Tải bản đầy đủ (.doc) (26 trang)

Một số kinh nghiệm tổ chức các hình thức học tập tạo hứng thú cho học sinh lớp 4 trong dạy học phân môn lịch sử

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.1 MB, 26 trang )

1. CƠ SỞ ĐỀ XUẤT GIẢI PHÁP
1.1. Sự cần thiết hình thành giải pháp
Môn học Lịch sử trong trường Tiểu học có vai trò vô cùng quan trọng trong
việc giúp cho học sinh hiểu biết cội nguồn lịch sử của dân tộc, truyền thống đấu
tranh chống ngoại xâm của dân tộc ta. Qua đó, phát triển ở học sinh những thái
độ và thói quen ham học hỏi, tìm hiểu và khám phá thế giới xung quanh; yêu
quê hương, con người, đất nước, lòng tự hào dân tộc và có ý thức bảo vệ quê
hương, đất nước.
Chương trình môn Lịch sử lớp 4 cung cấp cho học sinh một số kiến thức cơ
bản về: các sự kiện, nhân vật lịch sử tiêu biểu, từ buổi đầu dựng nước cho tới
đầu thế kỉ XIX. Bước đầu hình thành và rèn luyện cho học sinh các kĩ năng:
quan sát sự vật, hiện tượng; thu thập, tìm kiếm tư liệu lịch sử từ các nguồn khác
nhau. Nêu thắc mắc, đặt câu hỏi trong quá trình học tập và chọn thông tin để giải
đáp. Nhận biết đúng các sự vật, sự kiện, hiện tượng lịch sử; trình bày lại kết quả
học tập bằng lời nói, bài viết, hình vẽ, sơ đồ,... Vận dụng các kiến thức đã học
vào thực tiễn đời sống.
Đối với bậc học Tiểu học, ngay từ bước đầu, muốn cho học sinh ham hiểu
biết về lịch sử thì giáo viên phải tạo được hứng thú, say mê đối với môn học
này. Vì đây là môn học khá mới mẻ với các em. Các em chưa biết cách ghi nhớ
các sự kiện, nắm được các nhân vật, chưa biết tư duy qua các bản đồ, lược đồ về
các sự kiện có liên quan... Trên quan điểm đó, tôi thấy cần phải lựa chọn phương
pháp dạy học nào để phát huy cao nhất hiệu quả học tập cho học sinh. Nếu giáo
viên không tạo được sự hứng thú sẽ gây sự nhàm chán, mỏi mệt. Trong một giờ
học các em không biết mình sẽ học được gì? Học lịch sử để làm gì?...
Có rất nhiều phương pháp, kĩ thuật dạy học tích cực: Trực quan, Thảo luận
nhóm, kể chuyện, thuyết trình,...Tuy nhiên trong thực tế giảng dạy hiện nay, vẫn
còn một số giáo viên chưa nắm vững các phương pháp, kĩ thuật dạy học tích cực
phát huy tính tích tích cực ở học sinh, ít khi vận dụng trong một tiết dạy hoặc có
thực hiện thì cũng mang tính hình thức, chưa phát huy được hiệu quả tích cực
2



của nó. Vì vậy nhiều năm qua bản thân tôi tìm hiểu những giải pháp nhằm nâng
cao chất lượng giáo dục cho học sinh.
Từ những nội dung phân tích trên, tôi mạnh dạn chọn đề tài “Một số kinh
nghiệm tổ chức các hình thức học tập tạo hứng thú cho học sinh lớp 4 trong dạy
học phân môn Lịch sử” làm đề tài nghiên cứu và thực hiện trong năm học này.
1.2. Tổng quan các vấn đề liên quan đến giải pháp
Nội dung chương trình Lịch sử lớp 4 cung cấp cho học sinh một số kiến
thức cơ bản, thiết thực về: Các sự kiện, hiện tượng, nhân vật lịch sử tiêu biểu có
hệ thống theo dòng thời gian của lịch sử Việt Nam từ buổi đầu dựng nước đến
cuối thế kỉ XIX. Chương trình lịch sử lớp 4 gồm 32 tiết chính khoá và 2 tiết Lịch
sử địa phương và có các dạng bài sau:
- Dạng bài về cơ cấu bộ máy nhà nước, tình hình kinh tế -văn hoá - xã hội:
Nước Văn Lang, Nước Âu Lạc, Nước ta dưới ách thống trị của các triều đại
phong kiến phương Bắc, Nhà Lý đời đô ra Thăng Long, Nhà Trần thành lập,
Nước ta cuối thời Trần, Nhà hậu Lê và việc tổ chức quản lý đất nước, Trịnh –
Nguyễn Phân tranh, Những chính sách về kinh tế văn hóa của Quang Trung,
Nhà Nguyễn Thành lập.
- Dạng bài về khởi nghĩa, kháng chiến: Khởi nghĩa Hai Bà Trưng (năm 40),
Chiến thắng Bạch Đằng do Ngô Quyền lãnh đạo (năm 938), Cuộc kháng chiến
chống quân Tống xâm Lược lần thứ I (981), Cuộc kháng chiến chống quân Tống
xâm lược lần thứ II (1075-1077 ), Cuộc kháng chiếng chống quân Mông –
Nguyên, Chiến thắng Chi Lăng, Nghĩa quân Tây Sơn tiến ra Thăng Long
(1786), Quang Trung đại phá quân Thanh (1789)
- Dạng bài về nhân vật lịch sử: Đinh Bộ Lĩnh dẹp loạn 12 sứ quân.
- Dạng bài về kiến trúc nghệ thuật: Chùa thời Lý, Trường học thời Hậu Lê,
Nhà Trần và việc đắp đê, Văn học và khoa học thời Hậu Lê, Cuộc khẩn hoang ở
Đàng trong, Xã hội Việt Nam cuối thế kỉ XVI-XVII, Kinh thành Huế.
- Dạng bài tổng kết, ôn tập.


3


Nội dung chương trình được xây dựng khá vừa sức, phù hợp với mức tiếp
thu của HS. Tuy nhiên, tư liệu lịch sử được cung cấp khá bao quát, các sự kiện
được đề cập chưa đủ sức hấp dẫn đối với học sinh lớp 4.
Nhận thức được tầm quan trọng của việc dạy học phân môn Lịch sử trong
nhà trường Tiểu học, tôi luôn trăn trở, mong muốn tìm ra cách dạy những bài
Lịch sử khô khan khó nhớ, biến chúng thành những câu chuyện hấp dẫn và thú
vị, hay thành những trò chơi lí thú đối với các em học sinh lớp 4. Chính vì vậy,
trong khuôn khổ bài viết này, tôi xin được chia sẻ cùng các đồng nghiệp đề tài
này.
1.3. Mục tiêu của giải pháp
Nghiên cứu nội dung chương trình, mục tiêu của phân môn Lịch sử mối
quan hệ các sự kiện, hiện tượng, nhân vật lịch sử tiêu biểu theo dòng thời gian
của lịch sử Việt Nam từ buổi đầu dựng nước cho tới nửa đầu thế kỉ XIX. Thu
nhập, tìm kiềm tư liệu lịch sử từ các nguồn thông tin khác nhau giúp học sinh có
hứng thú khi học Lịch sử.
Làm cho tiết học Lịch sừ bớt khô khan, nhàm chán trở nên nhẹ nhàng, sinh
động, hấp dẫn, tạo hứng thú trong giờ học, rèn cho học sinh kĩ năng cơ bản trong
học tập bộ môn.
- Đề ra các giải pháp tạo hứng thú cho HS lớp 4 khi học phân môn Lịch sử.
- Đề tài được thực hiện nghiên cứu từ đầu năm học (tháng 9); điều tra kết
quả học tập thông qua các bài kiểm tra thường xuyên và định kì.
1.4. Các căn cứ để đề xuất giải pháp
1.4.1. Về lý luận
Môn học Lịch sử lớp 4 cung cấp cho học sinh những kiến thức cơ bản về
lịch sử dân tộc qua các thời kì, giúp cho học sinh nhận thức được một cách rõ
ràng, sâu sắc sự phát triển của đất nước, của dân tộc. Thông qua những kiến thức
đó, giáo viên phân tích các sự kiện, làm cho học sinh nhận thức rõ động lực phát

triển của xã hội, qua quá trình dựng nước và giữ nước của ông cha. Bằng những
sự kiện lịch sử, giáo viên chọn lọc, phân tích, tái hiện lại quá khứ đúng như nó
4


đã từng tồn tại nhằm khắc sâu kiến thức lịch sử cho học sinh.
Để làm được điều đó trước hết người giáo viên trước hết phải có kiến thức,
am hiểu về lịch sử dân tộc và bản thân người giáo viên phải yêu mến, tự hào về
lịch sử thì mới thực sự làm tròn trách nhiệm vẻ vang đó.
1.4.2. Về thực tiễn
Đối với học sinh lớp 4 nói chung, học sinh lớp 4 trường tiểu học Nguyễn
Thanh Đằng nói riêng, học sinh bắt đầu được tiếp cận với môn lịch sử, các em
còn rất bỡ ngỡ với việc tiếp thu kiến thức và phương pháp học bộ môn này. Vì
vậy giáo viên cần làm thế nào để ngay từ khi mới làm quen học sinh nhận thức
được vai trò, ý nghĩa của môn lịch sử. Hình thành cho học sinh một phương
pháp học cơ bản phù hợp với đặc trưng bộ môn giúp học sinh có hứng thú với
môn học và học tập có hiệu quả .
Về nội dung chương trình môn lịch sử lớp 4. Với dòng thời gian kéo dài từ
buổi đầu dựng nước (700 năm trước Công Nguyên đến đầu thời Nguyễn giữa
thế kỉ XIX) được chia làm 8 giai đoạn, 26 sự kiện lớn, 22 mốc thời gian cụ thể,
rất nhiều đời vua nhiều tên nước và nhiều kinh đô khác nhau.
Với thời lượng 1 tiết/tuần của phân môn lịch sử. Nếu giáo viên chỉ đơn
thuần dựa vào sách hướng dẫn mà không nghiên cứu sâu về phương pháp giảng
dạy thì học sinh khó có thể ghi nhớ được lượng kiến thức lớn như đã nêu.
1.5. Phương pháp thực hiện
- Thu thập tài liệu, đọc sách và các tài liệu tham khảo.
- Điều tra khảo sát thực tế.
- Sử dụng các phương pháp khác: Phân tích ngôn ngữ, so sánh đối
chiếu, thống kê và xử lý các số liệu thu được.
- Phương pháp thực nghiệm.

- Phương pháp tổng kết, rút kinh nghiệm.
1.6. Đối tượng và phạm vi áp dụng
- Đề tài được tôi nghiên cứu trong năm học 2016-2017.

5


- Trong điều kiện thời gian nghiên cứu và khả năng nghiên cứu ở góc độ cá
nhân, đề tài chỉ đi sâu vào nghiên cứu và áp dụng vào các biện pháp tạo hứng
thú trong học tập phân môn Lịch sử cho học sinh tiểu học, đặc biệt là học sinh
lớp 4 trường tiểu học Nguyễn Thanh Đằng.

6


2. QUÁ TRÌNH HÌNH THÀNH VÀ NỘI DUNG GIẢI PHÁP
2.1. Quá trình hình thành
2.1.1. Thuận lợi:
- Năm học 216-2017, tôi được phân công chủ nhiệm và giảng dạy lớp 4A.
Các em trong lớp hầu hết đều ngoan ngoãn, biết nghe lời thầy cô dạy bảo, biết
vượt khó, thi đua nhau học tập.
- Với sự đổi mới phương pháp dạy học áp dụng theo mô hình trường học
mới hiện nay, các em được học tập rất tốt, phù hợp với khả năng của mình. Đây
là điều kiện thuận lợi cho giáo viên trong công tác giảng dạy.
- Giáo viên có trình độ chuyên môn, năng lực sư phạm, lòng say mê nhiệt
tình, sự hứng thú với nghề nghiệp, luôn tích cực học tập, tự bồi dưỡng chuyên
môn nghiệp vụ, tiếp cận nhanh các phương pháp, kĩ thuật dạy học mới... nhằm
tạo sự phát triển hứng thú học tập của HS.
- Đồ dùng và thiết bị dạy học phục vụ cho môn học Lịch sử: Sách vở, tranh
ảnh, Bản đồ, lược đồ,...được trang bị khá đầy đủ.

2.1.2. Khó khăn:
- Về giáo viên.
+ Qua dự giờ động nghiệp, tôi nhận thấy đa số giáo viên thường dùng
phương pháp thuyết trình là chủ yếu trong dạy học Lịch sử, cốt sao cho học sinh
chỉ cần nhớ tên nhân vật và sự kiện lịch sử là đủ.
+ Việc nghiên cứu tư liệu lịch sử để giảng dạy ở một vài đồng nghiệp còn
nhiều hạn chế, chỉ giới hạn kiến thức trong SGK, điều đó làm cho việc truyền
thụ kiến thức không được sâu sắc.
+ Việc vận dụng các phương pháp mới như: trò chơi lịch sử; sắm vai,…
chưa linh hoạt, chưa sáng tạo nên tiết học khá tẻ nhạt, không hấp dẫn được HS.
+ Việc ứng dụng công nghệ thông tin vào dạy học chưa thường xuyên và
chưa hiệu quả.
-Về học sinh.
+ Đa số các em thường tiếp thu môn lịch sử một cách thụ động, chỉ đọc và
7


nhớ một số thông tin trong SGK để đạt điểm khá giỏi trong các kì kiểm tra. Chứ
chưa có cảm xúc, hứng thú khi học lịch sử.
Tôi đã tiến hành khảo sát về mức độ hứng thú đối với một số môn học của
học sinh lớp 4A Trường Tiểu học Nguyễn Thanh Đằng và thu được kết quả như
sau:
Môn học
Toán
Tiếng Việt
Lịch sử

Thích

Tỷ lệ %


23
20
11

56.7
51.7
31.4

Bình
thường
8
10
12

Tỷ lệ %
22.9
28.6
34.3

Không
thích
4
5
12

Tỷ lệ %
11.4
22.9
34.3


- Kết quả cho thấy số lượng HS không hứng thú với môn học này còn cao
và khi HS không thấy thích thú với môn học thì kết quả học tập thấp là điều dễ
hiểu. Hơn thế nữa, việc HS không hứng thú trong các giờ lịch sử; không hình
dung được sinh động về các sự kiện lịch sử đã diễn ra cách các em rất xa, sẽ dễ
tạo cho các em có thói quen ỷ lại, thụ động. Nếu cứ tiếp tục phát triển như vậy,
các em sẽ trở thành những con người có tâm hồn “nghèo nàn”, thực dụng.
2.2 Nội dung-giải pháp
2.2.1. Khơi dậy hứng thú học tập môn lịch sử trong học sinh.
2.2.1.1.Tạo thói quen chuẩn bị bài.
Các bài lịch sử có nội dung thường khó hiểu do có nhiều sự kiện mốc thời
gian, cùng với các nhân vật Lịch sử. Chính vì vậy nếu học sinh không có sự
chuẩn bị tốt, không đọc trước bài ở nhà sẽ khó có thể trả lời được câu hỏi tìm
hiểu bài trên lớp và như vậy sẽ không nắm chắc được nội dung bài. Để tạo thói
quen đọc trước bài ở nhà của học sinh, trước khi vào bài mới tôi gọi bất chợt
một học sinh nêu tên bài sẽ học hôm nay hoặc hỏi học sinh tên nhân vật trong
bài lịch sử hôm nay sẽ học là ai? Em biết gì về bài Lịch sử hôm nay ta sẽ tìm
hiểu?,.. Cứ như thế chỉ sau vài tuần các em sẽ có thói quen đọc trước bài ở nhà.
2.2.1.2. Tùy theo cấu trúc của từng bài cụ thể trong chương trình lựa chọn
phương pháp dạy học phù hợp.
8


Mỗi bài học có nội dung, cấu trúc riêng. Do đó khi giảng dạy, tôi lựa chọn
các phương pháp dạy học cho phù hợp với nội dung, cấu trúc của bài học đó. Cụ
thể như sau:
- Đối với dạng bài về khởi nghĩa, kháng chiến: Loại bài này chiếm nhiều
trong chương trình lớp 4. Phương pháp chủ đạo là kể chuyện, phân tích, miêu tả,
tường thuật kết hợp với đồ dùng trực quan là hết sức quan trọng.
Vì dụ: bài Khởi nghĩa Hai Bà Trưng

Kiến thức trọng tâm cần khai thác (Nguyên nhân, diễn biến – Kết quả, ý
nghĩa của cuộc kháng chiến) Kết hợp khai thác lược đồ, tranh ảnh, hình vẽ tạo
sức lôi cuốn cho HS. Thêm vào đó là hệ thống bài tập gợi ý học sinh làm việc:
Ví dụ: Đánh dấu x vào ô trống trước câu trả lời đúng:
Nguyên nhân Hai Bà Trưng khởi nghĩa là:
Thi Sách chồng Trưng Trắc bị giết hại.
Hai Bà nổi dậy để đền nợ nước, trả thù nhà.
Hai bà có lòng căm thù giặc.
- Đối với dạng bài về cơ cấu bộ máy nhà nước, tình hình kinh tế, văn hoá,
xã hội: tôi sắp xếp từng mảng kiến thức thành vấn đề rồi tổ chức cho học sinh tự
tìm hiểu , tự phát hiện vấn đề thông qua phương pháp vấn đáp ,thảo luận nhóm.
Với dạng bài này tôi áp dụng tối đa phương pháp sử dụng đồ dùng dạy học. Mặt
khác việc miêu tả giải thích, phân tích của tôi đóng vai trò chủ yếu.
Vì dụ: Bài 12 - Nhà Trần thành lập: Tôi giúp học sinh nắm được hoàn cảnh
ra đời của Nhà Trần? Những chính sách được nhà Trần áp dụng? Những chính
sách nào cho thấy giữa vua quan, với dân chưa có sự cách biệt quá xa? Kết quả
những việc làm đó?…
Khi dạy bài này tôi kết hợp tranh ảnh có trong bài và sưu tầm thêm các
tranh ảnh khác để làm cho bài giảng thêm phong phú, sinh động.

- Đối với dạng bài về nhân vật lịch sử : thì kể chuyện lại là phương pháp
chủ đạo. Tôi vừa là người kể chuyện, dẫn chuyện vừa là người dẫn dắt gợi ý
9


giúp học sinh nắm vững cốt truyện. Bên cạnh đó cần khai thác tốt tranh ảnh,
hình vẽ về nhân vật lịch sử.
Vì dụ: bài Đinh Bộ Lĩnh dẹp loạn 12 sứ quân: Tôi tổ chức cho học sinh biết
Đinh Bộ Lĩnh là ai? Ông là người thế nào?... Cho học sinh miêu tả, tường thuật
tình tiết những hoạt động của ông để làm nổi bật những công lao của ông đối với

lịch sử. Qua đó giáo dục lòng biết ơn, kính trọng, khâm phục Đinh Bộ Lĩnh.
- Đối với dạng bài về kiến trúc nghệ thuật: Bên cạnh việc sử dụng phương
pháp vấn đáp thì miêu tả, phân tích là hết sức quan trọng.
Ví dụ Bài: Kinh thành Huế: Tổ chức cho HS mô tả được đặc điểm của công
trình kiến trúc, quá trình xây dựng, quy mô, cấu trúc, kiểu dáng, nét độc đáo…
- Đối với dạng bài tổng kết, ôn tập: Tuỳ từng phần nội dung cụ thể trong
bài tôi lựa chọn phương pháp phù hợp. Thông thường dạng bài này được sử
dụng tổng hợp nhiều phương pháp, xong chủ yếu là phương pháp thống kê tổng
hợp, kết hợp trò chơi học tập. Ở dạng bài này, mở đầu bài học, tôi nêu nhiệm vụ,
rồi tổ chức cho học sinh làm việc dưới sự hướng dẫn của tôi. Tôi cân nhắc
những câu hỏi thu hút sự chú ý của học sinh như thực hiện sơ đồ, lập bảng thống
kê, tìm những dẫn chứng,… nhằm phát huy tư duy của học sinh.
2.2.2. Giúp học sinh khắc sâu kiến thức qua việc rèn kĩ năng sử dụng
bản đồ - lược đồ, sơ đồ tư duy.
Việc kết hợp chặt chẽ giữa việc giúp học sinh tìm tòi, lĩnh hội kiến thức với
hình thành, phát triển kĩ năng sử dụng bản đồ - lược đồ cho học sinh thông qua
bài học. Tôi chú trong và coi việc sử dụng bản đồ - lược đồ như một nguồn tri
thức lịch sử quan trọng để từ đó học sinh khai thác kiến thức, rèn luyện kĩ năng
một cách hiệu quả nhất giúp học sinh triếp thu kiến thức một cách khoa học,
không máy móc, học vẹt. Do đó trong mỗi tiết dạy học Lịch sử bản đồ - lược đồ
tôi sử dụng thường xuyên và hướng dẫn học sinh sử dụng khai thác trong mọi
khâu của quá trình dạy - học.
Để giúp học sinh có khả năng làm việc độc lập với bản đồ - lược đồ, trong
quá trình dạy học, tôi chú trọng việc hình thành và phát triển ở học sinh một số
10


kĩ năng sử dụng bản đồ - lược đồ như: xác định phương hướng, tìm và chỉ vị trí
của các đối tượng lịch sử trên bản đồ - lược đồ, mô tả một đối tượng lịch sử dựa
vào bản đồ - lược đồ, cụ thể như sau:

+ Kĩ năng xác định phương hướng trên bản đồ - lược đồ:
Tôi yêu cầu học sinh thuộc và nhớ các quy định về phương hướng trên bản
đồ - lược đồ. Với bản đồ - lược đồ, ta thường quy ước: Phía trên bản đồ là
hướng Bắc, phía dưới bản đồ là hướng Nam, bên phải là hướng Đông, bên trái là
hướng Tây. Bên cạnh đó, tôi đưa ra các loại bài tập với nhiều hình thức như: Tô
màu theo kí hiệu; vẽ mũi tên chỉ đường tiến quân để thể hiện diễn biến cuộc
kháng chiến; dựa vào lược đồ thuật lại trận đánh; điền vào chỗ chấm; điền đúng
– sai, khoanh vào đáp án đúng với nhiều góc độ khác nhau, lặp đi lặp lại nhiều
lần trên cơ sở yêu cầu học sinh quan sát một bản đồ, lược đồ cụ thể.
+ Kĩ năng tìm vị trí địa lí, các đối tượng lịch sử trên bản đồ:
Khi hình thành kĩ năng tìm và chỉ vị trí của các đối tượng địa lí trên bản đồ,
tôi đưa ra những bài tập yêu cầu học sinh dựa vào bảng chú giải và các kí hiệu,
chữ viết trên bản đồ để xác định vị trí của Cổ Loa, Hoa Lư, Chi Lăng, Hội An,
Thăng Long, Phố Hiến, ….Hướng dẫn cho học sinh cách chỉ vị trí một đối tượng
trên bản đồ như thế nào là đúng. Chẳng hạn: khi chỉ đường rút chạy của địch từ
trên sông Bạch Đằng, học sinh phải chỉ vào vị trí của dòng sông đó theo mũi tên
từ đầu cho dến hết đường rút chạy.
+ Kĩ năng đọc tốt bản đồ - lược đồ:
Để đọc bản đồ, lược đồ có ba mức độ:
- Mức độ 1: Hướng dẫn học sinh chỉ cần dựa vào kí hiệu ở bảng chú giải
chỉ và đọc tên các đối tượng địa lí trên bản đồ - lược đồ (Ví dụ: Đây là sông
Hồng, kia là sông Mã, đây là Thủ đô Hà Nội…..). Muốn cho HS đọc được bản
đồ- lược đồ theo mức độ 1, tôi hướng dẫn học sinh như sau: Trước hết tôi giúp
học sinh nắm rõ yêu cầu tôi đưa ra (ví dụ: Em hãy xác định vị trí thành Cổ Loa
trên lược đồ). Sau khi học sinh nắm yêu cầu, tôi cho học sinh đọc bản chú giải

11


để biết kí hiệu đối tượng (thành Cổ Loa) cần tìm. Căn cứ vào kí hiệu, học sinh sẽ

tìm ra vị trí đối tượng trên bản đồ, lược đồ.
- Mức độ 2: Hướng dẫn học sinh dựa vào bản đồ - lược đồ để tìm ra đặc
điểm của đối tượng lịch sử. Muốn cho HS đọc được bản đồ- lược đồ theo mức
độ 2, tôi hướng dẫn học sinh như sau: Dựa vào bản đồ, kết hợp kênh chữ, tôi cho
học sinh so sánh, nhận xét, đối chiếu…Học sinh dựa vào bản đồ, lược đồ có thể
vẽ biểu tượng để tìm ra đặc điểm của đối tượng. (Ví dụ bài: Khởi nghĩa Hai Bà
Trưng (năm 40): Học sinh quan sát lược đồ “Khu vực chính nổ ra khởi nghĩa
Hai Bà Trưng”, các em vẽ mũi tên chỉ rõ đường tấn công của cuộc khới 3 nghĩa:
Mũi tên vẽ từ Hát môn- Mê Linh-Cổ Loa-Luy Lâu)

- Mức độ 3: Hướng dẫn học sinh vận dụng các kiến thức lịch sử đã có, xác
lập các mối quan hệ về lịch sử để rút ra những điều mà trên bản đồ - lược đồ
không trực tiếp thể hiện. Muốn cho HS đọc được bản đồ- lược đồ theo mức độ
3, tôi hướng dẫn học sinh như sau: Trong quá trình soạn bài, bên cạnh xác định
yêu cầu dạy học về mặt kiến thức, tôi xác định rõ yêu cầu kĩ năng sử dụng bản
đồ, lược đồ đối với học sinh, học sinh biết dựa vào chú giải để tìm và chỉ ra
những nội dung kiến thức được thể hiện trên bản đồ.
2.2.3. Nâng cao chất lượng làm việc nhóm trong giờ học Lịch sử .
12


Để nâng cao chất lượng dạy học phân môn Lịch sử, có rất nhiều phương
pháp, trong đó “Thảo luận nhóm” là một trong những phương pháp giúp học
sinh học tập có hiệu quả một cách nhanh nhất. Khi học theo nhóm học sinh sẽ
được thảo luận theo từng vấn đề của bài học. Thảo luận nhóm cũng là cơ hội cho
học sinh học hỏi lẫn nhau, hỗ trợ nhau về cách tìm kiếm giải pháp để giải quyết
những tình huống trong bài học. Khi học theo nhóm, học sinh có thể cùng nhau
đạt được những điều mà các em không làm được một mình mà phải giải quyết
bằng cách là mọi người trong nhóm đóng góp một phần hiểu biết của mình rồi
cả nhóm tập hợp thành một cách giải quyết tốt nhất nhiệm vụ nhận thức mà giáo

viên giao. Qua đó tính tích cực, chủ động của học sinh được phát huy đến cao
độ. Để nâng chao thảo luận nhóm tôi tập trung vào các hoạt động sau:
- Chia nhóm thảo luận:
Trong tiết học, nếu có nhiều nội dung, tôi thường hay thay đổi hình thức
nhóm, tạo ra cái mới, không khí học tập vui vẻ hơn. Tôi chú trọng cơ cấu nhóm
một cách phù hợp.
Kinh nghiệm thực tiễn qua giảng dạy, tôi thấy xếp từ 4 đến 6 học sinh vào
một nhóm là hợp lí, có hiệu quả nhất và nhanh nhất, vì khi tôi yêu cầu thảo luận
nhóm thì từng cặp bàn quay lại với nhau là xong, ít tốn thời gian di chuyển và
không gây mất trật tự. Mặt khác, nhóm có ít học sinh thì mỗi học sinh đều phải
hoạt động, sự thống nhất ý kiến càng nhanh, đỡ tốn thời gian.
Số lượng nhóm ít nhất phải gấp đôi số lượng câu hỏi thảo luận. Nghĩa là
một câu hỏi thì phải có ít nhất hai nhóm cùng thảo luận câu hỏi đó thì mới thực
hiện được khâu quan trọng tiếp theo là nhận xét đánh giá lẫn nhau giữa các
nhóm. Nhóm này có ý kiến thảo luận khác nhóm bạn, hoặc tìm ra đáp án hợp lí
hơn nhóm bạn thì hoạt động thảo luận mới sôi nổi.
- Hướng dẫn cách điều hành hoạt động của nhóm:
Ngay những ngày đầu năm học, sau khi thành lập hội đồng tự quản, tôi đã
hướng dẫn và tổ chức cho các em hiểu được chức năng, nhiệm vụ của các thành
viên trong hoạt động nhóm, cụ thể:
13


+ Trưởng nhóm : chỉ đạo, điều hành nhóm hoạt động.
+ Thư kí : Ghi lại kết quả của nhóm sau khi được thống nhất.
+ Báo cáo viên: trình bày trước lớp kết quả công việc của nhóm.
Báo cáo viên có thể là trưởng nhóm hoặc có thể là 01 thành viên bất kì có
kĩ năng nói tốt lên trình bày.
Trách nhiệm nhóm trưởng, thư kí không phải cố định mà phải được thay
đổi luân phiên mỗi thành viên đều được làm tổ trưởng, làm thư ký, làm báo cáo

viên.
- Giao việc cho các nhóm:
Nhiệm vụ giao cho mỗi nhóm tôi ra nhiệm vụ rõ ràng, ngắn gọn, đủ để các
thành viên hiểu rõ về nhiệm vụ cụ thể của tổ mình phải làm gì, làm trong thời
gian bao lâu; nếu cần tôi giải thích thêm một vài từ ngữ, khái niệm…, kiểm tra
thử một vài thành viên xem các em có hiểu được nhiệm vụ được giao hay chưa.
Trong thời gian các nhóm thảo luận, tôi thường xuyên đi kiểm tra hoạt
động của từng nhóm để nắm được em nào hoạt động, em nào không hoạt động
và lắng nghe các em trao đổi có đúng hướng không để hướng dẫn kịp thời, còn
nếu phát hiện có thành viên trong nhóm không tham gia hoạt động, tôi yêu cầu
em đó tham gia phát biểu.
Ví dụ: “Theo em, các bạn đưa ra ý kiến như vậy em có đồng ý không nếu
không em hãy đưa ra ý kiến của mình! ”.
Nếu thấy nhóm nào gặp khó khăn, tôi không giải đáp thắc mắc ngay mà
giúp học sinh hướng tư duy hoặc cung cấp các nguồn dữ liệu, tư liệu cần thiết
cho việc làm sáng tỏ vấn đề.
Ví dụ: Để giúp học sinh giải thích được “Vì sao Lí Thái Tổ chọn vùng đất
Đại La làm Kinh đô ? ” Tôi gợi ý cho học sinh. Nếu học sinh chưa rút ra được
vấn đề, tôi đưa ra một vài gợi ý tiếp theo như: Lí Thái Tổ ghé thăm thành cổ Đại
La và ông thấy vùng đất này như thế nào ? Ông mong muốn điều gì ? Vì sao Lí
Thái Tổ làm như vậy ? Cuối cùng học sinh rút ra được tất cả là vì lòng yêu
nước, thương dân mong muốn cho con cháu đời sau xây dựng được cuộc sống
14


ấm no. Tôi giành sự giúp đỡ cho các nhóm là như nhau. (Nếu các nhóm có trình
độ đồng đều) Hoặc dành thời gian nhiều hơn cho một nhóm hay một cá nhân
nào đó tùy vào lực học của các em.
- Hướng dẫn báo cáo:
Hết thời gian thảo luận, tôi yêu cầu bất kì em nào trong nhóm trình bày kết

quả thảo luận. Tùy nội dung câu hỏi, học sinh trình bày bằng nhiều cách khác
nhau như bảng phụ, giấy khổ to hoặc kết hợp với chỉ lược đồ, tranh ảnh … Khi
học sinh các nhóm lên trình bày tôi không đưa ra câu hỏi chất vấn hoặc nhận xét
đúng, sai ngay lập tức sẽ làm cho học sinh lúng túng, mà phải để cho cả lớp
cùng nhận xét.
Khi các nhóm không còn ý kiến bổ sung, tôi giành đủ một khoảng thời gian
để nhận xét các ý kiến của học sinh và thực hiện phản hồi đầy đủ và hoàn chỉnh
các thông tin mà học sinh cần ghi nhớ, tôi chuẩn bị sẵn trong bảng nhóm hoặc
ghi bảng, sau đó đặt câu hỏi kiểm tra một số em, xem các em đã nắm được vấn
đề hay chưa. Cuối cùng, tôi khuyến khích, động viên học sinh tiếp tục tham gia
phát biểu trong những lần sau bằng cách tỏ thái độ hài lòng, thích thú, khen ngợi
kịp thời những câu trả lời của học sinh, hoặc cho điểm những học sinh xuất sắc.
2.2.4 .Kết hợp ứng dụng công nghệ thông tin trong việc tổ chức trò chơi
học tập.
Trên tinh thần “ Học mà chơi, chơi mà học”, tổ chức trò chơi là một
phương tiện hữu hiệu để tạo sự hài hòa thoải mái trong giờ học, học sinh sẽ tiếp
thu bài một cách tự giác, tích cực hơn. Nhưng để trò chơi trong học tập có hiệu
quả, tạo được hứng thú cho học sinh tôi tập trung vào các vần đề sau:
+ Việc tổ chức trò chơi: Tôi chú ý cân nhắc mục đích của trò chơi có mục
đích gì? Củng cố, bổ sung kiến thức nào?... Khi thiết kế trò chơi cho học sinh
tham gia chỉ từ 5 đến 7 phút, không kéo dài làm ảnh hưởng đến thời gian của
một tiết học, mỗi trò chơi tôi có luật chơi rõ ràng cụ thể, luật chơi tôi đưa ra dễ
hiểu cho học sinh. Tôi luôn tổ chức sao cho tạo ra sự thi đua giữa các nhóm, các

15


cá nhân tham gia. Có sự giám sát, đánh giá lẫn nhau. Có khen thưởng, tuyên
dương, không chung chung học sinh sẽ dễ xích mích hoặc nhàm chán khi chơi.
+ Thông thường khi tổ chức trò chơi tôi thường có những động thái sau:

Luôn hăng hái, gây hứng thú cho mọi người, sử dụng ngôn ngữ vui nhộn, giọng
nói rõ ràng, vui vẻ, lôi cuốn mọi học sinh cùng tham gia.
+ Việc thưởng phạt: Luôn phân minh, đúng luật, tạo sự tự giác cho các em
khi tham gia.
Sau đây là một số trò chơi tôi thường sử dụng trong dạy học Lịch sử:
- Trò chơi “ Đoán ô chữ kì diệu”
Mục đích: Củng cố kiến thức sau mỗi tiết học.
Ví dụ: Bài chiến thắng Bạch Đằng do Ngô Quyền lãnh đạo (năm 938)
Chuẩn bị ô chữ trên màn hình Powerpoint.
Cách chơi:Chia lớp làm các đội chơi ( 2 – 3 đội chơi). Các đội lần lượt
chọn ô chữ hàng ngang tùy ý, tôi đưa ra câu hỏi tương ứng. các đội trả lời
nhanh. Nếu sai hoặc không trả lời được thì đội khác được quyền đoán. Mỗi ô
chữ hàng ngang đúng được 10 diểm, hàng dọc được 30 điểm. Trò chơi kết thúc
khi các đội hoàn thành ô chữ hàng dọc. Đội nào điểm cao hơn sẽ thắng.
Các câu hỏi gợi ý cho các ô chữ:
1. Ô chữ có 6 chữ cái. Hậu quả mà nhà ban Hán phải nhận khi sang xâm
lược nước ta năm 938. (thất bại)
2. Ô chữ có 5 chữ cái. Nơi Ngô Quyền chọn làm kinh đô. (Cổ Loa)
3. Ô chữ có 5 chữ cái. Vũ khí làm thủng thuyền giặc. (cọc gỗ).
4. Ô chữ có 9 chữ cái. Ngô Quyền đã dựa vào hiện tượng thiên nhiên này
để đánh gặc (thủy triều)
5. Ô chữ có 8 chữ cái.Quê của Ngô Quyền (Đường Lâm)
6. Ô chữ có 3 chữ cái. Quân Nam Hán đến từ phương nào (Bắc)
7. Ô chữ có 8 chữ cái. Người lãnh đạo trận Bạch Đằng (Ngô Quyền)
8. Ô chữ có 9 chữ cái. Tướng giặc bị tử trân ở trận Bạch đằng (Hoàng
Tháo)
16


Hoặc trò chơi “ Đoán ô chữ” trong bài: “Cuộc kháng chiến chống quân

Tống xâm lược lần thứ hai (1075-1077)

Tác dụng của trò chơi “ Đoán ô chữ kì diệu”: Tạo hứng thú, kích thích được
trí nhớ của học sinh trong giờ học, tạo được phản xạ nhanh nhẹn, chính xác.
- Trò chơi " Buộc dây cho bóng"
Mục đích: Củng cố kiến thức về một số tác giả, tác phẩm thời Hậu Lê.
Chuẩn bị: 2 tờ bìa ghi đầy đủ nội dung chơi, 2 bút màu, đề bài và đáp án
trên giáo án poewpoint.
17


Phần trên vẽ các quả bóng bay, trên mỗi quả có ghi tên tác phẩm tiêu biểu
thơi Hậu Lê. Phần dưới vẽ một cụm các ô vuông ghi tên tác giả tương ứng các
tác phẩm bên trên.
Cách chơi: Học sinh nối bóng với ô ghi tác giả đúng ở dưới. Mỗi em trong
đội chỉ được nối một lần. Em này xong đưa bút cho em khác nối tiếp. Đội nào
xong trước sẽ thắng cuộc

Đại
Việt
sử kí
toàn
thư
Nguyễn Trãi

Lam
Sơn
thục
lục


Đại
Hành
Toán
pháp


địa
chí

Ngô Sĩ Liên

Lương Thế Vinh

Tác dụng của trò chơi: Học sinh phản ứng nhanh nhẹn, tái hiện kiến thức một
cách nhanh, chính xác.
-Trò chơi “ Nhóm nào nhanh hơn”
Mục đích: Củng cố các cuộc khởi nghĩa của nhân dân ta chống lại ách đô
hộ của các triều đại phong kiến Phương Bắc.
Chuẩn bị: Các tở giấy có ghi đầy đủ nội sung chơi, bút dạ.
Cách chơi: Chia lớp làm các nhóm 6. Tôi bật màn hình cho lớp quan sát,
sau đó, tôi phát cho mỗi nhóm một tờ giấy có nôi dung như trên màn hình mỗi
đội có 16 giây đọc nội dung. Sau đó tôi hô “ Bắt đầu!” và tính giờ, các nhóm
nối, nối xong treo nhanh lên vị trí trên bảng (chỉ dành cho nhóm nhanh nhất
được treo), nhóm đó thắng cuộc.
Nối các ý cột A với cột B cho phù hợp.

18


B


A

( Các cuộc khởi nghĩa)
Khởi nghĩa Lí Bí
Khởi nghĩa Mai Thúc Loan
Khởi nghĩa Hai Bà Trưng
Chiến thắng Bạch Đằng
Khởi nghĩa Khúc Thừa Dụ
Khởi nghĩa Triệu Quang Phục
Khởi nghĩa Dương Đình Nghệ
Khởi nghĩa Bà Triệu
Khởi nghĩa Phùng Hưng

(Thời gian)
Năm 40
Năm 248
Năm 542
Năm 550
Năm 722
Năm 766
Năm 905
Năm 931
Năm 938

Tác dụng của trò chơi: Tạo phản xạ nhanh nhên, tái hiện nhanh kiến thức.
Học sinh được quan sát và nhận xét các đội.
- Trò chơi “chiếc nón kì diệu”
Chuẩn bị: Đồ dùng dạy học “Chiếc nón kì diệu ” Tôi sử dụng cho các bài
ôn tập và tổng kết cuối năm.

Ví dụ Bài 29: Tổng kết Chương trình lịch sử lớp 4 chia làm 8 giai đoạn .
Tôi soạn sẵn 8 câu hỏi ứng với 8 số từ 1 đến 8 trên bàn quay. Nội dung mỗi câu
hỏi về một giai đoạn như: Em hãy trình bày tóm tắt những sự kiện tiêu biểu của
giai đoạn lịch sử : Buổi đầu dựng nước và giữ nước (khoảng năm 700 trước
Công Nguyên đến năm 179)
Cách thực hiện trò chơi:Sau khi học phần thứ nhất của tiết tổng kết chương
trình lịch sử lớp 4 để củng cố nội dung bài tôi cho chơi trò chơi:
+ Mỗi nhóm gồm 4 học sinh.
+ Trước tiên lên quay chiếc nón kỳ diệu để chọn câu hỏi.
+ Sau đó thảo luận nhóm tại chỗ: thời gian 1 phút rồi cử đại diện trả lời.
+ Sau khi trả lời xong các nhóm khác nhận xét bổ xung, giáo viên nhận xét
đánh giá bắng điểm số ghi lên bảng. Sau mỗi nhóm trả lời giáo viên rút ô chữ
của câu hỏi đó ra (để tránh trả lời trùng lặp 1 câu hỏi)
19


+ Nhóm quay tiếp theo sẽ chọn số tính bên trái kim.
Cứ như vậy trò chơi tiếp diễn đến hết. Tổng kết lại nhóm nào ghi được
điểm số cao hơn nhóm đó thắng cuộc và được cả lớp khen ngợi.
- Trò chơi “đóng vai” : Là một yêu cầu rất quan trọng đối với học sinh tiểu
học khi tiếp nhận kiến thức lịch sử. Học sinh sống trong hiện tại, tiếp thu những
kiến thức chung quanh mình, lại quá xa vời với sự kiện quá khứ nên các em
không thể hình dung, tưởng tượng được những hình ảnh đã qua. Trong dạy học
Lịch sử phải tìm cách cho học sinh “dường như” đang sống với sự kiện, con
người quá khứ, cảm thấy như đang tham gia, chứng kiến sự kiện lịch sử. Việc
tham gia trò chơi đóng vai sẽ làm cho lớp học sôi nổi hơn, sinh động hơn, học
sinh hứng thú học tập hơn.
2.2.5. Thay đổi không gian học trong lớp bằng dạy học ngoài trời và hoạt
động ngoại khóa.
Nếu cứ học trong lớp, các em sẽ không hứng thú bằng tổ chức cho các em

được học lịch sử ngoài trời qua việc tổ chức hoạt động ngoại khóa bằng nhiều
hình thức như: day học qua kể chuyện, dạy học qua nói chuyện lịch sử, dạy học
qua trao đổi thảo luận, qua tham quan di tích, bảo tàng, tổ chức trò chơi lịch
sử…Trong khuôn khổ đề tài, tôi chỉ trình bày một vài hình thức tổ chức ngoại
khoá dễ tổ chức và mang lại hiệu quả cao.
Để thay đổi không gian học trong lớp bằng dạy học ngoài trời (ít nhất mỗi
học kì 1 tiết) tiến hành có hiệu quả thì tôi chuẩn bị chu đáo về địa điểm, thời
gian, nội dung học tập, dự kiến công việc của từng học sinh, từng nhóm học
sinh. Các hoạt động đề ra phải phù hợp với nội dung chương trình, tâm lí lứa
tuổi học sinh, thường gắn với các ngày kỉ niệm lớn của dân tộc, ngày sinh các
anh hùng dân tộc… Trong đó học sinh phải đóng vai trò chủ thể, tôi đóng vai
trò tổ chức, hướng dẫn, phát huy tối đa năng lực, sở thích của từng học sinh.
Hình thức tổ chức có sự cho phép của nhà trường, phối kết hợp với Đòan,
Đội, ... Trong quá trình tham quan di tích lịch sử, học sinhcần được tổ chức thực

20


hiện các bài tập thực hành từ đơn giản đến phức tạp như tập cho các em biết
quan sát quan sát, biết kể chuyện, miêu tả, ghi chép tài liệu…
Ví dụ: Trong tiết học Lịch sử địa phương Bà Rịa - Vũng Tàu (tuần 28), tôi
tổ chức cho HS tham quan các di tích văn hoá của địa phương. Tôi chọn một địa
điểm như Nhà Tròn hoặc Địa Đạo Long Phước, Tượng Đài Võ Thị Sáu…; được
dâng hương; được nghe các bậc cao niên, hướng dẫn viên kể về lịch sử của từng
di tích. Kết thúc buổi ngoại khoá, có thể tổ chức cho các em vệ sinh quanh khu
vực di tích,…

3. HIỆU QUẢ CỦA GIẢI PHÁP

21



3.1 Thời gian áp dụng giải pháp
Trong suốt năm học 2015-2016 và học kì I năm học 2016-2017, áp dụng
các phương pháp dạy học tích cực vào dạy học phân môn Lịch sử, tôi chủ động
mời đồng nghiệp đánh giá qua dự giờ, khảo sát tình hình học tập của học sinh.
Những hiệu quả rõ ràng đối với bản thân giáo viên và học sinh:
3.1.1. Đối với giáo viên:
- Khi nghiên cứu tư liệu để giảng dạy mỗi bài học, tôi đã có thêm được
nhiều kiến thức lịch sử quý giá; hơn thế nữa, tôi cảm thấy xúc động, tự hào hơn
về lịch sử dân tộc Việt Nam. Điều đó càng thôi thúc tôi phải truyền tinh thần ấy
cho các em.
- Mặt khác, việc nghiên cứu đề tài đã trang bị cho tôi nhiều phương pháp
dạy học hay, giúp tôi thêm vững vàng về chuyên môn. Chính vì vậy trong các
đợt Hội thi giáo viên dạy giỏi cấp trường, các tiết dạy chuyên đề tôi đều được
đồng nghiệp đánh giá tốt.
3.1.2. Đối với HS
Qua áp dụng các phương pháp dạy học mới, tôi nhận thấy HS lớp 4A do tôi
chủ nhiệm đã có sự thay đổi rõ rệt, đặc biệt là sự thay đổi về hứng thú đối với
môn Lịch sử. Các em rất thích khi được chuyển sang tiết học Lịch sử; có nhiều
em thích tự tìm tài liệu về bài học trên mạng, nhiều em tự vẽ tranh về nhân vật
qua lời kể của giáo viên…
Tôi đã sử dụng một khảo sát đánh giá kết quả về hứng thú học tập Lịch sử
của 35 em HS lớp 4A năm học 2016- 2017 để kiểm chứng, kết quả nhận được
như sau:
Thích học
Bình thường
Không thích
30/ 35 em (85,7%)
4/ 35 em (11.4%)

1 em (2.9%)
- Như vậy số lượng HS hứng thú với môn học đã tăng 54.3% so với đầu
năm học.
Hơn thế nữa chất lượng môn học cũng được nâng cao hơn:
Chất lượng bài kiểm tra khảo sát phân môn Lịch sử cuối học kì I
Giỏi

Tỉ lệ

Khá

Tỉ lệ
22

TB

Tỉ lệ

Yếu

Tỉ lệ


26
74.3%
4
11,4%
5
14.3%
0

0
So với chất lượng khảo sát đầu năm tỉ lệ HS khá giỏi đã được nâng lên. Ở
câu trả lời tự luận, một số HS bộc lộ khả năng viết khá tốt. Tuy nhiên, tôi nhận
thấy khả năng diễn đạt nói của một số em còn hạn chế: còn còn rụt rè, thiếu tự
tin khi tham gia giao lưu ngoại khoá trả lời câu hỏi. Đây là vấn đề khó khăn tiếp
theo được đặt ra để tôi tiếp tục suy nghĩ và tìm ra các biện pháp khắc phục trong
những năm học tới.

4. KẾT LUẬN VÀ ĐỀ XUẤT, KHUYẾN NGHỊ.
4.1. Kết luận

23


Dạy học Lịch sử gắn liền với mục tiêu hình thành, bồi đắp tình cảm yêu
mến lịch sử dân tộc, tinh thần yêu quê hương đất nước, lòng tự hào dân tộc,…
góp phần vào quá trình hình thành nhân cách ở học sinh.
Để làm tốt được nhiệm vụ này, người giáo viên phải tìm cách phát huy tính
tích cực của học sinh khi dạy học bằng cách phối hợp các phương pháp và các
hình thức tổ chức dạy học lịch sử thật đa dạng. Muốn làm được điều đó, giáo
viên cần phải:
Nắm vững chương trình, nắm vững đặc trưng phương pháp bộ môn; sưu
tầm tư liệu, tranh ảnh để minh hoạ.
Chuẩn bị cơ sở vật chất cho việc dạy học; thiết kế nhiều hoạt động học tập
vui vẻ, bổ ích,…
Dạy học sinh bằng tình yêu thương và bằng tất cả trái tim, lòng nhiệt huyết.
Có như vậy học sinh mới hứng thú, tạo hiệu quả cao trong những tiết lịch sử.
4.2. Đề xuất, khuyến nghị
- Nhà trường trang bị thêm đồ dùng dạy học (tranh ảnh, lược đồ, biểu đồ…)
để phục vụ cho công tác dạy học tốt hơn. Mua thêm các tài liệu tham khảo để bổ

sung kiến thức mới.
- Nhà trường cần hỗ trợ tổ chức nhiều đợt ngoại khoá tham quan các bảo
tàng, di tích lịch sử các em học sinh được học tập từ thực tế.
- Trên đây là một vài kinh nghiệm mà tôi đã đúc kết được trong nhiều năm
giảng dạy môn lịch sử lớp 4, góp phần nâng cao chất lượng giảng dạy môn Lịch
sử cho học sinh lớp tôi trong năm học 2016- 2017. Song những kết quả đạt được
chỉ là bước đầu. Rất mong được sự giúp đỡ của đồng nghiệp và Hội đồng khoa
học các cấp giúp tôi đạt kết quả cao hơn.

Xác nhận, đánh giá, xếp loại của

Bà Rịa, ngày 5 tháng … năm 2017

Tôi xin cam đoan đây là sáng

đơn vị:

kiến kinh nghiệm của bản thân
24


………………………………………

tôi viết, không sao chép nội

………………………………………

dung của người khác.

………………………………………

HIỆU TRƯỞNG

25

Người viết


TÀI LIỆU THAM KHẢO
26


×