Tải bản đầy đủ (.docx) (96 trang)

LUẬN VĂN THẠC SĨ NÂNG CAO CHẤT LƯỢNG ĐÀO TẠO NGHỀ

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (531.7 KB, 96 trang )

BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƯỜNG ĐẠI HỌC
_______________________

ĐỀ TÀI LUẬN VĂN THẠC SĨ

TÊN ĐỀ TÀI

MỘT SỐ GIẢI PHÁP NÂNG CAO CHẤT LƯỢNG ĐÀO TẠO
NGHỀ TẠI TRƯỜNG CAO ĐẲNG NGHỀ KỸ THUẬT CÔNG
NGHỆ
TP. HỒ CHÍ MINH
CHUYÊN NGÀNH : QUẢN TRỊ KINH DOANH
Mã số : 156A030015

Học viên

: Nguyễn Mẫn

Lớp

: Thạc sỹ quản trị kinh doanh
TP.HCM - Năm 2016


BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƯỜNG ĐẠI HỌC
_______________________

ĐỀ TÀI LUẬN VĂN THẠC SĨ


TÊN ĐỀ TÀI
MỘT SỐ GIẢI PHÁP NÂNG CAO CHẤT LƯỢNG ĐÀO TẠO
NGHỀ TẠI TRƯỜNG CAO ĐẲNG NGHỀ KỸ THUẬT CÔNG
NGHỆ
TP. HỒ CHÍ MINH
CHUYÊN NGÀNH : QUẢN TRỊ KINH DOANH

Học viên

: Nguyễn Mẫn

Lớp

: Thạc sỹ quản trị kinh doanh

TP.HCM - Năm 2016


LỜI CẢM ƠN
Xin được gửi lời cảm ơn chân thành tới Tiến sĩ Lê Đăng Minh, người
đã tận tình hướng dẫn tôi hoàn thành luận văn thạc sĩ trong thời gian qua.
Bên cạnh đó, tôi cũng xin cảm ơn tập thể giảng viên đã giảng dạy và hướng
dẫn tôi trong quá trình học tại Trường Đại học Văn Hiến.
Ngoài ra tôi cũng xin cảm ơn các thầy cô, các bạn đồng nghiệp lớp cao
học quản trị kinh doanh đã hỗ trợ tài liệu tham khảo và động viên, góp ý cho
tôi giúp thực hiện luận văn này. Cảm ơn thầy cô trong Trường Cao đẳng nghề
Kỹ thuật Công nghệ thành phố Hồ Chí Minh đã tạo điều kiện cho tôi thực
hiện luận văn.
Cuối cùng, xin cảm ơn gia đình đã hỗ trợ và khuyến khích tôi hoàn
thành luận văn này.

Trân trọng cảm ơn!


DANH MỤC CÁC TỪ VIẾT TẮT


DANH MỤC CÁC BẢNG BIỂU


PHẦN MỞ ĐẦU


1. Tính cấp thiết của đề tài
Việt Nam là quốc gia luôn có những chủ trương, chính sách đề cao phát triển
giáo dục, Nhà nước coi giáo dục và đào tạo cùng với khoa học và công nghệ là quốc
sách hàng đầu, là nền tảng và động lực thúc đẩy công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất
nước. Chính vì thế việc phát triển giáo dục là một tiền đề quan trọng trong quá trình
phát triển đất nước nói chung. Một trong những tư tưởng quan trọng đối với giáo
dục Việt Nam là đào tạo nguồn nhân lực đáp ứng nhu cầu xã hội, để có nguồn nhân
lực tham gia vào hoạt động chung của xã hội thì công tác hướng nghiệp nổi lên là
một trong những hoạt động có vai trò quan trọng chiến lược.
Trong những năm gần đây với sự quan tâm của Đảng và Nhà nước, công tác
đào tạo nghề đã có những phát triển mạnh và từng bước đi vào ổn định, đáp ứng tốt
hơn nhu cầu nguồn nhân lực cho thị trường lao động cũng như giải quyết vấn đề tạo
việc làm ổn định cho người lao động. Trong Văn kiện đại hội đại biểu Toàn quốc
lần thứ XII của Đảng cũng đã chỉ rõ một số tồn tại khuyết điểm của giáo dục đào
tạo trong đó có hoạt động đào tạo nghề cụ thể như sau 1: “giáo dục và đào tạo chưa
thực sự trở thành quốc sách hàng đầu, thành động lực phát triển. Chất lượng, hiệu
quả giáo dục và đào tạo còn thấp so với yêu cầu, nhất là giáo dục đại học, giáo dục
nghề nghiệp. Hệ thống giáo dục và đào tạo thiếu liên thông giữa các trình độ và

giữa các phương thức giáo dục, đào tạo; còn nặng lý thuyết, nhẹ thực hành. Đào
tạo thiếu gắn kết với nghiên cứu khoa học, sản xuất kinh doanh và nhu cầu của thị
trường lao động; chưa chú trọng đúng mức việc giáo dục đạo đức, lối sống và kỹ
năng làm việc. Phương pháp giáo dục, việc thi, kiểm tra và đánh giá kết quả còn
lạc hậu, thiếu thực chất. Quản lý giáo dục và đào tạo có mặt còn yếu kém. Đội ngũ
nhà giáo và cán bộ quản lý giáo dục chưa đáp ứng yêu cầu. Đầu tư cho giáo dục và
đào tạo chưa hiệu quả. Chính sách, cơ chế tài chính cho giáo dục và đào tạo chưa
phù hợp. Cơ sở vật chất - kỹ thuật còn thiếu và lạc hậu, nhất là ở vùng sâu, vùng
xa, vùng đặc biệt khó khăn”…
Về công tác đào tạo nghề, theo đánh giá chung của các cơ quan chức năng và

1 Ban tuyên giáo Trung ương (2016), Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XII, Nhà xuất bản Chính
trị quốc gia, Hà Nội.


dư luận xã hội, hoạt động này vẫn còn khá nhiều khó khăn và tồn tại như một số
vấn đề cần phải giải quyết như: hướng nghiệp và phân luồng học sinh trong trường
phổ thông, công tác chuẩn hóa đội ngũ giáo viên dạy nghề, quy hoạch hệ thống đào
tạo nghề còn thiếu, hầu như tự phát, cơ cấu ngành nghề mất cân đối, quá trình đào
tạo chưa gắn liền với nhu cầu công việc thực tế của doanh nghiệp, việc liên kết giữa
nhà trường và doanh nghiệp trong quá trình đào tạo chưa được thực hiện tích cực,
chương trình đào tạo nghề của các trường nghề trong hệ thống giáo dục phần lớn
còn nặng tính lý thuyết, chưa quan tâm đúng mức đến rèn luyện kỹ năng thực hành,
kỹ năng nghề nghiệp, năng lực hoạt động sáng tạo và đặc biệt là thiếu tính cập nhật
mới. Phương pháp giảng dạy chủ yếu vẫn là thuyết trình thiếu sự hỗ trợ của công
nghệ thông tin và các công cụ hiện đại khác, chưa khuyến khích được sự chủ động
sáng tạo của người học. Tính chuyên nghiệp trong quản lý nhà trường còn bất cập,
cơ sở vật chất, trang thiết bị đào tạo của các trường nhìn chung còn thiếu thốn và lạc
hậu so với sự phát triển công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước như hiện nay.
Toàn cầu hóa kinh tê đang là xu thế khách quan, tạo cơ hội phát triển nhưng

cũng tiến ẩn nhiều yếu tố bất bình đẳng, khó khăn, thách thức lớn cho quốc gia nhất
là những quốc gia đang phát triển như Việt Nam. Cạnh tranh kinh tế, thương mại
giữa các nước ngày càng gay gắt, điển hình như sự kiện từ 11/01/ 2007 Việt Nam
chính thức trở thành thành viên của WTO, điều này đã có sự tác động rất lớn đến
công tác đào tạo nguồn nhân lực ở các trình độ, trong đó có công tác đào tạo nghề.
Theo đó, nhu cầu về lao động phổ thông sẽ giảm nhưng nhu cầu về nguồn lao động
kỹ thuật có chất lượng cao lại tăng. Bên cạnh đó, Cộng đồng kinh tế ASEAN (AEC)
được thành lập vào cuối năm 2015 là một bước ngoặt đánh dấu sự hòa nhập toàn
diện của các nền kinh tế Đông Nam Á, đây vừa là cơ hội vừa là thách thức lớn đối
với lao động Việt Nam và đặc biệt là công tác đào tạo nghề hiện nay khi lao động
Việt Nam phải đối mặt với sự cạnh tranh với lao động nước ngoài không những ở
thị trường lao động thế giới mà còn ngày ở thị trường lao động trong nước.
Để đáp ứng yêu cầu về con người và nguồn lao động chất lượng cao đã qua
đào tạo cho đất nước trong thời kỳ đổi mới, thời kỳ công nghiệp hóa, hiện đại hóa
thì việc đổi mới cơ bản, toàn diện giáo dục đào tạo, đã và đang đặt ra những yêu cầu


hết sức cấp thiết. Trong đó, việc nâng cao chất lượng đào tạo nghề tại các cơ sở dạy
nghề là một yêu cầu quan trọng trong quá trình thực hiện mục tiêu hội nhập và phát
triển đất nước. Trên cơ sở thực tế đó, người nghiên cứu tiến hành nghiên cứu đề tài:
“Một số giải pháp nâng cao chất lượng đào tạo nghề tại trường Cao đẳng nghề
Kỹ thuật Công nghệ TP.HCM ” làm luận văn thạc sĩ.
2. Đối tượng nghiên cứu
Đối tượng nghiên cứu của đề tài là những giải pháp nâng cao chất lượng đào
tạo nghề tại Trường Cao đẳng nghề Kỹ thuật Công nghệ TP.HCM.
3. Phạm vi nghiên cứu
a. Phạm vi không gian
Đề tài được thực hiện nghiên cứu tại Trường Cao đẳng nghề Kỹ thuật Công
nghệ Thành phố Hồ Chí Minh.
Địa chỉ số 502 Đỗ Xuân Hợp, Phường Phước Bình, Quận 9, Thành phố Hồ

Chí Mınh.
b. Phạm vi thời gian
Đề tài nghiên cứu thực trạng chất lượng đào tạo nghề tại trường Cao đẳng
nghề Kỹ thuật Công nghệ TP.HCM từ năm 2011 đến năm 2015.
c. Phạm vi nội dung
Nghiên cứu thực trạng hoạt động đào tạo nghề ở hai cấp trình độ là cao đẳng
nghề và trung cấp nghề tại Trường Cao đẳng nghề Kỹ thuật Công nghệ TP.HCM
trong thời gian qua và đưa ra các giải pháp nâng cao chất lượng đào tạo nghề ở hai
cấp trình độ này tại trường trong thời gian tới.
4. Mục tiêu nghiên cứu của đề tài
Trên cơ sở nghiên cứu về lý luận và thực tiễn, phân tích thực trạng và đánh giá
chất lượng đào tạo nghề, từ đó đưa ra một số giải pháp nhằm góp phần nâng chất
lượng đào tạo nghề tại trường Cao đẳng nghề Kỹ thuật Công nghệ TP.HCM nói
chung và chất lượng đào tạo một số ngành nghề đang đào tạo tại Trường.


5. Phương pháp nghiên cứu
Luận văn sử dụng các phương pháp nghiên cứu: Phương pháp phân tích, tổng
hợp, so sánh, điều tra mẫu, phỏng vấn chuyên gia , thống kê số liệu.
6. Kết cấu luận văn
Phần mở đầu
Phần nội dung

-

Chương 1: Tổng quan về đề tài

-

Chương 2: Cơ sở lý luận chung về chất lượng đào tạo nghề


-

Chương 3: Một số mô hình giáo dục nghề nghiệp tại các các
nước trên thế giới và khu vực

-

Chương 4: Thực trạng chất lượng đào tạo nghề tại trường Cao
đẳng nghề Kỹ thuật Công nghệ TP.HCM trong thời gian qua

-

Chương 5: Xây dựng một số giải pháp nâng cao chất lượng đào
tạo nghề tại Trường Cao đẳng nghề Kỹ thuật Công nghệ
TP.HCM.
Kết luận và kiến nghị
Danh mục tài liệu tham khảo
Phụ lục


PHẦN NỘI DUNG


CHƯƠNG I:
TỔNG QUAN VỀ VẤN ĐỀ NGHIÊN CỨU

1.1 Tình hình nghiên cứu ngoài nước
Ở các nước trên thế giới, nghiên cứu về đào tạo nghề, chất lượng và
hiệu quả đào tạo nghề được nhiều tổ chức quốc tế, các trường đại học, các

viện nghiên cứu, các tổ chức chính phủ, các tổ chức phi chính phủ quan tâm.
Nhìn chung, các nghiên cứu có thể được thực hiện dưới dạng: Nghiên cứu về
vấn đề đào tạo nghề nói chung và các cơ sở đào tạo nghề nói riêng. Nghiên
cứu chuyên sâu về chất lượng và hiệu quả của việc đào tạo nghề. Nội dung
chủ yếu mà các nghiên cứu đề cập đến là xác định kế hoạch đào tạo, phương
pháp đào tạo, nội dung đào tạo, thực trạng đào tạo…
Tổ chức Giáo dục- Khoa học và Văn hóa của Liên Hợp quốc
(UNESCO) là tổ chức quốc tế lớn nhất dành sự quan tâm, sâu sắc đến giáo
dục, đào tạo, hiệu quả và chất lượng của giáo dục và đào tạo. Các nghiên cứu,
cẩm nang hướng dẫn, chương trình hợp tác, dự án phát triển của UNESCO
khá nhiều, đa dạng về thể loại, phong phú về nội dung. Trên cơ sở nghiên cứu
hệ thống, chất lượng và hiệu quả của giáo dục và đào tạo, năm 2013,
UNESCO xuất bản cuốn “UNESCO Handbook on Education Policy Analysis
and Programming”

2

(Cẩm nang phân tích chính sách và kế hoạch hóa giáo

dục). Cẩm nang này của UNESCO đề xuất một phương pháp hệ thống và cấu
trúc hóa nhằm hỗ trợ việc phân tích các chính sách giáo dục và đào tạo cũng
như kế hoạch hóa lĩnh vực này để tăng cường khả năng tiếp cận, nâng cao
chất lượng và hiệu quả quản lý, giải quyết các vấn đề liên ngành, liên lĩnh vực
2 UNESCO Handbook on Education Policy Analysis and Programming- Published by UNESCO Bangkok,Asia and Pacific Regional Bureau for Education, Bangkok 2013


đối với mọi cấp trình độ cũng như loại hình giáo dục, đào tạo của mỗi quốc
gia. Cẩm nang cung cấp khung lý thuyết cho việc phân tích chính sách, hoạch
định kế hoạch, khuyến khích sự đối thoại chính sách giữa các cơ quan chính
phủ với các đối tác phát triển; từ đó đưa ra các hướng dẫn từng bước phân tích

chính sách và hoạch định chương trình giáo dục và đào tạo.
Hiệp hội Phát triển Giáo dục Vương quốc Anh (Development
Education Association) là một tổ chức nghề nghiệp, hoạt động vì mục tiêu
phát triển hệ thống giáo dục và đào tạo, nâng cao năng lực của các thành viên
hiệp hội, thúc đẩy việc nâng cao chất lượng và hiệu quả của giáo dục và đào
tạo nghề. Năm 2001, Hiệp hội đã nghiên cứu và công bố xuất bản tác phẩm
với tên gọi “Measuring effectiveness in development education”3 (Đo lường
hiệu quả trong giáo dục phát triển). Nghiên cứu này đưa ra các nguyên tắc khi
phân tích, đánh giá một hệ thống giáo dục; các mục tiêu đánh giá, đo lường
hiệu quả; định nghĩa các khái niệm về đánh giá, hiệu quả, tác động lan tỏa,
các chỉ số đo lường hiệu quả; các cấp độ hiệu quả: cấp độ cá nhân người học;
cấp độ cơ sở giáo dục, đào tạo; cấp độ đầu tư của nhà nước; cấp độ hiệu quả
nền trên toàn bộ bình diện nền kinh tế và bình diện xã hội.
Bên cạnh đó, trên thế giới còn có các hướng nghiên cứu kết hợp đánh
giá tới chất lượng của các mô hình, cơ sở đào tạo nghề khác nhưng có thể
nhận thấy đều đề cập đến nội dung cơ bản của việc đào tạo nghề như tầm
quan trọng, kế hoạch, phương pháp đào tạo … và được các tổ chức cá nhân
nghiên cứu dưới các góc độ và khía cạnh khác nhau để phù hợp, gắn liền với
bối cảnh xã hội thực tiễn của mỗi khu vực, quốc gia.
1.2 Tình hình nghiên cứu trong nước
Ở Việt Nam, những năm qua đã có nhiều công trình nghiên cứu về đào
tạo nghề nói chung và nâng cao chất lượng đào tạo nghề nói riêng.
3 Development Education Association (2001), Measuring effectiveness in development education, London.


Nghiên cứu về “Những giải pháp phát triển đào tạo nghề góp phần đáp ứng
nhu cầu nhân lực cho sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa” 4 của tác giả
Phan Chính Thức đã đi sâu nghiên cứu đề xuất những khái niệm, cơ sở lý luận
mới của đào tạo nghề, về lịch sử đào tạo nghề và giải pháp phát triển đào tạo
nghề góp phần đáp ứng nhu cầu nhân lực cho sự nghiệp công nghiệp hóa,

hiện đại hóa ở nước ta.
Tác giả Nguyễn Viết Sự đã có một nghiên cứu công phu về “Giáo dục
nghề nghiệp – những vấn đề và giải pháp” 5. Trong nghiên cứu này, tác giả đã
nhận diện những vấn đề tồn tại phổ biến trong hệ thống giáo dục nghề nghiệp
của Việt Nam, từ chương trình, phương pháp, nội dung, đội ngũ giáo viên,
chất lượng giảng dạy, khả năng thích ứng với môi trường làm việc, tác phong
nghề nghiệp, từ đó đưa ra các giải pháp nhằm nâng cao chất lượng của hệ
thống giáo dục nghề nghiệp.
Nhóm tác giả Đỗ Minh Cương và Mạc Văn Tiến đã có nghiên cứu về
“Phát triển lao động kỹ thuật ở Việt Nam – Lý luận và thực tiễn” 6. Trong
nghiên cứu này, các tác giả đã đề cập đến nhu cầu đào tạo lao động kỹ thuật
của Việt Nam nhằm đáp ứng yêu cầu công nghiệp hóa và hiện đại hóa đất
nước. Những nội dung về đổi mới chương trình giảng dạy, tăng cường đầu tư
thiết bị, công nghệ phù hợp với thiết bị, công nghệ của sản xuất, nâng cao
chất lượng và chuẩn hóa đội ngũ giáo viên; đổi mới phương pháp kiểm tra,
đánh giá; kiểm định chất lượng các trường nghề; đáp ứng nhu cầu nhân lực kỹ
thuật của nền kinh tế cả về số lượng, chất lượng và cơ cấu để đảm bảo hiệu
quả đầu tư cho giáo dục và dạy nghề.
4 Th.s Phan Chính Thức (2003), Luận án Tiến sĩ Kinh tế “ Những giải pháp phát triển đào tạo nghề góp phần
đáp ứng nhu cầu nhân lực cho sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa”, Đại học Sư phạm Hà Nội.
5 Nguyễn Viết Sự (2005), Giáo dục nghề nghiệp – những vấn đề và giải pháp, Nhà xuất bản Giáo dục, Hà
Nội .
6 PGS.TS Đỗ Văn Cương - TS Mạc Văn Tiến (2004), “Phát triển lao động kỹ thuật ở Việt Nam – Lý luận và
thực tiễn”, NXB Lao động- Xã hội, Hà Nội .


Ngoài ra còn có một số công trình nghiên cứu, các bài báo, đề tài
nghiên cứu khác được nêu trong tài liệu tham khảo của luận văn, những
nghiên cứu trên có các cách tiếp cận khác nhau về đào tạo nghề, trong đó có
nâng cao chất lượng về đào tạo nghề ở Việt Nam nói chung và một số địa

phương nói riêng.


CHƯƠNG II
CƠ SỞ LÝ LUẬN CHUNG VỀ CHẤT LƯỢNG
ĐÀO TẠO NGHỀ
2.1 Khái niệm về đào tạo và đào tạo nghề
2.1.1 Khái niệm về đào tạo
Đào tạo là quá trình hoạt động có mục đích, có tổ chức nhằm truyền đạt các
kiến thức, kỹ năng, kỹ xảo trong lý thuyết và thực tiễn, tạo ra năng lực để thực hiện
thành công một hoạt động nghề nghiệp mà xã hội cần thiết. Như vậy, đào tạo là sự
phát triển có hệ thống kiến thức, kỹ năng, kỹ xảo cho mỗi cá nhân để họ thực hiện
một nghề hoặc một nhiệm vụ cụ thể một cách tốt nhất. Đào tạo được thực hiện bởi
các loại hình tổ chức chuyên ngành nhằm thay đổi hành vi và thái độ làm việc của
con người, tạo cho họ khả năng đáp ứng được tiêu chuẩn và hiệu quả của công việc
chuyên môn.
Đào tạo là quá trình biến đổi con người từ đầu vào, với phẩm chất và năng lực
nhất định, đến đầu ra có phẩm chất và năng lực cao hơn nhằm đáp ứng một yêu cầu
cụ thể về sự phân công lao động trong xã hội tại một cơ sở đào tạo nhất định.
Đào tạo là quá trình vận dụng một quy luật khách quan, tác động vào con
người nhằm hình thành nhân cách, tri thức, kỹ năng và ứng xử để họ có thể đảm
nhận sự phân công lao động cụ thể của xã hội .
2.1.2 Khái niệm về nghề nghiệp
Nghề nghiệp được nảy sinh, tồn tại và phát triển cùng với sự tồn tại và phát
triển của xã hội loài người. Khi mới được hình thành, con người sống chủ yếu nhờ
săn bắt và hái lượm, xã hội chưa có sự phân công lao động rõ ràng theo một chuyên
môn nhất định, do đó có thể nói rằng giai đoạn này chưa có sự hình thành nghề
nghiệp rõ rệt.
Để làm sáng tỏ khái niệm về nghề nghiệp, cần thiết phải phân tich, tìm hiểu
những khái niệm liên quan đến nghề nghiệp như: chuyên môn, việc làm.



Chuyên môn: là một lĩnh vực lao động sản xuất hẹp, trong đó con người
bằng sức mạnh thể chất và sức mạnh tinh thần của mình làm ra những giá trị vật
chất (như quần áo, đồ dùng sinh hoạt hàng ngày, lương thực, thực phẩm, công cụ
lao động…) hoặc những giá trị tinh thần (như sách báo, phim ảnh, âm nhạc…) như
là những phương tiện cần cho sự tồn tại và phát triển của xã hội. 7
Theo nhiều nhà khoa học thì chuyên môn là nghề hẹp, nhưng nó hoàn toàn quy định
hình thức của một dạng hoạt động lao động và mang tên gọi đặc trưng cho nghề đó.
Như vậy, chuyên môn là một khái niệm hẹp so với khái niệm nghề, nó phân biệt sự
khác nhau về từng chuyên môn trong nghề.
Việc làm: là công việc được giao theo nghề nghiệp, có thù lao và chế độ đảm
bảo đời sống lâu dài. 8
Luật lao động ban hành ngày 23 tháng 06 năm 1994 quy định: “mọi hoạt
động tạo ra nguồn thu nhập, không bị pháp luật cấm đều được thừa nhận là việc
làm”.
Như vậy, nghề nghiệp được coi là việc làm nhưng không phải việc làm nào
cũng được coi là nghề nghiệp. Những việc làm nhất thời, không ổn định do con
người bỏ sức lao động giản đơn và được trả công thì không được coi là nghề
nghiệp. Ví dụ như những lúc nông nhàn, nông dân ra thành phố để tìm việc làm
thêm, họ làm những công việc như bốc vác, dọn dẹp nhà cửa… để được trả tiền
công để sinh sống thì đó không phải là nghề nghiệp mà là việc làm.
Giữa nghề nghiệp và việc làm có những điểm chung là do con người bỏ ra
sức lao động để tạo ra sản phẩm từ đó tạo ra thu nhập. Dấu hiệu quan trọng nhất để
phân biệt nghề nghiệp và việc làm là đối với nghề nghiệp có sự gắn bó lâu dài với
công việc chuyên môn, và có trình độ, kỹ năng, kỹ xảo nhờ quá trình đào tạo dài
hạn hoặc ngắn hạn. Trong thực tế có nhiều người đã chuyển từ việc làm thành nghề
nghiệp của chính mình do tìm thấy được ý nghĩa của họ đang làm, từ đó không
ngừng rèn luyện để nâng cao trình độ kỹ thuật có liên quan nhằm tăng năng suất lao
động. Còn việc làm nhiều khi chỉ gắn với một phần hoặc một số kỹ năng lao động

7 Phạm Tất Dong. Giúp bạn chọn nghề. Nhà xuất bản Giáo dục. 1989. Trang 3.
8 Như Ý, Nguyễn Văn Khang, Phan Xuân Thành. Từ điển tiếng Việt thông dụng. Nhà xuất bản Giáo dục.
1995.


nào đó, thuộc một hay vài nghề miễn là hoạt động cụ thể người lao động có thể
hoàn thành được nhiệm vụ và đem lại thu nhập cho chính bản thân người lao động.
Theo quan điểm của E.A. Klimov nghề nghiệp là một lĩnh vực sử dụng sức
lao động vật chất và tinh thần của con người một cách có giới hạn cần thiết cho xã
hội (do sự phân công lao động mà có), nó tạo ra khả năng cho con người sử dụng
lao động của mình để thu lấy những phương tiện cần thiết cho sự tồn tại và phát
triển.
Theo Từ điển tiếng Việt, nghề nghiệp là công việc chuyên môn, theo sở
trường hoặc theo sự phân công lao động của xã hội.
Có thể nói rằng nghề nghiệp là một thuật ngữ để chỉ một hình thức lao động
trong xã hội, theo sự phân công lao động mà con người sử dụng sức lao động của
mình để tạo ra những sản phẩm vật chất và tinh thần cho xã hội. Con người thông
qua việc hành nghề để duy trì và phát triển cuộc sống cá nhân, đồng thời góp phần
xây dựng xã hội, đất nước. Và nghề nghiệp là sự tổ hợp những chuyên môn có quan
hệ cùng loại với nhau, trong một nghề có nhiều chuyên môn khác nhau và các
chuyên môn này bổ sung cho nghề đó. Ví dụ như nghề dạy học có nhiều chuyên
môn khác nhau: dạy toán, dạy lý, dạy hóa…
Nghề nghiệp được một người tiếp nhận có thể do được đào tạo chính thức về
nghề đó vì nghề đòi hỏi phải có một trình độ tri thức, kỹ năng nhất định. Tuy nhiên,
trong xã hội cũng có những nghề được hình thành tự phát do tích lũy kinh nghiệm
xã hội hoặc do việc truyền và học nghề theo cách kèm cặp giữa người biết nghề với
người chưa biết.
Nghề được đào tạo có đặc trưng là người làm nghề phải được cung cấp một
lượng tri thức nhất định, được rèn luyện những kỹ năng hành nghề. Kết quả là làm
ra được sản phẩm để có thể trao đổi trên thị trường, và thu nhập của người lao động

là nguồn sống của chính họ. Chính vì thế mà họ trở thành đối tượng hoạt động cơ
bản, lâu dài của lý tưởng nghề nghiệp, từ đó hình thành nhân cách nghề nghiệp.
Nghề được đào tạo đòi hỏi người vào học nghề phải có trình độ học vấn, có
sức khỏe và có tâm lý phù hợp với nghề. Sau quá trình đào tạo, người đó phải đạt


được một mức độ nhất định về kiến thức, kỹ năng và thậm chí có thể là kỹ xảo của
nghề và được cấp bằng hoặc chứng chỉ nghề.
Nghề nghiệp là một phạm trù lịch sử xã hội, nghĩa là nghề nghiệp được phát
sinh và phát triển cùng với sự tiến bộ của xã hội và khoa học kỹ thuật. Trong thực tế
có những nghề ra đời sớm và phát triển lâu dài trở thành nghề truyền thống như
nghề làm gốm, vẽ tranh sơn mài… Tuy nhiên lại có những nghề dần được thay thế
bằng các nghề khác như nghề đánh máy chữ được thay thế bằng nghề đánh máy vi
tính khi có máy vi tính xuất hiện. Đồng thời cũng có những nghề mới ra đời gắn
liền với thành tựu khoa học kỹ thuật mang lại như nghề sửa chữa điện thoại di động,
nghề lập trình viên.
2.1.3 Khái niệm về đào tạo nghề
Đào tạo nghề hay còn gọi là dạy nghề, hiện nay trên thế giới thuật ngữ “dạy
nghề” được hiểu theo nhiều cách khác nhau:
Tổ chức Lao động quốc tế (ILO) định nghĩa: “Dạy nghề là cung cấp cho người
học những kỹ năng cần thiết để thực hiện tất cả các nhiệm vụ liên quan tới công
việc nghề nghiệp được giao”.
Theo giáo trình Kinh tế lao động, của Trường Đại học kinh tế Quốc dân Hà
Nội thì: Dạy nghề là đào tạo nguồn nhân lực, là quá trình trang bị kiến thức nhất
định về chuyên môn nghiệp vụ cho người lao động, để họ có thể đảm nhận được
một số công việc nhất định.
Luật Dạy nghề ban hành ngày 29 tháng 11 năm 2006 định nghĩa: “Dạy nghề

9


là hoạt động dạy và học nhằm trang bị kiến thức, kỹ năng và thái độ nghề nghiệp
cần thiết cho người học nghề để có thể tìm được việc làm hoặc tự tạo việc làm sau
khi hoàn thành khóa học”
Đào tạo nghề là những hoạt động nhằm mục đích nâng cao tay nghề hay kỹ
năng, kỹ xảo của mỗi cá nhân đối với công việc hiện tại và trong tương lai. Đào tạo
nghề bao gồm hai quá trình có quan hệ hữu cơ với nhau đó là dạy nghề và học nghề.
+ Dạy nghề: Là quá trình giảng viên truyền bá những kiến thức về lý thuyết
và thực hành để các học viên có được một trình độ, kỹ năng, kỹ xảo, sự khéo léo,
9 Luật dạy nghề, Quốc Hội khóa XI, kỳ họp thứ 10, số 76/2006/QH Ngày 29/11/2006


thực hành nhất định nghề nghiệp.
+ Học nghề: Là quá trình tiếp thu những kiến thức về lý thuyết và thực hành
của người lao động để đạt được một trình độ nghề nghiệp nhất định.
Đào tạo nghề cho người lao động là giáo dục kỹ thuật sản xuất cho người
người lao động để họ nắm vững về nghề nghiệp và chuyên môn.
Căn cứ vào thời gian đào tạo nghề ta có loại hình đào tạo ngắn hạn và đào tạo
dài hạn.
+ Đào tạo ngắn hạn: loại hình đào tạo nghề có thời gian đào tạo dưới một
năm, chủ yếu áp dụng đối với phổ cập nghề. Loại hình này có ưu điểm là có thể tập
hợp được động đảo lực lượng lao động mọi lứa tuổi, những người không có điều
kiện học tập tập trung vẫn có thể tiếp thu được tri thức ngay tại chỗ, với sự hỗ trợ
đắc lực của các cơ quan đoàn thể địa phương, Nhà nước về mặt giáo trình, giảng
viên.
+ Đào tạo nghề dài hạn: loại hình đào tạo nghề có thời gian đào tạo từ một
năm trở lên, chủ yếu áp dụng đối với đào tạo công nhân kỹ thuật và công nhân
nghiệp vụ. Đào tạo nghề dài hạn thường có chất lượng cao hơn các lớp đào tạo ngắn
hạn.
Căn cứ vào nghề đào tạo đối với người học bao gồm đào tạo nghề mới, đào
tạo lại nghề và đào tạo bồi dưỡng nâng cao tay nghề.

+ Đào tạo nghề mới: Là đào tạo những người chưa có nghề, gồm những
người đến tuổi lao động chưa được học nghề, hoặc những người trong độ tuổi lao
động nhưng trước đó chưa được học nghề. Đào tạo mới nhằm đáp ứng tăng thêm
lao động đào tạo nghề cho xã hội.
+ Đào tạo lại nghề: Là đào tạo đối những người đã có nghề, có chuyên môn
nhưng do yêu cầu của sản xuất và tiến bộ kỹ thuật dẫn đến việc thay đổi cơ cấu
ngành nghề, trình độ chuyên môn. Một số công nhân được đào tạo lại cho phù hợp
với cơ cấu ngành nghề và trình độ kỹ thuật mới. Đào tạo lại thường được hiểu là
quá trình nhằm tạo cho người lao động có cơ hội để học tập một lĩnh vực chuyên
môn để thay đổi nghề.
+ Bồi dưỡng nâng cao tay nghề: Bồi dưỡng có thể coi là quá trình cập nhật


hóa kiến thức còn thiếu, đã lạc hậu, bổ túc nghề, đào tạo thêm hoặc củng cố thêm
một số kỹ năng nghề nghiệp theo từng chuyên môn và thường được xác nhận bằng
một chứng chỉ hay nâng lên bậc cao hơn.
Như vậy, nội dung của đào tạo nghề bao gồm: Trang bị các kiến thức lý thuyết
cho học viên một cách có hệ thống và rèn luyện các kỹ năng thực hành, tác phong
làm việc cho học viên trong phạm vi ngành nghề theo học nhằm giúp cho họ có thể
làm được một nghề nhất định.
Đào tạo nghề bao gồm: Đào tạo công nhân kỹ thuật (công nhân cơ khí, điện
tử, xây dựng, sửa chữa…), đào tạo nhân viên nghiệp vụ (nhân viên đánh máy, nhân
viên văn phòng, nhân viên lễ tân, nhân viên bán hàng, nhân viên tiếp thị, nhân viên
kế toán…) và phổ cập cho người lao động (chủ yếu là lao động nông nghiệp).
Việc xác định rõ ranh giới giữa đào tạo, bồi dưỡng và đào tạo lại nghề hiện
nay là một việc khá phức tạp và khó khăn.
Đào tạo nghề là một bộ phận quan trọng của hệ thống giáo dục quốc dân. Luật
giáo dục quy định hệ thống giáo dục quốc dân bao gồm: Giáo dục mầm non, giáo
dục phổ thông, giáo dục nghề nghiệp, giáo dục đại học và sau đại học. Hệ thống đào
tạo nghề trong hệ thống giáo dục quốc dân được thực hiện ở các cấp khác nhau, ở

lứa tuổi khác nhau và được phân luồng để đào tạo nghề phù hợp với trình độ văn
hóa, khả năng phát triển của con người và lứa tuổi. Hệ thống khung giáo dục quốc
dân cho thấy sự liên thông giữa các cấp học, các điều kiện cần thiết để học nghề
hoặc các cấp học tiếp theo. Nó là cơ sở quản lý giáo dục, nâng cao hiệu quả của đào
tạo, tránh lãng phí trong đào tạo (cả người học và xã hội), tránh trùng lặp nội dung
chương trình, đồng thời là cơ sở đánh giá trình độ người học và cấp văn bằng,
chứng chỉ tốt nghiệp.
Như vậy, ta có thể thấy rằng, đào tạo nghề hay còn gọi là dạy nghề là một hoạt
động rất quan trọng và luôn cần thiết với bất kỳ một quốc gia nào, để tạo ra những
con người, những đội ngũ lao động lành nghề nhất đáp ứng nhu cầu phát triển theo
hướng công nghiệp hóa, hiện đại hóa. Dạy nghề không chỉ đào tạo về tay nghề, kỹ
năng nghề nghiệp mà trong quá trình dạy nghề người học còn được trang bị kiến thức
và rèn luyện một thái độ nghề nghiệp một cách chuyên nghiệp nhất.


2.2 Đặc điểm, vai trò và yêu cầu của đào tạo nghề
2.2.1 Đặc điểm của đào tạo nghề
Hiện nay các trường đào tạo nghề ở nước ta đa số là do Nhà nước quản lý, chỉ
có ít các trường dân lập, ở đây ta chỉ đề cập các trường dạy nghề công lập. Đặc
điểm chung của các trường này hiện nay là:
- Thời lượng thực hành chiếm khoảng 70%, còn lại 30% là thời lượng lý
thuyết.
- Đào tạo nhiều nghề khác nhau từ khối nghề kinh tế cho đến các khối nghề kỹ
thuật, dịch vụ và sức khỏe..., số lượng học sinh giữa các nghề không đồng đều, đối
tượng tham gia học tập cũng rất đa dạng
- Mỗi giáo viên tại các trường đào tạo nghề có thể dạy nhiều môn khác nhau.
- Cơ sở vật chất hầu như lạc hậu, trang thiết bị và công nghệ phục vụ cho công
tác đào tạo nghề không theo kịp thực tế sản xuất và sự phát triển của công nghệ.
- Trình độ cũng như kỹ năng giáo viên dạy thực hành còn chưa cao.
- Trình độ đầu vào của học sinh nói riêng cũng như trình độ đầu vào của người

học còn thấp.
2.2.2 Vai trò và yêu cầu của đào tạo nghề
- Thứ nhất, về mặt lý thuyết: các lý thuyết tăng trưởng gần đây chỉ ra rằng,
một nền kinh tế muốn tăng trưởng nhanh và bền vững phải dựa trên ít nhất ba trụ
cột cơ bản: Một là áp dụng công nghệ mới, hai là phát triển hạ tầng cơ sở hiện đại,
ba là nâng cao chất lượng nguồn nhân lực (NNL). Trong bối cảnh các nguồn lực tự
nhiên và nguồn lực khác là hạn hữu và ngày càng có nguy cơ cạn kiệt, thì NNL có
chất lượng chính là vũ khí mạnh mẽ nhất để giành thắng lợi trong cạnh tranh giữa
các ngành kinh tế.
Nguồn nhân lực chất lượng cao là những con người cần phải được đầu tư phát
triển, có kỹ năng, có kiến thức, có tay nghề giỏi, có kinh nghiệm và năng lực sáng
tạo (nói cách khác đó chính năng lực thực hiện của NNL). Năng lực thực hiện này
chỉ có thể có được thông qua quá trình đào tạo nghề và tích lũy kinh nghiệm trong
quá trình làm việc. Tuy nhiên, ngay cả việc tích lũy kinh nghiệm này cũng dựa trên
nền tảng là đào tạo nghề nghiệp cơ bản. Như vậy, có thể thấy, vai trò quyết định của


đào tạo nghề nghiệp đối với việc hình thành và phát triển năng lực thực hiện của
con người. Trên cơ sở năng lực này, NNL ngành nghề có khả năng thích ứng được
với những thay đổi của công nghệ và nền kinh tế (cả tích cực và tiêu cực), điều này
góp phần nâng cao năng suất lao động, tăng trưởng kinh tế bền vững, từ đó tạo ra
nền tảng vật chất cơ bản để thực hiện các chính sách an sinh xã hội (ASXH).
- Thứ hai, vai trò của đào tạo nghề nghiệp đối với đảm bảo an sinh xã hội
(ASXH) xuất phát từ khía cạnh lợi ích cá nhân của con người (NNL ngành nghề
trọng điểm). Lý thuyết về vốn nhân lực hiện đại cho rằng: “Tất cả các hành vi của
con người đều xuất phát từ những nhu cầu lợi ích kinh tế cho chính các cá nhân
hoạt động tự do trong thị trường mang tính cạnh tranh”. Nội dung chính của lý
thuyết này cho rằng, các cá nhân đầu tư vào đào tạo nghề nhằm tích lũy những kiến
thức và kỹ năng nghề nghiệp, những cái có thể mang lại lợi ích lâu dài và đó là nhân
tố cơ bản cho sự phát triển. Như vậy, đầu tư cho đào tạo nghề chính là sự đầu tư cho

từng cá nhân, dưới góc độ xã hội tạo ra chất lượng NNL với các “tầng” khác nhau
(trình độ, trình độ phổ quát, đại trà) và do đó, mang lại không chỉ lợi ích kinh tế
quốc dân mà còn thực hiện đảm bảo ASXH quốc gia. Nhà kinh tế học Becker đã
đưa ra bằng chứng về mối tương quan giữa trình độ nghề nghiệp và thu nhập như
sau: Người có học vấn và kỹ năng nghề càng cao thì thu nhập của họ càng cao và
người có học vấn, kỹ năng nghề thấp thì khó có thể có được thu nhập cao. Thực ra,
vấn đề này đã được Lê Nin từng đề cập. Ông đã chứng minh rằng, có mối quan hệ
tỷ lệ thuận giữa trình độ chuyên môn kỹ thuật và năng suất lao động của NNL
ngành nghề trọng điểm. Những người có chuyên môn kỹ thuật càng cao (trình độ
đào tạo nghề nghiệp), có kỹ năng nghề cao, thì năng suất lao động càng cao và do
đó thu nhập càng cao, những người lao động không qua đào tạo (còn gọi là lao động
phổ thông) thì năng suất lao động thấp và do đó thu nhập không cao. Ở đây có thể
thấy, đào tạo nghề nghiệp trang bị cho mỗi cá nhân ở một trình độ và kỹ năng nhất
định, qua đó mang lại cho họ việc làm và thu nhập. Người có chuyên môn kỹ thuật
cao, có kỹ năng nghề tốt thì cơ hội tìm được việc làm tốt hơn và ít có nguy cơ thất
nghiệp. Theo khảo sát của Viện Nghiên cứu Khoa học Dạy nghề cũng cho thấy, tỷ lệ
thất nghiệp của những người qua đào tạo nghề thấp hơn nhiều so với lao động phổ


thông, thậm chí còn thấp hơn cả tỷ lệ thất nghiệp của những người tốt nghiệp đại
học. Đây chính là động lực để NNL ngành nghề trọng điểm đầu tư vào đào tạo
nghề.
- Thứ ba, giáo dục - đào tạo nghề tạo ra sự “cạnh tranh” xã hội. Trong bối
cảnh cạnh tranh gay gắt trên thị trường lao động, những người có học vấn thấp,
những người có kỹ năng, tay nghề thấp hoặc không có nghề khó có thể cạnh tranh
được so với những người có trình độ, có kỹ năng tay nghề cao. Khi đó họ sẽ trở
thành nhóm người “yếu thế” trong thị trường lao động. Họ phải làm những việc thu
nhập thấp, thậm chí không kiếm được việc làm, trở thành người thất nghiệp dài hạn.
Mặc dù ở nhiều nước, nhất là những nước phát triển, có hệ thống bảo hiểm thất
nghiệp hoặc các loại trợ cấp xã hội để hỗ trợ nhóm người này. Nhưng dù sao, những

trợ cấp đó chỉ mang tính tức thời, giúp họ cầm cự được trong cuộc sống thường
nhật, tạo cơ hội cho họ quay trở lại thị trường lao động. Nhưng nếu những người
này không tự tạo cho họ năng lực, nâng cao “vốn nhân lực” của mình thì sớm hay
muộn, họ cũng lại bị bật ra khỏi thị trường lao động. Muốn thoát khỏi vòng lẩn
quẩn này, buộc những người này, bằng cách này hay cách khác phải nâng cao “vốn
nhân lực” của mình và hiệu quả nhất là đầu tư vào đào tạo nghề. Như vậy, đào tạo
nghề vô hình dung đã trở thành một nhân tố làm giảm số lượng những người “yếu
thế” trên thị trường lao động, và như như vậy xét trên khía cạnh quốc gia, ASXH
được đảm bảo hơn, mà Nhà nước đỡ phải chi phí nhiều hơn cho các loại trợ cấp xã
hội do đói nghèo, do không có việc làm…
- Thứ tư, vai trò của đào tạo nghề tác động trực tiếp tới đảm bảo ASXH, nhất
là đối với nhóm lao động nông thôn và lao động nghèo. Thông qua việc trang bị các
kiến thức, kỹ năng tối thiểu về nghề nghiệp từ các khóa đào tạo ngắn hạn, người lao
động từ nông thôn, nông dân đã có khả năng nâng cao năng suất lao động, tăng thu
nhập, thoát được nghèo một cách bền vững. Qua thực tiễn gần 2 năm thực hiện Đề
án đào tạo nghề cho người lao động nông thôn của Chính phủ (đề án 1956) ở nhiều
địa phương, sau khi nông dân được học nghề, năng suất vật nuôi, cây trồng được
nâng lên từ 1,5 đến 2 lần, chất lượng và phẩm chất hàng hóa cũng được nâng lên.
Điều quan trọng nữa, thông qua các khóa đào tạo, người nông dân nhất là những


chủ trang trại, chủ hộ, được trang bị những kiến thức về khởi sự doanh nghiệp, nên
sau các khóa đào tạo đó họ đã mạnh dạn tổ chức sản xuất theo hướng sản xuất hàng
hóa, thu hút lao động tại địa phương vào làm việc, góp phần tạo công ăn việc làm
cho người dân địa phương, đồng thời làm giàu cho bản thân họ và địa phương nói
riêng cững như quốc gia nói chung. Đây chính là sự tác động rõ nhất, trực tiếp nhất
của đào tạo nghề đối với ASXH ở nông thôn nước ta.
- Thứ năm, theo kinh nghiệm quốc tế cho thấy, ở các nước đã trãi qua quá
trình công nghiệp hóa, nhu cầu của nền kinh tế công nghiệp đòi hỏi phải phát triển
đội ngũ lao động có kiến thức, có kỹ năng nghề nghiệp cao, có khả năng làm chủ

được các phương tiện, máy móc, làm chủ được công nghệ. Quá trình công nghiệp
hóa dài hay ngắn, ngoài các yếu tố về cơ chế, chính sách và thể chế, phụ thuộc vào
năng lực của đội ngũ lao động kỹ thuật này. Đây có thể nói là nhu cầu khách quan
của nền kinh tế, đòi hỏi Chính phủ các nước phải đầu tư cho đào tạo nghề. Trong
từng giai đoạn phát triển nền kinh tế, đòi hỏi phải có quy mô và cơ cấu giáo dục –
đào tạo nghề và qua đó đòi hỏi quy mô về nguồn nhân lực kỹ thuật cũng khác nhau.
Nếu như ở thời kỳ phát triển thấp, cơ cấu giáo dục – đào tạo theo trật tự ưu tiên sẽ là
giáo dục phổ thông – giáo dục nghề nghiệp và giáo dục đại học (và cơ cấu nhân lực
sẽ là lao động phổ thông – NNL ngành nghề bậc thấp và bậc trung – lao động kỹ
thuật bậc cao và lao động quản lý), thì ở thời kỳ nền kinh tế phát triển cao và lao
động (nhất là trong nền kinh tế tri thức), cơ cấu trên sẽ là giáo dục đại học – giáo
dục nghề nghiệp và giáo dục phổ thông (và cơ cấu nhân lực sẽ là lao động kỹ thuật
bậc cao và lao động quản lý – NNL ngành nghề bậc trung và bậc thấp – lao động
phổ thông). Ngược lại, đào tạo nghề lại là động lực thúc đẩy sự nghiệp CNH-HĐH
đất nước. Nếu hệ thống đào tạo yếu kém, chất lượng thấp thì nguy cơ tạo ra nguồn
nhân lực chất lượng thấp và sẽ kìm hãm sự phát triển kinh tế, làm tăng nguy cơ tụt
hậu của đất nước trong bối cảnh toàn cầu hóa và hội nhập kinh tế thế giới. Chính
điều này cho thấy vai trò chiến lược đào tạo nghề đối với sự phát triển của đất nước,
nhìn từ khía cạnh kinh tế và khía cạnh ASXH.
- Thứ sáu, trong sự phát triển kinh tế xã hội từng địa phương, quá trình thu
hút và nâng cao năng lực cạnh tranh của các doanh nghiệp trên địa phương cần rất


×