Tải bản đầy đủ (.doc) (17 trang)

TIỂU LUẬN tâm lý học một số QUAN điểm cấu TRÚC về NHÂN CÁCH

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (213.63 KB, 17 trang )

Một số quan điểm về cấu trúc nhân cách
Nhân cách là một trong những vấn đề quan trọng trong Tâm lý học được các
nhà tâm lý cũng như các tác giả ở các lĩnh vực khoa học khác quan tâm nghiên
cứu. Từ khi sinh ra cho đến khi từ giã cõi đời, con người chúng ta trải qua những
giai đoạn phát triển khác nhau. Ở mỗi giai đoạn, chúng ta đều để lại những dấu ấn
mang tính đặc trưng, khác biệt so với mọi người và được xã hội nhìn nhận, đánh
giá một cách tổng thể. Tổ hợp những đặc trưng đó còn được gọi là tổ hợp các thuộc
tính tâm sinh lý (nhân cách).
Nhân cách là tổng hòa các phẩm chất xã hội, được cá nhân lĩnh hội trong
hoạt động và giao tiếp, phản ánh giá trị xã hội của cá nhân trong cộng đồng.
Nhân cách là yếu tố quan trọng quyết định chất lượng mối quan hệ giữa
con người với con người. Trong cuộc sống, nhân cách tạo nên tư cách chủ thể
của cá nhân trong hoạt động và quan hệ xã hội, nhân cách là đặc trưng của từng
cá nhân, là bản chất thực của con người. Nhân cách càng phát triển thì con
người càng có khả năng hoạt động một cách độc lập, chủ động và mở rộng các
quan hệ xã hội. Chính vì vậy, nhân cách phản ánh giá trị xã hội của cá nhân.

1. Cấu trúc nhân cách
1.1. Khái niệm nhân cách
1


Bàn về vấn đề nhân cách có rất nhiều quan điểm khác nhau, thậm chí đối lập
nhau do dựa trên thế giới quan, phương pháp luận và lập trường giai cấp khác
nhau. Thời cổ đại, các triết gia Hy Lạp đã quan niệm, nhân cách là sự thể hiện và
phản ánh vai trò xã hội của cá nhân trong lịch sử - xã hội. Khổng Tử quan niệm
nhân cách là tính người, phẩm chất xã hội của từng con người; đồng thời, có sự
phân biệt giữa hai khái niệm con người và nhân cách. Từ khi tâm lý học ra đời với
tư cách là một khoa học độc lập cho đến nay, cũng đã xuất hiện nhiều cách hiểu và
quan niệm khác nhau về nhân cách, nhưng nhìn chung nhân cách luôn được nhìn
nhận trong mối quan hệ mật thiết với các khái niệm con người và cá nhân.


Con người là thực thể sinh vật - xã hội, có ý thức, có ngôn ngữ, là chủ thể của
hoạt động lịch sử và hoạt động nhận thức. Khái niệm con người chỉ ra những đặc
tính chung của các cá thể thuộc chủng loại người, phản ánh sự khác biệt về chất
giữa con người và con vật.
Cá nhân là một cá thể người, một đơn vị người không thể chia cắt được, có
những đặc điểm riêng của mình. Khái niệm cá nhân phản ánh sự khác nhau giữa
người này với người khác cả về tâm, sinh lý.
Mỗi người khi sinh ra đã là một cá nhân nhưng chưa phải là một nhân cách. Trong
quá trình sống và hoạt động, cá nhân dần gia nhập vào các mối quan hệ xã hội, tiếp
thu và biến kinh nghiệm xã hội – lịch sử thành kinh nghiệm và phẩm chất xã hội của cá
nhân. Qua đó, nhân cách dần được hình thành và phát triển từ thấp đến cao, từ chưa
hoàn thiện đến hoàn thiện. Vì vậy, tâm lý học Mác xít quan niệm: Nhân cách là tổng
hòa các phẩm chất xã hội, được cá nhân lĩnh hội trong hoạt động và giao tiếp,
phản ánh giá trị xã hội của cá nhân đó trong cộng đồng
Nhân cách không phải là sự cộng lại giản đơn các đặc điểm xã hội của cá nhân
mà đó sự tích hợp, hoà quyện toàn bộ các phẩm chất xã hội, bao gồm cả ưu điểm,
nhược điểm của mỗi con người để tạo thành “bộ mặt” xã hội của họ. Phẩm chất xã
hội hình thành trên cơ sở cá nhân tiếp thu các kinh nghiệm xã hội - lịch sử trong
quá trình tham gia vào đời sống xã hội; tác động cải tạo xã hội – lịch sử cũng như
cải tạo chính bản thân mình và được cộng đồng xã hội ghi nhận, đánh giá. Con
người nếu tách khỏi môi trường, điều kiện xã hội sẽ không tiếp nhận và lĩnh hội
2


được những kinh nghiêm xã hội - lịch sử để phát triển các phẩm chất xã hội của
mình.
Phẩm chất xã hội tạo nên nhân cách chính là các phẩm chất cá nhân đã được
“xã hội hóa”. Hệ thống các phẩm chất này phản ánh giá trị xã hội của mỗi nhân
cách trong tập thể và cộng đồng xã hội. Quá trình sống và hoạt động thực tiễn,
những đóng góp, ảnh hưởng của mỗi nhân cách đối với sự phát triển xã hội nhiều

hay ít sẽ nói lên giá trị xã hội của nhân cách cao hay thấp. Nhìn vào hệ thống các
phẩm chất xã hội và giá trị xã hội của mỗi cá nhân mà đánh giá được trình độ phát
triển nhân cách cao hay thấp, tích cực tiến bộ hay tiêu cực lạc hậu. Thực chất quá
trình giáo dục phát triển nhân cách chính là nhằm hình thành, phát triển hệ thống
các phẩm chất xã hội ở mỗi cá nhân phù hợp với các chuẩn mực chung của xã hội
và các lĩnh vực hoạt động cụ thể.
1.2. Một số quan điểm về cấu trúc nhân cách
* Vấn đề cấu trúc nhân cách theo quan niệm phương Đông cổ đại.
Quan niệm con người là một tiểu vũ trụ và thiên - địa - nhân hợp nhất. Con
người là sản phẩm của tự nhiên; luôn dung hòa giữa trời và đất; trời đất và người
là một thể thống nhất. Bản thân con người cũng là một vũ trụ thu nhỏ với tất cả
các đặt trưng, quy luật của vũ trụ; đồng thời quá trình hình thành, tồn tại và phát
triển của con người luôn chịu sự tác động và chi phối của tự nhiên mà đặc trưng
của nó được thể hiện trong thuyết “âm dương”, “ngũ hành” (kim, mộc, thủy,
hỏa, thổ). Chính vì vậy, sự tác động của các quy luật tự nhiên không chỉ đến mỗi
nhân cách mà còn tác động đến cộng đồng xã hội. Do vây, đời sống tâm lý của
con người luôn cân bằng và hài hòa không thái quá. Đây là luận điểm rất đúng
đắn phản ánh mối quan hệ và sự thuộc tất yếu của đời sống con người, tâm lý ý
thức con người vào môi trường, điều kiện tự nhiên; tâm lý ý thức con người có
nguồn gốc từ hiện thực khách quan.
Sự phát triển của nhân cách vừa mang tính ổn định; đồng thời vừa mang
tính biến đổi mạnh mẽ theo sự tác động của quy luật tương sinh và tương khác.
Theo đó, cách phân chia nhân cách theo ngũ hành bao gồm các đặc điểm của
mỗi kiểu nhân cách tương ứng và sự biến đổi của nhân cách.
3


Trên cơ sở luận giải về quan niệm nhân cách, có thể khái quát đặc điểm
nhân cách người phương Đông nói chung bao gồm: tính thiện, tính nhân và thích
sự im lặng. Tính thiện, là người phương Đông đề cao tính thiện; mọi tu thân, xử

thế, chính trị điều hướng tới thiện, sống có đạo đức, thanh thản, biết tự mình
dưỡng tâm, từ bỏ tham vọng thấp hèn, dứt bỏ tật xấu. Tính nhân, alf đề cao yêu
thương con người. Ẩn ý là thích im lặng hơn nói ra.
* Vấn đề cấu trúc nhân cách theo quan niệm phương Tây.
Quan điểm của Hippocrate: Con người có 4 thể dịch cơ bản (máu, đờm dãi,
mật đen và mật vàng) tương ứng với 4 loại tính khí (khí chất). Nhân cách của một
người tùy thuộc vào tính khí (khí chất) nào chiếm ưu thế, có nghĩa là tùy thuộc vào
lượng thể dịch nào trong cơ thể chiếm tỷ lệ nhiều nhất.
Thể dịch
Khí chất

Máu
Hăng hái

Đờm dãi
Điềm
đạm

Biểu
hiện

Vui vẻ,

Mật vàng
Nóng

Mật đen
Ưu tư

Cáu kỉnh


Buồn

nảy
Vô cảm

chủ động
và uể oải
và hưng phấn rầu và ủ rũ
Thuyết nhân cách của H.J.Eysenck
Theo H.J.Eysenck, nhân cách có 3 bình diện: hướng ngoại, nhiễu tâm (ổn

định hay không ổn định và loạn tâm (tư duy thực tiễn hay không thực tiễn). Sự
khác biệt nhân cách dựa trên 3 bình diện này là do sự khác biệt về gien sinh học
của mỗi người.
Quan điểm của Sigmund Freud
Cấu trúc: Theo ông tâm lý con người được tạo bởi ba khối: Vô thức, ý thức và
siêu thức (Khối vô thức là khối bản năng, trong có bản năng tình dục giữ vị trí
trung tâm). Ứng với 3 khối đó là cái ấy, tôi, siêu tôi. Sự tác động lẫn nhau giữa 3
khối này tạo nên nhân cách, nói cách khác nhân cách gồm 3.
Cái "ấy" là con người bản năng, hoạt động theo nguyên tắc thỏa mãn
Cái "tôi" là con người của hiện thực, được hình thành do áp lực thực tại bên
ngoài, đến toàn bộ khối bản năng. Nó bảo đảm các chức năng tâm lý như chú ý, trí
nhớ v.v... Hoạt động của cái tôi theo nguyên tắc thực tại.
Cái "siêu tôi": là con người xã hội, là những chế ước xã hội: đạo đức, nghệ
thuật, giáo dục, tôn giáo… Siêu tôi hoạt động theo nguyên tắc kiểm duyệt.
4


Cả 3 khối này theo nguyên tắc chung là ở trạng thái thăng bằng tương đối.

Con người lúc ấy ở trạng thái bình thường. Nhưng cả 3 khối này luôn luôn xung
đột với nhau, sự xung đột này là cơ chế của hoạt động tâm thần. Từ đó Freud nêu
ra cơ chế hoạt động tâm lý của con người. Đó là cơ chế kiểm duyệt, chèn ép, cơ
chế biến dạng, cơ chế siêu thăng, cơ chế suy thoái.
Động lực: động lực của sự phát triển nhân cách là mâu thuẫn xung đột nội
tâm, tuy chưa đưa ra khái niệm động cơ.
Các giai đoạn: Ông cũng là người đưa ra 5 giai đoạn phát triển nhân cách theo
lứa tuổi.
Miệng: Sơ sinh đên 1 tuổi
Hậu môn: 1 - 3 tuổi
Dương vật: 3 - 5 tuổi
Tiềm ẩn: 5 - 1 tuổi.
12 (dạy thì) - trưởng thành: tình dục.
Đóng góp to lớn của S. Freud là đưa ra giả thuyết về vô thức, tiềm thức là
những mặt quan trọng trong đời sống tâm lý của con người. Ngày nay người ta đã
thừa nhận vô thức là có thật trong đời sống tâm lý con người; đưa ra một số cơ chế
như tự vệ, dồn nén, mặc cảm, đồng nhất hóa, giai đoạn phát triển và liên tưởng tự
do. Tuy nhiên tuyệt đối hóa vô thức, sinh lý và không quan tâm gì đến yếu tố xã
hội, không thấy được bản chất xã hội lịch sử của tâm lý người. Con người ở đây là
con người sinh vật.
Phân tâm học mới
Do hạn chế mà những người cộng tác và học trò của ông đã rời bỏ F và hình
thành nên những học thuyết phân tâm học mới theo các hướng khác nhau, tiêu biểu
là: K.Jung; A.Adler; Erich Fromm… Theo những hướng này, có cả yếu tố ý thức,
xã hội… song về cơ bản vẫn là phân tâm.
Karl Jung về nhân cách.
Về vô thức: ông phê phán lập trường của Freud về vô thức. Ông cho rằng
hành vi con người được điều chỉnh bằng vô thức cả ý thức. Đó là quá trình điều
chỉnh tổng hợp, là một hệ thống tự điều chỉnh.Ý thức được hiểu là mối quan hệ của
5



nội dung cái tôi. Ý thức không đồng nhất với tâm lý mà còn có vô thức nữa. Vô
thức là hiện tượng được thể hiện ở sự quên, những kinh nghiệm đã được xác định
trước đây bị ức chế, che lấp chưa trở về được với ý thức.
Jung không thừa nhận bản năng tình dục của Freud là quyết định tâm lý con
người. Nhưng ông lại thừa nhận trong con người có vô thức như Freud đã quan
niệm. Vì vậy, về bản chất học thuyết của Jung vẫn là học thuyết phân tâm được cải
biên thành học thuyết phân tâm học mới.
Cấu trúc nhân cách theo Jung
Thế giới bên ngoài
Nhân cách (Person)
Ý thức
Tôi
Cá nhân Cái bản thân Vô thức
Phần cá nhân

Trong tập thể
Vô thức
Nhân cách nguyên thuỷ Vô thức
Vô thức tập thể
Qua cấu trúc này, cái tôi là trung tâm của ý thức. Nhân cách là người mẹ của
ý thức và vô thức là mẹ của tâm lý tập thể và tâm lý cá nhân.
Về nhân cách Jung cho rằng con người có 3 lớp vô thức. Những vô thức này
chi phối số phận con người trong việc chọn lựa tình yêu, bạn bè, nghề nghiệp,
trong ốm đau, chết chóc.
Lớp thứ nhất là vô thức cá nhân thể hiện trong cuộc sống hàng ngày.
Lớp thứ hai là vô thức gia đình thể hiện trong động lực gây ra đồng tính luyến
ái vô thức và sự trỗi dậy của bản năng.
Lớp thứ ba là vô thức tập thể xuất phát từ hình tượng cổ sơ có nguồn gốc văn

hóa chủng tộc.
6


Quan điểm của Jung về nhân cách còn gọi là lý luận nhân cách tầng sâu. Lý
luận nhân cách tầng sâu xuất phát từ quan niệm vô thức. Vô thức được xác định
bằng những sự kiện của hành vi. Những nét nhân cách và sự hư hỏng nhân cách là
do xung đột có tính chất bản năng của hành vi. Đó là những bản năng trực tiếp và
bản năng tức thời. Lý luận nhân cách tầng sâu là một khám phá mới về vô thức.
Song điều này chưa đủ để nói lên bộ mặt nhân cách con người. Nhân cách con
người còn thể hiện ở những phẩm chất khác như năng lực, khí chất cũng như bộ
mặt đạo đức trong nhân cách con người. Những cái này Jung chưa đi sâu nghiên
cứu.
Alfred Adler (1870 - 1937).
Ông cho rằng tất cả hành vi của con người đều chịu ảnh hưởng của xã hội.
Nhân cách thống nhất với hoàn cảnh và môi trường xã hội. Trong tư tưởng cơ bản
của ông vẫn là vô thức bản năng hay là năng lượng tâm hồn là những cơ chế của
tính tích cực, của xung đột và là cơ chế bảo vệ. Về quan niệm nhân cách, ông cho
rằng "Đời sống tâm hồn của con người là mục đích đã vạch sẵn".
Tính mục đích có các hình thức sau đây: Tính sinh vật có chức năng bẩm
sinh. Tính xã hội là hiện tượng đời sống có ảnh hưởng đến cộng đồng, mang tình
cảm xã hội. Tính hợp lý đối với ý thức đối với hành động có kế hoạch của con
người. Những mục đích này định hướng hành vi hoạt động của con người. Trong
đó chức năng tâm hồn đóng vai trò quan trọng trong việc phát triển nhân cách. Nó
là cơ quan bảo đảm sự thích ứng của con người trong xã hội.
Ông đề ra nhân cách kém cỏi và sự cố gắng bù trừ. Theo ông con người bao
giờ cũng cảm thấy mình kém cỏi có những thiếu sót và phải cố gắng bù đắp những
thiếu sót đó. Trong cuộc sống con người luôn luôn muốn mình hơn người khác: cố
gắng vươn lên. Sự cố gắng vươn lên đó có người vượt quá mức tạo thành siêu việt
hơn người. Con người còn có sự bù trừ siêu đẳng. Khi có nhược điểm trong lĩnh

vực này lại thành siêu đẳng trong lĩnh vực khác..Ví dụ một cô gái kém cỏi về nhan
sắc thì lại bù trừ trong lĩnh vực học hành. Cơ chế bù trừ của Adler khác với cơ chế
bù trừ ở Freud là ở chỗ sự bù trù trong quan niệm của Freud xuất phát từ động cơ
tình dục, còn bù trừ của Adler xuất phát từ động cơ xã hội. Sự bù trừ là có thật
7


trong đời sống con người. Nhưng sự bù trừ này phụ thuộc vào nhiều yếu tố, trong
đó yếu tố xã hội có tính chất quyết định. Ở đây Adler quá thổi phồng tính chất bù
trừ trong đời sống con người, mà không thấy vai trò hoạt động con người trong xã
hội.
Erich Fromm.
Một trong những nhà tâm lý học nổi tiếng hiện nay theo xu hướng Freud mới
là Erich Fromm (1901). E.Fromm sinh ở Phrăngphuốc (đầu thế kỷ 20) sau sang
Mỹ, trở thành nhà phân tâm học Mỹ. Ông có ý đồ pha trộn phân tâm học của Freud
và học thuyết xã hội học của Mác vào nhau là xây dựng nên lý thuyết "chủ nghĩa
nhân đạo mới". Ông cho rằng Mác và Freud đều vẽ nên một mẫu người trong xã
hội tư bản. Trong xã hội này con người làm ra máy móc, và đồng thời con người
cũng hoạt động như một cái máy. Chính vì vậy trong xã hội đó con người không có
nguồn vui thật sự, con người không có tình cảm, không có lý trí và không có tình
yêu. Ông tìm thấy con người tự do trong nhân cách của Freud và con người tự do
trong xã hội của Mác. Về tâm lý học, Froom cho rằng cơ chế tự nhiên và xã hội
trong con người là vô thức, đó là cái phi lý, hạt nhân của nhân cách. Nó biểu hiện
sự mong muốn vươn tới cái hài hòa toàn diện của con người. Ông cho rằng nhu
cầu tạo ra cái tự nhiên trong con người. Những nhu cầu đó là:
1) Nhu cầu quan hệ giữa người và người;
2) Nhu cầu tồn tại "cái tâm" con người;
3) Nhu cầu về sự bền vững và hài hòa;
4) Nhu cầu đồng nhất bản thân và xã hội với dân tộc, với giai cấp, với tôn
giáo;

5) Nhu cầu nhận thức, nghiên cứu.
Những nhu cầu này là thành phần tạo nên nhân cách. Bên cạnh thừa nhận cái
tự nhiên trong con người, ông còn nói đến yếu tố xã hội. Song trong xã hội có các
nhóm, các thành phần song song với nhau. Ví dụ, gia đình song song với xã hội,
nhân cách song song với tiến bộ xã hội. Chính vì vậy ông cho rằng tiến bộ xã hội
là do tâm lý con người.
8


Ông không chỉ nghiên cứu về con người mà còn nghiên cứu môi trường xã
hội. Nhưng lý luận xã hội của ông đã trở thành lý luận không tưởng. Ông vẽ ra mô
hình con người mới giữa các đặc điểm sau:Con người mới phải từ bỏ vật chất để
sống thanh thản. Con người phải làm cho cuộc đời có ý nghĩa. Phải có lòng yêu
thương và trân trọng cuộc sống. Phải trau dồi tình yêu thương vốn có. Phải khắc
phục được tính tự yêu mình và chấp nhận tính chất hạn chế trong cuộc sống con
người. Tất cả những đặc điểm này thật đáng quý nhưng đó chỉ là con người trừu
tượng chung chung không thể thực hiện trong xã hội tư bản.
Cái sai của Fromm là dung hòa giữa chủ nghĩa Freud và chủ nghĩa Mác. Sự
thật không thể có cơ sở tự nhiên nào do Freud tạo ra làm cơ sở cho chủ nghĩa Mác.
Đồng thời sự tiến bộ xã hội do động lực kinh tế quyết định chứ không do yếu tố
tâm lý nào như Fromm đã giải thích.
Tâm lý học nhân văn
Tâm lý học nhân bản ra đời ở Mỹ như là một khuynh hướng đối lập với tâm
lý học hành vi và phân tâm học. Nếu tâm lý học hành vi và phân tâm tuyệt đối hóa
yếu tố môi trường, sinh vật, quan niệm con người như những chiếc máy, không
phân biệt con người hay con vật thì Tâm lý học nhân văn tiếp cận nghiên cứu nhân
cách một cách nhân văn hơn. Trường phái này là sự tổng hợp nhiều khuynh hướng
mới và nhiều trường phái tư tưởng khác nhau. Nhưng những nhà tâm lý nhân văn
đều có chung những tư tưởng là tôn trọng con người, tôn trọng giá trị sáng tạo, và
trách nhiệm con người, tôn trọng các phẩm giá cá nhân con người.

Tiêu biểu là Maslow - chủ tịch hội tâm lý nhân văn đầu tiên ở Mỹ.
Về nhân cách ông đưa ra hệ thống nhu cầu, quá trình nhận thức, triệu chứng
nhân cách và năng lực. Tất cả những yếu tố này tạo nên động lực thúc đẩy hành vi
con người. Động cơ thúc đẩy mạnh mẽ nhất là nhu cầu. Theo ông có thể chia ra
năm loại nhu cầu:
Nhu cầu sinh lý: như nhu cầu thỏa mãn đói, khát, sinh dục, những nhu cầu
này có tính chất bản năng, có cả ở động vật.
Nhu cầu an toàn: nhu cầu về sự yên ổn, trật tự và an ninh.
Nhu cầu yêu thương, nhu cầu lệ thuộc.
9


Nhu cầu được thừa nhận (tự trọng); nhu cầu thành đạt, kết quả, nhu cầu về
niềm tin.
Nhu cầu tự khẳng định, tự thực hiện như nhu cầu sáng tạo, nhu cầu hiểu biết,
nhu cầu tri thức, nhu cầu nghệ thuật.

Các loại nhu cầu này được chia làm nhu cầu cấp thấp và nhu cầu cấp cao.
Những nhu cầu này xuất hiện theo thứ tự trong quá trình phát triển chủng loài,
cũng như phát triển của cá nhân. Đồng thời đây cũng là thứ tự thỏa mãn các nhu
cầu đó. Nếu nhu cầu cấp thấp không thỏa mãn thì nhu cầu cấp cao cũng không thể
thực hiện được. Nhu cầu tự thực hiện là nhu cầu cao nhất nhằm phát triển tiềm
năng của cá nhân.
Nhu cầu này khác nhau ở mỗi người bởi vì mỗi người đều có tiềm năng riêng
khác nhau. Có người có nhu cầu tự thực hiện trên lĩnh vực văn chương, người khác
thì có nhu cầu lãnh đạo, v.v... Những nhu cầu này không bị sự kiểm soát của xã
hội. Nhưng không phải ai cũng thực hiện được nhu cầu này, bởi vì còn những nhu
cầu khác chưa thực hiện được.
Maslow cho rằng tính xã hội nằm trong bản năng của con người. Các nhu cầu
đều dựa trên cơ sở di truyền nhất định. Chính vì vậy, học thuyết nhu cầu của

Maslow có điểm giống học thuyết S. Freud.
10


* Quan điểm của triết học Mác xít về cấu trúc nhân cách.
Tâm lý học Mác xít đứng vững trên lập trường duy vật biện chứng và duy
vật lịch sử, đã nêu ra cách giải thích khoa học vê bản chất nhân cách. Luận điểm
cơ bản mà tâm lý học Mác xít dựa vào để giải quyết vấn đề bản chất nhân cách,
đó là luận điểm của C.Mác “… bản chất con người không phải là cái trừu tượng
cố hữu của cá nhân riêng biệt. Trong tính hiện thực của nó, bản chất con người
là tổng hòa các mối quan hệ xã hội.”
Con người mà Mác nêu ra trong luận điểm này, là một cá nhân có thực, sống
và hoạt động trong điều kiện xã hội- lịch sử cụ thể. Vì thế, con người đó tồn tại
với tư cách là một nhân cách. Điều đó cho phép khẳng định rằng: bản chất nhân
cách là tính xã hội của con người. Tâm lý học Mác xít cho rằng nhân cách bị quy
định bởi điều kiện xã hộilịch sử và các mối quan hệ xã hội cụ thể của con người.
Có thể nhận thấy sự tác động, ảnh hưởng của điều kiện xã hội lịch sử đối với nhân
cách ở hai phạm vi chủ yếu, đó là môi trường xã hội rộng lớn và môi trường xã hội
gân gũi. Toàn bộ những mối quan hệ chính trị, kinh tế, văn hóa, tư tưởng… một
chế độ xã hội của một quốc gia tạo nên môi trường xã hội rộng lớn của nhân cách.
Môi trường xã hội rộng lớn để lại dấu ấn khá sâu sắc, bền vững trong nhân cách,
nó quy định những đặc điểm thời đại, dân tộc, giai cấp…. Môi trường gần gũi chứa
đựng những mối quan hệ cụ thể của cá nhân với những thành viên của những
nhóm xã hội, những tập thể mà họ tham gia: gia đình, làng xã, khu phố, tập thể cơ
sở, đơn vị, lớp học…. Môi trường gần gũi có tác dụng giáo dục, điều chỉnh điều
khiển hành vi của cá nhân một cách trực tiếp, thường xuyên nên để lại nhiều dấu
ấn trong nhân cách đó là: những nét nhân cách phản ánh đặc điểm của gia đình, địa
phương, truyền thống của tập thể nhỏ… Những đặc điểm chung cho nhiều nhân
cách trong toàn xã hội và những đặc điểm riêng của nhân cách trong các cộng
đồng xã hội nhỏ luôn hòa quyện vào nhau, bổ sung cho nhau, và quan hệ thống

nhất biện chứng với nhau trong mỗi con người. Sự tác động của điều kiện xã hộilịch sử tới nhân cách diễn ra thường xuyên đa dạng và đã để lại dấu ấn trong các
đặc điểm, thuộc tính của từng nhân cách, nhưng nhân cách không phải là sản phẩm
thụ động của hoàn cảnh. Tâm lý học Mác xít quan niệm rằng: Nhân cách là chủ thể
11


hoạt động có vai trò tác động trở lại đối với xã hội, thông qua đó góp phần cải tạo
xã hội và cải tạo chính bản thân mình.
Mác và Ph. Ănghen đã đánh giá cao vai trò của con người đối với xã
hội. Trong cuốn Hệ tư tưởng Đức các ông đã chỉ rỏ: “ Lịch sử xã hội là lịch sử
của những con người. Bằng hoạt động có ý thức, con người không chỉ làm thay
đổi tự nhiên, mà còn tạo nên xã hội thông qua việc sản xuất ra tư liệu thỏa mãn
nhu cầu xã hội, phát triển quan hệ giao tiếp xã hội và làm biến đổi ý thức xã
hội”. Hoạt động và giao tiếp của con người không chỉ có ý nghĩa đối với xã hội,
mà con quyết định sự hình thành và phát triển của bản thân nhân cách. Bởi vì
bằng hoạt động và giao tiếp, con người thực hiện đồng thời hai quá trình “đối
tượng hóa” và “nội tâm hóa” các thuộc tính người để làm biến đổi hoàn cảnh và
hoàn thiện mình.
* Quan điểm của tâm lý học mác xít về cấu trúc nhân cách
A.N.Leonchiev
Nhà tâm lý học Nga kiệt xuất đã từng giữ chức Phó chủ tịch hội Tâm lý thế
giới. Ông đã đưa ra lý thuyết hoạt động để giải quyết vấn đề tâm lý học, được giới
tâm lý học đánh giá cao. Về mặt nhân cách ông cũng có những quan điểm mới mẻ.
A.N. Leonchiev coi nhân cách như một cấu tạo tâm lý mới, được hình thành trong
các quan hệ sống của cá nhân do kết quả hoạt động cải tạo của người đó. Nó là một
cấu tạo đặc biệt có tính trọn vẹn. Nhân cách là sản phẩm tương đối muộn của sự
phát triển xã hội lịch sử và của sự tiến hóa cá thể của con người. Nó là kết quả của
quá trình chín muồi của những nét bẩm sinh dưới tác động của môi trường xã hội.
Khái niệm nhân cách thể hiện tính chỉnh thể của chủ thể cuộc sống.
Hoạt động là cơ sở của nhân cách. Ông cho rằng muốn hiểu nhân cách phải

dựa vào hoạt động của chủ thể để phân tích.Việc nghiên cứu nhân cách phải xuất
phát từ sự phát triển của hoạt động, những loại hình cụ thể của hoạt động và mối
liên hệ của nhân cách đó với những người khác. Nền tảng của nhân cách là sự
phong phú của mối quan hệ giữa cá nhân vơi thế giới.Trong mối quan hệ này con
người phải hoạt động bao gồm hoạt động lý luận và hoạt động thực tiễn.
12


Nhu cầu và động cơ: Hoạt động - Nhu cầu - Hoạt động. A. N. Leonchiev chia
ra 2 loại động cơ: Động cơ tạo ý và động cơ kích thích - Động cơ tạo ý gắn liền với
nhân cách. Cấu trúc của nhân cách là một chỉnh thể tương đối ổn định bao hàm
trong mình một hệ thống thứ bậc các động cơ chủ yếu. Các tiểu cấu trúc của nhân
cách bao gồm: tính khí (khí chất), nhu cầu, ý hướng, rung cảm và hứng thú, tâm
thể, kỹ xảo, thói quen, phẩm chất đạo đức. Hình thành nhân cách là một quá trình
giáo dục có định hướng và tương ứng với quá trình giáo dục đó là hành động chủ
thể. Sự hình thành nhân cách là một quá trình liên tục gồm các giai đoạn tuần tự
thay thế nhau, làm thay đổi tiến trình sự phát triển tâm lý sau này. Trước hết, đó là
sự cải tổ phạm vi quan hệ với những người khác, với xã hội và kèm theo đó là sự
cải tổ thứ bậc động cơ. Sự hình thành nhân cách là một quá trình riêng không trùng
khớp với quá trình biến đổi các thuộc tính tự nhiên của cơ thể. Con người trở thành
nhân cách khi là chủ thể của các mối quan hệ nhân cách
X.L. Rubinstein
Nhân cách là cá nhân cụ thể lịch sử sinh sống gắn với quan hệ thực tế trong
thế giới hiện thực. Nhân cách ở đây được hiểu là các đặc điểm cá thể riêng từng
người. Rubinstêin coi nhân cách là bộ máy điều chỉnh toàn bộ hệ thống thân thể
con người nói chung, gắn liền với khái niệm đường đời. Nhân cách cũng được hiểu
là khả năng con người điều khiển các quá trình hay thuộc tính tâm lý của bản thân,
hướng chúng vào giải quyết các nhiệm vụ đặt ra cho bản thân. Từ đó muốn hiểu
nhân cách là gì phải xem con người mang nhân cách ấy có xu hướng gì, có khả
năng đáp ứng mong muốn đó không. X.L.Rubinstein khẳng định: con người chỉ là

nhân cách khi có ý thức xác định các quan hệ đối với môi trường của mình, khi có
một diện mạo riêng.
Cấu trúc: Gồm ý thức của chủ thể và các thái độ: thái độ đối với thế giới xung
quanh, thái độ đối với người khác và thái độ đối với bản thân. Cụ thể là những thành
phần: hứng thú, sự đam mê, tâm thế tạo nên các xu hướng, lý tưởng của nhân cách.
Vì vậy, ông cho rằng, nghiên cứu nhân cách là nghiên cứu tự ý thức của nhân cách,
nghiên cứu “cái tôi” như là chủ thể nắm lấy tất cả cái gì con người làm ra, có trách
nhiệm của bản thân đối với tất cả các sản phẩm vật chất mà mình tạo ra. Ru đi từ
13


các phạm trù tinh thần, ý thức, chủ thể… đến phạm trù nhân cách, coi nhân cách là
các trải nghiệm và đi vào vấn đề hình thành, phát triển nhân cách trong hoạt động.
Rubinstein đã nhấn mạnh tính chất sđặc thù của riêng từng nhân cách, nói lên xu
hướng riêng của người ấy, bao gồm ý hướng, ý muốn của từng người, năng lực của
từng người, bản tính của nó.
B.G. Ananhiep
B. G. Ananiev là nhà tâm lý học xuất sắc của Liên Xô đã có nhiều đóng góp
cho sự phát triển tâm lý học. B.G.Ananhiep đã xuất phát từ những khái niệm cá
thể, chủ thể, khách thể, hoạt động, cá nhân để giải quyết vấn đề nhân cách. Ông
cho rằng nhân cách là cá thể có tính chất xã hội, là khách thể và chủ thể của từng
bước tiến lịch sử. Nhân cách không tồn tại ngoài xã hội, không tồn tại ngoài lịch
sử. Vì thế việc nghiên cứu nhân cách phải nghiên cứu lịch sử cá nhân. Con đường
cơ bản của việc nghiên cứu nhân cách là nghiên cứu tính chất lịch sử, tính chất xã
hội, tính chất tâm lý - xã hội của nhân cách. Sự phong phú của mối quan hệ xã hội
của cá nhân đã tạo nên những đặc điểm của nhân cách.
Cấu trúc nhân cách được dần dần hình thành trong quá trình cá nhân hoạt
động trong mối quan hệ xã hội. Ông đưa ra cấu trúc nhân cách theo hai nguyên tắc:
Nguyên tắc thứ bậc và nguyên tắc phối hợp. Nguyên tắc thứ bậc là sự sắp xếp đặc
điểm xã hội chung nhất quy định những đặc điểm tâm sinh lý. Nguyên tắc phối

hợp là sự tác động qua lại giữa các thành phần độc lập tương đối và thành phần
phụ thuộc. Theo B.G.Ananhiep, để nghiên cứu con người với tư cách là nhân cách
phải nghiên cứu xu hướng, tính cách, hành vi xã hội, động cơ hành vi, cấu trúc
nhân cách, vị thế nhân cách, con đường sống của nhân cách trong xã hội. Điều này
đòi hỏi các nhà khoa học, tâm lý học, xã hội học, giáo dục học, đạo đức học phải
quan tâm nghiên cứu.
Ananhiep coi con người là tiểu vũ trụ. Điều này rất tương đồng với quan niệm
phương Đông về con người. Con người là tinh hoa của vũ trụ, trong con người có
đại diện của quy luật vũ trụ. Luận điểm nghiên cứu nhân cách là tổng hợp các khoa
học nghiên cứu về con người là một đóng góp quan trọng trong việc chỉ hướng
14


nghiên cứu nhân cách. Nghiên cứu nhân cách không tách rời việc nghiên cứu con
người và các khoa học khác nghiên cứu về con người.
K.K. Platonov
K.K. Platonov là nhà tâm lý học nổi tiếng ở Liên Xô (cũ). Về tâm lý học ông
có những đóng góp xuất sắc. Về khái niệm nhân cách: Trên cơ sở nhận xét và phê
phán các định nghĩa về nhân cách ông đưa ra định nghĩa nhân cách như sau: "Nhân
cách đó là một con người cụ thể như là một chủ thể cải tạo thế giới trên cơ sở nhận
thức, thể nghiệm thế giới, trên cơ sở quan hệ với thế giới đó". Ta có thể diễn đạt tư
tưởng đó ngắn gọn hơn, "Nhân cách đó là con người mang ý thức". Ý thức không
phải là một thực thể thụ động mà là một hình thức phản ánh bậc cao chỉ có ở
người. Đứa trẻ mới ra đời chưa có ý thức và chưa có nhân cách. Nhân cách sẽ hình
thành trong giao tiếp với người khác. Ông cho rằng không thể xác định được lúc
nào thì con người hình thành nhân cách.
Phân loại: Có nhân cách tiến bộ và nhân cách phản động, nhân cách lành
mạnh và nhân cách ốm yếu.
Cấu trúc: Ông đưa ra cấu trúc tâm lý chức năng cơ động của nhân cách gồm
bốn tiểu cấu trúc:

Tiểu cấu trúc thứ nhất là xu hướng (lý tưởng, thế giới quan, niềm tin…).
Tiểu cấu trúc 2 là kinh nghiệm (tri thức, kỹ năng, kỹ xảo, thói quen) do GD
Tiểu cấu trúc thứ 3 cấu trúc nhỏ thứ ba là các quá trình tâm lý, do luyện tập.
Tiểu cấu trúc thứ 4 là các thuộc tính sinh học quy đinh nhân cách (khí chất
giới tính, lứa tuổi, bệnh lý…).
Ngoài 4 cấu trúc nhỏ trên còn có 2 cấu trúc nằm trên 4 cấu trúc đó là tính cách
và năng lực. Cấu trúc này có tính cơ động vì nó không cố định ở một nhân cách cụ
thể, nó thay đổi từ lúc đứa trẻ có nhân cách đến chế. Tính cách cũng như năng lực
là tổng hoà các thuộc tính cá nhân trong 4 tiểu cấu trúc. Tính cách và năng lực cá
nhân tương hỗ với nhau. Trong một mức độ nào đó, năng lực biểu hiện ra và trở
thành tính cách.
Quan điểm của A.G.Covaliov
15


Nhân cách bao gồm 4 thuộc tính: Xu hướng, năng lực, tính cách và khí chất.
Xu hướng thể hiện chiều hướng phát triển của nhân cách; tính cách biểu hiện đạo
đức, cốt cách làm người; năng lực thể hiện khả năng của con người và khí chất thể
hiện hành vi của con người. Quan điểm của A.G.Covaliov về cấu trúc nhân cách
được nhiều nhà tâm lý học Việt Nam thừa nhận.
Xu hướng: Hoạt động của con người được thúc đẩy bởi các động cơ. Xu
hướng của nhân cách là hệ thống động cơ quy định tính tích cực và sự lựa chọn
thái độ của con người trong quá trình hoạt động. Xu hướng của nhân cách thường
được biểu hiện qua: nhu cầu, hứng thú, lý tưởng, thế giới quan, niềm tin…
Năng lực: Năng lực là hệ thống các đặc điểm tâm sinh lý của cá nhân phù hợp
với yêu cầu của một hoạt động cụ thể, đảm bảo cho hoạt động đó mang lại hiệu
quả.
Năng lực bao gồm năng lực chung và năng lực riêng. Năng lực chung có ở tất
cả mọi người như: năng lực quan sát, cảm giác, tri giác, tư duy…Năng lực riêng là
năng lực chỉ có ở một số người.

Tính cách: Tính cách là hệ thống thái độ của cá nhân đối với hiện thực xung
quanh và đối với bản thân mình được thể hiện trong hành vi, cử chỉ. Tính cách bao
gồm nhiều nét tính cách. Khí chất: Khí chất (tính khí) là thuộc tính tâm lý của cá
nhân quy định cường độ, tốc độ, nhịp độ của các hoạt động và thể hiện qua sắc thái
hành vi của cá nhân. Khí chất chỉ là biểu hiện độc đáo bề ngoài của các hoạt động
tâm lý của cá nhân chứ không quyết định đến nội dung của các hoạt động tâm lý.
* Quan điểm của chủ tịch Hồ Chí Minh về cấu trúc nhân cách.
Hồ Chí Minh khẳng định quan điểm toàn diện về nhân cách, theo Hồ Chí
Minh, nhân cách là chỉnh thể trọn vẹn bao gồm cả Đức và Tài. Trong đó, đạo đức
được coi là gốc của nhân cách và tài giữ vai trò quan trọng. Đối với người cách
mạng, đạo đức cách mạng là gốc là nội dung cốt lõi của đạo đức của họ. Theo Hồ
Chí Minh nhân cách đó là tư cách làm người, được thể hiện ở cấu trúc tâm lý gồm:
Đối với tự mình, đối với công việc và đối với người khác, quan hệ xã hội; các nét
tính cách cần, kiệm, liêm, chính, chí công vô tư. Hồ Chí Minh cho rằng,
nhân, nghĩa, trí, dũng, liêm là hệ thống phẩm chất cốt lõi của nhân cách và việc
16


xây dựng, phát triển nhân cách, phải hướng vào bồi dưỡng phẩm chất này. Con
đường hình thành phát triển nhân cách thông qua giáo dục, rèn luyện và hoạt
động thực tiễn; “ Hiền dữ đâu phải là tính sẵn. Phần nhiều do giáo dục mà nên”

17



×