Tải bản đầy đủ (.doc) (102 trang)

NGHIÊN cứu HOẠT ĐỘNG CUNG ỨNG THUỐC tại BV NHI THANH hóa năm 2012 Đặng Thị Hoa

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (3.55 MB, 102 trang )

ĐẶT VẤN ĐỀ
Ngành Dược Việt Nam là một ngành kinh tế kỹ thuật tham gia vào rất
nhiều hoạt động của xã hội như kinh doanh, quản lý, sản xuất và công tác Dược
bệnh viện. Trong quá trình hội nhập Tổ chức Y tế thế giới Thủ tướng chính phủ
đã phê duyệt đề án phát triển ngành Dược “Phát triển ngành Dược thành một
ngành kinh tế - kỹ thuật mũi nhọn theo hướng công nghiệp hoá, hiện đại hoá,
nâng cao năng lực sản xuất thuốc trong nước và kiện toàn hệ thống cung ứng
thuốc của Việt Nam để chủ động cung ứng thuốc thường xuyên, kịp thời và đủ
thuốc có chất lượng, giá cả hợp lý, sử dụng thuốc an toàn, hiệu quả phục vụ sự
nghiệp bảo vệ, chăm sóc và nâng cao sức khoẻ nhân dân đáp ứng yêu cầu hội
nhập khu vực và thế giới”[24].
Công tác Dược bệnh viện là một trong những yếu tố quan trọng có ảnh
hưởng lớn đến chất lượng công tác khám, chữa bệnh của tất cả các bệnh viện
(BV) kể cả chuyên khoa đến đa khoa. Đặc biệt là công tác cung ứng thuốc đầy
đủ kịp thời, đảm bảo chất lượng, an toàn, hiệu quả và hợp lý.
Trong những năm gần đây Việt Nam thực hiện chính sách đổi mới, phát
triển nền kinh tế thị trường theo định hướng xã hội chủ nghĩa có sự quản lý của
nhà nước, số lượng các mặt hàng thuốc ngày càng nhiều và đa dạng về dạng bào
chế, chính vì vậy cũng gây ra một số khó khăn trong công tác quản lý thuốc.
Vấn đề cung ứng thuốc tại BV đã có rất nhiều đề tài nghiên cứu nhưng tại
Bệnh viện Nhi Thanh Hoá là BV mới đi vào hoạt động từ năm 2007. Bệnh viện
có nhiệm vụ khám chữa bệnh, phục hồi sức khoẻ cho người bệnh là các cháu từ
sơ sinh đến 16 tuổi trong khu vực, đồng thời hợp tác với bệnh viện các tỉnh,
trung ương và quốc tế. Bệnh viện tuy mới hoạt động mà đã có nhiều những tiến
bộ trong y học đặc biệt là phát triển kỹ thuật cao như mổ tim kín, mổ tim mở.
Tháng 8/2012 BV được Uỷ Ban Nhân Dân (UBND) cấp quyết định (QĐ) là
bệnh viện hạng I. Để góp phần cho công tác cung ứng thuốc trong bệnh viện tốt

1



nhất đáp ứng được nhu cầu phát triển của BV chúng tôi tiến hành thực hiện đề
tài:
“ Nghiên cứu hoạt động cung ứng thuốc tại Bệnh viện Nhi Thanh Hoá năm
2012” với 2 mục tiêu sau :
1 - Phân tích các chỉ tiêu của hoạt động lựa chọn, mua, tồn trữ cấp phát và sử
dụng thuốc tại Bệnh viện Nhi Thanh Hoá năm 2012.
2 - Phân tích việc ứng dụng công nghệ thông tin trong hoạt động kê đơn, quản
lý tồn trữ, cấp phát thuốc tại Bệnh viện Nhi Thanh Hoá năm 2012.
Từ các kết quả nghiên cứu đề tài đề xuất các ý kiến góp phần nâng cao
chất lượng hoạt động cung ứng thuốc tại BV trong những năm tới.

2


Chương 1: TỔNG QUAN
1.1. HOẠT ĐỘNG CUNG ỨNG THUỐC TRONG BỆNH VIỆN
Hoạt động cung ứng thuốc trong BV là một trong các hoạt động quan trọng
của BV. Để đáp ứng yêu cầu chẩn đoán, điều trị và các yêu cầu chữa bệnh khác
tại BV được an toàn và hiệu quả, hợp lý, chất lượng, thì công tác quản lý cung
ứng thuốc của khoa Dược BV phải được quan tâm đúng mức. Cung ứng thuốc
trong BV là một hoạt động mang tính chất chu trình bao gồm bốn hoạt động
chính: lựa chọn, mua sắm, cấp phát và sử dụng thuốc.
Chu trình cung ứng thuốc trong BV được tóm tắt theo sơ đồ hình 1.1.

Lựa chọn

Thông tin
Sử dụng

Công

nghệ

-Mô hình bệnh tật
-Phác đồ điều trị
-Ngân sách

Khoa
học

Mua thuốc

Kinh tế
Cấp phát

Hình 1.1. Chu trình cung ứng thuốc trong bệnh viện[3],[42].

3


Bốn hoạt động trong chu trình đều tác động và ảnh hưởng tới nhau, hoạt động
nào cũng quan trọng đều cần phải được quản lý, thực hiện một cách hợp lý và
hiệu quả[3],[42],[44].
1.1.1. Lựa chọn thuốc
Lựa chọn thuốc là quá trình chọn ra những chủng loại thuốc đáp ứng cho điều
trị của từng bệnh viện, hay còn gọi là quá trình xây dựng danh mục thuốc (DMT)
bệnh viện. Mỗi bệnh viện có DMT khác nhau, được xây dựng hàng năm theo
nhu cầu điều trị hợp lý của các khoa lâm sàng. Lựa chọn thuốc phù hợp sẽ góp
phần rất lớn trong công tác điều trị, quản lý của bệnh viện. Một danh mục thuốc
có quá nhiều thuốc không cần thiết sẽ dẫn đến sử dụng lãng phí nguồn kinh phí
của nhà nước cũng như của bệnh nhân.

Khoa Dược (KD) sẽ xây dựng DMT bệnh viện và thông qua Hội đồng thuốc
và điều trị (HĐT và ĐT) góp ý chỉnh sửa, sau khi HĐT và ĐT thống nhất, khoa
Dược tổng hợp thành danh mục dự thảo và trình lên Giám đốc bệnh viện xem xét
và ký duyệt ban hành danh mục chính thức. Việc lựa chọn danh mục thuốc trong
bệnh viện phải căn cứ vào các yếu tố sau:
- Mô hình bệnh tật (MHBT) của địa phương và cơ cấu bệnh tật do
bệnh viện thống kê hàng năm;
- Trình độ cán bộ và theo danh mục kỹ thuật mà bệnh viện được thực
hiện;
- Danh mục thuốc chủ yếu sử dụng tại các cơ sở khám chữa bệnh do
Bộ Y Tế (BYT) ban hành.
- Khả năng kinh phí của bệnh viện: ngân sách Nhà nước, thu một
phần viện phí và Bảo Hiểm y tế (BHYT).
- Xem xét một số tiêu chí như an toàn, hiệu quả điều trị, hiệu quả chi phí hoặc nguồn cung ứng tại chỗ.
DMT bệnh viện phải được rà soát, bổ sung, hiệu chỉnh hàng năm cho phù
hợp với tình hình thực tế điều trị [3],[7],[28].

4


1.1.2. Mua thuốc
Hoạt động mua thuốc tại bệnh viện được bắt đầu là lập kế hoạch và tính toán
số lượng mua thuốc của cả năm, sau đó lựa chọn phương thức mua thuốc và
trình cấp có thẩm quyền phê duyệt, lựa chọn nguồn cung ứng, ký hợp đồng mua
thuốc, từ đó làm dự trù mua thuốc. Quá trình mua thuốc phải luôn có sự giám sát
đặc biệt là giám sát nhập hàng, kiểm soát chất lượng thuốc. Hoạt động mua
thuốc kết thúc khi thuốc đã được kiểm nhập vào kho thuốc của KD[3],[28].
* Lựa chọn phương thức mua thuốc
Các hình thức lựa chọn bên bán:
+ Đấu thầu rộng rãi: Là hình thức không hạn chế số lượng nhà thầu tham

gia. Bên mời thầu phải thông báo công khai về các điều kiện, thời gian dự thầu
trên các phương tiện thông tin đại chúng tối thiểu 10 ngày trước khi phát hành hồ
sơ mời thầu. Đấu thầu rộng rãi là hình thức chủ yếu được áp dụng trong đấu thầu
[18],[36].
+ Đấu thầu hạn chế: là hình thức đấu thầu mà bên mời thầu mời một số
nhà thầu có đủ năng lực tham dự.
+ Chỉ định thầu: là hình thức chọn trực tiếp nhà thầu đáp ứng yêu cầu của
gói thầu để thương thảo hợp đồng.
+ Chào hàng cạnh tranh.
+ Mua sắm trực tiếp.
+ Tự thực hiện.
+ Mua sắm đặc biệt.
Các hình thức đấu thầu thuốc sử dụng tại bệnh viện ở Việt Nam hiện nay
• Đấu thầu tập trung: Sở Y Tế (SYT) tổ chức đấu thầu tập trung cho các cơ sở
khám chữa bệnh trên địa bàn tỉnh. Căn cứ kết quả đấu thầu này, các cơ sở
khám chữa bệnh ký hợp đồng cung ứng thuốc với nhà cung ứng thuốc trúng
thầu để thực hiện cung ứng thuốc cho cơ sở khám chữa bệnh.

5


• Đấu thầu tại Bệnh viện Đa khoa tỉnh: Các cơ sở khám chữa bệnh khác căn cứ
kết quả đấu thầu tại Bệnh viện Đa khoa tỉnh để ký kết hợp đồng với nhà cung
ứng thuốc để thực hiện cung ứng thuốc cho cơ sở khám chữa bệnh (KCB).
• Đấu thầu riêng lẻ: Tự các cơ sở KCB tổ chức đấu thầu riêng lẻ[18].
* Lựa chọn nhà cung ứng
Lựa chọn nhà cung ứng chính là tổ chức để chọn ra nhà thầu có năng lực đáp
ứng được đầy đủ các yêu cầu của bên mời thầu.
Việc tổ chức đấu thầu phải được thực hiện theo đúng các thông tư, nghị định
của Chính phủ về việc đấu thầu mua sắm hàng hoá[36]. Thực hiện đúng các

thông tư liên tịch (TTLT) của Bộ Y tế và Bộ tài chính (BTC) về hướng dẫn đấu
thầu mua thuốc trong cơ sở Y tế.
Những thông tư về đấu thầu thuốc của BYT-BTC hướng dẫn từ năm 2007
đến nay:
Năm 2007 BYT-BTC ban hành thông tư số 10/2007/TTLT-BYT-BTC
“Hướng dẫn đấu thầu mua thuốc trong các cơ sở Y tế công lập”
Năm 2012 ngày 19/01/2012 BYT-BTC ban hành thông tư số 01/2012/TTLTBYT-BTC “Hướng dẫn đấu thầu mua thuốc trong các cơ sở Y tế”
* Giám sát đơn đặt hàng
Hội đồng kiểm nhập thuốc bệnh viện phải giám sát đơn đặt hàng xem có đúng số
lượng, chủng loại và chất lượng, đơn giá như đã quy định trước đó hay không.
* Nhận thuốc và kiểm tra thuốc
+ Thuốc phải đi thẳng từ nơi mua thuốc về bệnh viện.
+ Thuốc phải được bảo quản ở điều kiện theo đúng yêu cầu kỹ thuật cả
trong lúc vận chuyển.
+ Hàng nguyên đai, nguyên kiện, nếu bị thiếu phải báo cho cơ sở cung
cấp để bổ sung.
+ Thuốc gây nghiện, thuốc hướng tâm thần phải làm biên bản kiểm nhập
riêng theo quy chế.

6


+ Các lô thuốc có tác dụng sinh học mạnh phải có giấy báo lô sản xuất
và hạn dùng kèm theo[7],[12].
* Các phương thức thanh toán tiền thuốc
- Phương thức thanh toán bằng tiền mặt, séc, chuyển khoản.
* Thu thập thông tin về tiêu thụ: Thông qua các báo cáo sử dụng, đánh giá lại
những thuốc đã lựa chọn để chuẩn bị cho chu kỳ mua thuốc tiếp theo.
1.1.3. Tồn trữ, cấp phát thuốc
Sau khi hoạt động mua thuốc kết thúc, thuốc được nhập vào kho tại KD, thủ

kho có trách nhiệm dự trữ, bảo quản, cấp phát thuốc, theo quy định. Định kỳ và
đột xuất, khoa Dược phải tổ chức kiểm soát chất lượng thuốc.
Về tổ chức kho thuốc
- Kho chính: Thủ kho là dược sĩ đại học (DSĐH), giúp trưởng khoa lập dự
trù mua thuốc phải nắm vững tình hình tồn kho, cấp phát thuốc cho các kho lẻ.
- Kho cấp phát lẻ: Cấp phát cho các khoa điều trị, khoa khám bệnh.
Căn cứ vào nhu cầu điều trị của mỗi BV làm sao cho đảm bảo quá trình xuất
nhập kho an toàn, hợp lý và luôn có sự quản lý cấp phát, kiểm tra giám sát từ
khâu cấp phát đến khoa phòng và đến tay bệnh nhân, thực hiện tốt quá trình kiểm
kê, dự trữ và các biện pháp kỹ thuật bảo quản thuốc [3],[29].
Yêu cầu về vị trí, thiết kế kho
Kho thuốc được bố trí ở nơi cao ráo, an toàn, thuận tiện cho việc xuất, nhập,
vận chuyển và bảo vệ, đảm bảo vệ sinh, chống nhiễm khuẩn, diện tích kho cần
đủ rộng để bảo đảm việc bảo quản thuốc, đáp ứng với yêu cầu của từng mặt hàng
thuốc, kho hóa chất (pha chế, sát khuẩn) bố trí ở khu vực riêng;
Yêu cầu về trang thiết bị
- Trang bị tủ lạnh để bảo quản thuốc có yêu cầu nhiệt độ thấp;
- Kho có quạt thông gió, điều hòa nhiệt độ, nhiệt kế, ẩm kế, máy hút ẩm;
- Các thiết bị dùng để theo dõi điều kiện bảo quản phải được hiệu chuẩn định
kỳ;
- Có đủ giá, kệ, tủ để xếp thuốc; khoảng cách giữa các giá, kệ đủ rộng để vệ sinh
và xếp dỡ hàng;

7


- Đủ trang thiết bị cho phòng cháy, chữa cháy (bình cứu hỏa, thùng cát, vòi
nước)[7].
Quy định về bảo quản
Thuốc, hoá chất, vắc xin, sinh phẩm được bảo quản đúng yêu cầu điều kiện

bảo quản do nhà sản xuất ghi trên nhãn hoặc theo yêu cầu của hoạt chất (với
các nhà sản xuất không ghi trên nhãn) để đảm bảo chất lượng của sản phẩm. Có
sổ theo dõi công tác bảo quản, kiểm soát, sổ theo dõi nhiệt độ, độ ẩm tối thiểu 2
lần (sáng, chiều) trong ngày và theo dõi xuất, nhập sản phẩm. Cần phải kiểm
soát đặc biệt đối với (thuốc gây nghiện, thuốc hướng tâm thần và tiền chất dùng
làm thuốc, thuốc phóng xạ). Thuốc bảo quản ở điều kiện nhiệt độ đặc biệt thì
bảo quản theo quy định hiện hành và yêu cầu của nhà sản xuất.
- Tránh ánh sáng trực tiếp và các tác động khác từ bên ngoài.
- Theo dõi hạn dùng của thuốc thường xuyên. Khi phát hiện thuốc gần hết hạn
sử dụng hoặc thuốc còn hạn sử dụng nhưng có dấu hiệu nứt, vỡ, biến màu,
vẩn đục phải để khu vực riêng chờ xử lý.
- Thuốc, hoá chất dễ cháy nổ, vắc xin, sinh phẩm bảo quản tại kho riêng.
- Kiểm tra sức khỏe đối với thủ kho thuốc, hóa chất: 6 tháng/lần [7].
Cấp phát thuốc
Khoa Dược đảm bảo phát thuốc đầy đủ và kịp thời cho các khoa phòng và
bệnh nhân (BN) ngoại trú có thẻ BHYT. Đối với đơn thuốc cấp cho BN ngoại
trú sau khi được kiểm duyệt, bệnh nhân nhận thuốc tại nơi cấp thuốc ngoại trú.
Đối với thuốc cho BN nội trú, điều dưỡng tổng hợp thuốc từ bệnh án vào sổ
tổng hợp thuốc sau đó vào phiếu lĩnh thuốc, riêng thuốc gây nghiện, thuốc
hướng tâm thần vào phiếu riêng. Phiếu lĩnh thuốc phải được trưởng khoa hoặc
người được trưởng khoa uỷ quyền phê duyệt. Nếu đơn thuốc, phiếu lĩnh thuốc
sai sót khoa Dược có quyền từ chối cấp phát và thông báo lại với bác sĩ (BS),
phối hợp với BS lâm sàng trong việc điều chỉnh đơn hoặc thay thế đơn
thuốc[8].
• Tùy thuộc vào điều kiện nhân lực của đơn vị, Khoa Dược đưa thuốc đến các
khoa lâm sàng hoặc khoa lâm sàng nhận thuốc tại khoa Dược theo quy định
của Giám đốc bệnh viện.

8



• Kiểm tra, đối chiếu khi cấp phát thuốc:
- Thể thức phiếu lĩnh thuốc hoặc đơn thuốc;
- Kiểm tra tên thuốc, nồng độ (hàm lượng), dạng bào chế, liều dùng, đường
dùng, khoảng cách dùng thuốc trên đơn thuốc với thuốc sẽ giao;
- Nhãn thuốc, chất lượng thuốc;
- Số lượng, số khoản thuốc trong đơn thuốc, phiếu lĩnh thuốc với số thuốc sẽ
giao;
Sau khi cấp phát phải vào thẻ kho theo dõi thuốc hàng ngày, cấp phát thuốc
theo nguyên tắc thuốc nhập trước xuất trước, thuốc có hạn ngắn hơn xuất trước.
Thuốc cấp phát phải đảm bảo còn hạn sử dụng và đảm bảo chất lượng.
Quản lý tồn trữ, cấp phát thuốc
Tất cả các thuốc trước khi cấp phát cho các khoa phòng trong giờ hành chính
đều phải được Trưởng khoa Dược hoặc Dược sĩ (DS) được ủy quyền duyệt phiếu
lĩnh thuốc. Hàng tháng cán bộ Thống kê dược có trách nhiệm theo dõi, thống kê
chính xác số liệu nhập, xuất và báo cáo cho Trưởng khoa Dược. Định kỳ Hội
đồng kiểm kê, bộ phận Nghiệp vụ dược phải thực hiện kiểm kê, đánh giá chất
lượng của thuốc, kiểm tra việc bảo quản, quản lý cấp phát thuốc tại khoa Dược
và việc sử dụng và bảo quản thuốc trong tủ trực tại các khoa lâm sàng[7],[8].
Sơ đồ cấp phát thuốc của khoa Dược:

Kho chính
Kiểm tra đối chiếu

Kiểm tra đối chiếu

Kho lẻ
Cấp phát ngoại trú
Các khoa lâm sàng
Kiểm tra

đối chiếu

Bệnh nhân nội trú

9

Kiểm tra
đối chiếu Bệnh nhân ngoại trú


Hình 1.2. Sơ đồ quy trình cấp phát thuốc của khoa Dược
1.1.4. Sử dụng thuốc
Sử dụng thuốc là hoạt động chuyên môn nhằm giúp bệnh nhân sử dụng
thuốc được an toàn, hợp lý đảm bảo phát huy được chất lượng của thuốc đạt hiệu
quả điều trị cao, thuốc được sử dụng đúng người, đúng bệnh. Đó cũng luôn là
mục tiêu đầu tiên trong công tác điều trị[38],[42].
Ngày 10/6/2011 BYT đã ban hành thông tư số 23/2011/TT-BYT về hướng
dẫn sử dụng thuốc trong các cơ sở Y tế có giường bệnh.
Trong thông tư quy định rất rõ về trách nhiệm của từng chức danh, từng bộ phận
khoa phòng trong việc sử dụng thuốc cho BN[8].
Chu trình sử dụng thuốc được mô tả ở hình 1.3.

Chẩn đoán

Sự tuân thủ của
người bệnh

Kê đơn

Giao phát thuốc


Hình 1.3. Chu trình sử dụng thuốc

10


* Chẩn đoán, kê đơn: Khi khám bệnh, thày thuốc phải chẩn đoán, khai
thác tiền sử dùng thuốc, tiền sử dị ứng của bệnh nhân, liệt kê các thuốc mà người
bệnh đã dùng trước đó, và diễn biến lâm sàng của người bệnh để kê đơn, ra y
lệnh dùng thuốc cho BN. Trong điều trị nội trú trường hợp người bệnh đã được
lựa chọn thuốc và liều thích hợp, thời gian chỉ định thuốc tối đa không quá 2
ngày đối với ngày làm việc và không quá 3 ngày đối với ngày nghỉ. Ghi chỉ định
thuốc theo trình tự đường tiêm, uống, đặt, dùng ngoài và các đường dùng khác.
Đối với chỉ định thuốc kháng sinh, thuốc phóng xạ, thuốc gây nghiện hướng tâm
thần, corticoid, thuốc điều trị lao phải đánh số thứ tự.
Việc kê đơn, chỉ định dùng thuốc phải được kê đơn theo đúng quy định về
kê đơn thuốc nội trú, ngoại trú[8], [13].
* Giao phát thuốc: Khoa Dược tổ chức cấp phát thuốc bảo đảm chất lượng,
phát thuốc kịp thời để người bệnh được dùng thuốc đúng thời gian. Thuốc sau
khi được đóng gói và dán nhãn sẽ được cấp phát cho bệnh nhân, trước khi cho
người bệnh dùng thuốc điều dưỡng phải công khai thuốc cho bệnh nhân, kiểm tra
thuốc so với y lệnh, kiểm tra hạn sử dụng và chất lượng cảm quan của thuốc[8].
* Sự tuân thủ của người bệnh: Người bệnh phải tuân thủ điều trị, không tự
ý bỏ thuốc hoặc tự ý dùng thuốc không đúng chỉ định của thày thuốc, các khoa
lâm sàng phải có trách nhiệm trong việc cho người bệnh dùng thuốc và phải có
hướng dẫn theo dõi việc dùng thuốc của bệnh nhân.
- Thông tin về thuốc cho bệnh nhân và hướng dẫn, giải thích bệnh nhân
tuân thủ điều trị.
- Theo dõi, giám sát, việc sử dụng thuốc của người bệnh trong quá trình
điều trị.

- Đảm bảo 5 đúng: đúng người bệnh, đúng thuốc, đúng liều dùng, đúng
đường dùng, đúng thời gian.
- Trực tiếp chứng kiến người bệnh dùng thuốc và theo dõi phát hiện kịp
thời các bất thường của người bệnh trong khi dùng thuốc.

11


Từ các khâu chẩn đoán, kê đơn, cấp phát đến thông tin thuốc và theo dõi
dùng thuốc chính là quá trình chăm sóc bằng thuốc cho bệnh nhân. Trong quá
trình này cần xây dựng mối quan hệ hợp tác chặt chẽ giữa BS (chịu trách nhiệm
về chỉ định), DS (thông tin và tư vấn), Điều dưỡng (ĐD) là người thực hiện y
lệnh và người bệnh, do đó lấy người bệnh là trung tâm[8], [15], [16],[38].
1.2. THỰC TRẠNG CÔNG TÁC CUNG ỨNG THUỐC TRONG BỆNH
VIỆN HIỆN NAY
1.2.1. Công tác cung ứng thuốc tại một số nước trên thế giới
Trong những năm gần đây cùng với sự tiến bộ của khoa học kỹ thuật và
phát triển nền kinh tế thị trường và sự quan tâm hơn đến sức khoẻ của người dân
đã ảnh hưởng không nhỏ đến ngành Dược. Giá trị sử dụng thuốc trên thế giới
ngày càng tăng với tỉ lệ tăng trưởng cao, thị trường dược phẩm thế giới ngày
càng phát triển đa dạng về chủng loại thuốc, dạng bào chế và mẫu mã hiện đại.
Hệ thống cung ứng thuốc cũng phát triển mạnh và đa dạng các loại hình cung
ứng. Các công ty, tập đoàn dược phẩm hàng đầu thế giới hoạt động mang tính
cung ứng toàn cầu chi phối phân phối thuốc trên toàn thế giới. Các công ty Dược
phẩm cũng rất chú trọng cho việc nghiên cứu thuốc mới, chi phí cho nghiên cứu
cũng chiếm bình quân 15% doanh số bán của công ty[2]. Hệ thống cung ứng
thuốc và sự phân bố sử dụng thuốc có sự chênh lệch giữa các nước, kinh phí sử
dụng thuốc trong bệnh viện thường chiếm tỉ lệ rất lớn trong tổng ngân sách của
một BV, nó có thể chiếm tỉ lệ 40- 60% đối với các nước đang phát triển và 1520% đối với các nước phát triển[3], [41].
Tại các nước phát triển và một số nước đang phát triển, công tác Dược

bệnh viện đã đảm bảo nhiệm vụ quản lý thuốc đến từng bệnh nhân với sự có mặt
của DS lâm sàng tại bệnh phòng, phòng phẫu thuật, nhằm kiểm soát mọi vấn đề
trong kê đơn, trong quá trình sử dụng thuốc của người bệnh. Vai trò của HĐT và
ĐT rất quan trọng trong đảm bảo an toàn trong sử dụng thuốc tại bệnh viện.
HĐT và ĐT tư vấn cho BS, DS, và các nhà quản lý thông qua việc cung cấp

12


thông tin liên quan đến lựa chọn, phân phối và sử dụng thuốc. HĐT và ĐT đề
xuất áp dụng các quy định về đánh giá, lựa chọn và sử dụng thuốc, HĐT và ĐT
có thể xây dựng hoặc hỗ trợ xây dựng các quy định hướng dẫn sử dụng thuốc tại
BV[43],[45]. Hầu hết các BV có Đơn vị Thông tin thuốc riêng được trang bị đầy
đủ cơ sở, các trang thiết bị như máy vi tính, phần mềm, các nguồn tra cứu thông
tin chính thống như: sách, các tài liệu chuyên môn chuẩn, thông tin về thuốc
mới, tạp chí, các kết quả nghiên cứu hay thử nghiệm lâm sàng mới, các thông tin
về phản ứng bất lợi của thuốc (ADR) được gắn liền với hệ thống thông tin quốc
gia. Tổ thông tin thuốc này có trách nhiệm về mọi thông tin thuốc và trả lời mọi
thắc mắc cho cán bộ y tế cũng như BN của bệnh viện[38], [43],[53].
Ngoài ra, với việc ứng dụng khoa học công nghệ, hệ thống quản lý công
nghệ thông tin được nối mạng trong toàn bệnh viện, đơn thuốc sau khi duyệt sẽ
được chuyển dữ liệu về chương trình hoạt động của máy chia thuốc và hệ thống
cấp phát thuốc tự động sẽ chia thuốc, đóng gói cụ thể cho từng bệnh nhân theo
liều dùng hàng ngày. Điều này sẽ giảm thiểu được sai sót và thầy thuốc có nhiều
thời gian để chăm sóc người bệnh [43],[51],[52].
1.2.2. Tình hình cung ứng thuốc BV ở nước ta trong những năm gần đây
Ngành dược Việt Nam (VN) chịu ảnh hưởng lớn của nền kinh tế toàn cầu
khi VN gia nhập WTO. Năm 2010, 2011, 2012 là những năm đầy biến động của
nền kinh tế toàn cầu, các doanh nghiệp kinh doanh dược phẩm gặp rất nhiều khó
khăn do ảnh hưởng của sự suy giảm kinh tế toàn cầu dẫn đến ảnh hưởng không

nhỏ tới quá trình cung ứng thuốc. Tuy nhiên ngành Dược VN đã quyết tâm thực
hiện tốt mục tiêu, nhiệm vụ kế hoạch đề ra đảm bảo đủ thuốc cho nhân dân với
giá cả hợp lý. Thuốc sản xuất trong nước đáp ứng 47% nhu cầu về thuốc của
người dân và hiện đang đáp ứng được 234/314 hoạt chất trong danh mục thuốc
thiết yếu của VN lần thứ 5[48]. Đề án quy hoạch chi tiết phát triển công nghiệp
dược Việt Nam giai đoạn đến năm 2020 tầm nhìn đến năm 2030 đã hoàn thành
chờ phê duyệt của Thủ tướng chính phủ. Bộ Y tế đang xây dựng đề án “Người

13


Việt Nam ưu tiên dùng thuốc của Việt Nam” với mục tiêu đẩy mạnh việc sử
dụng thuốc sản xuất trong nước tại các cơ sở Y tế đảm bảo nguồn cung ứng cho
phòng bệnh, chữa bệnh cho nhân dân, không bị lệ thuộc vào nguồn nhập khẩu từ
nước ngoài. Việc quản lý giá thuốc được tăng cường không có sự tăng giá đột
biến, Cục Quản lý Dược đã công khai giá thuốc trúng thầu để các cơ sở KCB
tham khảo khi xây dựng kế hoạch đấu thầu[47], [48].
Công tác cung ứng thuốc cho BN Nhi cũng có nhiều thay đổi, do trước đây
các bệnh viện điều trị riêng cho BN Nhi rất ít, đặc biệt là tại các tỉnh, bệnh nhân
Nhi thường được điều trị trong các khoa Nhi của Bệnh viện Đa khoa hoặc bệnh
viện Sản Nhi. Từ năm 2007 đến nay rất nhiều các bệnh viện Nhi tuyến tỉnh được
thành lập do đó công tác cung ứng thuốc cho BN Nhi cũng được quan tâm chú
trọng hơn, đặc biệt là sự quan tâm trong lựa chọn dạng bào chế, hàm lượng của
thuốc và sự quan tâm về quản lý cấp phát thuốc cũng được tăng cường, do đặc
thù nhiều bệnh nhân Nhi phải dùng ghép mới hết một lọ thuốc, nhiều bệnh viện
đã đóng dấu vào lọ thuốc và thu hồi vỏ lọ đã sử dụng để quản lý số lượng cấp
phát và sử dụng thuốc[25].
Bắt đầu năm 2005 là mốc đánh dấu sự chuyển biến rõ rệt trong công tác cung
ứng thuốc bệnh viện, các cơ sở KCB trong toàn quốc tiếp tục duy trì và tăng
cường kết quả công tác cung ứng, sử dụng thuốc hợp lý, thực hiện tốt Chỉ thị

05/2004/CT-BYT ngày 16/4/2004 của Bộ trưởng Bộ Y tế về việc chấn chỉnh
công tác cung ứng, sử dụng thuốc trong BV[6] cùng với sự ra đời của một loạt
các văn bản:
- Luật Dược số 34/2005/QH11; đã góp phần bình ổn giá cả thị trường dược
phẩm.
- Luật Đấu thầu có hiệu từ ngày 01/04/2006.
- Luật Bảo hiểm y tế.
- Luật Khám chữa bệnh.

14


- Thông tư liên tịch số 10/2007/TT LT-BYT-BTC ngày 10/8/2007 hướng
dẫn đấu thầu mua thuốc trong các cơ sở y tế công lập.
Sau khi các văn bản này có hiệu lực, việc lựa chọn các phương thức đấu thầu
thuốc tại các bệnh viện đã thống nhất và rõ ràng hơn.
Công tác lựa chọn và mua thuốc:

Năm 2011 Bộ Y tế đã ban hành thông tư số

31/2011/TT-BYT ngày 11/07/2011 “ban hành và hướng dẫn thực hiện danh
mục thuốc chủ yếu sử dụng tại các cơ sở khám chữa bệnh được quỹ Bảo hiểm Y
tế thanh toán”. Tất cả các bệnh viện phải thực hiện lựa chọn và mua thuốc trong
danh mục mới được các quỹ BHYT chi trả kinh phí[14].
Đến nay hầu hết các bệnh viện đã có Hội đồng thuốc và điều trị xây dựng
DMT dùng trong bệnh viện; một số bệnh viện tự tổ chức đấu thầu mua thuốc, và
một số còn lại áp dụng đấu thầu tập trung của SYT, việc đấu thầu đều phải thực
hiện theo đúng thông tư liên tịch của BYT-BTC về hướng dẫn đấu thầu mua
thuốc trong các cơ sở y tế, sau đó bệnh viện ký hợp đồng cung ứng với các công
ty trúng thầu, thực hiện vận chuyển, kiểm nhập, cấp phát thuốc theo quy định

[28], [33].
Tuy nhiên, việc mua thuốc tại các bệnh viện vẫn còn nhiều bất cập:
- Kinh phí còn eo hẹp, tình trạng thiếu kinh phí dẫn tới nợ tiền thuốc các
doanh nghiệp từ 3 – 6 tháng khiến cho việc cung ứng chưa kịp thời.
- Mua thuốc từ nhiều nguồn: doanh nghiệp Nhà nước, doanh nghiệp tư
nhân, các hãng thuốc nước ngoài… đây là thuận lợi cho công tác cung ứng
nhưng đồng thời cũng là khó khăn trong việc quản lý và lựa chọn thuốc.
- Phần lớn các bệnh viện vẫn còn gặp khó khăn trong việc triển khai đấu
thầu mua thuốc, đặc biệt là tiêu chuẩn xét thầu chưa đủ để đánh giá chính xác
chất lượng thuốc, quá trình chấm thầu thuốc còn thủ công một số bệnh viện chưa
có áp dụng phần mềm trong đấu thầu thuốc[10],[32],[37].
Công tác cấp phát thuốc: Tại các bệnh viện công tác cấp phát thuốc cũng có
nhiều thay đổi, trước đây Y tá hành chính các khoa đến khoa Dược để lĩnh thuốc

15


cho khoa phòng mình nhưng sau khi có chỉ thị 05/2004/CT-BYT ngày 16/4/2004
của Bộ trưởng Bộ Y tế, khoa Dược một số bệnh viện như Bệnh viện Xanh pôn,
BV đa khoa Nam Định..., đã tổ chức cung ứng thuốc tới khoa lâm sàng để tăng
cường công tác quản lý sử dụng thuốc và tạo điều kiện cho ĐD có thêm thời gian
chăm sóc, phục vụ người bệnh[10]. Từ năm 2006 BYT có đưa vào chấm điểm
yêu cầu tất cả các bệnh viện công lập trong cả nước thực hiện đưa thuốc xuống
khoa lâm sàng. Tuy nhiên cho đến năm 2011 Bộ Y Tế không đưa vào chấm điểm
mà chỉ đưa vào điểm thưởng cho các bệnh viện làm được công tác này, vì thực
chất nhiệm vụ này còn gặp nhiều khó khăn, do khoa Dược thiếu cán bộ chuyên
môn phục vụ, hình thức hoạt động chưa có sự thống nhất, như tại bệnh viện
Xanh Pôn Hà Nội ban đầu thực hiện thí điểm ở năm khoa lâm sàng, trong thời
gian 2 năm thực hiện, sau đó do không đủ nhân lực và không có hiệu quả đã cải
tiến bằng cách cử một DS đi cùng để kiểm tra, giám sát cấp phát thuốc[32]. Một

số BV khác thực hiện tuỳ theo điều kiện đơn vị mình, những bệnh viện không đủ
nhân lực dược vẫn tổ chức để các khoa lâm sàng tới lĩnh thuốc cho bệnh nhân
điều trị nội trú tại khoa Dược, vì vậy trong thông tư số 22/2011/TT-BYT “ Quy
định tổ chức và hoạt động của khoa Dược bệnh viện” đã quy định: tuỳ thuộc vào
điều kiện nhân lực của đơn vị, khoa Dược đưa thuốc đến các khoa lâm sàng hoặc
khoa lâm sàng đến khoa Dược lĩnh thuốc theo quy định của Giám đốc bệnh
viện[7], [31], [32].
Sử dụng thuốc: Việc sử dụng thuốc tại các bệnh viện được thực hiện tuỳ
thuộc vào điều kiện nhân lực và trang thiết bị tại từng bệnh viện, hiện nay việc
sử dụng thuốc tại các BV đã có thông tư hướng dẫn về sử dụng thuốc trong điều
trị nội trú tại bệnh viện có giường bệnh[8]. Công tác thông tin thuốc và theo dõi
ADR đã hình thành, nhưng mới hoạt động mạnh ở một số thành phố lớn, còn tại
các bệnh viện ở nhiều địa phương chưa triển khai hoặc đã triển khai nhưng cơ sở
vật chất còn quá nghèo nàn, thiếu DSĐH làm việc tại các bệnh viện, đặc biệt là

16


BV tuyến huyện. HĐT và ĐT đã hoạt động thường quy, nhưng chưa thực sự đem
lại hiệu quả trong công tác điều trị, còn mang tính hình thức [9], [27], [33].
Dược lâm sàng (DLS) ở nước ta đã triển khai được hơn 10 năm nay, tuy
nhiên cho đến nay vẫn tập trung ở một số bệnh viện Trung ương và một số BV
lớn ở Hà Nội, thành phố Hồ Chí Minh như Bệnh viện Bạch Mai, Bệnh viện
Nhân Dân 115, Bệnh viện Chợ Rẫy. Khoa Dược BV đã triển khai công tác DLS,
hướng dẫn sử dụng thuốc an toàn hiệu quả, nhưng nhìn chung chức năng này còn
khá mờ nhạt, công việc chủ yếu vẫn là xây dựng DMT sử dụng trong BV và
tham mưu cho Lãnh đạo bệnh viện trong công tác đấu thầu thuốc. Các BV tuyến
tỉnh, nhất là là tuyến huyện thì công tác Dược lâm sàng chưa đáp ứng được yêu
cầu, nhiều nơi chưa thực hiện được công tác này, nguyên nhân chủ yếu vẫn là do
thiếu nhân lực. Tỉ lệ nhân lực KD so với nhân lực của toàn bệnh viện đều thiếu,

tại bệnh viện Nhi Thái Bình là 7,39%, Bệnh viện Hữu Nghị là gần 5%, bệnh viện
Giao thông vận tải I là 2%, đặc biệt là thiếu Dược sĩ đại học, do đó công tác DLS
đều được làm kiêm nhiệm[26], [31], [39].
Ngày 20/12/2012 BYT ban hành thông tư số 31/2012/TT-BYT về
“Hướng dẫn hoạt động Dược lâm sàng trong bệnh viện” yêu cầu Dược sĩ làm
công tác Dược lâm sàng phải đáp ứng một trong các điều kiện sau: Phải có
chứng chỉ thực hành DLS, hoặc được đào tạo đại học chuyên ngành định hướng
DLS hoặc đào tạo sau đại học chuyên ngành Dược lý DLS.
1.3. ỨNG DỤNG CÔNG NGHỆ THÔNG TIN TRONG QUẢN LÝ BV TẠI
VIỆT NAM
1.3.1. Khái niệm về công nghệ thông tin (CNTT)
Từ năm 1970-1990 mọi người thường gọi là tin học (tiếng Pháp là
Informatique và tiếng anh là Computer science) năm 1990 trở lại đây thường hay
dùng là công nghệ thông tin, viết tắt là CNTT (tiếng Anh: Information
Technology hay là IT) là một ngành ứng dụng công nghệ điện tử và truyền thông
trong quản lý và xử lý thông tin. Ở Việt Nam, khái niệm CNTT được hiểu và

17


định nghĩa trong nghị quyết của chính phủ số 49/CP ngày 04/08/1993: Công
nghệ thông tin là tập hợp các phương pháp khoa học, các phương tiện và công
cụ kỹ thuật hiện đại chủ yếu là máy tính và viễn thông nhằm tổ chức khai thác và
sử dụng có hiệu quả các nguồn tài nguyên thông tin rất phong phú và tiềm năng
trong mọi lĩnh vực hoạt động của con người và xã hội[23].
1.3.2. Các khái niệm về CNTT trong Y tế
Công nghệ thông tin trong Y tế là sự kết hợp của khoa học thông tin, khoa
học máy tính và chăm sóc sức khỏe. CNTT giải quyết các vấn đề về nguồn lực,
thiết bị và các biện pháp được yêu cầu để tối ưu hóa thu nhập, lưu trữ, khôi phục
và sử dụng các thông tin về sức khỏe và y sinh học. Việc ứng dụng CNTT trong

Y tế không chỉ bao gồm máy tính mà còn là các chỉ dẫn lâm sàng, các thông tin
Y tế và hệ thống trao đổi và tương tác thông tin. CNTT Y tế áp dụng vào tất cả
các lĩnh vực bao gồm chăm sóc lâm sàng, ĐD, Dược, vật tư, sức khỏe cộng đồng
và các nghiên cứu về Y tế.
CNTT Y tế là việc áp dụng quá trình xử lý thông tin liên quan tới phần mềm
máy tính và các phần mềm để giải quyết việc lưu trữ, khôi phục, chia sẻ và sử
dụng các thông tin Y tế, các kiến thức cho việc giao tiếp và quyết định lựa
chọn[35], [52].
1.3.3. Tình hình ứng dụng CNTT trong quản lý bệnh viện tại Việt Nam
Ngày nay ứng dụng CNTT trong Y tế đã góp phần giải quyết được nhiều
vấn đề trong công tác Y tế một cách hữu hiệu. Công nghệ thông tin tại VN đã
thâm nhập vào nhiều lĩnh vực của Y tế, làm thay đổi diện mạo hoạt động chăm
sóc sức khoẻ, đặc biệt là việc ứng dụng CNTT Y tế vào các bệnh viện. Các thiết
bị y khoa điện tử giúp chẩn đoán chính xác, máy xét nghiệm, các thiết bị điện
tâm đồ, điện não đồ .. được số hoá, phần mềm quản lý bệnh viện giữ vai trò quan
trọng giúp cho các bệnh viện giảm đi một khối lượng lớn công việc của ngành Y
tế. Tuy vậy việc ứng dụng phần mềm quản lý bệnh viện tại các bệnh viện trên
toàn quốc còn mang tính tản mạn và tự phát. Hậu quả của việc này là các phần

18


mềm không đồng bộ, không có tính thống nhất, giá thành cao, gây lãng phí và
tốn kém[34],[49].
CNTT Y tế ở nước ta có nhiều khó khăn, thách thức và đồng thời cũng có
nhiều triển vọng. Đòi hỏi CNTT Y tế Việt nam phải từng bước đuổi kịp và tránh
tụt hậu so với các nước khác trong khu vực và trên thế giới, yêu cầu phải xây
dựng được phần mềm quản lý Y tế và các phần mềm ứng dụng khác trong Y tế
có chất lượng cao, đáp ứng nhu cầu trong nước và hướng tới xuất khẩu. Thuận
lợi và triển vọng lớn của CNTT Y tế nước ta là việc rút kinh nghiệm và kế thừa

các thành tựu của các nước đi trước trong kỹ thuật ứng dụng CNTT Y tế [35].
Theo khảo sát của Vụ điều trị năm 2005 cho thấy chỉ có 5% bệnh viện có
trang bị phần mềm quản lý bệnh viện, tuy nhiên có những phần mềm không thật
sự là phần mềm quản lý bệnh viện đúng nghĩa, mà chỉ là các modul rời rạc. Đến
năm 2012 đã có hơn 65% bệnh viện toàn quốc ứng dụng phần mềm báo cáo
thống kê của bệnh viện, 20% bệnh viện đã xây dựng hệ thống phần mềm quản lý
bệnh viện đồng bộ và ứng dụng thành công tin học hóa quản lý bệnh viện và đã
đạt hiệu quả đáng kể trong công tác quản lý bệnh viện. Tuy vậy trình độ ứng
dụng công nghệ thông tin trong quản lý bệnh viện ở Việt Nam còn thấp so với
nhiều ngành khoa học khác và còn kém xa các nước trung bình tiên tiến trong
khu vực, việc ứng dụng CNTT trong ngành Y tế chỉ mới dừng lại ở mức độ tính
toán, ít phục vụ cho chuyên môn kỹ thuật của bệnh viện [1], [34], [40].
Nhằm thực hiện chủ trương của Đảng và Nhà nước, nhằm tăng cường đẩy
mạnh ứng dụng công nghệ thông tin và truyền thông trong các hoạt động của xã
hội đã được cụ thể hóa qua Nghị định 64/2007/NĐ-CP của Chính phủ về ứng
dụng CNTT trong hoạt động của cơ quan nhà nước, Quyết định 32/2006/QĐTTG của Thủ tướng Chính phủ về kế hoạch phát triển viễn thông Internet, Quyết
định 43/2008/QĐ – TTg về phê duyệt kế hoạch ứng dụng CNTT trong hoạt động
của cơ quan nhà nước để góp phần nâng cao chất lượng bảo vệ và chăm sóc sức
khỏe nhân dân[19], [20].

19


Bộ Y tế đã ban hành Chỉ thị số 02/CT-BYT ngày 25 tháng 02 năm 2009
và công văn số: 5842/BYT- K2ĐT về việc đẩy mạnh ứng dụng và phát triển
công nghệ thông tin trong ngành Y tế [20]. Năm 2011 Bộ Y Tế ban hành quyết
định số 2360/QĐ-BYT về việc phê duyệt kế hoạch ứng dụng và phát triển công
nghệ thông tin của Bộ Y tế giai đoạn từ năm 2011 đến năm 2015[21]. Ngay
trong năm 2012, Bộ Y Tế tập trung triển khai một số dự án ưu tiên nhằm tăng
cường ứng dụng CNTT phục vụ công tác bảo vệ, chăm sóc nâng cao sức khoẻ

nhân dân như xây dựng trung tâm tích hợp dữ liệu Bộ Y Tế, đăng ký vốn cho
cho dự án “Bệnh án điện tử và quản lý hệ thống khám chữa bệnh”, xây dựng
chuẩn CNTT trong Ngành Y Tế, nâng cao năng lực hệ thống thông tin Y tế[1].
1.3.4. Ứng dụng công nghệ thông tin trong quản lý Dược bệnh viện
Trong quản lý Dược bệnh viện, ứng dụng CNTT có vai trò quan trọng và là
một trong những yêu cầu cấp thiết phải thực hiện khi tiến hành ứng dụng công
nghệ thông tin trong quản lý BV. Trước đây, các báo cáo thống kê về sử dụng
thuốc các bệnh viện phải làm bằng thủ công theo mẫu quy định, mỗi lần làm 2
bộ một bộ lưu và một bộ gửi về cho Sở Y Tế. Việc kê đơn, lĩnh thuốc của các
khoa phòng đều viết tay sau đó khoa Dược nhập lại số liệu làm thống kê báo cáo,
mất rất nhiều thời gian. Hiện nay một số BV đã ứng dụng phần mềm quản lý
Dược do Trung tâm Công nghệ thông tin Y tế xây dựng, khoa Dược nối kết với
bộ phận kê đơn điện tử để cung cấp thông tin về danh mục, số lượng, đơn giá
cho BS biết và ngược lại đơn thuốc, y lệnh dùng thuốc của BS cũng được chuyển
lên khoa Dược để khoa Dược quản lý và cấp phát mà không cần phải nhập liệu
và tính toán lại. Nhìn chung các phần mềm này mới đáp ứng tương đối các yêu
cầu quản lý Dược vật tư và một số báo cáo thống kê của BYT và Sở Y Tế, chưa
đem lại hiệu quả cho các bệnh viện trong công tác quản lý, và rất tốn kém nhân
lực nhập số liệu. Còn nhiều bệnh viện vẫn đang quản lý thông qua sổ sách báo
cáo, bảng biểu, các phiếu bằng viết tay, hay ứng dụng CNTT qua chế bản từ
những phần mềm trên các máy hoạt động riêng lẻ, chưa thực sự ứng dụng CNTT

20


đồng bộ trong quản lý cung ứng thuốc, do đó rất khó khăn trong quản lý cấp phát
thuốc tại khoa lâm sàng và giám sát kê đơn hợp lý [25], [34], [50].
Ứng dụng công nghệ thông tin trong hoạt động cung ứng thuốc còn chưa có
một phần mềm thống nhất trong toàn quốc, do đó các bệnh viện đều quản lý
thuốc sử dụng trong bệnh viện theo mã riêng của mình, gây hạn chế cho việc

tổng hợp số liệu. Để các BV đều sử dụng chung phần mềm, giúp cho việc quản
lý, và các bệnh viện có thể sử dụng chung một cơ sở dữ liệu về tương tác và
phản ứng có hại của thuốc. Cần có phần mềm thống nhất và xây dựng bộ mã
thuốc theo tiêu chuẩn quốc tế (ATC) để các cơ quan chủ quản như Sở Y Tế địa
phương, Bộ Y Tế có những con số thống kê chính xác về tình hình cấp phát, sử
dụng thuốc tại các bệnh viện trực thuộc [1], [12], [20].
Việc ứng dụng công nghệ thông tin trong quản lý Dược vật tư là thực hiện
được, và đem lại lợi ích rõ rệt. Thực tiễn cho thấy những bệnh viện như Bệnh
viện Bạch Mai, Bệnh viện Phụ Sản Trung Ương, Bệnh viện Nhi Trung Ương,
Bệnh viện Nhân Dân 115, Bệnh viện Kiên Giang, Bệnh viện Đa khoa Phú Quốc..
đã ứng dụng công nghệ thông tin trong khâu quản lý Dược vật tư đều đạt được
hiệu quả nhất định, đó là những bước đầu thành công trong việc ứng dụng Công
nghệ thông tin trong bệnh viện [32], [39], [40], [46].
1.4. MỘT VÀI NÉT VỀ BỆNH VIỆN NHI THANH HOÁ
1.4.1. Đặc điểm tình hình
Bệnh viện Nhi Thanh Hoá được thành lập theo quyết định 1348/2001/QĐUBND ngày 01 tháng 6 năm 2001 của UBND tỉnh Thanh Hoá trên cơ sở từ hai
khoa Nội nhi và Ngoại nhi của Bệnh viện Đa khoa tỉnh Thanh Hoá, theo kế
hoạch đến năm 2010 là 500 giường bệnh. Tuy nhiên bệnh viện chính thức đi vào
hoạt động và đón tiếp bệnh nhân từ tháng 09/2007 được phân hạng bệnh viện đa
khoa hạng II với quy mô 200 giường bệnh bao gồm 09 khoa lâm sàng, 03 khoa
cận lâm sàng, và 04 phòng chức năng. Công suất giường bệnh tại bệnh viện lúc

21


nào cũng từ 400- 500 BN điều trị nội trú và 500-600 lượt bệnh nhân đến khám
mỗi ngày. Năm 2012 bệnh viện được tăng lên là 400 giường bệnh, tháng 8/2012
bệnh viện được nâng hạng là hạng I và tăng thêm một số khoa phòng.
1.4.2. Mô hình tổ chức của bệnh viện
Ban giám đốc


Các đoàn thể

Khối lâm sàng: 14
khoa LS (01 phòng
mổ, 01 phòng khám
và 12 khoa đièu trị)

Hội đồng tư vấn:
HĐ Khoa học
HĐ thuốc và điều trị

Khối cận lâm
sàng 6 khoa:
Khoa Dược, 5
khoa CLS

Các phòng chức
năng: 6 phòng

Hình 1.4. Sơ đồ mô hình tổ chức của Bệnh viện Nhi năm 2012
1.4.3. Cơ cấu nhân lực
Bảng 1.1. Cơ cấu nhân lực của Bệnh viện Nhi
STT
1
2
3
4
5
6

7
8
9
10
11

Trình độ
Bác sĩ chuyên khoa (CK)II
Thạc sỹ
Bác sĩ CKI
Bác sĩ
Dược sĩ CKI
Dược sĩ đại học
Dược sĩ trung cấp
Đại học điều dưỡng
Cao đẳng điều dưỡng
Điều dưỡng
Khác
Tổng

Số lượng
07
29
40
35
02
04
21
22
77

154
131
522

22


Tổng số nhân lực của BV hiện tại là 522, tổng 400 giường bệnh, tỉ lệ xấp xỉ
1,3 cán bộ/1 giường bệnh, cán bộ là DS/tổng cán bộ là gần 5%, đặc biệt là tỉ lệ
DSĐH/BS là rất thấp 6/111 xấp xỉ 1/20. Theo quy định của Ngành Y tế và Bộ
Nội vụ trong thông tư 08/2007/TTLT-BYT-BNV thì tỉ lệ cán bộ/giường bệnh tại
BV Nhi là 1,55/ 1 giường bệnh, tỉ lệ cán bộ dược/ tổng cán bộ là 12-15% và tỉ lệ
DSĐH/BS là 1/8 do đó BV cần phải bổ sung thêm cán bộ Dược đặc biệt là
DSĐH cần phải bổ sung thêm ít nhất là 7 người[22].
1.4.4. Mô hình bệnh tật tại Bệnh viện Nhi Thanh Hoá
MHBT được sắp xếp theo phân loại quốc tế bệnh tật (ICD) lần thứ 10[5].
Trong quá trình xây dựng danh mục thuốc HĐT và điều trị sẽ sử dụng thông qua
việc cụ thể hoá phác đồ điều trị phù hợp với MHBT.

Bảng 1.2. MHBT của bệnh nhân nội trú tại BV Nhi Thanh Hóa năm 2012
STT

Nhóm bệnh

Mã ICD Số lượt BN Tỉ lệ %

1 Bệnh hệ hô hấp

J00-J99


10.789

37,9

2 Bệnh hệ tiêu hóa

K00-K93

5.964

20,9

3 Nhiễm trùng và ký sinh trùng

A00- B99

3.717

13,1

S00-T98

1.089

3,8

D50-D89

1.006


3,5

C00-D48

880

3,1

O00-P96

797

2,8

Q00-Q99

725

2,6

H00-H59

715

2,5

4
5

Chấn thương, ngộ độc và một số hậu quả

khác do nguyên nhân bên ngoài
Bệnh của máu, cơ quan tạo máu và các rối
loạn liên quan đến cơ chế miễn dịch

6 Bướu tân sinh
7
8

Một số bệnh lý xuất phát trong thời kỳ chu
sinh
Dị tật bẩm sinh, biến dạng và bất thường
về nhiễm sắc thể

9 Các bệnh về mắt

23


Các triệu chứng, dấu hiệu, biểu hiện lâm
10 sàng, cận lâm sàng bất thường, không phân R00-R99

637

2,2

loại ở phần khác
11 Bệnh hệ cơ xương khớp, mô liên kết

M00-M99


368

1,3

12 Một số nhóm bệnh khác

N00-Y98

1835

6,3

28.522

100,0

Tổng số

Nhìn vào mô hình bệnh tật tại bệnh viện cho thấy bệnh hô hấp chiếm tỉ lệ cao
nhất 37,9% sau đó là bệnh tiêu hoá 20,9%, tiếp theo là bệnh nhiễm trùng và ký
sinh trùng 13,1%, chứng tỏ BV phải điều trị chủ yếu là các bệnh nhiễm khuẩn.
1.4.5. Khoa Dược
Khoa Dược là khoa chuyên môn chịu sự lãnh đạo trực tiếp của Giám đốc BV.
Khoa Dược có chức năng quản lý và tham mưu cho Giám đốc BV về toàn bộ
công tác Dược trong BV nhằm đảm bảo cung cấp đầy đủ, kịp thời thuốc có chất
lượng và tư vấn, giám sát việc thực hiện sử dụng thuốc an toàn, hợp lý[7].
1.4.5.1. Sơ đồ tổ chức của khoa Dược
Khoa Dược năm 2012 có 27 cán bộ nhân viên trong đó có 02 DSCKI,
04DSĐH và 21 dược sĩ trung cấp (DSTC) được bố trí làm việc theo sơ đồ sau:
Trưởng khoa Dược


Nghiệp vụ dược –
DLS- thông tin thuốc

-Kiểm tra quy chế
công tác dược, kiểm
duyệt thuốc

Bộ phận kho cấp phát

Thông tin thuốc-DLS
- Theo dõi ADR

Bộ phận thống kê

Kho cấp phát
nội trú

24

Nhà thuốc

Kho cấp phát ngoại trú


Hình 1.5 . Sơ đồ tổ chức của khoa Dược
1.4.5.2. Nhiệm vụ của khoa Dược
Theo thông tư số 22/2011/TT-BYT quy định về tổ chức và hoạt động của
khoa Dược[7] thì KD có nhiệm vụ sau:
- Lập kế hoạch, cung ứng thuốc bảo đảm đủ số lượng, chất lượng cho nhu cầu

điều trị và các yêu cầu chữa bệnh khác.
- Quản lý, theo dõi việc nhập, cấp phát thuốc.
- Đầu mối tổ chức, triển khai hoạt động của Hội đồng thuốc và điều trị.
- Bảo quản thuốc theo đúng nguyên tắc “Thực hành tốt bảo quản thuốc”.
- Thực hiện công tác Dược lâm sàng, thông tin, tư vấn về sử dụng thuốc, theo
dõi, báo cáo thông tin liên quan đến tác dụng không mong muốn của thuốc.
- Quản lý, theo dõi việc thực hiện các quy định chuyên môn về Dược tại các
khoa trong bệnh viện và Nhà thuốc bệnh viện.
- Nghiên cứu khoa học và đào tạo; là cơ sở thực hành của các trường Đại học,
Cao đẳng và Trung học về Dược.
- Phối hợp với khoa cận lâm sàng và lâm sàng theo dõi, kiểm tra, đánh giá, giám
sát việc sử dụng thuốc an toàn, hợp lý đặc biệt là sử dụng kháng sinh.
- Quản lý hoạt động của Nhà thuốc theo đúng quy định.
- Tham gia theo dõi, quản lý kinh phí sử dụng thuốc.
1.4.6. Hội đồng thuốc và điều trị
Theo chỉ thị 03/CT-BYT ngày 25/02/1997 và thông tư 08/TT-BYT ngày
04/07/1997 của Bộ trưởng Bộ Y Tế yêu cầu các bệnh viện trong cả nước phải có
Hội đồng thuốc và điều trị. Ngày 08/8/2013 Bộ Y tế đã ban hành thông tư số
21/2013/TT-BYT quy định về tổ chức và hoạt động của Hội đồng Thuốc và điều
trị thay thế cho thông tư số 08/TT-BYT.
1.4.6.1. Chức năng

25


×