Tải bản đầy đủ (.docx) (36 trang)

Nguyên tắc bảo vệ người lao động

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (245.17 KB, 36 trang )

MỞ ĐẦU
Lao động là hoạt động quan trọng nhất của con người, nó tạo ra của cải vật
A.

chất và các giá trị tinh thần của xã hội. Lao động có năng suất, chất lượng và
hiệu quả cao là nhân tố quyết định sự phát triển của đất nước, xã hội, gia đình
và bản thân mỗi người lao động. Bất cứ một chế độ xã hội nào, lao động của
con người cũng là một trong những yếu tố quyết định nhất, năng động nhất
trong sản xuất. Chủ tịch Hồ Chí Minh đã nói: "Xã hội có cơm ăn, áo mặc, nhà ở
là nhờ người lao động. Xây dựng giàu có, tự do dân chủ cũng là nhờ người lao
động. Tri thức mở mang, cũng nhờ lao động, lao động chính của sự tiến bộ xã
hội loài người". Chính vì thế, bảo vệ người lao động có ý nghĩa vô cùng quan
trọng, đặc biệt trong nền kinh tế thị trường khi Việt Nam tham gia vào WTO,
TPP, FTA… Nó đòi hỏi phải có một đội ngũ lao động có trình độ chuyên môn
và tay nghề cao. Trên thực tế, khi tham gia vào quan hệ lao động, người lao
động phải đối mặt với nhiều nguy cơ, thách thức, đó có thể từ phía thị trường
lao động bởi tương quan cung – cầu lao động trên thị trường thường theo hướng
bất lợi cho người lao động hoặc từ phía chủ quan của người lao động như nhận
thức pháp luật, trình độ chuyên môn, nghiệp vụ.
Vì vậy, họ cần được bảo vệ để hạn chế những bất lợi, những sức ép do điều
kiện khách quan và đảm bảo cho họ về tính mạng, sức khỏe. Cũng chính vì lý
do đó, nhóm chúng tôi quyết chọn đề tài “Nguyên tắc bảo vệ người lao động”
để từ đó mang đến một cái nhìn rõ nhất về lợi ích cho người lao động qua đó
thấy được vai trò, vị trí cũng như thực tiễn bảo vệ người lao động hiện nay.

NỘI DUNG
CHƯƠNG 1. KHÁI QUÁT CHUNG VỀ LUẬT LAO ĐỘNG
Khái niệm Luật Lao động
B.

1.1



1


Dưới góc độ là ngành luật lao động thì luật lao động được hiểu là một
ngành luật độc lập trong hệ thống pháp luật Việt Nam, do nhà nước ban hành,
đảm bảo thực hiện. Điều chỉnh các quanh hệ lao động và các quan hệ pháp luật
liên quan trực tiếp đến quan hệ lao động.
Dưới góc độ là môn học Luật Lao Động: Môn học luật lao động là một bộ
phận cấu thành của khoa học pháp lý, sử dụng những tri thức của khoa học luật
lao động để xây dựng nên môn học, tài liệu, đề cương, giáo trình môn học luật
lao động. Nếu khoa học luật lao động sử dụng những tri thức phong phú đa
dạng thì môn học luật lao động phải cung cấp các kiến thức có hệ thống về
ngành LLĐ ở những mức độ khác nhau phù hợp với từng đối tượng nghiên cứu
và cơ sở đào tạo.
Dưới góc độ là khoa học Luật Lao Động: Là một ngành khoa học pháp lý
trong hệ thống các ngành khoa học pháp lý, cũng giống như các ngành khoa học
khác LLĐ cũng có quá trình hình thành, phát triển, có hệ thống các khái niệm,
phạm trù, học thuyết, quy luật, nguyên lý riêng. Có các đối tượng nghiên cứu
riêng. Những tiêu chí này giúp cho khoa học luật lao động trở thành một ngành
khoa học độc lập trong hệ thống khoa học pháp lý Việt Nam.
1.2 Các nguyên tắc cơ bản của Luật lao động
1.2.1 Khái niệm
Nguyên tắc cơ bản của Luật lao động là những nguyên lý, tư tưởng chỉ đạo
quán triệt và xuyên suốt toàn bộ hệ thống các quy phạm pháp luật lao động
trong việc điều chỉnh các quan hệ xã hội về sử dụng lao động. Nội dung các
nguyên tắc cơ bản của Luật lao động thể hiện quan điểm, đường lối, chính sách
của Đảng, Nhà nước ta về lĩnh vực lao động.
1.2.2 Các nguyên tắc cơ bản của Luật Lao động
Các nguyên tắc cơ bản của Luật lao động được xây dựng từ quan điểm, tư

tưởng chỉ đạo của Đảng và Nhà nước về lĩnh vực lao động sử dụng lao động,
đảm bảo quyền và nghĩa vụ của các bên, tiêu chuẩn lao động của các bên tại các
2


cuộc họp như Đại hội, hội nghị, hội thảo, xây dựng các chế độ chính sách, phát
triển kinh tế - xã hội…
Các quy định trong hệ thống văn bản quy phạm pháp luật của quốc gia như
văn bản Luật: Hiến pháp, Bộ luật dân sự, Bộ luật lao động…; các văn bản dưới
luật: Nghị định, Nghị quyết, Thông tư, nội quy lao động, thỏa ước lao động tập
thể…cũng đã trở thành định hướng xác định nội dung của Luật lao động
Cùng với các định hướng trên, sự tác động của tổ chức lao động quốc tế và
hệ thống văn bản pháp luật của các nước; yêu cầu khách quan của nền kinh tế
thị trưởng; xu hướng hội nhập, khu vực hóa, toàn cầu hóa về thương mại, kinh
tế, quân sự, chính trị trong đó có cả vấn đề lao động, giải quyết việc làm, hạn
chế thất nghiệp cũng tác động không nhỏ tới nội dung pháp luật lao động nhất là
khi Việt Nam tham gia vào các Tổ chức thương mại thế giới (WTO), Hiệp định
thương mại tự do (FTA), Hiệp định Hợp tác kinh tế chiến lược xuyên Thái Bình
Dương (TPP)…
Trên những cơ sở đó, hiện nay Luật lao động bao gồm những nguyên tắc
cơ bản sau: nguyên tắc tự do lao động và tự do thuê mướn lao động, nguyên tắc
bảo vệ người lao động, nguyên tắc bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của người
sử dụng lao động, nguyên tắc kết hợp chính sách kinh tế và chính sách xã hội.
Quan hệ lao động vừa có tính kinh tế, vừa có tính xã hội. Khi điều tiết
quan hệ lao động, Nhà nước phải chú ý đến các bên trong quan hệ này, nhất là
người lao động, về tất cả các phương diện như: lợi ích vật chất, tinh thần, nhu
cầu xã hội… và đặt những vấn đề đó trong mối tương quan phù hợp với điều
kiện kinh tế - xã hội của đất nước. Trong nền kinh tế thị trường, thị trường sức
lao động là bộ phận tất yếu. Nó chỉ có thể hình thành khi các bên tham gia có
quyền tự do gia nhập hoặc rời khỏi thị trường, người lao động có quyền làm

việc cho bất cứ người sử dụng lao động nào, bất kỳ nơi nào mà pháp luật không
cấm, người sử dụng lao động thì được đảm bảo các quyền tự do cần thiết và
được Nhà nước giúp đỡ, tạo điều kiện. Để làm việc trong một môi trường như
vậy các chủ thể cần được đảm bảo quyền lợi chính đáng của mình.
3


Nếu như người lao động có quyền tự do lựa chọn việc làm, được hưởng
các quyền lợi trong lao động, thì người sử dụng lao động trong bất kỳ thành
phần kinh tế nào cũng có quyền tuyển chọn lao động, quyền tăng hoặc giảm lao
động phù hợp nhu cầu sản xuất, kinh doanh, quyền ban hành nội quy và các quy
chế lao động, có quyền khen thưởng, kỷ luật, chấm dứt hợp đồng lao động...
theo quy định của pháp luật.
Trong tất cả những nguyên tắc ấy, có thể nói, nguyên tắc bảo vệ người
lao động là nguyên tắc quan trọng nhất, bởi vì, thị trường lao động không thể
thiếu được vai trò của người lao động, có người lao động mới có thể tạo ra sức
lao động, tạo ra của cải vật chất xã hội, góp phần phát triển kinh tế, xã hội của
đất nước.
CHƯƠNG 2. NGUYÊN TẮC BẢO VỆ NGƯỜI LAO ĐỘNG
2.1 Cơ sở của nguyên tắc bảo vệ người lao động
Bảo vệ người lao động trong quan hệ lao động là ngăn chặn mọi sự xâm
hại có thể xảy ra đối với họ khi tham gia quan hệ lao động. Việc xác định
nguyên tắc này trước hết trên cơ sở đường lối, chính sách của Đảng coi mục tiêu
và động lực chính của sự phát triển là “vì con người, phát huy nhân tố con
người, trước hết là người lao động”.
Về phương diện lý luận, cũng đã có căn cứ để khẳng định rằng người lao
động bao giờ cũng bị phụ thuộc vào người sử dụng lao động, đặc biệt là sự phụ
thuộc về mặt pháp lý được thể hiện thông qua sự thừa nhận của pháp luật về
quản lý, điều hành của người sử dụng lao động và nghĩa vụ thực hiện của người
lao động.

Về thực tiễn, khi tham gia vào quan hệ lao động, người lao động phải đối
mặt với nhiều nguy cơ, thách thức. Vì vậy, họ cần được bảo vệ để hạn chế
những bất lợi, những sức ép do điều kiện khách quan và đảm bảo cho họ về tính
mạng, sức khỏe.
2.2 Nội dung nguyên tắc bảo vệ người lao động
Nội dung của nguyên tắc bảo vệ người lao động rất rộng, liên quan đến
nhiều vấn đề. Bởi vì, bảo vệ người lao động không chỉ bảo vệ sức lao động với
4


tư cách là hàng hóa mà còn là bảo vệ những giá trị nhân văn gắn liền với con
người. Nói cách khác, bảo vệ người lao động không chỉ bao gồm bảo vệ quyền
và lợi ích chính đáng của người lao động, bảo vệ sức lao động mà còn phải bảo
vệ họ trên nhiều phương diện như: tính mạng, sức khỏe, danh dự, nhân phẩm,…
Do vậy, nguyên tắc bảo vệ người lao động bao gồm những nội dung chủ
yếu sau:
2.2.1 Đảm bảo về việc làm cho người lao động
Trong xã hội ngày nay, việc làm luôn là mối quan tâm đầu tiên và trong
suốt cuộc đời của người lao động. Vì vậy, bảo vệ người lao động trước hết là
bảo vệ việc làm cho họ. Thực chất của vấn đề này là pháp luật bảo vệ người lao
động để họ được ổn định làm việc, không bị thay đổi hoặc người sử dụng lao
động muốn tạm thời điều động, chuyển làm việc khác, tạm đình chỉ công việc…
đều phải tuân thủ những điều kiện luật định. Bên cạnh đó, bảo vệ việc làm lâu
dài, đúng thời hạn thỏa thuận cho người lao động cũng là nội dung cần thiết của
nguyên tắc này.
Bảo vệ việc làm cho người lao động là bảo vệ các quyền có việc làm và tự
do lựa chọn công việc của người lao động.
Điểm a, Khoản 5 BLLĐ 2012 và Khoản 1 Điều 5 của BLLĐ 1994 quy
định: “Người lao động có quyền làm việc, tự do lựa chọn việc làm, nghề nghiệp,
học nghề, nâng cao trình độ nghề nghiệp và không bị phân biệt đối xử được

Người lao động được quyền làm việc cho bất kỳ người sử dụng lao động và ở
bất kỳ nơi nào mà pháp luật không cấm
Điều 10 BLLĐ 2012 hoặc Khoản 1 Điều 16 BLLĐ 1994 quy định người
lao động có quyền trực tiếp liên hệ với người sử dụng lao động hoặc thông qua
tổ chức dịch vụ việc làm để tìm việc làm theo nguyện vọng khả năng, trình độ
nghề nghiệp và sức khỏe của mình. Tuy nhiên tại dự thảo luật sửa đổi, bổ sung
một số điều của bộ luật lao động 2012 (sau đây gọi là dự thảo Luật) có quy định
thêm một điều khoản, đó là “Người lao động tìm việc làm thông qua tổ chức
dịch vụ việc làm sẽ không phải trả phí dịch vụ cho tới khi có việc làm hoặc khi
bắt đầu làm việc cho người sử dụng lao động”, đây có thể xem là một điều kiện
thuận lợi đối với người lao động.
5


Công ước của liên hiệp quốc về các quyền kinh tế xã hội và văn hóa năm
1966/1982 quy định:
Điều 6
“1. Các quốc gia thành viên Công ước này thừa nhận quyền làm việc,
trong đó bao gồm quyền của tất cả mọi người có cơ hội kiếm sống bằng công
việc do họ tự do lựa chọn hoặc chấp nhận, và các quốc gia phải thi hành các
biện pháp thích hợp để đảm bảo quyền này.
2. Các quốc gia thành viên Công ước phải tiến hành các biện pháp để thực
hiện đầy đủ quyền này, bao gồm triển khai các chương trình đào tạo kỹ thuật và
hướng nghiệp, các chính sách và biện pháp kỹ thuật nhằm đạt tới sự phát triển
vững chắc về kinh tế, xã hội và văn hoá, tạo công ăn việc làm đầy đủ và hữu ích
với điều kiện đảm bảo các quyền tự do cơ bản về chính trị và kinh tế của từng
cá nhân.”
Điều 7
“Các quốc gia thành viên Công ước thừa nhận quyền của mọi người được
hưởng những điều kiện làm việc công bằng và thuận lợi, đặc biệt đảm bảo:

a. Thù lao cho tất cả mọi người làm công tối thiểu phải đảm bảo:
(i) Tiền lương thoả đáng và tiền công bằng nhau cho những công việc có
giá trị như nhau, không có sự phân biệt đối xử nào; đặc biệt, phụ nữ phải được
đảm bảo những điều kiện làm việc không kém hơn đàn ông, được trả công
ngang nhau đối với những công việc giống nhau;
(ii) Một cuộc sống tương đối đầy đủ cho họ và gia đình họ phù hợp với các
quy định của Công ước này.
b) Những điều kiện làm việc an toàn và lành mạnh,
6


c) Cơ hội ngang nhau cho mọi người trong việc được đề bạt lên chức vụ
thích hợp cao hơn, chỉ cần xét tới thâm niên và năng lực làm việc;
d) Sự nghỉ ngơi, thời gian rảnh rỗi, giới hạn hợp lý số giờ làm việc, những
ngày nghỉ thường kỳ được hưởng lương cũng như thù lao cho những ngày nghỉ
lễ.”
Pháp luật còn quy định trách nhiệm của Nhà nước, của người sử dụng lao
động, của xã hội trong việc tạo điều kiện để giải quyết và đảm bảo việc làm cho
người lao động.
+ Điều 13 BLLĐ 1994 quy định “Giải quyết việc làm, bảm đảm cho mọi
người có khả năng lao động đều có cơ hội có việc làm là trách nhiệm của nhà
nước, của các doanh nghiệp và toàn xã hội”, Khoản 2 Điều 9 BLLĐ 2012 quy
định “Nhà nước, người sử dụng lao động và xã hội có trách nhiệm tham gia
giải quyết việc làm, bảo đảm cho mọi người có khả năng lao động đều có cơ
hội có việc làm”. Về cơ bản nội dung của cả hai điều luật này đều giống nhau.
+ Nhà nước đưa ra những chính sách để hỗ trợ trong việc phát triển việc
làm đối với người lao động được quy định tại Điều 14 BLLĐ 1994, Điều 12
BLLĐ 2012.
Có thể kể đến như: chính sách bảo hiểm thất nghiệp, các chính sách
khuyến khích người lao động tự tạo việc làm, hỗ trợ đối với lao động là người

khuyết tật, lao động là người dân tộc ít người….; đề ra chương trình việc làm,
tại Khoản 1 Điều 15 BLLĐ 1994 “Chính phủ lập chương trình quốc gia về việc
làm, dự án đầu tư phát triển kinh tế xã hội, di dân phát triển vùng kinh tế mới
gắn với chương trình giải quyêt việc làm; lập quỹ quốc gia về việc làm từ ngân
sách nhà nước và các nguồn khác, phát triển hệ thống tổ chức dịch vụ việc làm.
Hằng năm chính phủ trình quốc hội quyết định chương trình và quỹ quốc gia về

7


việc làm”.Tuy nhiên, tại Điều 13 BLLĐ 2012 đã bỏ đi điều khoản này, và giữ
nguyên hai điều khoản còn lại.
Ngoài ra pháp luật còn quy định đối với tổ chức dịch vụ việc làm – tư vấn,
giới thiệu việc làm và dạy nghề cho người lao động; cung ứng và tuyển lao
động theo yêu cầu của người sử dụng lao động, thu thập, cung cấp thông tin về
thị trường lao động và thực hiện nhiệm vụ khác theo quy định của pháp luật
(Khoản 1 Điều 13 BLLĐ 2012), về cơ bản Điều 18 BLLĐ 1994 và Điều 13
BLLĐ 2012 cơ bản giống nhau quy định về chức năng, nhiệm vụ của tổ chức
dịch vụ việc làm.
Tuy nhiên, tại dự thảo sửa đổi, bổ sung một số điều của bộ luật lao động lại
bổ sung thêm một điều khoản đối với tổ chức dịch vụ việc làm đó là “Mọi dịch
vụ giới thiệu việc làm được thực hiện bởi những tổ chức, cá nhân không có giấy
phép hoạt động dịch vụ việc làm đều bị coi là bất hợp pháp và bị xử lý theo quy
định của pháp luật.”
Bên cạnh đó, trong các chương cụ thể của BLLĐ 2012 (việc làm, học
nghề, hợp đồng lao động, thương lượng tập thể, thỏa ước lao động tập thể, tiền
lương…) ở các mức độ khác nhau đều có những quy định để bảo vệ việc làm
cho người lao động
Không chỉ vậy, bảo vệ việc làm lâu dài, đúng thời hạn thỏa thuận cho
người lao động cũng là nội dung cần thiết của nguyên tắc này. Các quy định của

Luật lao động luôn khuyến khích các bên kí kết Hợp đồng lao động không xác
định thời hạn (với ý nghĩa hợp đồng dài hạn) và hạn chế giao kết hợp đồng ngắn
hạn, chỉ trong những trường hợp cần thiết. Việc tạm hoãn, chấm dứt HĐLĐ
trước thời hạn luôn được pháp luật giới hạn thực hiện trong những trường hợp
nhất định nhằm mục đích bảo vệ việc làm cho người lao động. Nếu vi phạm các

8


quy định trên, người sử dụng lao động có thể bị xử phạt, bồi thường hoặc buộc
phải đảm bảo việc làm cho người lao động.
Như vậy, có thể thấy bảo vệ việc làm cho người lao động đã trở thành vấn
đề quan trọng xuyên suốt các chế định việc làm, HĐLĐ, thỏa ước lao động tập
thể, kỷ luật lao động, giải quyết tranh chấp lao động, xử phạt vi phạm pháp luật
lao động…Đó là nội dung không thể thiếu trong nguyên tắc bảo vệ người lao
động
2.2.2

Đảm bảo thu nhập cho người lao động
Nguyên tắc đảm bảo thu nhập là một trong những nội dung quan trọng của

nguyên tắc bảo vệ người lao động vì thu nhập là mục đích cơ bản nhất của
người lao động khi tham gia vào quan hệ lao động.
Thu nhập của người lao động chủ yếu bao gồm: mức lương, phụ cấp, tiền
thưởng... Được gọi chung là tiền lương của người lao động. Về mặt bản chất,
tiền lương là giá cả sức lao động và nó chịu sự chi phối của các quy luật khách
quan trong thị trường lao động. Tuy nhiên vì nhiều lý do khác nhau mà thu nhập
của người lao động nói chung và thỏa thuận về tiền lương nói riêng thường có
nguy cơ không tương xứng so với trình độ chuyên môn, công sức của họ bỏ ra
khi tham gia vào quan hệ lao động.

Tiền lương là giá cả sức lao động, giá trị sức lao động, là cơ sở tái tạo sức
lao động, nâng cao đời sống vật chất, tinh thần cho người lao động do đó đảm
bảo thu nhập cho người lao động, đây là nội dung quan tâm hàng đầu, xuyên
suốt của người lao động.
Chính vì vậy, trong các văn bản quy phạm pháp luật đã quy định về vấn đề
này được thể hiện như: ở Khoản 2 Điều 35 Hiến pháp 2013 “Người làm công
ăn lương được đảm bảo các điều kiện làm việc công bằng, an toàn, được hưởng
lương, chế độ nghỉ ngơi.”; Điểm b Khoản 1 điều 5 luật lao động 2012 “Người

9


lao động có quyền hưởng lương… nghỉ theo chế độ, nghỉ hằng năm có lương và
được hưởng phúc lợi tập thể”.
Khái niệm tiền lương được quy định ở Khoản 1 Điều 90 Luật lao động
2012 là khoản tiền mà người mà người sử dụng lao động trả cho người lao động
để thực hiện công việc theo thỏa thuận.
Luật Lao động các nước đều có quy phạm về tiền lương và là 1 phần quan
trọng của luật lao động. Có nước ban hành luật đơn hành về tiền lương tối thiểu
(Newzilan, Hàn Quốc...). Rất ít nước quy định mức lương tối thiểu bằng số
tuyệt đối trong luật lao động như Luật Tiêu Chuẩn lao động công bằng 1938 của
Mỹ, nhiều nước chỉ quy định các yếu tố xác định mức lương tối thiểu.
Nội dung của tiền lương gồm tiền lương theo thỏa thuận, tiền thưởng, phụ
cấp lương và khản phụ cấp lương khác mà người sử dụng lao động trả cho
người lao động trên cơ sở thỏa thuận của các bên nhưng cũng không thể thấp
hơn mức lương tối thiểu.
Quy định mức lương tối thiểu nhằm đảm bảo cuộc sống tối thiểu cho
người lao động (Điều 91 BLLĐ 2012).
+ Khoản 1 Điều 91 BLLĐ 2012
Mức lương tối thiểu là mức thấp nhất trả cho người lao động làm công việc

giản đơn nhất, trong điều kiện lao động bình thường và phải đảm bảo nhu cầu
sống tối thiểu của người lao động và gia đình họ.
Mức lương tối thiểu được xác định theo tháng ngày giờ và được xác lập
theo vùng, ngành.
+ Trong dự thảo thì cho rằng: thực tiễn thực hiện quy định này trong thời
gian vừa qua cho thấy việc xác định nhu cầu sống tối thiểu là rất khó định lượng
vì nhu cầu sống gồm cả nhu cầu vật chất và nhu cầu tinh thần. Trong khi rất
nhiều ý kiến chuyên gia cho rằng mức lương tối thiểu do chính phủ công bố mới
chỉ đáp ứng được khoảng 80% mức sống tối thiểu chứ không phải là nhu cầu
sống tối thiểu.
10


Do vậy, quá trình soạn thảo, có ý kiến đề xuất: sửa đổi quy định mức lương
tối thiểu theo hướng đảm bảo “mức sống tối thiểu của người lao động và gia
đình họ”.
+ Ở một số quốc gia khác quy định mức tiền lương tối thiểu như: Luật
lương tối thiểu của Hàn Quốc 1986 quy định về tiền lương tối thiểu được xác
định sau khi xem xét: mức chi phí sinh hoạt của người lao động, tiền lương của
người lao động cùng loại, năng suất lao động của người cùng loại, tỉ lệ đóng
góp của người lao động đối với thu nhập quốc dân; Mức lương có thể khác nhau
theo từng ngành (Luật lao động Trung Quốc năm 1994)
+ Việc xác định và điều chỉnh mức lương tối thiểu cần tham khảo những
nhân tố sau (Điều 49): chi phí sinh hoạt tối thiểu của bản thân người lao động và
số bình quân nhân khẩu phải nuôi dưỡng, mức tiền công bình quân của xã hội,
năng suất lao động, tình trạng việc làm, chênh lệch mức phát triển kinh tế giữa
các vùng.
+ Nhà nước thực hiện chế độ bảo đảm tiền lương tối thiểu. Tiêu chuẩn cụ
thể về tiền lương tối thiểu do chính quyền nhân dân tỉnh, khu tự trị và thành phố
trục thuộc quy định và báo cáo với Quốc vụ viện. Doanh nghiệp trả lương cho

người lao động không được thấp hơn tiêu chuẩn tiền lương tối thiểu do địa
phương quy định (Điều 48).
Điều 94 BLLĐ 2012 quy định về hình thức trả lương
“1. Người sử dụng lao động có quyền lựa chọn hình thức trả lương theo
thời gian, sản phẩm hoặc khoán. Hình thức trả lương đã chọn phải được duy trì
trong một thời gian nhất định; trường hợp thay đổi hình thức trả lương, thì
người sử dụng lao động phải thông báo cho người lao động biết trước ít nhất
10 ngày 2. Lương được trả bằng tiền mặt hoặc trả qua tài khoản cá nhân của
người lao động được mở tại ngân hàng. Trường hợp trả qua tài khoản ngân
hàng, thì người sử dụng lao động phải thỏa thuận với người lao động về các
loại phí liên quan đến việc mở, duy trì tài khoản”.
11


+ Ở một số quốc gia khác quy định về hình thức trả lương:
Luật Lao Động 1994 của Trung Quốc theo đó Điều 50 của luật này quy
định phải trả lương bằng tiền mặt và theo tháng cho bản thân người lao động
không được khấu trừ và trả thiếu tiền lương cho người lao động 1 cách vô cớ.
Bộ luật Lao Động 2001 của Liên bang Nga lại quy định việc trả lương được trả
bằng đồng rúp và theo đề nghị của người lao động (nhưng phải phù hợp với
thỏa ước lao động tập thể hoặc hợp đồng lao động); tiền lương có thể được trả
theo hình thức khác, nhưng không được trái với pháp luật; phần tiền lương được
trả không phải bằng tiền, không được vượt quá 30% của tiền lương hàng tháng
của người lao động (Điều 131).
Điều 97 BLLĐ 2012 quy định về việc tiền lương làm thêm giờ, làm việc
vào ban đêm:
“1. Người lao động làm thêm giờ được trả lương tính theo đơn giá tiền
lương hoặc tiền lương theo công việc đang làm như sau:
a) Vào ngày thường, ít nhất bằng 150%;
b) Vào ngày nghỉ hằng tuần, ít nhất bằng 200%;

c) Vào ngày nghỉ lễ, ngày nghỉ có hưởng lương, ít nhất bằng 300% chưa
kể tiền lương ngày lễ, ngày nghỉ có hưởng lương đối với người lao động hưởng
lương ngày.
2. Người lao động làm việc vào ban đêm, thì được trả thêm ít nhất bằng
30% tiền lương tính theo đơn giá tiền lương hoặc tiền lương theo công việc của
ngày làm việc bình thường.
3. Người lao động làm thêm giờ vào ban đêm thì ngoài việc trả lương theo
quy định tại khoản 1 và khoản 2 Điều này, người lao động còn được trả thêm
20% tiền lương tính theo đơn giá tiền lương hoặc tiền lương theo công việc làm
vào ban ngày”.
Ở một số quốc gia khác quy định về tiền lương làm thêm giờ như sau:
+ Luật lao động Trung Quốc 1994
12


Theo đó điều 44 của luật này quy định việc kéo dài thời giờ làm việc phải
được trả lương làm thêm giờ khi có một trong các trường hợp dưới đây thì
doanh nghiệp phải trả lương cao hơn tiền lương bình thường theo những tiêu
chuẩn sau: trả không thấp hơn 150% tiền lương khi kéo dài thời giờ làm việc;
trả không thấp hơn 200% tiền lương khi bố trí làm việc vào ngày nghỉ mà không
thể bố trí nghỉ bù; trả không thấp hơn 300% tiền lương khi bố trí làm việc vào
ngày lễ.
Như vậy, có thể thấy tuy không can thiệp vào quyền tự chủ về tài chính
của người sử dụng lao động nhưng pháp luật lao động đã thể hiện rõ quan điểm
bảo vệ thu nhập cho người lao động ở mức độ hợp lí. Mục đích của nguyên tắc
này nhằm tôn trọng sự thỏa thuận, quyền tự định đoạt của các bên trong quan hệ
lao động, mặt khác giảm thiểu đến mức thấp nhất những bất lợi cho người lao
động trong mối quan hệ với người sử dụng lao động về tiền lương.
2.2.3


Đảm bảo an toàn vệ sinh cho người lao động
Theo khoản 2, khoản 3 Điều 3 Luật An toàn, vệ sinh lao động 2015:
“An toàn lao động là giải pháp phòng, chống tác động của các yếu tố

nguy hiểm nhằm bảo đảm không xảy ra thương tật, tử vong đối với con người
trong quá trình lao động; Vệ sinh lao động là giải pháp phòng, chống tác động
của yếu tố có hại gây bệnh tật, làm suy giảm sức khỏe cho con người trong quá
trình lao động.”
Theo đó, đảm bảo an toàn, vệ sinh cho người lao động là việc sử dụng các
giải pháp phòng, chống tác động của các yếu tố nguy hiểm, yếu tố có hại từ đó
thiết lập môi trường lao động an toàn, vệ sinh bảo vệ tính mạng, sức khỏe và tôn
trọng nhân cách của người lao động.
Nguyên tắc này xuất phát từ quan điểm con người là vốn quý nhất, là lực
lượng chủ yếu nhất của xã hội. Khoản 2 Điều 35 Hiến pháp 2013 quy định:
“Người làm công ăn lương được bảo đảm các điều kiện làm việc công bằng, an
toàn; được hưởng lương, chế độ nghỉ ngơi”. Như vậy, được làm việc trong điều
13


kiện an toàn lao động, vệ sinh lao động là quyền của người lao động được nhà
nước quan tâm thực hiện, nó được quy định hẳn trong Hiến pháp của nước
Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam.
Vai trò của nhà nước trong việc đảm bảo công tác an toàn, vệ sinh lao
động:
Điều 134 BLLĐ 2012 quy định về chính sách của nhà nước về an toàn lao
động, vệ sinh lao động: “Nhà nước đầu tư nghiên cứu khoa học, hỗ trợ phát
triển các cơ sở sản xuất dụng cụ, thiết bị an toàn lao động, vệ sinh lao động,
phương tiện bảo vệ cá nhân. Khuyến khích phát triển các dịch vụ về an toàn lao
động, vệ sinh lao động.” Và “Chính phủ quyết định Chương trình quốc gia về
an toàn lao động, vệ sinh lao động” (Khoản 1 Điều 135 BLLĐ 2012)

Nghĩa vụ của người sử dụng lao động trong việc đảm bảo công tác an
toàn vệ sinh lao động được quy định rất cụ thể trong Bộ luật Lao động 2012. Đó
là:
Điều 133. Tuân thủ pháp luật về an toàn lao động, vệ sinh lao động.
Điều 136. Quy chuẩn kỹ thuật quốc gia về an toàn lao động, vệ sinh lao
động
Điều 137. Bảo đảm an toàn lao động, vệ sinh lao động tại nơi làm việc
Điều 138. Nghĩa vụ của người sử dụng lao động, người lao động đối với
công tác an toàn lao động, vệ sinh lao động
Điều 140. Xử lý sự cố, ứng cứu khẩn cấp
Điều 144. Trách nhiệm của người sử dụng lao động đối với người bị tai
nạn lao động, bệnh nghề nghiệp.
Điều 146. Các hành vi bị cấm trong an toàn lao động, vệ sinh lao động
14


Điều 147. Kiểm định máy, thiết bị, vật tư có yêu cầu nghiêm ngặt về an
toàn lao động
Điều 148. Kế hoạch an toàn lao động, vệ sinh lao động
Điều 150. Huấn luyện về an toàn lao động, vệ sinh lao động
Điều 151. Thông tin về an toàn lao động, vệ sinh lao động
Điều 152. Chăm sóc sức khỏe cho người lao động
Điều đó cho thấy tầm quan trọng và sự cần thiết bảo vệ tính mạng, sức
khỏe cho người lao động khi tham gia quan hệ lao động. Chính sách, chế độ an
toàn lao động, vệ sinh lao động được quy định tương đối toàn diện trong Bộ luật
Lao động từ việc khám sức khỏe khi tuyển dụng, bố trí công việc phù hợp với
thể lực người lao động đến việc định kỳ kiểm tra sức khỏe khi làm việc; từ các
biện pháp phòng ngừa, ngăn chặn tai nạn lao động, bệnh nghề nghiệp (trang bị
phương tiện bảo vệ cá nhân, huấn luyện về an toàn lao động, chăm sóc sức
khỏe,…) cũng như biện pháp khắc phục khi xảy ra tai nạn lao động, bệnh nghề

nghiệp.
Vì nguyên tắc của Luật lao động là các quan điểm, tư tưởng, chỉ đạo xuyên
suốt toàn bộ hệ thống quy phạm pháp luật, điều chỉnh các quan hệ xã hội về sử
dụng lao động nên nguyên tắc đảm bảo an toàn, vệ sinh cho người lao động
được hình thành từ Bộ luật Lao động 1994. Tuy nhiên, Bộ luật Lao động 1994
còn quy định nhiều hạn chế về chính sách khuyến khích của nhà nước trong
việc phát triển các dịch vụ an toàn lao động, vệ sinh lao động để đảm bảo an
toàn cho người lao động trong các lĩnh vực có nhiều nguy cơ tai nạn lao động,
bệnh nghề nghiệp. Hơn nữa, Bộ luật lao động 1994 còn quy định chưa rõ trách
nhiệm của người sử dụng lao động trong việc chủ động xây dựng phương án xử

15


lí sự cố, ứng cứu khẩn cấp và định kỳ tổ chức luyện tập để sẵn sàng xử lý tình
huống.
Dự thảo Luật về cơ bản không thay đổi nhiều so với BLLĐ 2012. Nhiều
quy định bị bỏ vì trùng với Luật An toàn, vệ sinh lao động 2015. Thêm một
khoản về quyền của người lao động về quyền từ chối công việc hoặc từ bỏ công
việc. Thêm một số chủ thể về tuân thủ pháp luật về an toàn lao động là hợp tác
xã và hộ gia đình.


So sánh với luật nước ngoài:

Điều kiện lao động, an toàn lao động, vệ sinh lao động có vai trò rất quan
trọng Luật lao động của các nước nhằm bảo vệ tính mạng sức khỏe của người
lao động, góp phần quan trọng và tăng hiệu quả sản xuất kinh doanh.
Luật Lao động của Campuchia 1997 quy định chủ yếu những vấn đề về
nơi làm việc của doanh nghiệp; việc kiểm tra giám sát các quy định liên quan

đến sức khỏe, điều kiện làm việc và an toàn; quy định về trạm xá cố định trong
khu vực nhà xưởng nếu doanh nghiệp sử dụng ít nhất 50 người lao động; quy
định về bồi thường tai nạn lao động;…
Luật an toàn lao động của Trung Quốc quy định chủ yếu về trách nhiệm
của người sử dụng lao động trong doanh nghiệp mình; việc kiểm soát các vấn
đề an toàn lao động; việc xây dựng các phòng ban hoặc cán bộ chuyên trách về
an toàn lao động nếu số lượng người lao động vượt quá 300 người; đào tạo
người lao động về an toàn lao động.
Bộ luật Lao động của Liên Bang Nga 2001 quy định chủ yếu những vấn đề
về bảo đảm điều kiện lao động và an toàn lao động phù hợp quy định về bảo hộ
lao động; trách nhiệm của người sử dụng lao động trong việc đảm bảo an toàn
vệ sinh lao động được quy định rất nhiều và cụ thể ví dụ: bảo đảm an toàn của
người lao động khi sử dụng nhà xưởng máy móc trang thiết bị thực hiện các quy
trình công nghệ và cũng như sử dụng các trang thiết bị sản xuất các nguyên liệu
vật liệu sản xuất; áp dụng những tài liệu hoặc các văn bản hướng dẫn về bảo hộ
16


lao động và điều kiện an toàn phù hợp với những quy định của pháp luật về quy
trình sử dụng kỹ thuật các phương tiện bảo vệ cá nhân và tập thể của người lao
động; bảo đảm những yêu cầu phù hợp về bảo hộ lao động của người của điều
kiện lao động tại mỗi nơi làm việc của người lao động; đảm bảo chế độ làm việc
và nghỉ ngơi của người lao động phù hợp với những quy định của pháp luật lao
động và những văn bản có liên quan quy định về tiêu chuẩn lao động,…
Như vậy, hầu hết các nước đều coi trọng về điều kiện lao động, an toàn lao
động, vệ sinh lao động nhằm bảo vệ tính mạng sức khỏe của người lao động
xuất phát từ quyền con người là vốn quý nhất, góp phần quan trọng và tăng hiệu
quả sản xuất kinh doanh.
2.2.4 Phân tích nguyên tắc đảm bảo quyền thực hiện bảo hiểm xã hội
Để đảm bảo quyền được bảo hiểm xã hội của người lao động Luật Lao

động không chỉ quy định quyền được hưởng các chế độ bảo hiểm xã hội khi ốm
đau, thai sản, tai nạn lao động, bệnh nghề nghiệp, tử tuất, hưu trí và chế độ trợ
thất nghiệp cho người lao động mà còn quy định trách nhiệm của Nhà nước và
các đơn vị sử dụng lao động trong việc đóng góp bảo hiểm và thực hiện các chế
độ bảo hiểm cho người lao động.
Người lao động thuộc mọi thành phần kinh tế không phân biệt giới tính,
tôn giáo, nghề nghiệp, nếu có tham gia vào quan hệ xã hội đề được bảo đảm về
vật chất trong các trường hợp tạm thời hoặc vĩnh viễn mất sức lao động, mất
việc làm nhằm giúp cho người lao động khắc phục khó khăn, ổn định đời sống,
tạo điều kiện để họ an tâm lao động, thúc đẩy sản xuất phát triển.
Người lao động trong mọi trường hợp bị giảm hoặc mất khả năng lao
động hoặc mất việc làm đều có quyền được hưởng BHXH.
Quyền được hưởng BHXH của người lao động là một trong những biểu
hiện cụ thể của quyền con người, cụ thể là việc họ được hưởng chế độ trợ cấp
BHXH theo các chế độ xác định. Các chế độ này gắn với các trường hợp người
lao động hoặc bị giảm khả năng lao động hoặc mất việc làm do đó bị giảm hoặc
17


mất nguồn sinh sống. Các trường hợp đó có thể có rất nhiều và xảy ra một cách
ngẫu nhiên, với mỗi trường hợp như thế, người lao động đều phải được BHXH.
Trên thực tế cần căn cứ vào các điều kiện kinh tế - xã hội cụ thể của đất nước
trong từng giai đoạn phát triển về tổ chức và hoàn thiện dần việc BHXH đối với
các trường hợp làm giảm hoặc mất thu nhập của người lao động nói trên
Người lao động dù làm việc trong thành phần kinh tế nào, khi hội đủ
những điều kiện, dấu hiệu phát sinh quan hệ bảo hiểm xã hội thì đều được
hưởng quyền lợi về bảo hiểm xã hội không phân biệt giới tính, tuổi tác v.v. . . .
Quy định của pháp luật về Bảo Hiểm xã hội BLLĐ 2012
Điều 186 quy định về tham gia bảo hiểm xã hội, bảo hiểm y tế
“1. Người sử dụng lao động, người lao động phải tham gia bảo hiểm xã

hội bắt buộc, bảo hiểm y tế bắt buộc, bảo hiểm thất nghiệp và được hưởng các
chế độ theo quy định của pháp luật về bảo hiểm xã hội và pháp luật về bảo hiểm
y tế.
Khuyến khích người sử dụng lao động, người lao động thực hiện các hình
thức bảo hiểm xã hội khác đối với người lao động.
2. Trong thời gian người lao động nghỉ việc được hưởng chế độ bảo hiểm
xã hội, thì người sử dụng lao động không phải trả lương cho người lao động.
3. Đối với người lao động không thuộc đối tượng tham gia bảo hiểm …”
Điều 187 Quy định về tuổi nghỉ hưu được hưởng bảo hiểm xã hội
Bộ luật lao động năm 2012 đã rút ngắn gọn hơn so với bộ luật lao động
năm 1994
Độ tuổi nghỉ hưu đối với nhóm lao động cụ thể:
Về tuổi nghỉ hưu, Bộ luật vẫn giữ nguyên quy định độ tuổi nghỉ hưu của
lao động nam là 60 tuổi, nữ 55 tuổi.
18


Riêng đối với lao động có trình độ chuyên môn kỹ thuật cao, người lao
động làm công tác quản lý và một số trường hợp đặc biệt khác có thể nghỉ hưu ở
tuổi cao hơn nhưng không quá 5 năm.Trong chương XII, khoản 1, Điều 187, Bộ
luật cho phép Chính phủ quy định cụ thể tuổi nghỉ hưu đối với các nhóm lao
động bị suy giảm khả năng lao động, làm các công việc đặc biệt nặng nhọc, độc
hại, nguy hiểm; làm việc ở vùng cao, vùng sâu, vùng xa, biên giới, hải đảo;
nhóm lao động có trình độ chuyên môn kỹ thuật cao, nhóm lao động làm công
tác quản lý và một số trường hợp đặc biệt khác, làm cơ sở để trong tương lai
điều chỉnh tổng thể tuổi nghỉ hưu.
Đối với NLĐ có trình độ chuyên môn kỹ thuật cao, NLĐ làm công tác
quản lý và một số trường hợp đặc biệt khác có thể nghỉ hưu ở tuổi cao hơn
nhưng không quá 05 năm so với quy định tại.
Ngoài một số quy định đã được sửa đổi, bộ luật lao động mới có thêm một

số điều mới như: Các chính sách về BHXH, BHYT, BHTN…được chỉnh sửa cụ
thể hơn, nhằm bảo vệ quyền lợi cho NLĐ trong các trường hợp rủi ro như: Ốm
đau, tai nạn, mất việc…
Luật Bảo hiểm xã hội năm 2014 quy định chi tiết hơn một số chính sách về
bảo hiểm xã hội so với hiện hành và bổ sung thêm nhiều chính sách mới có lợi
cho người lao động
Từ 01/01/2016, những người hưởng lương theo chế độ tiền lương do Nhà
nước quy định (như công chức, viên chức nhà nước), thì tiền lương để tính đóng
BHXH không thay đổi, vẫn đóng BHXH theo tiền lương theo ngạch, bậc, cấp
bậc quân hàm và các khoản phụ cấp chức vụ, phụ cấp thâm niên vượt khung,
phụ cấp thâm niên nghề (nếu có).
Tuy nhiên, theo Luật BHXH 2014 thì đối với NLĐ đóng BHXH theo chế
độ tiền lương do người sử dụng lao động quyết định, thì sẽ thực hiện theo lộ
trình: Từ ngày 01/01/2016 đến 31/12/2017, tính đóng BHXH theo mức lương
19


và phụ cấp lương ghi trong hợp đồng lao động (HĐLĐ). Như vậy, so với quy
định trước đây, tiền lương tính đóng BHXH giai đoạn 2016-2017 có thêm
khoản phụ cấp lương.
Luật BHXH 2014 cũng mở rộng bổ sung thêm 3 đối tượng tham gia
BHXH bắt buộc là cán bộ xã không chuyên trách; người đi lao động có thời hạn
ở nước ngoài (không nhất thiết đã tham gia BHXH trước khi đi), người lao động
theo HĐLĐ có thời hạn từ 1 đến 3 tháng; lao động là người nước ngoài.
-Tăng mức trợ cấp ốm đau.
Các mức trợ cấp ốm đau được điều chỉnh tăng so với quy định hiện hành.
Luật Bảo hiểm xã hội mới điều tăng thời gian hưởng thai sản khi sinh con
lên 6 tháng cho phù hợp với Bộ luật Lao động.
Luật cũng thêm chế độ lao động nam được nghỉ việc hưởng chế độ thai sản
khi vợ sinh con.

Bổ sung quy định trợ cấp một lần khi sinh con đối với trường hợp chỉ có
cha tham gia bảo hiểm xã hội.
Đối với lao động nữ khó mang thai phải nghỉ việc theo chỉ định của bác sĩ
muốn được nhận chế độ thai sản chỉ cần đóng bảo hiểm xã hội từ đủ 3 tháng
trong thời gian 12 tháng trước khi sinh con thay vì 6 tháng như quy định trước
đó.
Luật mới cũng bổ sung chế độ thai sản cho lao động nữ mang thai hộ và
người mẹ nhờ mang thai hộ.
-Điều chỉnh chế độ hưu trí
Luật mới quy định lộ trình tăng tuổi nghỉ hưu đối với những trường hợp
suy giảm khả năng lao động từ 61% trở lên.

20


BHXH một lần: tăng mức trợ cấp BHXH một lần từ 1,5 tháng lên 2 tháng
mức bình quân tiền lương tháng đóng BHXH mỗi năm đóng BHXH từ năm
2014 trở đi.
Sửa đổi quy định về mức phạt tiền lãi đối với số tiền chưa đóng, chậm
đóng bằng 2 lần mức lãi suất đầu tư quỹ BHXH bình quân của năm trước liền
kề tính trên số tiền, thời gian chậm đóng BHXH (hiện nay bằng lãi đầu tư của
quỹ BHXH).
Quy định này nhằm hạn chế tình trạng trốn đóng BHXH do mức lãi tương
đối cao, đồng thời hạn chế được việc chậm đóng BHXH do người sử dụng lao
động chiếm dụng tiền đóng BHXH để sử dụng vào mục đích sản xuất, kinh
doanh thay vì phải đi vay ngân hàng với lãi xuất cao hơn và thủ tục phức tạp
hơn (Khoản 3 Điều 122 Luật BHXH 2014).


So sánh với một số quốc gia:

+ Bảo hiểm xã hội tại Liên Bang Mỹ:
Bảo hiểm xã hội được thiết lập chon những người có việc làm, bản thân

những người vẫn đang làm việc và đã từng làm việc và người thân trong gia
đình cũng có thể tham gia.Chủ yêu bao gồm tiền về hưu (retirement benefits),
tiền dưỡng lão (suvivor‘s benefits), tiền dành cho người tàn tật (bisadility
benefits) và tiền phúc lợi y tế (Medicare benefits)…
+ Bảo hiểm xã hội tại Đức:
Hệ thống bảo hiểm xã hội ở Đức ra đời hàng trăm năm nay và đạt được
nhiều thành tựu to lớn.Bảo hiểm xã hội là tập hợp các biện pháp nhằm đảm bảo
sự an toàn về kinh tế và xã hội cho các nhóm dân cư khác nhau trước các rủi ro
xảy ra trong cuộc sống như tai nạn, bệnh tật, tàn phế, tuổi già, thất nghiệp và
mất người nuôi dưỡng.
Nhìn chung, đối tượng tham gia bảo hiểm là người lao động tuy nhiên các
quỹ bảo hiểm xã hội thường được triển khai với tùng nhóm đới tượng người lao
động các đặc thù nghề nghiệp hay tình trạng sức khỏe, thu nhập.., cụ thể: công
21


nhân mỏ,người lao động nghành hàng hải; người làm sản xuất nông nghiệp, học
sinh sinh viên, nghệ sĩ, người làm nghề xuất bản, thương nhân, người sản xuất
nhỏ, người làm nghề nguy hiểm, nghề cứu hộ, nghề cho máu, thành viên chuyên
về tình trạng khẩn cấp.
+Bảo hiểm xã hội tại Trung Quốc
Năm 1951, Chính phủ Trung Quốc đã ban hành các điều lệ bảo hiểm lao
động của nước cộng hòa nhân dân Trung Hoa. Đây là khởi điểm của hệ thống
bảo hiểm xã hội tại Trung Quốc và đã hình thành quỹ bảo hiểm xã hội .
Các điều lệ này được áp dụng cho tất cả các công ty, nhà máy, xí nghiệp
của Nhà nước. Nhà máy, xí nghiệp trực tiếp chịu trách nhiệm quản lý và chi trả
tất cả các khoản bảo hiểm, lương hưu, bảo hiểm tai nạn lao động, bảo hiểm y tế,

chế độ thai sản…
Tuổi nghỉ hưu: Chính phủ quy định 60 tuổi đối với nam, 55 tuổi đối với nữ
công nhân viên chức làm việc trong các nghành chuyên môn và quản lý, 50 tuổi
cho các công nhân nữ làm việc trong các khi vực sản xuất. Trung Quốc hiện
đang nghiên cứu để cố thể nâng độ tuổi nghỉ hưu của các cán bộ nữ ở một vài
chức danh lãnh đạo, quản lý, nghiên cứu khoa học.
2.2.5 Đảm bảo quyền được nghỉ ngơi cho người lao động
Làm việc và nghỉ ngơi là hai vấn đề có mối quan hệ khăng khít với nhau,
không thể chỉ có lao động mà không có nghĩ ngơi hơn nữa nghĩ ngơi là một nhu
cầu không thể thiếu đối với cuộc sống con người nói chung đặc biệt là người lao
động. Do vậy, Nhà nước luôn quan tâm đến quyền được nghĩ ngơi của người
lao động. Căn cứ vào tính chất của mỗi ngành, nghề và đặc điểm lao động trong
từng khu vực khác nhau, bên cạnh các quy định về thời giờ làm việc, pháp luật
còn đưa ra các quy định điều chỉnh thời giờ nghĩ ngơi cho người lao động nhằm
tạo điều kiện cho họ phục hồi sưc khỏe, tái sản xuất sức lao động và tăng năng
suất lao động hoặc giải quyết nhiều nhu cầu có tính chất cá nhân. Khoản 2 điều

22


35 Hiến pháp 2013 quy định: “Người làm công ăn lương được bảo đảm… chế
độ nghỉ ngơi”.
Theo quy định, thời gian nghỉ ngơi của người lao động là thời gian họ
không phải thực hiện nghĩa vụ lao động nhưng vẫn được tính thời gian làm việc
và nói chung là có hưởng lương, cụ thể đó là thời gian nghĩ hàng tuần, nghĩ
hàng năm, nghĩ lễ tết, nghỉ về việc riêng, nghỉ trong giờ làm việc, nghỉ hưởng
bảo hiểm xã hội… và được quy định tại các Điều 108, Điều 109, Điều 110,
Điều 111, Điều 115, 116… BLLĐ 2012. Ngoài ra, pháp luật lao động cũng
khuyến khích người sử dụng lao động rút ngắn thời giờ làm việc, tăng thời gian
nghỉ ngơi cho người lao động (Điều 104 BLLĐ 2012), đồng thời quy định thời

giờ làm việc, nghĩ ngơi của một số đối tượng loa động đặc thù có tính chất ưu
đãi và bảo vệ nhóm đối tượng này (khoản 3 Điều 155, Điều 163 BLLĐ 2012).
So với Bộ Luật lao động 1994 thì BLLĐ 2012 có những quy định bổ sung
mang tính chặt chẽ, rõ ràng hơn nhằm đảm bảo tốt nhất trong việc đảm bảo
quyền được nghỉ ngơi của người lao động như: Về nghỉ trong giờ làm việc,
BLLĐ 2012 bổ sung trường hợp những người làm công việc đặc biệt nặng
nhọc, độc hại, nguy hiểm theo quy định mà thời giờ làm việc không quá 6 giờ
trong một ngày thì thời gian nghỉ giữa giờ ít nhất là 30 phút và tính vào giờ làm
việc (Khoản 1 Điều 108); bổ sung thêm 01 ngày nghỉ Tết âm lịch từ 4 ngày lên
5 ngày, nâng tổng số ngày nghỉ lễ, Tết trong một năm là 10 ngày và quy định
mở rộng các trường hợp được nghỉ không hưởng lương của người lao động như:
khi ông, bà nội ngoại, anh, chị, em ruột chết; bố hoặc mẹ kết hôn; anh, chị, em
ruột kết hôn (Mục 3Chương VII), “ Lao động là công dân nước ngoài làm việc
tại Việt Nam ngoài ngày nghĩ lễ theo quy định tại khoản 1 Điều này còn được
nghĩ thêm 01 ngày Tết cổ truyền dân tộc và 01 ngày Quốc khánh của nước họ”
(khoản 2 Điều 115) hay bổ sung thêm quy định về thanh toán tiền lương những
ngày chưa nghĩ tại Điều 114.
Hiện nay, Quốc hội đã ban hành dự thảo Luật. Theo đó, dự thảo Luật có rất
nhiều điểm khác so với BLLĐ 2012 như:
23


Quy định tại Điều 108 về nghĩ trong thời gian làm việc “Người sử dụng
lao động phải bố trí để người lao động được nghĩ ít nhất 60 phút để ăn uống
hàng ngày” còn BLLĐ 2012 quy định “Người lao động làm việc liên tục 08 giờ
hoặc 06 giờ…được nghĩ giữa giờ ít nhất 30 phút, tính vào thời giờ làm việc”.
Như vậy, liệu có phải rằng theo quy định của dự thỏa Luật thì trong trường hợp
người lao động làm việc 01 giờ 01 ngày thì họ cũng phải được nghỉ ít nhất 60
phút hay không?
Theo nhóm chúng tôi, quy định tại Điều 108 của BLLĐ 2012 vẫn rõ ràng

hơn so với dự thảo Luật; khoản 2 Điều 113 dự thảo Luật quy định “Tiền tàu xe
và tiền lương ngững ngày đi đường do hai bên thỏa thuận”; “Người lao động do
thôi việc,…mà chưa nghĩ hàng năm hoặc chưa nghĩ hết số ngày nghĩ hàng năm
thì được thanh toán bằng tiền những ngày chưa nghĩ theo tỉ lệ tương ứng với số
thời gian làm việc”; điểm b khoản 1 Điều 116 quy định trường hợp bố đẻ, mẹ đẻ
người lao động kết hôn thì họ được nghỉ 01 ngày và vẫn được hưởng nguyên
lương; Điều 117 quy định thời giờ ngỉ ngơi đối với công việc có tính chất đặc
biệt thì sung thêm một số công việc như: tin học, công nghệ thông tin, thiết kế
công nghiệp, các công việc có tính chất đặc biệt khác do Chính phủ quy định.
Theo chúng tôi, những quy định này của dự thảo Luật là cần thiết và phù hợp
với người lao động hơn so với BLLĐ 2012.
Đặc biệt, dự thảo Luật đã bỏ đi quy định tại khoản 5 Điều 155 BLLĐ 2012
quy định về thời gian nghỉ ngơi đối với lao động nữ. Việc bãi bỏ quy định này
đã làm cho dư luận phẫn nộ và đưa ra rất nhiều ý kiến trái chiều. Theo chúng
tôi, không nên bãi bỏ quy định này bởi vì, điều mà người sử dụng lao động và
người lao động hướng đến là sức lao động và hiệu quả công việc. Khi người lao
động mà cụ thể là lao động nữ họ có đủ sức khỏe cả về mặt thể lực và tinh thần
thì lúc đó năng suất lao động của họ mới hiệu quả và đem đến thành quả tốt
nhất cho người sử dụng lao động. Mặt khác, đây là quyền mà người lao động
nói riêng cũng như mỗi một người đều được hưởng.

24


Một số quy định về thời gian nghỉ ngơi theo pháp luật lao động nước
ngoài:
+ Bộ Luật lao động Philippin đòi hỏi người sử dụng lao động phải cho
từng người lao động có một thời gian nghỉ không ít hơn 24 giờ liên tục sau khi
làm việc bình thường 6 ngày liền. Trong thỏa ước tập thể, người sử dụng lao
động phải xác định những ngày nghĩ hàng tuần có liên quan tới nhu cầu tôn giáo

của người làm công. Người làm công có thể được yêu cầu làm việc vào ngày
nghỉ và người sử dụng lao động phải trả thêm ít nhất là 30% tiền lương thông
thường; quy định về nghỉ hàng năm có hưởng lương: “Người làm công viêc liên
tục ít nhất 1 năm thì được quyền có 5 ngày nghỉ có lương…”
+ Tại những nước quy đinh tuần làm việc 44 giờ như Trung Quốc thì ngày
nghỉ hàng tuần là 1 ngày rưỡi; Liên Bang Nga tuần làm việc 40 giờ thì ngày
nghỉ hàng tuần là 2 ngày; tuần làm việc 48 giờ như Lào, Campuchia thì ngày
nghỉ hàng tuần là 24 giờ liên tục.
+ Luật Tiêu chuẩn lao động của Nhật Bản quy định: Người lao động có số
ngày làm việc thực tế trong năm chiếm 80% trở lên thì được chủ doanh nghiệp
cho nghỉ hàng năm 6 ngày làm việc có lương, nghỉ 1 lần hoặc chia nhiều lần.
+ Đối với những ngày nghỉ lễ, tết thì tùy vào văn hóa, chế độ cũng như đặc
điểm chính trị, kinh tế,… mà mỗi quốc gia quy định số ngày nghỉ khác nhau.
Nhìn chung, thời giờ nghỉ ngơi theo quy định của BLLĐ 2012 tương đối
hoàn chỉnh, rõ ràng và cụ thể, đáp ứng được nhu cầu của người lao động củng
như người sử dụng lao động trong nền kinh tế thị trường như hiện nay.
2.2.6 Nguyên tắc đảm bảo quyền được gia nhập các hoạt động trong tổ chức
công đoàn
Điều 1 Luật công đoàn năm 2012 quy định “Công đoàn là tổ chức chính
trị - xã hội rộng lớn của giai cấp công nhân và của người lao động được thành
lập trên cơ sở tự nguyện, là thành viên trong hệ thống chính trị của xã hội Việt
Nam, dưới sự lãnh đạo của Đảng cộng sản Việt Nam, đại diện cho cán bộ, công
25


×