sáng tác của các nhà văn Nguyễn Thị Thu Huệ, Đỗ Bích
Thúy, Nguyễn Ngọc Tư, ta thấy có một hệ thống các nhân vật tha hóa.
Trước hết, đó là những nhân vật tha hóa có khả năng thức tỉnh. Đây là

15


loại nhân vật chớm bước vào con đường tha hóa nhưng chưa lún sâu,

nhiều người rơi vào tình trạng tự đánh mất mình mà không ý thức được.
Bên cạnh đó, xuất hiện hàng loạt nhân vật tha hóa song không có
khả năng thức tỉnh, tha hóa đến không còn nhân tính, mù quáng trước
những dục vọng thấp hèn. Nhân vật hầu hết không ý thức được sự tha
hóa của mình, không có khả năng phân biệt thiện – ác, bị sai khiến bởi
bản năng và thú tính.
3.1.2.3. Con người bi kịch
Cảm hứng bi kịch nhân văn được coi là “một trong những dấu
hiệu của sự chuyển đổi”. Nó cho thấy khả năng tiếp cận hiện thực ở cả
những miền khuất lấp, những cảnh ngộ đáng thương của con người. Có
thể nói, trong văn học giai đoạn hiện nay, số phận cá nhân – thân phận
con người trở thành mối quan tâm hàng đầu.
Nhân vật bi kịch là loại nhân vật trong tư tưởng luôn chứa đầy
mâu thuẫn, xung đột, kết cục dẫn đến đau thương, bế tắc, tuyệt vọng.
Mỗi cá nhân là một tiểu vũ trụ, ai cũng có những ước mơ, khát vọng,
song thực tế cho thấy không phải bao giờ ước mơ cũng trở thành hiện
thực, những khát vọng chân chính thường va chạm với hoàn cảnh sống,
với cái xấu, cái ác.
Các nhà văn nữ thường hay khắc họa những bi kịch của con
người trên phương diện tâm lý và tình cảm. Trong trang viết của các cây
bút nữ, nỗi đau khổ của con người hiện lên với nhiều hình nhiều vẻ rất
xúc động.
3.1.2.4. Con người cô đơn
Văn học hiện đại vươn mình ra khỏi lãnh giới chật hẹp của văn
chương trung đại để khám phá và thể hiện đắc lực như cầu giải phóng
cái Tôi cá nhân của chính mình. Với mảng văn học đương đại, và đặc
biệt là văn học đầu thế kỉ XXI, nổi lên những số phận bơ vơ, những cái
“Tôi” lạc loài giữa đồng loại, tự giải mã câu hỏi tâm hồn mình bằng

16



phép định tâm, đôi khi là sự bất lực trước sự đa đoan, đa tình của cuộc
đời.
Trong văn chương của các cây bút nữ, hình ảnh nhân vật cô đơn
được chú trọng khắc họa hơn bao giờ hết. Trước hết, đó là những cái tôi
cô đơn đi tìm bản ngã của chính mình.
Nhân vật có khi rơi vào tâm trạng cô đơn do sự sụp đổ của tình
cảm con người vì giá trị của đồng tiền. Đó là những nỗi cô đơn nhân thế
của con người trước sự ghẻ lạnh, thờ ơ của người thân, hay sự thay đổi
tâm tính của con người quá nhanh vì vật chất của thời mở của.
3.2. Những cách tân trong nghệ thuật xây dựng nhân vật
Sự thay đổi quan niệm nghệ thuật về con người, những biến đổi
trong thế giới nhân vật được cụ thể hóa bằng nhiều thủ pháp xây dựng
nhân vật. Mỗi kiểu nhân vật đòi hỏi những cách thức riêng trong nghệ
thuật miêu tả và xây dựng nhân vật.
3.2.1. Nghệ thuật miêu tả ngoại hình và hành động
3.2.1.1. Nghệ thuật miêu tả ngoại hình
Trong văn chương thời kì trước 1975, đặc biệt là dòng văn học
Hiện thực phê phán (1930-1945), miêu tả ngoại hình nhân vật là một
thủ pháp quan trọng không thể thiếu.
Đến văn học thời kì sau này, đặc biệt là dòng văn học đổi mới
sau 1986, các nhà văn đã không còn chú trọng đi sâu khám phá các chi
tiết về ngoại hình, mà tập trung mô tả quá trình và diễn biến tâm lí.
Trong truyện ngắn của Nguyễn Thị Thu Huê, Nguyễn Ngọc Tư
và Đỗ Bích Thúy, ta thấy nhân vật được xuất hiện qua một vài nét
chấm phá.
Ngoại hình nhiều khi được mô tả một cách gián tiếp, thông qua
cái nhìn của người khác.
Mô tả ngoại hình, các nhà văn nữ cũng thông qua đó để khắc họa

tâm trạng nhân vật.

17


3.2.1.2. Nghệ thuật miêu tả hành động
Tính cách, suy nghĩ, đặc điểm của nhân vật còn được thể hiện
qua việc làm, cử chỉ. Hành động, cử chỉ của một người nói lên bản chất,
tính cách của người ấy. Vì vậy, khi xem xét thế giới nhân vật trong
truyện ngắn của các tác giả nữ, không thể không chú ý đến nghệ thuật
miêu tả hành động của các nhân vật. Đây là một trong những thành
công của các tác giả trong việc thể hiện tính cách, tâm hồn của con
người.
3.2.2. Nghệ thuật miêu tả nội tâm
3.2.2.1. Đối thoại và độc thoại nội tâm
Ngôn ngữ là hiện thực trực tiếp của tư duy, là sự thể hiện sinh
động và chính xác những suy nghĩ, tính cách và đời sống tâm lí của con
người. Ngôn ngữ trong tác phẩm lấy chất liệu từ ngôn ngữ đời sống,
thông qua sự chọn lọc, sắp xếp của nhà văn trở thành phương tiện khám
phá cuộc sống của con người. Do vậy, kỹ thuật xử lý ngôn ngữ có vai
trò rất quan trọng tring quá trình xây dựng nhân vật. Trong tác phẩm
của Nguyễn Thị Thu Huệ, Nguyễn Ngọc Tư, Đỗ Bích Thúy ta thấy các
tác giả rất tài tình trong việc lựa chọn và xử lí ngôn ngữ đặc biệt là
trong việc xây dựng đối thoại và độc thoại nội tâm cho nhân vật.
3.2.2.2. Nghệ thuật miêu tả tâm lý
Mỗi kiểu nhân vật đòi hỏi những cách thức riêng trong nghệ
thuật miêu tả và xây dựng nhân vật. Truyện ngắn thời kỳ đổi mới đã đi
sâu khám phá thế giới bí ẩn của tâm hồn của con người đặc biệt về mặt
tâm lý. Nhà văn bên cạnh việc miêu tả hành động còn đi sâu tái hiện
những trạng thái và quá trình tâm lý vốn rất đa dạng, phức tạp trong thế

giới nội tâm nhân vật. Tâm lý nhân vật không chỉ là phương tiện để nhà
văn trình bày, khái quát một vấn đề, một nội dung xã hội nào đo mà
thực sự trở thành đối tượng, mục đích của sáng tác văn học.

18


Thời kỳ văn học sau đổi mới xuất hiện kiểu truyện ngắn dòng
tâm trạng. Truyện ngắn dòng tâm trạng là kiểu truyện ngắn khá phổ
biến trong văn học giai đoạn đổi mới. Các nhà văn nữ đã sử dụng đắc
lực hình thức này trong đó việc phân tích tâm lý nhân vật trở thành
phương tiện chủ yếu để xây dựng cốt truyện và cuộc sống, được biểu
đạt qua thế giới tâm hồn, tâm trạng của nhân vật.
3.2.2.3. Không gian, thời gian nghệ thuật trong việc khắc họa
tính cách nhân vật
* Không gian nghệ thuật
Muốn đánh giá đúng đắn chính xác về nhân vật không thể không
tìm hiểu không gian tồn tại của nó. Trong sáng tác văn học, không gian
nghệ thuật trở thành một thủ pháp nghệ thuật quan trọng khắc họa hình
tượng nhân vật. Qua đó, thế giới nhân vật cảm tính được bộc lộ. Không
gian nghệ thuật gắn với cảm thụ về không gian tâm tưởng. Không gian
nghệ thuật không phải là không gian vật chất mà chủ yếu là không gian
của tinh thần, không gian của tâm tưởng, cảm xúc, ước vọng, hồi
tưởng...
Như vậy, không gian nghệ thuật trong tác phẩm văn học có tác
dụng mô hình hóa các mối liên hệ như thời gian, xã hội, đạo đức, tôn ti
trật tự…Ngôn ngữ trong không gian nghệ thuật rất đa dạng và phong
phú. Các phạm trù cao - thấp, xa - gần, rộng - hẹp, cong - thẳng đều
được dùng để biểu hiện các phạm vi giá trị phẩm chất của đời sống xã
hội. Nó cung cấp cơ sở khách quan để khám phá tính độc đáo cũng như

nghiên cứu loại hình của các hình tượng nghệ thuật.
Không gian nghệ thuật trong truyện ngắn Nguyễn Ngọc Tư là
không gian song hành: Không gian sông nước - đất liền, không gian
gia đình - xã hội và không gian sân khấu – không gian thực của
cuộc sống.

19


Trong truyện ngắn của Nguyễn Thị Thu Huệ, nhân vật thường
được đặt vào một không gian hẹp, thời gian có thể chỉ là một khoảnh
khắc diễn ra trong cuộc đời. Đó là không gian và thời gian của nỗi niềm
riêng tư cá nhân chứ không phải khung cảnh rộng lớn của cộng đồng
dân tộc trong thời chiến tranh. Không gian trở đi trở lại trong nhiều tác
phẩm của Thu Huệ là hình ảnh cuộc sống gia đình, cá nhân tách biệt với
xung quanh; không gian của những căn phòng tù túng mà ở đó con
người phải đối mặt trước bao bộn bề của cuộc sống. Nếu không đặt
nhân vật của mình trong không gian chật chội, nhỏ hẹp của những căn
phòng tù túng thì Nguyễn Thị Thu Huệ sẽ đưa nhân vật vào một không
gian rộng lớn hơn như: bên giếng nước, rạp chiếu phim, cơ quan làm
việc, khu vườn dành cho những người yêu nhau, dãy phố có 108 cây
bằng lăng…Nhưng trong thế giới ấy, các nhân vật của chị cũng không
thể nào hòa nhập được với xã hội và cuộc đời.
Trong trang viết của Đỗ Bích Thúy, để nhằm làm nổi bật tính
cách cũng như số phận của nhân vật, tác giả hay đặt nhân vật của mình
trong không gian sống, không gian sinh hoạt thường nhật của họ.
*Thời gian nghệ thuật
Thời gian nghệ thuật chính là một hình tượng thời gian được
sáng tạo nên trong tác phẩm nghệ thuật. Nó chính là một phương tiện để
phản ánh đời sống và nó được rong ruổi ngược xuôi, đảo chiều một

cách tự do, không hoàn toàn phụ thuộc vào thời gian vật lý. Nó luôn
đóng vai trò là hình thức tồn tại, hình thức triển khai hành động , cảm
thụ trong tác phẩm nghệ thuật. Vì vậy, thời gian nghệ thuật có thể đảo
ngược về quá khứ hoặc vượt qua hiện tại để đến tương lai, có thể dồn
nén một khoảnh khắc hoặc kéo cái chốc lát thành vĩnh viễn, vô tận:
Thời gian nghệ thuật là một biểu tượng, một tượng trưng, thể hiện một
quan niệm của nhà văn về cuộc đời và con người.

20


Nguyễn Thị Thu Huệ đã tận dụng tối đa hiệu quả nghệ thuật của
kiểu Thời gian sự kiện.
Ta còn thấy kiểu thời gian điểm mút, giao thời trong sáng tác của
Nguyễn Ngọc Tư. Trong truyện Nguyễn Ngọc Tư, thời điểm giao thời
giữa sáng và tối, giữa ngày và ngày, giữa mùa và mùa lại đem đến cho
con người những cảm giác khác. Ngoài một số tác phẩm mang ý nghĩa
tả thực thì thông qua thời gian như vậy, nhà văn muốn nhấn mạnh đến
tình cảnh, số phận của con người.
Đỗ Bích Thúy dùng quãng thời gian của mùa trăng, phiên chợ
để nói về nỗi mong chờ và khát vọng của con người. Ngoài thời gian
thiên nhiên, thời gian phong tục cũng trở thành đặc trưng trong sáng tác
của Đỗ Bích Thúy.
Tuy nhiên, thời gian nổi bật chủ yếu trong sáng tác của cả
Nguyễn Thị Thu Huệ, Nguyễn Ngọc Tư, Đỗ Bích Thúy là kiểu thời
gian hoài niệm quá khứ, thời gian phi thực
3.2.3. Một số thủ pháp nghệ thuật khác
3.2.3.1. Nghệ thuật phi điển hình hóa
Văn học hiện thực phê phán 1930-1945 và văn học hiện thực xã
hội chủ nghĩa rất coi trọng việc xây dựng điển hình. Trong văn học

đương đại, quan niệm về điển hình thay đổi khi lí tính bị hoài nghi. Thứ
nhất: Hòa chung trong dòng chảy thời đại đó, các nhà văn nữ không thể
không chịu ảnh hưởng của những quan niệm đương đại khi xây dựng
nhân vật. Thứ hai, mỗi nhân vật trong tác phẩm được đặt vào một hoàn
cảnh khác nhau để bộc lộ tâm trạng, tính cách. Thứ ba, không có một
khuôn mẫu tính cách nào trong sáng tác của mỗi tác giả. Tất cả họ đã vẽ
nên bức tranh sinh động, nhiều màu sắc về những cảnh đời, những số
phận riêng biệt trong xã hội, để từ đó, người đọc có cái nhìn đa chiều,
sâu sắc hơn về con người và cuộc sống. Tất cả họ đã vẽ nên bức tranh
sinh động, nhiều màu sắc về những cảnh đời, những số phận riêng

21


biệt trong xã hội, để từ đó, người đọc có cái nhìn đa chiều, sâu sắc hơn
về con người và cuộc sống.
3.2.3.2. Kĩ thuật đa bội điểm nhìn
Trước đây, truyện ngắn thường có một tình huống truyện, các
mâu thuẫn, xung đột xoay quanh một tâm điểm duy nhất. Nhân vật
được nhìn dưới một trong hai điểm nhìn trần thuật phổ biến: điểm nhìn
khách quan từ ngôi thứ ba giấu mặt hoặc điểm nhìn của ngôi thứ nhất là
người có tham gia vào câu chuyện để kể lại.
Truyện ngắn Nguyễn Thị Thu Huệ, Nguyễn Ngọc Tư, Đỗ Bích
Thúy hầu hết sử dụng điểm nhìn truyền thống. Song, bên cạnh đó, trong
một số truyện, họ đã cố gắng sử dụng kĩ thuật đa tâm điểm. Nhân vật
không chỉ được đánh giá bởi một người mà còn được nhìn dưới con mắt
của nhiều nhân vật khác. Cách làm này tạo ra cái nhìn đa chiều về nhân
vật. Chân dung con người, tính cách, nội tâm nhân vật… hiện lên dần
dần qua từng cái nhìn. Đây chính là một trong những bước cách tân, đổi
mới, đột phá trong nghệ thuật xây dựng nhân vật của các tác giả nữ.


22


CHƯƠNG 4: NHỮNG CÁCH TÂN TRÊN PHƯƠNG DIỆN
GIỌNG ĐIỆU VÀ NGÔN NGỮ
4.1. Giọng điệu
Giọng điệu “là một phạm trù thẩm mĩ của tác phẩm văn học có
vai trò rất lớn trong việc tạo nên phong cách nhà văn. Giọng điệu là yếu
tố thể hiện rõ ràng nhất cái nhìn nghệ thuật của nhà văn đối với hiện
thực, do vậy những chuyển đổi trong giọng điệu là dấu hiệu cách tân
nghệ thuật quan trọng của mỗi nhà văn qua từng chặng đường sáng tác.
4.1.1. Giọng ngậm ngùi, xót xa, thương cảm
Trong sáng tác của các tác giả nữ, nổi bật hơn cả là giọng điệu
ngậm ngùi, xót xa, cảm thương và chia sẻ. Người kể chuyện có khi là
một người chăm chú theo dõi diễn biến cuộc đời và số phận các nhân
vật trong câu chuyện kể, lúc lại xuất hiện với vai trò người trong cuộc
tự bộc lộ, giãi bày tâm tình. Dù xuất hiện ở cương vị nào, điểm nhìn nào
thì giọng điệu của người kể chuyện luôn là giọng cảm thương, chia sẻ
với nhân vật của mình hay tự thương chính mình (khi người kể chuyện
là một nhân vật kể về chuyện của mình).
4.1.2. Giọng hài hước, châm biếm, mỉa mai
Đối lập với chất giọng ngợi ca, khằng định của giai đoạn trước là
chất giọng mỉa mai, giễu nhại của truyện ngắn giai đoạn từ 1986 đến
nay. Các nhà văn sử dụng tiếng cười vào những phạm vi hiện thực lố
lăng, đáng phê phán. Cảm hứng trào lộng gắn liền với sự phát hiện ra
cái xấu và nhu cầu thể hiện cái xấu. Do đó, chất giọng hài hước, mỉa
mai trở thành phương tiện để thể hiện tính tích cực xã hội của văn học.
Nguyễn Thị Thu Huệ rất hay để cho nhân vật của mình có lối
điễn đạt hài hước, hóm hỉnh. Đỗ Bích Thúy lại khai thác chât u - mua

trong những tình huống dở khóc dở cười của nhân vật.
4.1.3. Giọng trữ tình, suy tư, chiêm nghiệm

23


Bên cạnh một chất giọng hài hước, mỉa mai, có lúc, giọng văn
của Nguyễn Thị Thu Huệ lại rất trữ tình, đằm thắm.
Khác với nhà văn Nguyễn Thị Thu Huệ, trong văn chương của
Đỗ Bích Thúy và Nguyễn Ngọc Tư, ta thấy xuất hiện những câu triết lý
không quá cao siêu, mà là những kinh nghiệm được đúc rút từ chính
cuộc sống của nhân vật.
4.2. Ngôn ngữ
Ngôn ngữ truyện ngắn hôm nay là ngôn ngữ đời thường, nó bớt đi
sự óng mượt, chau chuốt mà trần trụi, thậm chí thô nhám, xô bồ, suồng
sã. Chưa bao giờ, ngôn ngữ văn chương gần với ngôn ngữ sinh hoạt, thế
sự đến như thế. Con người trong văn chương sống thực như con người
ngoài đời sống.
4.2.1. Những đặc trưng nghệ thuật trong ngôn ngữ của Nguyễn
Ngọc Tư:
4.2.1.1.Ngôn ngữ đậm chất Nam Bộ:
4.2.1.2.Tính nhip điệu trong văn Nguyễn Ngọc Tư

a. Sử dụng các cấu trúc lặp:
b. Dùng các cấu trúc đăng đối về mặt ý nghĩa, thanh điệu
c. Nhịp điệu được tạo nên từ mạch cảm xúc bên trong của nhân
vật
4.2.2. Những đặc trưng nghệ thuật trong cách sử dụng ngôn ngữ
của Nguyễn Thị Thu Huệ
4.2.2.1.Ngôn ngữ đời thường

4.2.2.2. Ngôn ngữ có tính cá thể hóa cao độ
4.2.3. Những đặc trưng nghệ thuật trong cách sử dụng ngôn
ngữ của Đỗ Bích Thúy
4.2.3.1.Ngôn ngữ mang đậm bản sắc của người dân tộc
4.2.3.2.Ngôn ngữ giàu hình ảnh, giàu chất thơ

24


KẾT LUẬN
Sức sống của tác phẩm, sức bền của ngòi bút chính là thử
thách cao nhất đối với người nghệ sỹ. Có thể nói, Nguyễn Thị Thu Huệ,
Nguyễn Ngọc Tư, Đỗ Bích Thuý đã vượt qua được những thử thách đó
để khẳng định tài năng của mình trong lòng độc giả. Họ đã gặt hái được
khá nhiều thành công, đồng thời luôn có nỗ lực tìm tòi, sáng tạo vượt
lên chính mình trong lao động nghệ thuật.
Với khả năng quan sát và nắm bắt tinh nhạy sự vận động và
phát triển của xã hội, các nhà văn nữ đã tạo ra trong thế giới nghệ thuật
của mình một quan niệm mới về hiện thực và xã hội con người. Bên
cạnh đó, họ đã có những nỗ lực trong việc tìm tòi và thể nghiệm những
phương thức nghệ thuật truyện ngắn mới. Đó là những cách tân sáng tạo
trong các yếu tố như: tình huống truyện và kết cấu, quan niệm nghệ
thuật về con người, nhân vật, ngôn ngữ và giọng điệu.
1. Các tác giả nữ ngày càng có nhiều tìm tòi trong sáng tạo
những kiểu tình huống truyện và kết cấu mới mẻ, hiện đại hơn. Nghệ
thuật xây dựng tình huống đã có sự chuyển biến. Các nhà văn nữ đã xây
dựng tác phẩm của mình theo những kiểu tình huống hết sức đặc sắc, đó
là: tình huống nhận thức, tình huống hành động và tình huống tâm
trạng. Kết cấu truyện cũng trở nên hết sức linh hoạt, đó là kết cấu đảo
lộn thời gian của sự kiện, kết cấu tâm lý, kết cấu mở… Sự vượt khung

về mặt thể loại đã xuất hiện trong một số truyện ngắn tiêu biểu như:
Cánh đồng bất tận (Nguyễn Ngọc Tư), Những buổi chiều ngang qua
cuộc đời (Đỗ Bích Thúy, và Chị tôi (Nguyễn Thị Thu Huệ)… Qua đó, ta
thấy được những cách tân nghệ thuật trong truyện ngắn của các tác giả
nữ. Đồng thời, ghi nhận được những thành tựu của họ đóng góp vào sự
hiện đại hóa của nền văn học nước nhà thời kì đổi mới. Nhiều truyện
ngắn thực sự là những tác phẩm đa thanh, giàu tính đối thoại. Những
kiến tạo tác phẩm mới mẻ, nhiều tầng bậc đã đem lại cho truyện ngắn

25


×