Tải bản đầy đủ (.pdf) (27 trang)

Nghiên cứu đề xuất một số giải pháp góp phần quản lý bền vững tài nguyên rừng tại Khu bảo tồn thiên nhiên Thần Sa - Phượng Hoàng tỉnh Thái Nguyên

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (296.26 KB, 27 trang )

1
ĐẶT VẤN ĐỀ
Khu bảo tồn thiên nhiên Thần Sa - Phượng Hoàng thuộc điạ bàn hành chính
huyện Võ Nhai, cách thành phố Thái Nguyên khoảng 40 km về hướng Bắc.
Khu bảo tồn thiên nhiên Thần Sa - Phượng Hoàng nằm trên địa bàn các
xã Thần Sa, Phú Thượng và thị trấn Đình Cả thuộc huyện Võ Nhai, tỉnh Thái
Nguyên, được thành lập ngày 01 tháng 12 năm 1999 với diện tích là 11.280 ha
theo Quyết định số 3841/QĐ-UB của Uỷ ban nhân dân tỉnh Thái Nguyên. Khu
vực này có hệ sinh thái rừng núi đá độc đáo, có tính đa dạng sinh học phong
phú với nhiều nguồn gen động thực vật quý hiếm và nhiều hệ sinh thái chuẩn
của vùng núi đá. Nơi đây còn lưu giữ các di chỉ khảo cổ học cũng như các di
tích lịch sử, danh lam có giá trị.
Năm 2006, thực hiện Chỉ thị số 38/2005/CT-TTg ngày 5 tháng 12 năm
2005 của Thủ tướng Chính phủ về việc rà soát 3 loại rừng, Khu bảo tồn thiên
nhiên Thần Sa - Phượng Hoàng được quy hoạch theo ranh giới mới trên địa
bàn 6 xã và 1 thị trấn gồm: Thần Sa, Sảng Mộc, Thượng Nung, Nghinh Tường,
Vũ Chấn, Phú Thượng, Đình Cả, với tổng diện tích là 17.639,0 ha và đã được
Uỷ ban nhân dân tỉnh Thái Nguyên phê duyệt tại Quyết định số 1563/QĐ-UB
ngày 08 tháng 8 năm 2007.
Theo kết quả điều tra tại Khu bảo tồn thiên nhiên Thần Sa - Phượng
Hoàng thành phần thực vật ở khu bảo tồn có 1.096 loài, 645 chi, 160 họ ở 5
ngành thực vật khác nhau; 56 loài thú 25 họ và 8 bộ; 117 loài Chim; 11 loài
lưỡng cư; 28 loài bò sát; 77 loài cá thuộc 13 họ và 4 bộ;... trong đó có nhiều
loài có tên trong sách đỏ Việt Nam như: Lan hài Việt Nam, Re hương, Đảng
sâm, Trò xanh, Nghiến gân ba, Hoàng đằng, Trai lý, Đinh mật, Hổ mang chúa,
Tê tê, Voọc mũi hếch, Voọc bạc má, Hươu xạ,...
Đây là hệ thống rừng núi đá tập trung ở các xã phía Bắc huyện Võ Nhai,
là một trong ít khu vực còn lại diện tích và trữ lượng rừng tự nhiên đáng kể trong
tỉnh Thái Nguyên. Nó nằm trong vùng núi đá miền Bắc Việt Nam và có tính đa

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên






2
dạng sinh học như khu bảo tồn thiên nhiên Kim Hỷ (Bắc Kạn), khu bảo tồn thiên
nhiên Hữu Liên (Lạng Sơn),... Với tính đa dạng sinh học cao có thể khẳng định
đây là một mẫu rừng đặc trưng cho hệ sinh thái rừng trên núi đá vôi tỉnh Thái
Nguyên. Hiện tại, những tác động tiêu cực của một số người dân địa phương và
các vùng lân cận đã và đang tàn phá khu rừng , những mối đe dọa không ngừng
gia tăng làm cho nguy cơ mất đi một trong những hệ sinh thái rừng đặc thù và
còn tính chất đa dạng sinh học cao là một thực tế khó tránh khỏi. Trong khi đó,
khả năng phục hồi rừng trên núi đá là rất khó khăn, nếu để mất rừng núi đá sẽ
làm mất đi nguồn tài nguyên khó khôi phục và sẽ gây nên những hậu quả khó
lường. Trong những năm gần đây, công tác quản lý bảo vệ rừng đã được quan
tâm và thực hiện một cách tốt hơn. Tuy nhiên, do địa hình núi đá hiểm trở, phức
tạp trong khi lực lượng kiểm lâm mỏng, địa bàn quản lý rộng nên công tác bảo
vệ rừng thường xuyên gặp khó khăn, rừng trong khu vực vẫn tiếp tục bị đe doạ.
Mức độ đe dọa đối với hệ sinh thái rừng và các loài động thực vật quý hiếm vẫn
đang ở mức cao, nếu không có sự quản lý bảo vệ theo quy chế của một khu bảo
tồn thì hệ sinh thái rừng nơi đây sẽ tiếp tục bị tàn phá và trong những năm tới sẽ
không còn giá trị bảo tồn. Để góp phần giải quyết những vấn đề nêu trên, trong
phạm vi luận văn, chúng tôi đã thực hiện đề tài “Nghiên cứu đề xuất một số giải
pháp góp phần quản lý bền vững tài nguyên rừng tại Khu bảo tồn thiên nhiên
Thần Sa - Phượng Hoàng tỉnh Thái Nguyên”.
Nguyễn Xuân Tùng

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên





3

Chƣơng I
TỔNG QUAN VẤN ĐỀ NGHIÊN CỨU
1.1. Khái niệm về quản lý rừng bền vững
Từ lâu việc quản lý rừng bền vững đã được các nhà lâm học xem là vấn
đề cơ bản của kinh doanh rừng. Phần lớn các học thuyết về rừng đều hướng
vào phân tích những quy luật sinh trưởng, phát triển của cá thể và quần thể
rừng trong mối quan hệ với các điều kiện tự nhiên và những tác động kỹ thuật
của con người làm cơ sở để xây dựng những biện pháp quản lý thích hợp nhằm
nâng cao năng suất và tính ổn định của hệ sinh thái rừng. Những kiến thức liên
quan đến quản lý rừng bền vững được trình bày trong nhiều môn học khác
nhau như Lâm học, trồng rừng, quy hoạch rừng, điều chế rừng,... Tuy nhiên,
trong những năm gần đây, do nhận thức được vai trò quan trọng của rừng với
môi trường và sự phát triển bền vững nói chung, vấn đề quản lý rừng bền vững
nói riêng được mọi người quan tâm nhiều hơn trong đó có cả những chuyên gia
lâm nghiệp, chủ rừng, chính quyền và nhiều tổ chức kinh tế - xã hội khác.
Theo Tổ chức gỗ nhiệt đới quốc tế (ITTO) thì “QLRBV là quá trình quản lý
những diện tích rừng cố định, nhằm đạt được những mục tiêu là đảm bảo sản
xuất liên tục những sản phẩm và dịch vụ của rừng như mong muốn mà không làm
giảm đáng kể những giá trị di truyền và năng suất tương lai của rừng, không gây
ra những tác động tiêu cực của những môi trường vật lý và xã hội” [26].
Theo Tiến trình Helsinki thì QLRBV quản lý rừng và đất rừng một cách
hợp lý để duy trì tính đa dạng sinh học, năng suất, khả năng tái sinh, sức sống
của rừng, đồng thời duy trì tiềm năng thực hiện các chức năng kinh tế, xã hội
và sinh thái của chúng trong hiện tại cũng như trong tương lai, ở cấp địa
phương, cấp quốc gia và toàn cầu, không gây ra những tác hại đối với các hệ
sinh thái khác [26].

Hai khái niệm này đã nêu lên được mục tiêu chung của QLRBV là đạt
được sự ổn định về diện tích , bền vững về tính đa dạng sinh học , về năng suất

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên




4
kinh tế và đảm bảo hiệu quả về môi trường sinh thái của rừng. Tuy nhiên, vấn
đề QLRBV cũng phải đảm bảo tính linh hoạt khi áp dụng các biện pháp quản
lý rừng cho phù hợp với điều kiện cụ thể của từng địa phương được quốc gia
và quốc tế chấp nhận.
Như vậy, QLRBV được hiểu là hoạt động nhằm ngăn chặn được tình
trạng mất rừng, mà trong đó việc khai thác lợi dụng rừng không mâu thuẫn với
việc duy trì diện tích và chất lượng của rừng, đồng thời duy trì và phát huy
được chức năng bảo vệ môi trường sinh thái lâu bền đối với con người và thiên
nhiên. Quản lý rừng bền vững nhằm phát huy đồng thời những giá trị về các
mặt kinh tế, xã hội và môi trường của rừng. Hệ thống những biện pháp kinh tế,
xã hội và khoa học công nghệ phục vụ quản lý rừng bền vững thường được xây
dựng trên cơ sở những kết quả nghiên cứu cụ thể về điều kiện tự nhiên, kinh tế
và xã hội của mỗi địa phương.
Mục tiêu cơ bản của QLRBV là đồng thời đạt được bền vững về kinh tế,
bền vững về xã hội và bền vững về môi trường [26]. Nội dung cơ bản của
những thuật ngữ này như sau:
- Bền vững về kinh tế: Lợi ích mang lại lớn hơn chi phí đầu tư và được
truyền lại từ thế hệ này sang thế hệ khác.
- Bền vững về xã hội: Phản ánh sự liên hệ giữa sự phát triển tài nguyên
rừng và tiêu chuẩn xã hội, không diễn ra ngoài sự chấp thuận của cộng đồng.
- Bền vững về môi trường: Đảm bảo hệ sinh thái ổn định, giữ gìn bảo toàn

sản phẩm của rừng, đáp ứng khả năng phục hồi rừng trên quá trình tự nhiên.
Trên quan điểm kinh tế sinh thái thì hiệu quả về mặt môi trường của
rừng hoàn toàn có thể xác định được bằng giá trị kinh tế. Thực chất việc nâng
cao giá trị về môi trường sinh thái của rừng sẽ góp phần giảm những chi phí
cần thiết để góp phần phục hồi và ổn định môi trường sống. Với ý nghĩa này,
quản lý sử dụng rừng bền vững đã trở thành một nhiệm vụ cấp bách, một giải
pháp quan trọng cho sự tồn tại lâu dài của con người và thiên nhiên.

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên




5
1.2. Trên thế giới
Tài nguyên rừng có vai trò quan trọng trong cuộc sống của hầu hết người
dân vùng núi. Ở đây, rừng mang lại cho họ nhiều loại sản phẩm khác nhau như:
gỗ, củi, lương thực, thực phẩm, dược liệu,... Quan trọng hơn nữa là rừng đảm
bảo những điều kiện sinh thái cần thiết để duy trì các hoạt động sản xuất và đời
sống của người dân. Những cố gắng trong việc quản lý bảo vệ các khu rừng
cấm quốc gia thường gây nên những mâu thuẫn lợi ích giữa cá nhân, cộng
đồng dân cư địa phương với quốc gia. Từ đây, người ta nhận thức được rằng
công tác QLRBV phải hướng đến phục vụ các nhu cầu xã hội. Việc đáp ứng
các nhu cầu đó phải được thực hiện thường xuyên, liên tục và ổn định lâu dài.
Theo tài liệu của FAO, công cụ để QLRBV phải bao gồm các quy trình công
nghệ, cả các chính sách kinh tế xã hội. Nó đảm bảo các hoạt động quản lý rừng
thoả mãn đồng thời những nguyên lý về kinh tế, xã hội và môi trường [32]. Có
thể nói quản lý sử dụng tài nguyên rừng bền vững là phương thức quản lý được
xã hội chấp nhận, có cơ sở về mặt khoa học, có tính khả thi về mặt kỹ thuật và
hiệu quả về mặt kinh tế.

Trong giai đoạn đầu của thế kỷ 20, hệ thống quản lý tài nguyên rừng tập
trung đã thực hiện ở nhiều quốc gia, đặc biệt là ở những quốc gia phát triển
[17]. Trong giai đoạn này, vai trò của cộng đồng trong quản lý rừng ít được
quan tâm. Vì vậy, họ chỉ biết khai thác tài nguyên rừng lấy lâm sản và đất đai
để canh tác nông nghiệp, nhu cầu lâm sản ngày càng tăng đã dẫn đến tình trạng
khai thác quá mức tài nguyên rừng và làm cho tài nguyên rừng ngày càng bị
suy thoái nghiêm trọng.
Nhằm khắc phục tình trạng khai thác rừng quá mức, các nhà khoa học cũng
đã nghiên cứu và đề xuất các giải pháp nâng cao hiệu quả quản lý rừng như: Các
nhà lâm học Đức (G.L.Hartig - 1840; Heyer - 1883; Hundeshagen - 1926) đã đề
xuất nguyên tắc lợi dụng lâu bền đối với rừng thuần loại đều tuổi; Các nhà lâm

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên




6
học Pháp (Gournand - 1922) và Thuỵ Sỹ (H.Biolley - 1922) đã đề ra phương pháp
kiểm tra điều chỉnh sản lượng với rừng khai thác chọn khác tuổi, vv...
Vào cuối thế kỷ 20, khi tài nguyên rừng đã bị suy thoái nghiêm trọng thì
con người mới nhận thức được rằng tài nguyên rừng là có hạn và đang bị suy
giảm nhanh chóng, nhất là tài nguyên rừng nhiệt đới. Nếu theo đà mất rừng
mỗi năm khoảng 15 triệu ha như số liệu thống kê của FAO thì chỉ hơn 100 năm
nữa rừng nhiệt đới hoàn toàn bị biến mất, loài người sẽ chịu những thảm hoạ
khôn lường về kinh tế, xã hội và môi trường [12].
Để ngăn chặn tình trạng mất rừng, bảo vệ và phát triển vốn rừng, bảo tồn
ĐDSH trên phạm vi toàn thế giới, cộng đồng quốc tế đã thành lập nhiều tổ
chức, tiến hành nhiều hội nghị, đề xuất và cam kết nhiều công ước về bảo vệ và
phát triển rừng trong đó có Chiến lược bảo tồn (năm 1980 và điều chỉnh năm

1991), Tổ chức Gỗ nhiệt đới quốc tế (ITTO năm 1983), Chương trình hành
động rừng nhiệt đới (TFAP năm 1985), Hội nghị quốc tế về môi trường và phát
triển (UNCED tại Rio de Janeiro năm 1992), Công ước quốc tế về buôn bán
các loài động thực vật quý hiếm (CITES), Công ước về Đa dạng sinh học
(CBD, 1992), Công ước về thay đổi khí hậu toàn cầu (CGCC, 1994), Công ước
về chống sa mạc hoá (CCD, 1996), Hiệp định quốc tế về gỗ nhiệt đới (ITTA,
1997). Những năm gần đây, nhiều hội nghị, hội thảo quốc tế và quốc gia về
QLRBV đã liên tục được tổ chức [12]. Phân tích khái niệm về quản rừng bền
vững của Tổ chức gỗ quốc tế thì QLRBV là cách thức quản lý vừa đảm bảo
được các mục tiêu sản xuất, vừa đảm bảo giữ được các giá trị kinh tế, môi
trường và xã hội của tài nguyên rừng.
Là tổ chức đầu tiên áp dụng vấn đề quản lý rừng bền vững ở nhiệt đới,
Tổ chức gỗ nhiệt đới quốc tế đã biên soạn một số tài liệu quan trọng như
“Hướng dẫn quản lý rừng tự nhiên nhiệt đới” (ITTO, 1990), “Tiêu chí đánh giá
quản lý bền vững rừng tự nhiên nhiệt đới” (ITTO, 1992), “Hướng dẫn thiết lập
hệ thống quản lý bền vững các khu rừng trồng trong rừng nhiệt đới” (ITTO,

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên




7
1993) và “Hướng dẫn bảo tồn ĐDSH của rừng sản xuất trong vùng nhiệt đới”
(ITTO, 1993 b). Tổ chức ITTO đã xây dựng chiến lược quản lý bền vững rừng
nhiệt đới, buôn bán lâm sản nhiệt đới cho năm 2000.
Hai động lực thúc đẩy sự hình thành hệ thống QLRBV là xuất phát từ các
nước sản xuất các sản phẩm gỗ nhiệt đới mong muốn tái lập một lâm phận sản
xuất ổn định và khách hàng tiêu thụ sản phẩm gỗ nhiệt đới mong muốn điều tiết
việc khai thác rừng để đáp ứng các chức năng sinh thái toàn cầu. Vấn đề đặt ra là

phải xây dựng những tổ chức đánh giá QLRBV. Trên quy mô quốc tế, hội đồng
quản trị rừng đã được thành lập để xét công nhận tư cách của các tổ chức xét và
cấp chứng chỉ rừng. Với sự phát triển của QLRBV, Canada đã đề nghị đặt vấn đề
QLRBV trong hệ thống quản lý môi trường theo tiêu chuẩn ISO 14001 [27].
Hiện nay, trên thế giới đã có bộ tiêu chuẩn quản lý bền vững cấp quốc
gia như: Canada, Thuỵ Điển, Malaysia, Indonesia,vv... và cấp quốc tế của tiến
trình Helsinki, tiến trình Montreal. Hội đồng quản trị rừng (FSC) và tổ chức gỗ
nhiệt đới đã có bộ tiêu chuẩn “Những tiêu chí và chỉ báo quản lý rừng (P&C)”
đã được công nhận và được áp dụng ở nhiều nước trên thế giới và các tổ chức
cấp chứng chỉ rừng đều dùng bộ tiêu chí này để đánh giá tình trạng quản lý
rừng và xét cấp chứng chỉ quản lý rừng bền vững cho các chủ rừng [26].
Tháng 8/1998, các nước trong khu vực Đông Nam Á đã họp hội nghị lần
thứ 18 tại Hà Nội để thoả thuận về đề nghị của Malaysia xây dựng bộ tiêu chí
và chỉ số về QLRBV ở vùng ASEAN (Viết tắt là C&I ASEAN). Thực chất
C&I của ASEAN cũng giống như C&I của ITTO, bao gồm 7 tiêu chí và cũng
chia làm 2 cấp quản lý là cấp quốc gia và cấp đơn vị quản lý [13]. Hiện nay, ở
các nước đang phát triển, khi sản xuất nông lâm nghiệp còn chiếm vị trí quan
trọng đối với người dân nông thôn, miền núi, thì quản lý rừng theo hình thức
phát triển lâm nghiệp xã hội đang là một trong những mô hình được đánh giá
cao trên các phương diện kinh tế, xã hội và môi trường sinh thái.

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên




8
Với mục đích quản lý bền vững, các khu bảo vệ (protected areas) được
thành lập ngày càng nhiều, nhiều quốc gia trên thế giới đã quan tâm đến việc
quản lý bền vững các khu bảo vệ. Nhiều chính sách và giải pháp được đưa ra

để áp dụng quản lý rừng bền vững. Năm 1996, tại Vườn quốc gia Bwindi
Impenetrable và Mgahinga Gorilla thuộc Uganda, Wild và Mutebi đã nghiên
cứu giải pháp quản lý, khai thác bền vững một số lâm sản và quản lý bảo vệ tài
nguyên thiên nhiên giữa Ban quản lý vườn và cộng đồng dân cư.
Trong báo cáo "Hợp tác quản lý với người dân ở Nam Phi - Phạm vi vận
động" của Moenieba Isaacs và Najma Mohamed (2000) đã nghiên cứu và đưa
ra giải pháp quản lý tài nguyên thiên nhiên bền vững tại Vườn quốc gia
Richtersveld chủ yếu dựa trên hương ước (Contractual Agreement) quản lý bảo
vệ tài nguyên, trong đó người dân cam kết bảo vệ ĐDSH trên địa phận của
mình còn chính quyền và Ban quản lý hỗ trợ người dân xây dựng hạ tầng và cải
thiện các điều kiện kinh tế - xã hội khác.
Tại Vườn Quốc gia Kruger của Nam Phi (2000), nhằm bảo vệ tài nguyên
bền vững, Chính phủ đã trao quyền sử dụng đất đai, chia sẽ lợi ích từ du lịch
cho người dân, ngược lại người dân phải tham gia quản lý và bảo vệ tài nguyên
tại Vườn quốc gia.
Theo Shuchenmann (1999), tại Vườn quốc gia Andringitra của
Madagascar, để thực hiện quản lý rừng bền vững, Chính phủ đảm bảo cho
người dân được quyền chăn thả gia súc, khai thác tài nguyên từ rừng phục hồi
để sử dụng tại chỗ, cho phép giữ gìn những tập quán truyền thống khác như có
thể giữ gìn các điểm thờ cúng thần rừng. Ngược lại, người dân phải đảm bảo
tham gia bảo vệ sự ổn định của các hệ sinh thái trong khu vực.
Theo báo cáo của Oli Krishna Prasad (1999), tại Khu bảo tồn Hoàng gia
Chitwan ở Nepal, để quản lý rừng bền vững, cộng đồng dân cư vùng đệm được
tham gia hợp tác với một số bên liên quan trong việc quản lý tài nguyên vùng
đệm phục vụ cho du lịch. Lợi ích của cộng đồng khi tham gia quản lý tài

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên





9
nguyên là khoảng 30 - 50% thu được từ du lịch hằng năm sẽ được đầu tư trở lại
cho các hoạt động phát triển kinh tế - xã hội của cộng đồng[33].
Các mô hình quản lý bền vững các khu bảo vệ được nêu trên đã góp
phần quản lý bền vững tài nguyên thiên nhiên. Chúng đã đưa ra được một số
chính sách như chia sẽ lợi ích, hỗ trợ đầu tư phát triển hạ tầng kinh tế - xã hội
vv... và một số giải pháp như đồng quản lý, quản lý có sự tham gia của người
dân, v.v... Tuy nhiên, các mô hình trên chỉ phù hợp với một số quốc gia và một
số khu bảo vệ có tiềm năng về du lịch, tài nguyên, đất đai phù hợp.
1.3. Ở Việt Nam
Là một nguồn tài nguyên quan trọng, rừng ảnh hưởng trực tiếp đến thu
nhập và đời sống kinh tế nói chung của khoảng một phần ba dân số của cả nước.
Nó không chỉ cung cấp những sản phẩm phục vụ sinh hoạt hằng ngày như gỗ,
củi, lương thực, thực phẩm, dược liệu vv... mà còn cung cấp những sản phẩm
phục vụ nhu cầu công nghiệp, thủ công nghiệp và xuất khẩu. Ngoài ra, do phân
bố ở những vùng sinh thái nhạy cảm như các vùng đầu nguồn rộng lớn, các vùng
ngập mặn, các vùng sình lầy vv... rừng còn là một trong những yếu tố có ảnh
hưởng mạnh mẽ nhất đến môi trường của đất nước. Nó góp phần quan trọng vào
việc chống lại sự biến đổi khí hậu, điều tiết nguồn nước, giảm tần suất và cường
độ phá hoại của các thiên tai như lũ lụt, hạn hán, cháy rừng vv...
Sự thất bại của công tác quản lý rừng và tài nguyên đất đai vùng đầu
nguồn trong những thập kỷ qua đã làm Việt Nam mất đi hàng triệu hecta rừng và
là nguyên nhân chủ yếu gây ra những biến đổi khí hậu, gia tăng tần suất và mức
độ thiệt hại của hạn hán, lũ lụt. Hằng năm nhà nước phải đầu tư hàng nghìn tỉ
đồng để củng cố đê điều và chống lũ. Mất rừng cũng là nguyên nhân chính gây
nên sự xói mòn mạnh và sự hoang hoá diện tích đất đồi núi. Quản lý rừng không
hiệu quả và thiếu quy hoạch cũng làm cho nhiều vùng đất trũng, đất ngập mặn
trù phú bởi các thảm rừng tràm, rừng đước với hàng trăm loài động vật hoang dã


Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên




10
có giá trị cao đã và đang bị thay thế bởi các vùng nuôi tôm, các rừng trồng công
nghiệp với mức độ mặn hoá, phèn hoá ngày càng nghiêm trọng.
Ngoài các nguyên nhân mất rừng do sự gia tăng dân số, thiếu thốn về
lương thực, phá rừng lấy đất canh tác, khai thác lâm sản quá mức, rừng Việt
Nam còn bị ảnh hưởng bởi sự huỷ diệt trầm trọng của 2 cuộc chiến tranh kéo
dài đã làm cho tài nguyên rừng bị giảm sút vì bom đạn, chất độc hoá học tàn
phá nặng nề. Nếu như tỷ lệ che phủ của rừng nước ta năm 1945 là 43% thì đến
năm 1976 chỉ còn 33,8% [16]. Tỷ lệ che phủ thấp nhất là vào năm 1995 với
28,2%. Trong những năm gần đây, sự nỗ lực của nhà nước với những chính
sách đổi mới, những chương trình trọng điểm quốc gia như Dự án 327, 661 đã
làm cho diện tích rừng tăng lên một cách rõ rệt. Đến năm 2000, tỷ lệ che phủ
rừng của cả nước đã nâng lên 33,2% [2] và đến cuối năm 2004 là 36,7% [4].
Trước những biến đổi mạnh mẽ của môi trường và hiểm hoạ sinh thái có
thể xảy ra thì việc quản lý rừng bền vững ngày càng trở nên quan trọng. Phần
lớn các chương trình, dự án quốc tế hỗ trợ ngành lâm nghiệp hiện nay đều hướng
vào QLRBV. Những chương trình phát triển lâm nghiệp lớn của Nhà nước như
chương trình 327, 773, 661, vv... đều xem QLRBV là một trong những mục tiêu
quan trọng. Lâm nghiệp đang trở thành ngành kinh tế phát triển không chỉ nhờ
vào khả năng cung cấp hàng hoá lâm sản mà còn nhờ vào khả năng các hàng hoá
và dịch vụ về môi trường đáp ứng yêu cầu trong nước và quốc tế.
Theo tài liệu trong Chiến lược phát triển ngành lâm nghiệp [2], trước năm
1945 quản lý lâm nghiệp được tổ chức theo hạt. Ranh giới hạt lâm nghiệp
không phụ thuộc nhiều vào ranh giới hành chính tỉnh, huyện mà là đơn vị quản
lý nhà nước trong một lãnh thổ có rừng, có chức năng thừa hành pháp luật.

Trong thời kỳ này, toàn bộ rừng nước ta là rừng tự nhiên đã được chia theo các
chức năng để quản lý, sử dụng như sau:
+ Rừng chưa quản lý: Là những diện tích rừng ở những vùng núi hiểm
trở, dân cư thưa thớt, nhà nước thực dân chưa có khả năng quản lý, người dân

Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên




data error !!! can't not
read....


data error !!! can't not
read....


data error !!! can't not
read....


data error !!! can't not
read....


data error !!! can't not
read....




data error !!! can't not
read....


data error !!! can't not
read....


data error !!! can't not
read....


data error !!! can't not
read....


data error !!! can't not
read....


data error !!! can't not
read....

data error !!! can't not
read....


data error !!! can't not
read....


data error !!! can't not
read....


data error !!! can't not
read....

data error !!! can't not
read....



×