Tải bản đầy đủ (.doc) (17 trang)

So sánh công cuộc cải cách, mở cửa ở Trung Quốc (1978 – 2016 ) và cải cách ở Ấn Độ (1991 – 2016 ).

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (134.29 KB, 17 trang )

TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM HÀ NỘI
KHOA LỊCH SỬ

BÀI TIỂU LUẬN : So sánh công cuộc cải cách, mở cửa ở Trung
Quốc (1978 – 2016 ) và cải cách ở Ấn Độ (1991 – 2016 ).

Sinh viên: Nguyễn Mạnh Hùng
Lớp

: K64B – Khoa Lịch Sử

Giảng viên : T.S Nguyễn Thị Huyền Sâm

1


I, Phần mở đầu
Trung Quốc và Ấn Độ cuối thế kỉ XX được biết đến là những nước vô cùng lạc hậu,
Trung Quốc thì “đứng bên bờ vực sụp đổ”, Ấn Độ thì kinh tế khủng hoảng trầm trọng, về
đối ngoại theo lời Thủ tướng Gandhi nhận xét “Ấn Độ đã bị lu mờ như thể khơng cịn
tồn tại” [1 , 27 ]. Còn hiện nay, Trung Quốc và Ấn Độ lại có một chỗ đứng rất quan trọng
trong nền kinh tế thế giới, có sức chi phối và ảnh hưởng mạnh mẽ tới nền kinh tế tồn
cầu. Khơng những về mặt kinh tế mà Trung Quốc , Ấn Độ cịn rất có tiếng nói trong
trường chính trị quốc tế, vị thế của đất nước được nâng cao. Theo Robyn Meredith thì
Ấn Độ và Trung Quốc hiện tại được ví như “ Voi và Rồng ” của Châu Á.
Để có được vị trí hào quang như ngày hơm nay, đó chính là nhờ cơng cuộc cải
cách đúng đắn mà Trung Quốc và Ấn Độ đã thực hiện nhằm đưa đất nước ra khỏi bờ
vực sụp đổ và khủng hoảng về mọi mặt. Trong phạm vi bài tiểu luận, em xin phép được
so sánh hai cuộc cải cách ở Trung Quốc năm 1978 và cải cách ở Ấn Độ 1991 để làm rõ
những yếu tố giống nhau và khác nhau giữa hai cuộc cải cách, từ đó nâng cao nhận thức
lịch sử.



II, Phần nội dung
1. Những yếu tố giống nhau giữa cải cách ở Trung Quốc và Ấn Độ.
1.1 Bối cảnh quốc tế
Vào cuối những năm 80 , 90 của thế kỷ XX, chiến tranh lạnh kết thúc đã mở ra
một chương mới trong quan hệ quốc tế, trật tự hai cực sụp đổ có ảnh hưởng tới tồn
thế giới mà Ấn Độ và Trung Quốc cũng không ngoại lệ. Thế giới lúc này mở ra cơ hội cho
tất cả các quốc gia, một thế giới mà kinh tế trở thành nhân tố quyết định trong sức
mạnh tổng hợp của các quốc gia và trở thành động lực chính của xu thế tồn cầu hóa. Kỷ
ngun tồn cầu hóa đã tạo ra những cơ hội lớn cho các nước đang phát triển như Ấn
Độ và Trung Quốc. Tồn cầu hóa kéo theo xu thế hòa dịu, hợp tác phát triển đòi hỏi tất
2


cả các quốc gia từ lớn tới nhỏ đều phải thay đổi chiến lược nhằm tạo cho mình một lợi
thế nhất định trong quan hệ quốc tế. Nhận thức được sự biến đổi của thời cuộc, vì thế
nhu cầu cải cách ngày càng trở thành vấn đề cấp bách và cần thiết.
Cùng với kỉ ngun tồn cầu hóa là sự phát triển mạnh mẽ của khoa học công
nghệ hiện đại tạo ra thời cơ và thách thức rất lớn đối với tất cả các nước. Nếu áp dụng
được thành tựu của khoa học cơng nghệ thì sẽ giúp đất nước tiến lên mạnh mẽ, cịn nếu
khơng bắt kịp xu hướng của thời đại thì sẽ rơi vào nguy cơ bị tụt hậu so với sự phát triển
của thế giới. Muốn tận dụng được điều này, Trung Quốc và Ấn Độ cần phải cải cách mà
khơng cịn lựa chọn nào khác.
Ngồi ra sự sụp đổ của Liên Xô và hệ thống xã hội chủ nghĩa ở Đông Âu cũng là
một yếu tố quốc tế mà cả hai cuộc cải cách chịu ảnh hưởng. Đối với Trung Quốc là một
nước đi theo con đường xã hội chủ nghĩa thì đây là một tổn thất rất lớn. Cịn với Ấn Độ
tuy khơng phải là một nước thuộc phe xã hội chủ nghĩa mà đi theo con đường trung lập,
đứng đầu phong trào “ khơng liên kết” nhưng bản thân Ấn Độ lại có những tư tưởng
tương đồng với Liên Xô như chống chủ nghĩa đế quốc, ủng hộ phong trào đấu tranh giải
phóng dân tộc, không những vậy mà về mặt kinh tế thì Ấn Độ cịn phụ thuộc chặt chẽ

vào Liên Xơ do Liên Xô là thị trường hàng đầu của Ấn Độ.
Có thể nói, sự sụp đổ của Liên Xơ và Đông Âu là một hồi chuông cảnh tỉnh cho Ấn
Độ và Trung Quốc. Đây chính là bài học xương máu mà Ấn Độ và Trung Quốc rút ra là
phải cải cách khơng thể chậm trễ, và cải cách phải có những chính sách phù hợp với
hồn cảnh đất nước, nếu sai lầm, chủ quan duy ý chí, nóng vội tất sẽ thất bại.
1.2 Bối cảnh trong nước
Trước khi tiến hành cải cách, cả hai nước đều lâm vào tình trạng khủng hoảng,
khó khăn chồng chất, ngồi con đường cải cách ra thì khơng thể chọn lựa con đường
nào khác. Một điểm chung trong hồn cảnh của hai nước đó là đều thực hiện những
chính sách sai lầm và duy trì chúng trong một thời gian dài khiến cho khủng hoảng ngày
3


càng trầm trọng. Về kinh tế thì cả hai nước đều duy trì nên kinh tế đóng kín tự cấp tự
túc, trong đó nhà nước nắm quyền quản lí tồn bộ đời sống kinh tế. Nguyên nhân chính
khiến cho hai nước tuy “ Không chung con đường phát triển nhưng cùng mắc một sai
lầm đó là Trung Quốc và Ấn Độ đều chịu ảnh hưởng của mơ hình Liên Xơ” [ 2, 45 ]
Sự thất bại thảm hại của “Ba ngọn cờ hồng” và “Đại cách mạng văn hóa” đã
khiến Trung Quốc đứng trước nguy cơ sụp đổ, nền kinh tế và chính trị khủng hoảng trầm
trọng. Tại Ấn Độ, Thủ tướng Nehru đã áp dụng mơ hình cơng nghiệp hóa của Liên Xơ vào
phát triển Ấn Độ nhưng chỉ được một thời gian rất ngắn ngay lập tức đã bộc lộ những
hạn chế của nền kinh tế quan liêu bao cấp thiếu năng động sáng tạo. Chính sự bất ổn về
kinh tế đã khiến cho chính trị thêm rối loạn, hậu quả là Đảng Quốc Đại bị mất quyền
lãnh đạo, các Đảng khác lên cầm quyền cũng không đủ sức lãnh đạo đất nước khiến Ấn
Độ lún sâu vào khủng hoảng.
1.3 Nội dung của cải cách
Trong nội dung của hai cuộc cải cách tuy đi theo hai con đường hồn tồn khác
nhau nhưng lại có những nét chung trong nội dung của cải cách . Nét chung thứ nhất đó
chính là đều chọn kinh tế làm trọng tâm. “Có thể thấy, mọi rối loạn về chính trị - xã hội
đều bắt nguồn từ một nền kinh tế thấp kém và lạc hậu, cũng chính những rối loạn này

làm suy sụp mọi nền kinh tế. Phát triển kinh tế là mục tiêu của tất cả các nước trong mọi
thời đại…Nhận định được điều này, hai cuộc cải cách mở cửa ở Trung Quốc và Ấn Độ
đều lấy kinh tế làm trọng tâm, mọi chính sách đưa ra trước tiên đều nhằm vào việc khôi
phục và phát triển kinh tế”. [ 2, 48 – 79 ]
Điểm chung thứ hai đó là cải cách kinh tế của hai nước có những bước tiến hành
giống nhau. Trước tiên, hai nước đều cho mở cửa nền kinh tế, phát triển nền kinh tế thị
trường, điều này xuất phát từ hoàn cảnh của hai nước trước cải cách đều là nền kinh tế
đóng kín, ở Ấn Độ tuy có nhen nhóm kinh tế thị trường nhưng cịn rất le lói, cịn Trung
Quốc thì nền kinh tế đặc sệt quan liêu bao cấp. Hướng tới nền kinh tế thị trường giúp
4


cho cả hai nước phát triển được những tiềm lực vốn có của quốc gia ( như dân số, diện
tích, tài nguyên…v.v) từ đó vực dậy kinh tế đất nước, đây có thể coi là một nhân tố quan
trọng để tạo ra sự thành công của cải cách. “ Một điểm giống nhau trong cải cách kinh
tế của hai nước đó là đều coi trọng phát triển bền vững. Trong các biện pháp hai nước
đưa ra để giữ cho nền kinh tế phát triển bền vững thì nhân tố con người – giáo dục, đào
tạo nguồn nhân lực là chính sách được cả hai nước quan tâm chú trọng” [ 2 , 51 ]
Điểm chung thứ ba trong nội dung cải cách của hai nước đó chính là về mặt chính
sách đối ngoại, trong bối cảnh tồn cầu hóa với sự phát triển của khoa học kĩ thuật hiện
đại, nếu khơng mở cửa hội nhập thì tất yếu sẽ bị gạt ra khỏi guồng quay của sự phát
triển, hội nhập trở thành xu thế tất yếu cho dù đó là nước lớn hay nhỏ. Đặc biệt xuất
phát điểm của Ấn Độ và Trung Quốc lại ở trong cơ chế đóng cửa cực đoan, hạn chế giao
lưu tiếp xúc với bên ngoài đặc biệt trong lĩnh vực kinh tế khiến cho đất nước tụt hậu
kém phát triển vì thế càng cần phải cải cách chính sách đối ngoại theo hướng mở cửa
hội nhập quốc tế. Mặt khác trong bối cảnh Liên Xô và Đông Âu sụp đổ, trật tự hai cực
kết thúc, kinh tế ở thành nhân tố quyết định tới vị thế của một quốc gia, rồi kèm theo
đó là những vấn đề của tồn cầu hóa khiến cho khơng một nước nào có thể đứng ngồi
mà giải quyết một mình được địi hỏi phải chung tay hợp tác. Vì vậy việc mở cửa giao
lưu hội nhập trở thành điều tất yếu trong chính sách cải cách của Trung Quốc và Ấn Độ.

1.4 Kết quả của cải cách
Trước hết, có thể thấy rõ ràng cả hai cuộc cải cách này đã đem lại những thành
công tốt đẹp cho cả hai nước, khơng chỉ giúp Trung Quốc và Ấn Độ thốt khỏi khủng
hoảng mà còn khiến cho nền kinh tế hai nước phát triển một cách chóng mặt, nâng cao
vị thế quốc gia của mỗi nước trên trường quốc tế.
Ở Trung Quốc, từ 1978 tới 2007 đã đạt được thành tựu vô cùng to lớn “theo số
liệu vừa được Cục thống kê Quốc gia Trung Quốc (NBS) công bố, trong thời gian từ 1978
đến 2007, tốc độ tăng trưởng trung bình của GDP Trung Quốc là 9,8%, thu nhập bình
5


quân đầu người từ 190 USD lên 2.360 USD, kim ngạch nhập khẩu từ 10,9 tỷ USD lên 956
tỷ USD, kim ngạch xuất khẩu từ 9,8 tỷ USD lên 1.220 tỷ USD, dự trữ ngoại tệ từ 167 triệu
USD lên 1.500 tỷ USD. Khoảng cách về sức mạnh kinh tế giữa Trung Quốc và các quốc
gia công nghiệp phát triển thu hẹp. GDP của Trung Quốc năm 2007 đạt 481 tỷ USD,
tương đương 23,7% GDP của Mỹ, 74,9% của Nhật Bản và 99,5% của Đức. Trung Quốc từ
một nước nghèo nàn, lạc hậu, trở thành một trong những nền kinh tế lớn nhất và quan
trọng nhất thế giới”. [ 3 ]
Còn ở Ấn Độ, nhịp độ tăng trưởng GDP của Ấn Độ tăng từ 4.1% năm 1981 – 1991
lên 6.32% năm 2002 – 2005, gần đây các nhà phân tích dự báo đến năm 2040 Ấn Độ có
thể trở thành quốc gia có tiềm lực kinh tế thứ 3 thế giới chỉ sau Mỹ và Trung Quốc [ 4 ,
78 ]
1.5 Tác động của cải cách.
Cải cách ở Trung Quốc và Ấn Độ bước đầu đã đem lại thành công đáng kể và ngày
càng đưa hai nước phát triển mạnh mẽ, vị thế quốc gia ngày càng tăng, có tác động
mạnh mẽ tới tình hình quốc tế. Là hai nước có diện tích rộng lớn, nhân cơng dồi dào và
nguồn tài nguyên phong phú, hai nước đã trở thành “nguồn lao động, đồng nghiệp,
khách hàng và những nhà cạnh tranh”. Với một thị trường vốn đã hấp dẫn, giờ lại được
mở cửa bằng những chính sách tích cực đã khiến Ấn Độ và Trung Quốc thay đổi hồn
tồn chóng mặt. Sự thay đổi của Trung Quốc và Ấn Độ được các nước phương Tây cổ vũ

nhiệt tình, vì đây là một thị trường không thể bỏ qua. “ Trong các phòng họp từ New
York đến Tokyo, từ London đến Frankfurt giờ đây các nhà quản lý đều nhiễm cơn sốt Ấn
Độ như một thập kỷ trước từng nhiễm cơn sốt Trung Quốc… Rất bất ngờ, làm ăn ở
Trung Quốc và Ấn Độ trở thành niềm hy vọng duy nhất đối với những công ty phương
Tây đã quyết định phải nhanh chóng bổ sung những khách hàng mới – cách duy nhất để
các nhà quản lý phương Tây làm hài lòng các cổ đông” [ 5, 16 – 17 ].

6


Buôn bán làm ăn với Trung Quốc và Ấn Độ trở thành một cơ hội vàng cho các
nước phương Tây, nhưng thách thức thì cũng khơng nhỏ, cạnh tranh được đẩy mạnh
hơn bao giờ hết. Đặc biệt trong giai đoạn hiện nay, hàng hóa Trung Quốc xuất hiện ở
mọi ngóc ngách trên thế giới, các nước phương Tây phải đối mặt với tình trạng hàng
Trung Quốc khiến các doanh nghiệp trong nước bị phá sản. Cịn đối với hàng hóa vào
được Trung Quốc thì lại khơng cạnh tranh được với hàng nội địa. Còn Ấn Độ hiện nay
nổi lên vấn đề việc làm, do chú trọng đầu tư phát triển bền vững mà Ấn Độ có một
nguồn nhân cơng lao động rất chun nghiệp, có năng lực và trình độ cao. Hiện nay các
cơng ty nước ngồi đặc biệt là Mỹ, Anh họ rất chuộng người Ấn Độ vì chi phí th rẻ hơn
người bản địa, lại có trình độ tương đương nhau. Với thành công của hai cuộc cải cách,
Trung Quốc và Ấn Độ đang tiến rất nhanh trên con đường hội nhập và phát triển, trong
tương lai sẽ trở thành nền kinh tế nhất nhì thế giới, điều này đã ảnh hưởng rất lớn tới
những nước trong khu vực, các nước đang phát triển trong đó có Việt Nam.

2. Những yếu tố khác nhau giữa hai cuộc cải cách ở Ấn Độ và Trung Quốc.
2.1 Thời gian
Rất dễ nhận ra điểm khác biệt cơ bản này khi chúng ta tìm hiểu về hai cuộc cải
cách ở hai nước. Cải cách ở Trung Quốc diễn ra sớm hơn ngay từ 1978 và cho đến nay
Trung Quốc đã có 38 năm tiến hành cải cách. Ở Ấn Độ thì diễn ra muộn hơn đó là vào
năm 1991, cho tới nay đã có 25 năm tiến hành cải cách.

Trung Quốc tiến hành cải cách trong gia đoạn chiến tranh lạnh vẫn còn tiếp diễn,
trật tự hai cực Ianta chưa sụp đổ. Cuộc khủng hoảng 1973 khiến thế giới chao đảo, các
nước tư bản thì nhanh chóng thay đổi để thích nghi với hồn cảnh, nhưng các nước xã
hội chủ nghĩa thì cho rằng cuộc khủng hoảng này không ảnh hưởng tới các nước xã hội
chủ nghĩa, vì vậy mà các nhà lãnh đạo vẫn “ bình chân như vại” khơng thay đổi. Giữa lúc
đó, Trung Quốc đã tiến hành cải cách xây dựng con đường xã hội chủ nghĩa mang đặc

7


sắc Trung Quốc đã mang lại thành công rực rỡ cho Trung Quốc như ngày hơm nay, thốt
khỏi cái bóng của Liên Xô, và tự đi trên con đường của mình.
Ấn Độ cải cách vào năm 1991 khi trật tự hai cực Ianta đã sụp đổ, chiến tranh lạnh
kết thúc, xu hướng cải cách diễn ra ở khắp nơi và Ấn Độ cũng khơng nằm ngồi ảnh
hưởng của vịng xoay ấy.
Cải cách ở Trung Quốc sở dĩ sớm hơn Ấn Độ là do hoàn cảnh lịch sử của mỗi nước
chi phối. Tại Trung Quốc do mắc những sai lầm nghiêm trọng trong một thời gian dài với
những tư tưởng như “ Ba ngọn cờ hồng”, đặc biệt là “Đại cách mạng văn hóa” những
năm 50 – 60 của thế kỉ XX đã khiến Trung Quốc khủng hoảng nặng nề về cả kinh tế lẫn
chính trị - xã hội, đẩy Trung Quốc tới bên bờ vực sụp đổ. Trong hoàn cảnh đó, để thốt
khỏi khủng thì nhất định phải cải cách
Cịn ở Ấn Độ, sau khi giành được độc lập đã phát triển đất nước theo con đường
tư bản chủ nghĩa, nhưng lại chịu ảnh hưởng từ Liên Xô, đặc biệt trong kinh tế đã áp
dụng máy móc mơ hình kinh tế đóng kín, quan liêu mặc dù có kinh tế tư nhân nhưng rất
hạn chế, còn kinh tế nhà nước nắm vai trò chủ đạo. Việc Ấn Độ chịu ảnh hưởng từ Liên
Xô là điều dễ nhận ra khi Ấn Độ trước 1991 đã nhận nhiều viện trợ từ Liên Xô, việc xây
dựng kinh tế giống như Liên Xô đã trở thành một rào cản sự phát triển đất nước. Điều
này có thể thấy ngay khi Liên Xơ sụp đổ, Ấn Độ rơi nhanh vào khủng hoảng và cũng phải
cải cách để đổi mới đất nước trước tình trạng trì trệ yếu kém của mình.
2.2 Bối cảnh quốc tế.

Trung Quốc tiến hành cải cách mở cửa, hiện đại hóa đất nước theo hướng “kinh
tế thị trường xã hội chủ nghĩa” , với những chính sách cải cách đúng đắn đưa Trung
Quốc phát triển mạnh mẽ đặc biệt về kinh tế. Các nước tư bản phương Tây đầu tư vào
Trung Quốc lại làm cho Trung Quốc tiến nhanh như vũ bão, điều này cũng là điều mà các
nước tư bản e ngại và dè dặt hơn trong hợp tác với Trung Quốc. Bởi sự phát triển của
Trung Quốc không chỉ đơn thuần là sự phát triển kinh tế mà còn là sự phát triển của một
8


nước xã hội chủ nghĩa trở thành một đối thủ đáng gờm trên trường quốc tế, sự thành
công của Trung Quốc có sức ảnh hưởng mạnh mẽ tới những nước trong khu vực trong
đó có Việt Nam. Chủ nghĩa tư bản lại luôn muốn đè nén chủ nghĩa xã hội vì thế khi tiến
hành cải cách Trung Quốc cũng vấp phải khơng ít khó khăn do sự chống phá bằng diễn
biến hịa bình của các nước tư bản nhằm làm chệch hướng đi chủ nghĩa xã hội của Trung
Quốc.
Ấn Độ thì hồn tồn khác, đi theo đường lối trung lập tiến lên con đường tư bản
chủ nghĩa vì thế sự lớn mạnh của Ấn Độ không phải là một sự đe dọa đối với chủ nghĩa
tư bản, mặt khác còn muốn Ấn Độ phát triển mạnh hơn nữa để cạnh tranh với Trung
Quốc. Điều đó đã khiến Ấn Độ thực hiện cải cách dễ dàng và nhận được nhiều sự trợ
giúp từ các nước phương Tây.
Trong bối cảnh “ thế giới phẳng” hiện nay thì hai nền kinh tế Trung Quốc và Ấn
Độ được coi là hai thị trường nóng bỏng nhất mà tất cả các nước đều muốn có mặt để
khai thác, tuy nhiên đối với Trung Quốc thì các nước có phần dè dặt hơn do bức tường
chính trị, cịn Ấn Độ thì sự hợp tác trở thành đồng minh chiến lược khơng hề có sự ngăn
cách, đây cũng là một thuận lợi lớn của Ấn Độ cần phải tận dụng để phát triển đất nước.
2.3 Bối cảnh trong nước.
Đất nước Trung Quốc trước cải cách nổi lên là tình trạng nghèo đói lạc hậu, kinh
tế tiêu điều do những chính sách sai lầm kéo dài của những nhà lãnh đạo. Đặc biệt vấn
đề thiếu lương thực rất trầm trọng “Nơng dân chỉ cịn là bộ xương…Cuối cùng họ phải
ăn cỏ và lá cây, thậm chí cả những cây chỉ còn lớp vỏ” [ 5 , 28 ] “trước khi tiến hành cải

cách thì 80% dân số Trung Quốc vẫn là những nông dân nghèo đến mức thê thảm, sống
trong những nông trang tập thể” [ 5 , 30 ].
Cịn Ấn Độ tình trạng cũng khơng khá hơn là mấy, “ năm 1991, Ấn Độ hoàn toàn
túng quẫn. Một trăm triệu người đã rơi vào cảnh nghèo khổ…Tài chính của chính phủ
sụp đổ”. [ 5 , 59 ]. Thủ tướng N.Rao đã phải nói “ tình hình ngoại tệ gần như tuyệt vọng.
9


Tình hình tài chính tồi tệ. Chúng tơi đã đến mức như một nước vỡ nợ với Quỹ tiền tệ
quốc tế trong thời gian vài ngày”. [ 1, 25-26 ]
Với bối cảnh mỗi nước mỗi khác, Trung Quốc và Ấn Độ đều phải tiến hành cải
cách, nhưng do điều kiện của từng nước mà cần phải đặt ra những cách giải quyết khác
nhau để giải quyết những khó khăn của lịch sử.
2.4 Nội dung cải cách.
Điểm khác nhau thứ nhất đó chính là xuất phát điểm của hai cuộc cải cách, ở
Trung Quốc vấn đề đặt ra trước cải cách đầu tiên là vấn đề lương thực trong nông
nghiệp, đây chính là khó khăn lớn nhất mà Trung Quốc cần phải giải quyết. Vì thế cải
cách ở Trung Quốc bắt đầu từ nơng nghiệp, thực hiện xóa bỏ chế độ công sang nhân
dân sang kinh doanh hai tầng kết hợp, lấy khốn trách nhiệm làm chính, đẩy mạnh phát
triển các xí nghiệp hương trấn, xây dựng hệ thống thị trường nơng thơn… Chính sách cải
cách nơng nghiệp nơng thơn bước đầu đạt được được thành quả, tạo động lực cho các
ngành khác phát triển “ với tất cả những thay đổi và tự do kinh tế mới này, nông dân đã
trở nên thịnh vượng và cuối cùng cũng có nhiều tiền và nhiều lựa chọn hơn cho sinh kế
của mình…Những căn nhà lều vách trát bùn nhường chỗ cho nhà gạch, một số nhà đã
có điện. Cải cách nơng thơn đã gây nên cơn bùng nổ nhà ở lớn nhất trong lịch sử” [ 5, 32
– 33 ].
Tại Ấn Độ trước năm 1991 lâm khủng hoảng trầm trọng, khi Liên Xơ sụp đổ thì
tình trạng càng lâm ly bi đát hơn, cuộc khủng hoảng tài chính đã khiến cho Ấn Độ vỡ nợ.
Vì vậy cải cách bắt buộc phải tiến hành và đương nhiên trước tiên phải giải quyết vấn đề
tài chính. Chính phủ Ấn Độ thực hiện chính sách tự do hóa trong ngành tài chính ngân

hàng, giảm bớt bao cấp và tiến hành cải cách thuế, khuyến khích tư nhân đầu tư vào lĩnh
vực ngân hàng, cho phép ngân hàng nhà nước bán cổ phần ra thị trường tự do…Các biện
pháp trên đã phát huy tác dụng, cụ thể là tổng thâm hụt tài chính Ấn Độ giảm xuống 8%

10


GDP trong năm 1990 - 1991 xuống còn 6% trong năm 1996 – 1997 và dự trữ ngoại tệ
tăng từ 2,2 tỷ USD lên 21,7 tỷ USD cùng thời điểm trên [ 4, 25 ].
Điểm khác thứ hai trong nội dung của hai cuộc cải cách đó chính là quy mô. Cả hai
nước đều lấy kinh tế làm trọng tâm, nhưng nếu như Ấn Độ chỉ cải cách trong lĩnh vực
kinh tế là chủ yếu thì cải cách của Trung Quốc lại diễn ra trên mọi mặt từ kinh tế, cho
đến chính trị, xã hội. Điều này xuất phát từ bối cảnh trong nước của từng nước, Trung
Quốc trước cải cách là một xã hội khủng hoảng toàn diện, trong đó nghiêm trọng nhất
đó là vấn đề kinh tế, vì thế trước tiên phải giải quyết vấn đề kinh tế, nhưng kèm theo đó
là thể chế chính trị xuất hiện nhiều điểm bất cập thiếu sót, nên cần phải sửa chữa những
thiếu sót và sai lầm đó. Sửa đổi những điểm bất cập, sai lầm của thể chế chính trị chứ
khơng làm thay đổi chế độ chính trị. Cịn ở Ấn Độ, vấn đề chính trị khơng phải là vấn đề
cần phải cải cách, thêm rối loạn về chính trị lúc này chỉ càng làm cải cách thêm khó khăn,
vì thế mục tiêu duy nhất lúc này là cải cách về kinh tế, điều này phù hợp với hoàn cảnh
và con đường chủ nghĩa tư bản mà đất nước Ấn Độ đã lựa chọn.
Điểm khác biệt thứ ba là tuy cả hai nước lấy cải cách kinh tế làm trọng tâm,
nhưng trong chính sách cải cách kinh tế lại có những điểm khác biệt. “Trước tiên, trong
vấn đề xây dựng nền kinh tế thị trường là mục tiêu đặt ra của hai nước, nhưng cách làm
và bước đi có sự khác nhau. Sự khác nhau này là bởi xuất phát điểm của hai nước, Ấn
Độ đã tồn tại nền kinh tế thị trường, cải cách chỉ đẩy mạnh hoạt động và làm tăng thêm
sức sống của nền kinh tế thị trường.Trong khi đó , nền kinh tế thị trường đối với Trung
Quốc là hoàn toàn mới mẻ” [ 2, 79 ].Chính vì vậy, “trong khi Trung Quốc tập trung các
chính sách biện pháp hình thành, phát triển nền kinh tế thị trường thì Ấn Độ lại hướng
vào tự do hóa nèn kinh tế thị trường ở đó các quan hệ thị trường đã có nhưng chưa

mạnh của mình” [4,106 ]. “ Trong mục tiêu tiến hành cải cách kinh tế của hai nước,
Trung Quốc muốn biến mình trở thành cơng xưởng của thế giới, chú trọng đặc biệt đến
sự nghiệp cơng nghiệp hóa, phát triển cơng nghiệp làm trọng tâm. Nhưng Ấn Độ lại

11


muốn trở thành văn phòng dịch vụ thế giới. Điều đó tạo nên nét khác biệt cơ bản trong
xu hướng phát triển kinh tế của hai nước”. [ 2, 81 ]
2.5 Tốc độ phát triển của cải cách
Một điểm khác biệt trong cải cách ở Trung Quốc và Ấn Độ nữa đó chính là tốc độ
phát triển khi tiến hành cải cách, ở đây chủ yếu xem xét trên lĩnh vực kinh tế. Điều đầu
tiên phải ghi nhận cải cách đã mang lại một diện mạo hoàn toàn mới cho cả hai nước,
được xếp vào nhóm 10 nước có quy mô kinh tế lớn nhất thế giới. Tuy nhiên xét về tốc
độ phát triển thì Ấn Độ và Trung Quốc có nhiều điểm khác biệt , nếu như “năm 1981,
khi cả hai chưa bắt đầu cải cách kinh tế thì mức độ (kém) phát triển của họ gần ngang
nhau. Song, không đến hai thập niên, Ấn Độ đã trở nên thua sút Trung Quốc xét theo
hầu hết mọi đại lượng kinh tế xã hội (có lẽ chỉ trừ tốc độ tăng dân). Năm 1992 là một
dấu mốc đáng nhớ. Trước đó, GDP bình qn mỗi người (per capita) ở Trung Quốc còn
thấp hơn Ấn Độ, song từ năm ấy trở đi thì thứ tự này đảo ngược: Ấn Độ ngày càng tụt
xa Trung Quốc. Hiện nay mức sống của dân Trung Quốc xấp xỉ gấp đôi của dân Ấn Độ.
Riêng xuất khẩu của Trung Quốc thì gần sáu lần hơn Ấn Độ”.[6]
Một nhà kinh tế Ấn Độ nổi tiếng là Pranab Burdhan đã buồn rầu kết luận, kết quả
cuộc chạy đua kinh tế giữa Ấn Độ và Trung Quốc đã quá rõ ràng, Ấn Độ đã thua hoàn
toàn. Nhận xét đó có vẻ là hơi tiêu cực nhưng thực tế cho thấy, dường như sau hơn 30
năm cải cách, “Trung Quốc đã bỏ Ấn Độ lại phía sau”. Chỉ vài chục năm sau cải cách “
thu nhập của người dân Trung Quốc đã tăng gấp đôi so với mức lương của người Ấn Độ.
Đến năm 2004, 89% người Trung Quốc đã thoát khỏi mức nghèo cùng cực
( 1USD/Ngày ) so với tỷ lệ 65% của Ấn Độ…Nền kinh tế Ấn Độ ì ạch lết đi, trong khi Trung
Quốc bay thẳng vào tương lai” [ 5, 13 -14 ]

Nền kinh tế của Ấn Độ và Trung Quốc đều đang phát triển nhanh chóng, tuy
nhiên sự thua kém của Ấn Độ so với Trung Quốc là điều không thể phủ nhận, điều này
xuất phát từ nhiều nguyên do, nhưng cơ bản nhất đó chính là chính sách kinh tế của
12


Trung Quốc và Ấn Độ, nhất là từ cuối những năm 1970, là lí do chính của sự khác biệt về
mức độ phát triển hiện nay giữa hai nước. Từ năm 1978 Trung Quốc đã bắt đầu cải cách
Không như Ấn Độ vẫn theo đuổi chính sách kế hoạch hố tập trung, và nhất là vẫn tin
vào cơng nghiệp hố bằng thay thế nhập khẩu, Trung Quốc quay ra mở cửa, đẩy mạnh
xuất khẩu, khuyến khích đầu tư từ nước ngồi, và nới lỏng thị trường. Hậu quả của
chính sách ấy (và sự hỗ trợ của nhà nước đối với doanh nghiệp về mặt thuế má) là giá
phí sản xuất ở Trung Quốc ngày càng giảm so với Ấn Độ. Môi trường kinh doanh Trung
Quốc trở nên thuận lợi hơn cho các nhà sản xuất Trung Quốc lẫn các công ty nước
ngồi. Doanh nghiệp ở Ấn Độ chẳng những khơng được trợ giúp như ở Trung Quốc mà
còn bị thuế (sản xuất lẫn tiêu thụ) rất nặng nề. Thuế nhập khẩu (trung bình 24% ở Ấn
Độ, 13% ở Trung Quốc) cũng làm tăng giá những đầu vào mà Ấn Độ phải nhập khẩu. Về
thủ tục hành chánh, tệ quan liêu, thì Ấn Độ cũng khơng thua gì, có thể cịn hơn, Trung
Quốc. Trong mơi trường đó, giá phí ngun liệu ở Ấn Độ (kể cả giá phí vốn) trung bình là
25% cao hơn ở Trung Quốc. Chẳng trách ngay cả một số công ty Ấn Độ cũng đã lập chi
nhánh sản xuất bên Trung Quốc . Nổi bật nhất là khác biệt về FDI (số lượng vào Ấn Độ
không đến 10% vào Trung Quốc). Một phần, điều ấy phản ảnh sự hấp dẫn của Trung
Quốc như một thị trường cũng như một nơi mà giá phí sản xuất cực kỳ thấp. Phần khác,
các nhà đầu tư nước ngồi cũng khơng mấy hăng hái làm ăn ở Ấn Độ là nơi vẫn phảng
phất tư duy nghi kị thị trường và tinh thần quốc gia bài ngoại trong đông đảo quần
chúng.[ 6 ]
Tuy rằng hầu như có một sự đồng thuận là Ấn Đơ, nhìn chung, hiện đang thua
Trung Quốc về mức độ phát triển và tốc độ tăng trưởng, nhưng không ít người tin rằng
Ấn Độ rất có thể bắt kịp, và có khi cịn vượt qua Trung Quốc trong tương lai. Bởi Ấn Độ
cũng năng động chẳng kém Trung Quốc và đặc biệt có lợi thế trong những ngành cần

nhiều chất xám. Hai mảnh sáng của Ấn Độ là công nghiệp thông tin và công nghiệp dược
phẩm (và gần đây một số các công nghiệp "cũ" như ô tô và phụ tùng, xe máy, xi măng và
thép, cũng bắt đầu khởi sắc). Cũng đáng chú ý là Ấn Độ có nhiều hơn Trung Quốc các
13


doanh nghiệp có khả năng cạnh tranh trên thị trường thế giới. Theo tạp chí Forbes,
trong 200 doanh nghiệp nhỏ thành cơng nhất thế giới năm 2002 thì 12 là của Ấn Độ, chỉ
có 4 là từ lục địa Trung Quốc. Các doanh nghiệp nhà nước của Trung Quốc sẽ tiếp tục là
một gánh nặng kềm chế sự tăng trưởng của nước này. Từ đó cho thấy cách tăng trưởng
của Ấn Độ tuy chậm nhưng chắc chắn, bền vững khác hoàn toàn so với sự bấp bênh khi
Trung Quốc quá dựa vào FDI và phụ thuộc nhiều vào những chỉ thị từ trung ương xuống.

III. Kết Luận
Trong giai đoạn từ cuối thập niên 70 đén những năm đầu thập niên 90 của thế kỉ
XX, tình hình quốc tế diễn biến rất phức tạp, đó là cuộc khủng hoảng 1973, sự sụp đổ
của Liên Xô và các nước Đông Âu xã hội chủ nghĩa, trật tự hai cực chấm dứt, xu thế hịa
hỗn hợp tác thay cho sự căng thẳng đối đầu trong giai đoạn trước, tồn cầu hóa đã lơi
kéo tất cả các nước lớn nhỏ trên thế giới vào guồng quay của nó mà trước hết là tồn
cầu hóa về kinh tế. Những yếu tố này đặt ra vấn đề cho tất cả các nước,hoặc là thay đổi
để bắt kịp xu thế phát triển của thế giới, hoặc là bị gạt ra khỏi vịng quay tự nhiên đó,
trở thành một nước lạc hậu kém phát triển. Nhận thức được bối cảnh đó, Trung Quốc và
Ấn Độ đã thực hiện cải cách để thay đổi, đưa đất nước hội nhập phát triển.
Cải cách ở Trung Quốc và Ấn Độ có nhiều điểm tương đồng nhưng về cơ bản đều
đặt mục tiêu cải cách kinh tế làm trọng tâm, phát triển nền kinh tế thị trường, mở rộng
quan hệ đối ngoại và sự thành công của hai cuộc cải cách là điều dễ nhận thấy. Các nhà
lãnh đạo hai nước đã đề ra được những đường lối đúng đắn, tránh được vết xe đổ của
các nước cùng thời điểm tiêu biểu là Liên Xơ. Chính sự thành cơng của hai cuộc cải cách
đã trở thành bài học kinh nhiệm sâu sắc đối với các nước phát triển và đang phát triển.
Mặc dù mục tiêu của cả hai cuộc cải cách có nét tương đồng nhưng biện pháp

thực hiện lại có sự khác nhau, điều này bắt nguồn từ hoàn cảnh lịch sử của mỗi nước. Ở
Trung Quốc hay Ấn Độ đều gặp phải những khó khăn riêng trước cải cách, việc đưa ra
những biện pháp thực hiện khác nhau là lẽ hợp lý tự nhiên khẳng định sự nhạy bén sáng
14


suốt của lãnh đạo hai nước trong việc nắm bắt tình hình thực tế đất nước cũng như bối
cảnh thế giới.
“ Việc tìm ra những điểm giống và khác nhau của hai cuộc cải cách đã góp phần
làm sáng tỏ bản chất của con đường tiến hành cải cách ở hai nước Trung Quốc và Ấn
Độ. Những điểm giống và khác nhau đó phần lớn do yếu tố chủ quan của tình hình trong
mỗi nước quy định, cũng như do tư duy khác nhau về chiến lược phát triển đất nước của
các nhà lãnh đạo” [ 2, 87 ] điều đó cũng chứng tỏ một điều hiện nay kinh tế đang đóng
vai trị vơ cùng quan trọng trong tiềm lực của một quốc gia và có sức chi phối ảnh hưởng
mạnh mẽ tới quan hệ quốc tế. Một quốc gia muốn lớn mạnh, muốn phát triển, muốn có
chỗ đứng vững chắc trên trường quốc tế thì cách nhanh nhất đó chính là tập trung phát
triển kinh tế, đây cũng là điều mà Ấn Độ và Trung Quốc đang ra sức thực hiện và đã đạt
được những thành công mà lịch sử đã chứng minh rất rõ. Một con “Voi” tiến chậm
nhưng chắc, một con “Rồng” tiến nhanh tiến mạnh bay tới tương lai.

15


DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Trần Thị Lý (cb) , 2002, Sự điều chỉnh chính sách của cộng hịa Ấn Độ từ 1991 đến
2000. Nxb Khoa học xã hội, Hà Nội.
2. Hoàng Thúy An, K56-CLC, So sánh bối cảnh, nội dung, kết quả của cải cách ở
Trung Quốc ( từ 1978 đến 2009 ) và cải cách ở Ấn Độ ( từ 1991 đến 2009 ). Khóa
luận tốt nghiệp
3. />4. Vũ Hồng Vân, 2000, Cải cách kinh tế ở Ấn Độ và kinh nhiệm đối với Việt Nam ,

Luận văn tốt nghiệp , Đại học quốc gia Hà Nội.
5. Robyn Meredith, 2009, Voi và rồng : sự nổi lên của Ấn Độ, Trung Quốc và ý nghĩa
của điều đó đối với tất cả chúng ta. Người dịch : Nguyễn Kiều Anh, Đinh Trọng
Minh, Hoàng Thu Quỳnh, Nguyễn Kim Thoa, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.
6. />7. />
cuong/
8. Vũ Dương Ninh, 1995, Lịch sử Ấn Độ, Nxb Giáo dục, Hà Nội.
9. Nguyễn Thế Tăng , 2008, Trung Quốc cải cách và mở cửa ( 1978 – 1998 ), Nxb
Khoa học xã hội, Hà Nội.
10. Phạm Quốc Thái, 2008, Nghiên cứu so sánh tăng trưởng kinh tế của Trung Quốc
và Ấn Độ, Nxb Khoa học xã hội, Hà Nội.

16


17



×