Tải bản đầy đủ (.doc) (81 trang)

ĐỀ tài HỨNG THÚ học tập môn GIÁO dục THỂ CHẤT của SINH VIÊN TRƯỜNG đại học QUẢNG NAM (2)

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (441.58 KB, 81 trang )

1

MỤC LỤC
Trang

MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài
Ngày nay sự phát triển nhanh chóng của xã hội hiện đại đã đặt ra những yêu cầu
rất lớn về nguồn nhân lực. Con người hiện đại xã hội cần không chỉ là người có tri
thức, có trình độ khoa học, tay nghề cao, mà cịn phải có sức khỏe, thể lực tốt. Chính
vì vậy, việc chăm sóc sức khỏe cho cộng đồng nói chung và giáo dục thể chất cho học
sinh, sinh viên nói riêng là vấn đề cấp bách đang được đặt ra trong giai đoạn hiện nay.
Sự phát triển hài hịa, tồn diện giữa thể chất và tinh thần là tư tưởng đã xuất
hiện trong kho tàng trí tuệ tiên tiến từ nhiều thế kỷ trước đây. Bác Hồ kính yêu của
chúng ta khi sinh thành cũng rất chú trọng đến việc rèn luyện thân thể. Trong Lời kêu
gọi toàn dân tập thể dục Bác có viết “giữ gìn dân chủ, xây dựng nước nhà, gây đời
sống mới, việc gì cũng cần có sức khoẻ mới làm thành cơng. Mỗi một người dân yếu
ớt tức là cả nước yếu ớt, mỗi một người dân mạnh khoẻ là cả nước mạnh khoẻ”. Bác
nhấn mạnh muốn có sức khỏe tốt “cần phải rèn luyện thể dục” và đó cũng là “bổn
phận của mỗi người dân u nước”. Chính vì vậy, giáo dục thể chất là một trong mục
tiêu giáo dục toàn diện của Đảng và Nhà nước ta, là một môn học trong chương trình
đào tạo ở bậc Đại học với mục đích góp phần tạo nên sự phát triển hài hịa tồn diện
cho sinh viên khơng chỉ về trí tuệ mà cả về sức khỏe, ý chí…
Hứng thú học tập giữ một vai trò đặc biệt quan trọng trong việc nâng cao hiệu
quả của các quá trình học tập, nhờ hứng thú mà trong q trình học tập sinh viên có


2

thể giảm mệt mỏi, căng thẳng, tăng sự chú ý, thúc đẩy tính tích cực tìm tịi, sáng tạo.
Việc hình thành hứng thú học tập cho sinh viên, đặc biệt là hứng thú học tập môn Giáo


dục thể chất sẽ góp phần nâng cao chất lượng giảng dạy, góp phần tăng thêm lịng u
thích, cũng như trách nhiệm của sinh viên đối với việc rèn luyện sức khỏe của bản
thân.
Trong những năm gần đây, việc học tập môn Giáo dục thể chất của sinh viên ở
các trường Đại học nhìn chung vẫn cịn nhiều hạn chế, khơng ít em sợ Giáo dục thể
chất, coi việc học Giáo dục thể chất là một việc mệt nhọc, những kỳ thi là cực hình,
các em ít có hứng thú với mơn học này…Qua thực tế tìm hiểu hoạt động học tập mơn
Giáo dục thể chất ở trường Đại học Quảng Nam cho thấy cũng có tình trạng như vậy
xảy ra.
Chính vì những lý do trên, chúng tơi chọn đề tài "Tìm hiểu hứng thú học tập
môn Giáo dục thể chất của sinh viên trường Đại học Quảng Nam" làm đề tài nghiên
cứu nhằm tìm ra những biện pháp nâng cao hứng thú học tập mơn học này ở trường
Đại học Quảng Nam nói riêng và góp phần phát triển thể chất cho sinh viên nói chung
ở các trường Đại học nhằm tạo ra một thế hệ công dân Việt Nam khỏe mạnh hơn!
2. Mục đích nghiên cứu
Tìm hiểu và đánh giá thực trạng hứng thú học tập môn Giáo dục thể chất của
sinh viên trường Đại học Quảng Nam, nguyên nhân của thực trạng và đề xuất biện
pháp để hình thành và nâng cao hứng thú học tập môn Giáo dục thể chất cho sinh viên.
3. Đối tượng, khách thể và phạm vi nghiên cứu
3.1. Đối tượng nghiên cứu
Hứng thú học tập môn Giáo dục thể chất của sinh viên trường Đại học Quảng
Nam.
3.2. Khách thể nghiên cứu
Khách thể nghiên cứu là sinh viên trường Đại học Quảng Nam.
3.3. Phạm vi nghiên cứu
Đề tài tập trung nghiên cứu trên 200 sinh viên hệ chính qui của trường Đại học
Quảng Nam.
Khi chọn mẫu ngẫu nhiên chúng tơi có lưu ý một số khía cạnh khác nhau để có
thể phân tích so sánh giữa các nhóm: về khối học, nam và nữ…



3

4. Nhiệm vụ nghiên cứu
- Nghiên cứu cơ sở lý luận của vấn đề.
- Điều tra, phân tích thực trạng và nguyên nhân thực trạng hứng thú học tập môn Giáo
dục thể chất của sinh viên trường Đại học Quảng Nam.
- Đề xuất những biện pháp tác động cần thiết để hình thành và nâng cao hứng thú học
tập mơn Giáo dục thể chất của sinh viên trường Đại học Quảng Nam.
5. Giả thuyết khoa học
Đa số sinh viên trường Đại học Quảng Nam chưa có hứng thú hoặc có hứng thú
thấp đối với việc học tập môn Giáo dục thể chất. Có sự khác nhau về hứng thú học tập
môn Giáo dục thể chất giữa sinh viên năm 1 và sinh viên năm 2, giữa sinh viên nam và
sinh viên nữ.
6. Phương pháp nghiên cứu
- Phương pháp nghiên cứu lý luận
- Phương pháp nghiên cứu thực tiễn
+ Phương pháp điều tra bằng bảng hỏi
+ Phương pháp quan sát
+ Phương pháp trò chuyện
+ Phương pháp nghiên cứu sản phẩm hoạt động
+ Phương pháp xử lý số liệu bằng thống kê toán học


4


5

NỘI DUNG

CHƯƠNG 1. CƠ SỞ LÝ LUẬN CỦA VẤN ĐỀ NGHIÊN CỨU
1.1. Lịch sử vấn đề nghiên cứu
1.1.1. Các nghiên cứu về hứng thú
a. Nghiên cứu về hứng thú ở nước ngồi
Từ trước đến nay, hứng thú nói chung và hứng thú học tập nói riêng là một vấn
đề được nhiều nhà khoa học quan tâm nghiên cứu. Khi nghiên cứu về hứng thú các
nhà tâm lý học đã đi theo các hướng sau:
* Thứ nhất, nghiên cứu lý luận chung, đại cương về hứng thú. Có một số tác
giả như:
- Từ những năm 20 của thế kỷ trước X.L.Rubinstein trong các cơng trình
nghiên cứu tâm lý học đại cương đã đưa ra các khái niệm về hứng thú, con đường hình
thành hứng thú và cho rằng hứng thú là biểu hiện của ý chí, tình cảm.
- Năm 1938, Ch.Buhler, trong cơng trình “Phát triển hứng thú ở trẻ em” đã tìm
hiểu khái niệm về hứng thú, song ơng chưa thấy vai trò của giáo dục đối với việc phát
triển hứng thú.
- Năm 1946, Claparede khi nghiên cứu vấn đề “Tâm lý học trẻ em và thực
nghiệm sư phạm” đã đưa ra khái niệm về hứng thú.
- Năm 1957, nhà nghiên cứu nổi tiếng về vấn đề hứng thú M.F Belaep đưa ra
những lý giải hết sức khác nhau về hứng thú, những lý giải này làm tước bỏ đi tính xác
định và giá trị tâm lý của khái niệm hứng thú. Ông chỉ ra rằng khái niệm “hứng thú”
bao hàm một số lượng lớn các quá trình mang nhiều nét đặc trưng riêng biệt không kể
một vài nét đặc trưng chung. Liệt vào đây có cả hứng thú của trẻ với các trò chơi, các
sự vận động, hứng thú tìm giải đáp cho câu đố, tìm ra cái mới, cái bí ẩn, hứng thú của
người chơi giành chiến thắng, hứng thú chơi cờ, chơi bóng đá, hứng thú biểu diễn,
hứng thú đọc truyện. Cũng bằng khái niệm “hứng thú” này, Belaep giải thích và xác
định hứng thú của học sinh với các môn học, hứng thú của người nghệ sĩ với nghệ
thuật, của nhà bác học với khoa học, của người cơng nhân với lao động của mình, của
người phi công với tài bay biểu diễn.
- Nhà nghiên cứu X.A.Ananhin đã quan tâm và lo ngại cho tình trạng sử dụng
bừa bãi khái niệm “hứng thú”, thấy được tính phức tạp và đa dạng của vấn đề, hiểu



6

được sự bất ổn định và lẫn lộn của khái niệm này, do vậy họ hầu như muốn lảng tránh
khái niệm “hứng thú”.
- B. M.Chieplôp đã coi hứng thú là xu hướng ưu tiên chú ý vào một khách thể nào
đó. Những người khác lại gắn hứng thú với cảm xúc, thái độ (V.A.Miaxisep) với định
hướng của cá nhân (A.G.Côvaliôp, G.I.Sukina).
* Thứ hai, nghiên cứu sâu về hứng thú nhận thức, có các tác giả như:
- Năm 1966, I.V.Lepkơp đã có cơng trình nghiên cứu về vấn đề “Sự hình thành hứng
thú nhận thức cho học sinh trong quá trình công tác nghiên cứu địa phương”.
- Năm 1971, G.I.Sukina với cơng trình nghiên cứu về “Vấn đề hứng thú nhận
thức trong khoa học giáo dục”. Tác giả đã đưa ra khái niệm về hứng thú nhận thức
cùng với những biểu hiện của nó, đồng thời nêu ra nguồn gốc cơ bản của hứng thú
nhận thức là nội dung tài liệu và hoạt động học tập.
- Năm 1976, N.G.Marôzôva đã nghiên cứu vấn đề: “Tác dụng của việc giảng
dạy nêu vấn đề đối với hứng thú nhận thức của học sinh”. Tác giả đưa ra cấu trúc tâm
lý của hứng thú, đồng thời cịn phân tích những điều kiện và khả năng giáo dục hứng
thú trong quá trình học tập và lao động của học sinh cũng như tác dụng của việc giảng
dạy nêu vấn đề đối với hứng thú nhận thức của học sinh.
- Những cơng trình của A.G.Cơvaliơp, A.V.Daparơgiet...đã góp phần quan
trọng trong nghiên cứu hứng thú nói chung, hứng thú nhận thức nói riêng.
* Thứ ba, nghiên cứu về hứng thú học tập các môn học của học sinh
- Các nhà nghiên cứu như K.Đ.Usinxky, A.I.Ghecxen, V.G.Bêlinxky,
N.G.Secnưsepxky, N.A.Đapraliulôp luôn luôn thấy được ảnh hưởng lớn lao của hứng
thú tới chất lượng học tập, mà việc lĩnh hội tri thức tồi lại có quan hệ trực tiếp với tình
trạng khơng có hứng thú học tập và người giáo viên khơng khơi dậy được hứng thú đó.
- Năm 1955, cơng trình nghiên cứu của A.Packhudơp về vấn đề “Sự phụ thuộc
giữa tri thức của học sinh và hứng thú học tập”.

- Năm 1964, N.I.Ganbirô đã nghiên cứu đề tài: “Vận dụng hứng thú như là một
phương tiện để nâng cao chất lượng giảng dạy bộ môn Tiếng Nga”.
* Thứ tư, các con đường, phương pháp nghiên cứu hứng thú, tác động đến
hình thành, phát triển hứng thú.
- Từ những năm 1931, I.K.Strong đã nghiên cứu “Sự thay đổi hứng thú theo lứa


7

tuổi”. Ông đưa ra phương pháp nghiên cứu về hứng thú, với 400 câu và đã thử nghiệm
trên nhiều đối tượng khác nhau.
- Năm 1956, tác giả V.G.Ivanôp đã nghiên cứu về vấn đề “Sự phát triển và giáo
dục hứng thú của HS các lớp trong trường trung học”.
- Năm 1961, D.Super trong cuốn “Tâm lý học hứng thú” đã xây dựng phương
pháp nghiên cứu về hứng thú nghề nghiệp ở các nhóm dân cư khác nhau.
- Năm 1967, cơng trình nghiên cứu của V.N.Marcơva “Sự hình thành hứng thú của
trẻ em trong điều kiện phát triển bình thường và khơng bình thường”.
- L.I.Bơzơvich, N.A.Bêlacve và những nhà nghiên cứu khác đã chỉ ra rằng,
thuật ngữ “hứng thú” được sử dụng vô cùng rộng rãi. Thường trong cùng một khái
niệm bao hàm cả những nội dung hoàn toàn khác nhau được đưa vào các dạng hoạt
động cũng khác nhau: hoạt động chơi, giải trí, học tập, nghiên cứu khoa học, sản
xuất... Hơn thế nữa ngay cả những trạng thái hoàn tồn khác nhau của con người như
say mê cơng việc, yêu thích hoạt động, thiên hướng ngành nghề cũng được gọi là hứng
thú có nghĩa là bất cứ một thái độ đúng đắn nào đối với hoạt động, đối với một đối
tượng hoặc một khách thể nào đó cũng được gọi là hứng thú. Các tác giả cũng cho
rằng có nhiều người cịn lẫn lộn hứng thú với tính tị mị, tính ham hiểu biết. Ở đây
khơng có sự phân biệt những giai đoạn phát triển khác nhau của hứng thú ở cùng một
con người.
- Michael Atiyah, người đã đạt giải Abel về Toán học tương đương với giải
Nobel đã thể hiện sự lo lắng về năng lực của giáo viên cũng như việc giảng dạy Toán

học trong những năm gần đây. Ơng cho rằng: ”Tất cả những trị chơi có tính tốn học
đều tốt cho việc tạo hứng thú học Tốn ở trẻ em”. Sudoku cũng có mối quan tâm như
trên và ông tin rằng nếu biết cách giảng dạy, những khó khăn sẽ có thể kích thích
những người trẻ tuổi càng hứng thú hơn khám phá đối tượng.
- Năm 2006, các tác giả Sandstrom Kjellin, Margareta, Granlund, Mats đã
nghiên cứu nhiều trường hợp những đứa trẻ khác nhau gặp khó khăn trong việc đọc và
viết nhằm phát hiện đặc tính về mức độ của sự hấp dẫn qua những hoạt động trong
lớp. Mục đích của nghiên cứu nhằm tìm ra sự giống nhau giữa “việc dạy đọc và viết
một cách có hiệu quả”, qua đó cũng thấy được sự thể hiện của hứng thú và sự quan sát
của những đứa trẻ, cũng như trình độ hiểu biết của chúng trong từng bản chất khác
nhau của các hoạt động trên lớp.


8

Điểm qua một số cơng trình nghiên cứu trên, chứng tỏ các nhà tâm lý học ở các
nước đã rất quan tâm nghiên cứu những vấn đề lý luận của hứng thú cũng như việc áp
dụng chúng vào thực tiễn hoạt động giảng dạy và học tập trong nhà trường để phát
triển hứng thú nhận thức của học sinh, sinh viên.
b. Nghiên cứu về hứng thú ở Việt Nam
Các vấn đề về hứng thú nói chung và đặc biệt là hứng thú học tập cũng được
nghiên cứu rất sôi nổi ở Việt Nam từ trước đến nay như:
- Năm 1973, Phạm Tất Dong đã bảo vệ thành công luận án Phó Tiến sĩ ở Liên Xơ
với đề tài “Một số đặc điểm hứng thú nghề của học sinh lớn và nhiệm vụ hướng nghiệp”.
Kết quả nghiên cứu đã khẳng định sự khác biệt về hứng thú học tập giữa nam và nữ, hứng
thú nghề nghiệp không thống nhất với xu hướng phát triển nghề của xã hội, công tác hướng
nghiệp ở trường phổ thông không được thực hiện nên các em học sinh chịu nhiều thiệt thòi.
Hứng thú học tập các bộ môn của học sinh là cơ sở để đề ra nhiệm vụ hướng nghiệp một
cách khoa học.
- Năm 1977, Phạm Ngọc Quỳnh với đề tài “Hứng thú với môn văn của học sinh cấp

II” đã nghiên cứu hứng thú đối với các môn học và đối với đời sống văn hoá xã hội của học
sinh một số trường ở thành phố Ulianov.
- Năm 1977, Phạm Huy Thụ với luận án “Hiện trạng hứng thú học tập các môn của
học sinh cấp II một số trường tiên tiến”. Tác giả đã tìm hiểu hứng thú học tập từ đó đề xuất
biện pháp giáo dục nhằm nâng cao hứng thú học tập cho học sinh.
- Năm 1977, Tổ nghiên cứu của khoa tâm lý giáo dục trường Đại Học Sư Phạm
Hà Nội I đã nghiên cứu đề tài “Hứng thú học tập của học sinh cấp II đối với môn học cụ
thể”, kết quả cho thấy hứng thú học tập các môn của học sinh cấp II là không đều.
- Năm 1980, Dương Diệu Hoa với đề tài “Bước đầu tìm hiểu hứng thú học tập mơn
Tâm lý học đại cương của sinh viên khoa tâm lý học Trường Đại Học Sư Phạm Hà Nội”.
- Năm 1980, Lê Bá Chương nghiên cứu đề tài “Bước đầu tìm hiểu về dạy học môn
Tâm lý học để xây dựng hứng thú học tập bộ môn cho giáo sinh trường sư phạm 10+3”
(luận án thạc sĩ).
- Năm 1981, Nguyễn Thị Tuyết với đề tài luận văn “Bước đầu tìm hiểu hứng thú
học văn học lớp 10 ở một số trường Phổ thông trung học tại Thành phố Hồ Chí Minh”. Tác
giả đề xuất 5 biện pháp gây hứng thú cho học sinh: Giáo viên phải nâng cao lòng yêu


9

người, yêu nghề và rèn luyện tay nghề, tổ chức các hoạt động ngoại khoá cho học sinh, tổ
chức các giờ dạy mẫu, chương trình phải hợp lý và động viên học sinh tích cực tham gia
các hoạt động văn hoá nghệ thuật.
- Năm 1982, Đinh Thị Chiến “Bước đầu tìm hiểu hứng thú với nghề sư phạm của
giáo sinh Cao đẳng Sư phạm Nghĩa Bình”. Tác giả đưa ra 3 biện pháp để giáo dục hứng thú
đối với nghề sư phạm cho giáo sinh, trong đó tác giả nhấn mạnh vai trò đặc biệt quan trọng
của dư luận xã hội.
- Năm 1984, Trần Thị Thanh Hương đã thực nghiệm “Nâng cao hứng thú học toán
của học sinh qua việc điều khiển hoạt động tự học ở nhà của học sinh”.
- Năm 1987, Nguyễn Khắc Mai với đề tài luận án “Bước đầu tìm hiểu thực trạng

hứng thú đối với hoạt động rèn luyện nghiệp vụ sư phạm thường xuyên tại trường của sinh
viên khoa Tâm lý giáo dục”. Tác giả đã đưa ra những nguyên nhân gây hứng thú là do ý
nghĩa của mơn học, trình độ của học sinh, phương pháp giảng dạy của giảng viên.
- Năm 1988, Vũ Thị Nho với đề tài “Tìm hiểu hứng thú với năng lực học văn của
học sinh lớp 6”. Đề tài đã tiến hành thực nghiệm để nghiên cứu bước đầu về hứng thú, năng
lực học văn của các em học sinh lớp 6.
- Năm 1990, Imkock trong luận án Phó Tiến sĩ nhan đề “Tìm hiểu hứng thú đối với
mơn tốn của học sinh lớp 8”. Tác giả kết luận: Khi có hứng thú học sinh dường như cũng
tham gia vào tiến trình bài giảng, cũng đi theo những suy luận của giảng viên nhờ q trình
nhận thức tích cực.
- Năm1994, Hồng Hồng Liên có đề tài “Bước đầu nghiên cứu những con đường
nâng cao hứng thú cho học sinh phổ thông”. Tác giả kết luận dạy học trực quan là biện
pháp tốt nhất để tác động đến hứng thú của học sinh.
- Năm 1996, Đào Thị Oanh đã nghiên cứu về “Hứng thú học tập và sự thích nghi
với cuộc sống nhà trường của học sinh tiểu học”.
- Năm 1998, Phạm Thị Thắng “Nghiên cứu sự quan tâm của cha mẹ đến việc duy
trì hứng thú học tập cho các em thanh thiếu niên”.
- Năm 1999, Nguyễn Hoài Thu nghiên cứu “Bước đầu tìm hiểu hứng thú học môn
ngoại ngữ của học sinh Phổ thông trung học Hà Nội”.
- Năm 1999, Lê Thị Thu Hằng với đề tài “Thực trạng hứng thú học tập các môn lý
luận của sinh viên Trường Đại Học Thể dục thể thao I”. Trong đó phương pháp, năng lực


10

chuyên môn của giảng viên là yếu tố ảnh hưởng lớn nhất đến hứng thú học tập của sinh
viên.
- Năm 2000, Trần Cơng Khanh đã đi sâu nghiên cứu “Tìm hiểu thực trạng hứng thú
học mơn tốn của học sinh trung học cơ sở thị xã Tân An”. Kết quả cho thấy đa số học sinh
trong diện điều tra chưa có hứng thú học tốn.

- Năm 2001, Phạm Thị Ngạn nghiên cứu “Hứng thú học tập môn tâm lý học của
sinh viên trường Cao đẳng Sư phạm Cần Thơ” (luận án thạc sĩ Tâm lý học - Hà Nội 2002),
tác giả đã tiến hành thử nghiệm biện pháp nâng cao hứng thú học tập môn tâm lý học của
sinh viên.
+ Cải tiến nội dung các bài tập thực hành
+ Cải tiến cách sử dụng các bài tập thực hành
+ Tăng tỉ lệ các giờ thực hành
- Năm 2002, Đặng Quốc Thành nghiên cứu “Hứng thú học tập môn tâm lý học quân
sự của học viên các trường Cao đẳng, Đại Học Kĩ Thuật Quân Sự”. Tác giả đã đề xuất một
số biện pháp:
+ Cải tiến phương pháp dạy học (kết hợp phương pháp giảng giải và phương pháp
nêu vấn đề)
+ Cải tiến hình thức tổ chức dạy học (kết hợp hình thức bài giảng, hình thức
Xêmina - bài tập thực hành)
- Năm 2003, Nguyễn Hải Yến - Đặng Thị Thanh Tùng nghiên cứu “Một số yếu tố
ảnh hưởng đến hứng thú nghiên cứu khoa học của sinh viên trường Đại học Khoa học Xã
hội và Nhân văn”. Đề tài đã chỉ ra một số yếu tố ảnh hưởng đến hứng thú nghiên cứu khoa
học là do chưa nhận thức được vai trò của hoạt động nghiên cứu khoa học, do bản thân
chưa nỗ lực vượt khó trong q trình nghiên cứu.
- Năm 2005, Vương Thị Thu Hằng với đề tài “Tìm hiểu hứng thú nghiên cứu khoa
học của sinh viên trường Đại học Khoa học Xã hội và Nhân văn”. Tác giả đã nêu ra nguyên
nhân ảnh hưởng đến hứng thú nghiên cứu khoa học của sinh viên là do chủ quan của sinh
viên. Đề ra một số kiến nghị nhà trường quan tâm tổ chức các hoạt động ngoại khoá, hội
nghị khoa học chuyên đề, câu lạc bộ sinh viên nghiên cứu khoa học, cung cấp nhiều tài liệu
cho sinh viên…


11

- Năm 2005, Phạm Mạnh Hiền nghiên cứu “Hứng thú học tập của học viên thuộc

trung tâm phát triển kĩ năng con người Tâm Việt”...
1.1.2. Các nghiên cứu về việc học tập môn Giáo dục thể chất của sinh viên
Nghiên cứu khoa học Giáo dục thể chất từ lâu đã được xem như là một nhiệm
vụ quan trọng trong chỉ đạo của Bộ Giáo dục và Đào tạo cũng như của các nhà trường,
tuy nhiên số lượng các đề tài nghiên cứu còn rất hạn chế. Sau đây là một số đề tài
nghiên cứu và các bài viết về việc học tập môn Giáo dục thể chất của sinh viên.
- Mai Văn Hải, trong nghiên cứu “Tìm hiểu hứng thú học tập môn giáo dục thể
chất của sinh viên trường Đại học khoa học xã hội và nhân văn – Đại học Quốc gia Hà
Nội” đã tìm hiểu thực trạng hứng thú học môn giáo dục thể chất của sinh viên trường
Đại học khoa học xã hội và nhân văn và chỉ ra rằng đa phần sinh viên đã nhận thức
đúng được vai trị, mục đích, chương trình giảng dạy của môn học Giáo dục thể chất.
Tuy nhiên, xúc cảm của sinh viên với môn học này lại không tốt và sinh viên chưa
chăm chỉ, thường xuyên học tập môn học này.
- Trần Xuân Thủy có bài viết về “Giáo dục thể chất bậc đại học ở Việt Nam”.
Trần Xuân Đơng với đề tài “Tìm hiểu hứng thú học tập môn Giáo dục thể chất của
sinh viên trường Trung học cơ sở Tây Trạch – Bố Trạch”.
- Nguyễn Thị Hạnh, trong bài viết “Vai trò của Giáo dục thể chất trong trường
học hiện nay” đã khẳng định vai trò quan trọng của Giáo dục thể chất đối với học sinh,
sinh viên.
- Th.s Nguyễn Hồ Phong, “Nghiên cứu hiệu quả sử dụng đội ngũ cán sự thể
dục đối với việc nâng cao chất lượng Giáo dục thể chất cho sinh viên trường Đại học
Nha Trang”, đã khẳng định giáo dục thể chất trong các trường Đại học, Cao đẳng là
một bộ phận quan trọng của mục tiêu giáo dục và đào tạo, đồng thời là một mặt giáo
dục toàn diện cho thế hệ trẻ.
- Tác giả Trọng Khang, trong bài viết “Giáo dục thể chất, có đủ thể chất? ”, đã
nêu những bất cập trong chương trình giáo dục thể chất của bậc Đại học và Cao Đẳng
trong nền giáo dục nước ta. Giáo dục thể chất trong nhà trường hiện nay có hạn chế là
chương trình q cứng nhắc, nhiều trường không đủ khả năng thực hiện do thiếu cơ sở
vật chất. Do giảng viên được đào tạo quá chuyên sâu về một mơn nên khó dạy tốt các
nội dung khác trong chương trình mơn Giáo dục thể chất...



12

1.2. Lý luận chung về hứng thú và hứng thú học tập
1.2.1. Khái niệm chung về hứng thú
a. Định nghĩa hứng thú
Hứng thú là một hiện tượng tâm lý được rất nhiều nhà Tâm lý học quan tâm.
Cùng với rất nhiều các nghiên cứu khác nhau về hứng thú thì đồng thời cũng xuất hiện
rất nhiều định nghĩa khác nhau của các nhà tâm lý học.
* Theo một số nhà tâm lý học phương Tây thì hứng thú là thuộc tính có sẵn của
con người, q trình lớn lên của cá nhân cũng là quá trình bộc lộ dần thiên hướng của
họ, họ quan tâm đến khái niệm hứng thú trên cơ sở bản chất sinh học của con người:
- Nhà tâm lý học I.PH.Shecbac cho rằng hứng thú là thuộc tính bẩm sinh vốn
có của con người, nó được biểu hiện thơng qua thái độ, tình cảm của con người vào
một đối tượng nào đó trong thế giới khách quan.
- Annoi - nhà tâm lý học người Mỹ lại cho rằng hứng thú là một sự sáng tạo của
tinh thần với đối tượng mà con người hứng thú tham gia vào.
- Trong các cơng trình nghiên cứu của nhà tâm lý học người Đức Harlette
Buhler thì hứng thú là một hiện tượng phức hợp cho đến nay vẫn chưa được xác định,
hứng thú là một từ, không những chỉ tồn bộ những hành động khác nhau mà hứng thú
cịn thể hiện cấu trúc bao gồm các nhu cầu. Ông thừa nhận vai trò to lớn của hứng thú
đối với hoạt động của con người và xác định có sự tham gia của chú ý và thiên hướng
vào hứng thú.
- K.Strong và W.James cho rằng hứng thú là một trường hợp riêng của thiên
hướng biểu hiện trong xu thế của con người có mong muốn học được một số điều nhất
định, yêu thích một vài loại hoạt động và định hướng tính tích cực nhất định vào những
hoạt động đó.
- Nhà tâm lý học người Mỹ Guilford đã cho rằng hứng thú là một trong bảy mặt
cấu tạo nên nhân cách, hứng thú là những ham muốn ổn định trong các hoạt động nhất

định.
- Theo D.Super hứng thú không phải là thiên hướng, khơng phải là nét tính
cách của cá nhân nó là một cái gì khác, riêng rẽ với thiên hướng, riêng rẽ với tính
cách, riêng rẽ với cá nhân. Như vậy, hứng thú được coi như một thuộc tính tâm lý có
tính độc lập tương đối của nhân cách, nó có bản chất riêng.


13

- Klapalet nghiên cứu thực nghiệm và đi đến kết luận hứng thú là dấu hiệu của
nhu cầu bản năng khát vọng đòi hỏi cần được thỏa mãn của cá nhân.
- Một số tác giả như: Baram – Tsabari, Sethi, Ricky J, Bry, Lynn’ Yarden,
Anat cho rằng: Hứng thú là động cơ thúc đẩy năng lực của con người.
Nhìn chung các nhà tâm lý học đề cập ở trên đều có quan điểm hoặc là duy tâm
hoặc là phiến diện siêu hình về hứng thú. Các nhà tâm lý học nêu trên thiên về việc coi
hứng thú là thuộc tính có sẵn của con người gắn liền với cơ sở sinh học, quá trình lớn
lên của cá nhân cũng là quá trình bộc lộ dần thiên hướng, hứng thú của họ. Tác hại của
các quan điểm này là nó phủ nhận vai trị của giáo dục và tính tích cực của cá nhân
trong sự hình thành và phát triển của hứng thú.
* Khác với quan điểm các nhà tâm lý học trên, các nhà tâm lý học Mác-xit xem
xét hứng thú theo quan điểm duy vật biện chứng. Coi hứng thú khơng phải là cái trừu
tượng vốn có trong mỗi cá nhân mà là kết quả của sự hình thành và phát triển nhân
cách cá nhân, nó phản ánh một cách khách quan thái độ đang tồn tại ở con người. Thái
độ đó xuất hiện là do kết quả của sự ảnh hưởng qua lại giữa điều kiện sống và hoạt
động của mỗi cá nhân. Chính vì vậy mà ngun nhân gây ra hứng thú rất đa dạng
khiến cho khái niệm hứng thú có nhiều cách giải thích khác nhau đối với các tác giả
khác nhau:
- Hứng thú xét theo khía cạnh nhận thức:
+ Trong đó có V.N.Miasixep, V.G.Ivanơp, A.GAckhipop coi hứng thú là thái
độ nhận thức tích cực của cá nhân với những đối tượng trong hiện thực khách quan.

+ A.A.Luiblinxcaia khẳng định hứng thú là thái độ nhận thức, thái độ khao khát
đi sâu vào một khía cạnh nhất định của thế giới xung quanh.
+ P.A.Rudich coi hứng thú là sự hiểu biết của xu hướng đặc biệt trong sự nhận
thức thế giới khách quan, là thiên hướng tương đối ổn định với một loại hoạt động
nhất định.
- Hứng thú xét theo sự lựa chọn của cá nhân đối với thế giới khách quan:
+ X.L.Rubinstêin đưa ra tính chất 2 chiều trong mối quan hệ tác động qua lại
giữa đối tượng với chủ. Ơng nói hứng thú ln có tính chất quan hệ 2 chiều: “Nếu như
một vật nào đó hoặc tơi chú ý có nghĩa là vật đó rất thích thú đối với tơi”.


14

+ A.N.Lêônchiev cũng xem hứng thú là thái độ nhận thức nhưng đó là thái độ
nhận thức đặc biệt của chủ thể đối với đối tượng hoặc hiện tượng của thế giới khách
quan.
+ P.A.Đudich cho rằng hứng thú là biểu hiện xu hướng đặc biệt của cá nhân
nhằm nhận thức những hiện tượng nhất định của cuộc sống xung quanh.
+ A.V.Daparôzét coi hứng thú như là khuynh hướng lựa chọn của sự chú ý và
đưa ra khái niệm hứng thú là khuynh hướng chú ý tới đối tượng nhất định, là nguyện
vọng tìm hiểu chúng một cách càng tỉ mỉ càng tốt.
+ B.M.Cheplốp thì coi hứng thú là thiên hướng ưu tiên chú ý vào một đối tượng
nào đó.
- Hứng thú xét theo khía cạnh gắn với nhu cầu:
+ Theo Sbinle, hứng thú là kết cấu bao gồm nhiều nhu cầu. Quan niệm này là
đồng nhất hứng thú với nhu cầu, bó hẹp khái niệm hứng thú chỉ trong phạm vi với nhu
cầu.
+ Trong từ điển tâm lý học, hứng thú được coi là một biểu hiện của nhu cầu,
làm cho chủ thể tìm cách thỏa mãn nhu cầu tạo ra khối cảm thích thú.
+ Ngồi ra nhà tâm lý học A.Phreiet cho rằng: Hứng thú là động lực của những

xúc cảm khác nhau.
+ Sbinle giải thích hứng thú là tính nhạy cảm đặc biệt của xúc cảm.
- Một số quan điểm khác như:
+ Trong cuốn “Tâm lý học cá nhân”, A.G.Côvaliốp coi hứng thú là sự định
hướng của cá nhân vào một đối tượng nhất định, tác giả đã đưa ra một khái niệm được
xem là khá hoàn chỉnh về hứng thú “Hứng thú là một thái độ đặc thù của cá nhân đối
với đối tượng nào đó, do ý nghĩa của nó trong cuộc sống và sự hấp dẫn về mặt tình
cảm của nó”.
+ L.A.Gơđơn coi hứng thú là sự kết hợp độc đáo của các quá trình tình cảm, ý
chí, trí tuệ, làm cho tính tích cực của hoạt động con người nói chung được nâng cao.
+ Nhà tâm lý học người Đức A.Kossakowski coi hứng thú hướng tích cực tâm
lý vào những đối tượng nhất định với mục đích nhận thức chúng tiếp thu những tri
thức và nắm vững những hành động phù hợp. Hứng thú biểu hiện mối quan hệ tới tính


15

lựa chọn đối với mơi trường và kích thích con người quan tâm tới những đối tượng,
những tình huống hành động quan trọng có ý nghĩa đối với mình.
Tóm lại các nhà tâm lý học Macxit đã nghiên cứu hứng thú theo quan điểm duy
vật biện chứng đã chỉ ra tính chất phức tạp của hứng thú, xem xét hứng thú trong mối
tương quan với các thuộc tính khác của nhân cách (nhu cầu, xúc cảm, ý chí, trí tuệ …).
* Một số quan niệm về hứng thú của Việt Nam:
- Tiêu biểu là nhóm tác giả: Phạm Minh Hạc – Lê Khanh – Trần Trọng Thủy
cho rằng: Khi ta có hứng thú về một cái gì đó, thì cái đó bao giờ cũng được ta ý thức,
ta hiểu ý nghĩa của nó đối với cuộc sống của ta. Hơn nữa ở ta xuất hiện một tình cảm
đặc biệt đối với nó, do đó hứng thú lơi cuốn hấp dẫn chúng ta về phía đối tượng của nó
tạo ra tâm lý khát khao tiếp cận đi sâu vào nó.
- Nguyễn Quang Uẩn trong tâm lý học đại cương đã cho ra đời một khái niệm
tương đối thống nhất: Hứng thú là thái độ đặc biệt của cá nhân đối với đối tượng nào

đó, vừa có ý nghĩa đối với cuộc sống, vừa có khả năng mang lại khối cảm cho cá
nhân trong quá trình hoạt động. Khái niệm này vừa nêu được bản chất của hứng thú,
vừa gắn hứng thú với hoạt động của cá nhân.
- Xét về mặt khái niệm: Hứng thú là một thái độ đặc biệt của cá nhân đối với
đối tượng, thể hiện ở sự chú ý tới đối tượng, khao khát đi sâu nhận thức đối tượng sự
thích thú được thỏa mãn với đối tượng.
Một sự vật, hiện tượng nào đó chỉ có thể trở thành đối tượng của hứng thú khi
chúng thoả mãn 2 điều kiện sau đây:
Điều kiện I:
Có ý nghĩa với cuộc sống của cá nhân, điều kiện này quyết định nhận thức
trong cấu trúc của hứng thú, đối tượng nào càng có ý nghĩa lớn đối với cuộc sống của
cá nhân thì càng dễ dàng tạo ra hứng thú. Muốn hình thành hứng thú, chủ thể phải
nhận thức rõ ý nghĩa của đối tượng với cuộc sống của mình, nhận thức càng sâu sắc và
đầy đủ càng đặt nền móng vững chắc cho sự hình thành và phát triển của hứng thú.
Điều kiện II:
Có khả năng mang lại khối cảm cho cá nhân. Trong quá trình hoạt động với
đối tượng, hứng thú quan hệ mật thiết với với nhu cầu. Khoái cảm nảy sinh trong quá
trình hoạt động với đối tượng, đồng thời chính khối cảm có tác dụng thúc đẩy cá nhân


16

tích cực hoạt động, điều đó chứng tỏ hứng thú chỉ có thể hình thành và phát triển trong
q trình hoạt động của cá nhân.
Cũng như những chức năng cấp cao khác, hứng thú được quy định bởi những
điều kiện xã hội lịch sử. Hứng thú của cá nhân được hình thành trong hoạt động và sau
khi đã được hình thành chính nó quay trở lại thúc đẩy cá nhân hoạt động. Vì lý do trên
hứng thú tạo nên ở cá nhân khát vọng tiếp cận và đi sâu vào đối tượng gây ra nó, khát
vọng này được biểu hiện ở chỗ cá nhân tập trung chú ý cao độ vào cái làm cho mình
hứng thú, hướng dẫn và điều chỉnh các quá trình tâm lý theo một hướng xác định, do

đó tích cực hóa hoạt động của con người theo hướng phù hợp với hứng thú của nó dù
phải vượt qua mn ngàn khó khăn người ta vẫn thấy thoải mái và thu được hiệu quả
cao…
* Tâm lý học hiện đại có khuynh hướng nghiên cứu hứng thú trong mối quan hệ
với toàn bộ cấu trúc tâm lý của cá nhân. Sau này, nhiều nhà tâm lý học đã đưa ra định
nghĩa tương đối hoàn chỉnh về hứng thú: “Hứng thú là thái độ lựa chọn đặc biệt của
cá nhân đối với đối tượng nào đó, vừa có ý nghĩa đối với cuộc sống, vừa có khả năng
đem lại khối cảm cho cá nhân trong q trình hoạt động”. Ở đây, hứng thú thể hiện
mối quan hệ giữa chủ thể với thế giới khách quan, giữa đối tượng với nhu cầu, xúc
cảm, tình cảm của chủ thể hoạt động…Đây cũng là khái niệm chúng tôi sử dụng trong
đề tài này.
b. Cấu trúc hứng thú
Phân tích cấu trúc của hứng thú, tiến sĩ tâm lý học N.G.Mavôzôva đã dựa vào 3
biểu hiện để đưa ra quan niệm của mình về cấu trúc của hứng thú:
+ Cá nhân hiểu rõ được đối tượng đã gây ra hứng thú.
+ Có cảm xúc dương tính sâu sắc với đối tượng gây ra hứng thú.
+ Cá nhân tiến hành những hành động tích cực để vươn tới chiếm lĩnh đối
tượng đó.
Vậy theo ơng thì hứng thú liên quan đến việc người đó có xúc cảm, tình cảm
thực sự với đối tượng mà mình muốn chiếm lĩnh, có niềm vui tìm hiểu và nhận thức
đối tượng, có động cơ trực tiếp xuất phát từ bản thân hoạt động, tự nó lơi cuốn, kích
thích hứng thú, những động cơ khác không trực tiếp xuất phát từ bản thân hoạt động


17

chỉ có tác dụng hỗ trợ cho sự nảy sinh và duy trì hứng thú chứ khơng xác định bản chất
hứng thú.
Những năm gần đây, có nhiều nhà tâm lý học đã nghiêng về cách giải thích cấu
trúc hứng thú, tán thành với sự phân tích của ơng. Một số tác giả thấy rằng hứng thú

phải có 3 yếu tố kể trên.
Bất kỳ một hứng thú nào cũng đều có khía cạnh nhận thức bao hàm thái độ
nhận thức của cá nhân đối với đối tượng, ở một mức độ nhất định thì khi thích thú một
đối tượng nào đó, con người đều muốn hiểu biết nó kỹ hơn, sâu sắc hơn. Do đó, khơng
có yếu tố nhận thức thì khơng thể có hứng thú. Ngược lại, hứng thú là một điều kiện
để nhận thức đối tượng một cách cơ bản hơn, sâu sắc hơn. Thái độ xúc cảm với đối
tượng là một dấu hiệu không thể thiếu được của hứng thú, song thái độ nhận thức
không thể thay thế cho hứng thú, mà phải có sự kết hợp chặt chẽ giữa thái độ nhận
thức và thái độ xúc cảm của cá nhân đối với đối tượng của hoạt động thì mới có thể có
hứng thú. Tuy nhiên khơng phải bất kỳ thái độ cảm xúc nào cũng gây nên hứng thú.
Niềm vui nhất thời diễn ra trong chốc lát chưa phải là biểu hiện của hứng thú ổn định
mà “chỉ có những biểu hiện của cảm xúc tích cực, bền vững của cá nhân đối với đối
tượng mới có thể trở thành một dấu hiệu, một mặt không thể thiếu được của hứng
thú". Hứng thú là nguồn kích thích mạnh mẽ, bền vững tới tính tích cực của cá nhân.
Do ảnh hưởng của nguồn kích thích này mà các q trình tâm lý diễn ra khẩn trương
căng thẳng, cịn hoạt động trở nên say mê và đem lại hiệu quả cao. Nhờ có hứng thú
mà cá nhân có thể vượt qua được khó khăn trở ngại gặp phải trong q trình hoạt động
để đạt được mục đích đã đặt ra.
Hứng thú là sự kết hợp giữa nhận thức – xúc cảm - hành động, nếu chỉ nói đến
mặt nhận thức thì chỉ là sự hiểu biết của con người đối với đối tượng, nếu chỉ nói đến
mặt hành vi là chỉ đề cập đến hình thức biểu hiện bên ngồi, khơng thấy được xúc cảm
tình cảm của họ đối với đối tượng đó, có nghĩa là hiểu được nội dung tâm lý của hứng
thú nó tiềm ẩn bên trong. Hứng thú phải là sự kết hợp giữa nhận thức, xúc cảm tích
cực và hành động, nghĩa là có sự kết hợp giữa sự hiểu biết về đối tượng với sự thích
thú với đối tượng và tính tích cực hoạt động với đối tượng.
Ba thành tố trên có quan hệ chặt chẽ với nhau trong hứng thú cá nhân. Để có
hứng thú đối với đối tượng nào đó cần phải có các yếu tố trên. Nó có quan hệ mật thiết


18


với nhau, tương tác lẫn nhau, trong cấu trúc hứng thú, sự tồn tại của từng mặt riêng lẻ
khơng có ý nghĩa đối với hứng thú, khơng nói lên mức độ của hứng thú.
Trong đề tài này chúng tôi đã chọn cách phân chia hứng thú thành ba thành
phần như quan điểm của N.G.Mavôzôva và nhiều nhà Tâm lý học đã được trình bày ở
trên.
c. Biểu hiện của hứng thú
Từ những định nghĩa cũng như cách phân chia các thành phần của cấu trúc mà
có nhiều quan điểm khác nhau về những biểu hiện của hứng thú:
- Hứng thú biểu hiện ở nội dung của nó như: hứng thú học tập, nghiên cứu khoa
học, đi mua hàng, đi dạo chơi...
- Hứng thú biểu hiện chiều rộng, chiều sâu của nó: Những người có hứng thú
đối với nhiều đối tượng khác nhau, nhiều lĩnh vực khác nhau thường có cuộc sống hời
hợt, bề ngoài. Những người chỉ tập trung hứng thú vào một hoặc một vài đối tượng thì
cuộc sống thường đơn điệu. Trong thực tế những người thành đạt là những người biết
giới hạn hứng thú của mình trong phạm vi hợp lý, trên nền những hứng thú khác nhau,
họ xác định được một hoặc một số hứng thú trung tâm mang lại ý nghĩa thúc đẩy con
người hoạt động.
- Phạm Tất Dong: cho rằng hứng thú biểu hiện ở các khía cạnh sau:
+ Biểu hiện trong khuynh hướng của con người đối với hoạt động có liên quan
tới đối tượng của hứng thú đó.
+ Biểu hiện trong sự trải nghiệm thường xuyên những tình cảm dễ chịu do đối
tượng này gây ra.
+ Biểu hiện trong khuynh hướng bàn luận thường xuyên về đối tượng này, về
việc có liên quan tới chúng.
+ Biểu hiện trong sự tập trung chú ý của con người vào đối tượng của hứng thú.
+ Biểu hiện trong sự ghi nhớ nhanh và lâu những điều có quan hệ gần gũi với
đối tượng này, trong hoạt động tưởng tượng phong phú, trong tư duy căng thẳng
những vấn đề có liên quan đến đối tượng của hứng thú đó.
- Theo G.I.Sukina: Hứng thú biểu hiện ở những khía cạnh sau:

+ Khuynh hướng lựa chọn các q trình tâm lý con người nhằm vào đối tượng
và hiện tượng của thế giới xung quanh.


19

+ Nguyện vọng, nhu cầu của cá nhân muốn tìm hiểu một lĩnh vực, hiện tượng
cụ thể, một hoạt động xác định mang lại sự thỏa mãn cho cá nhân.
+ Nguồn kích thích mạnh mẽ, tính tích cực cho cá nhân, do ảnh hưởng của
nguồn kích thích này, mà tất cả các q trình diễn ra khẩn trương, cịn hoạt động trở
nên say mê và đem lại hiệu quả cao.
+ Thái độ đặc biệt (không thờ ơ, không bàng quan mà tràn đầy những ý định
tích cực, một cảm xúc trong sáng, một ý trí tập trung đối với các đối tượng, hiện
tượng, quá trình ...)
- Theo tiến sĩ tâm lý học N.G.Mavôzôva và nhiều nhà tâm lý khác, hứng thú
biểu hiện ở 3 mặt nhận thức – xúc cảm – hành động.
Dựa vào việc chọn lựa việc phân chia các thành phần của hứng thú, trong đề tài
này theo chúng tôi biểu hiện của hứng thú cũng thể hiện ở ba mặt trên: đó là sự nhận
thức đúng, đầy đủ về đối tượng; xúc cảm tích cực đối với đối tượng và cuối cùng là
những hành động tích cực xoay quanh đối tượng đó nhằm chiếm lĩnh nó.
d. Mức độ của hứng thú
Về mức độ của hứng thú, có một số quan điểm sau:
- Hứng thú biểu hiện ở 2 mức độ của nó:
+ Mức độ 1: Chủ thể mới dừng lại ở việc nhận thức về đối tượng. Chưa có xúc
cảm tình cảm với đối tượng đó, chưa tiến hành hoạt động để chiếm lĩnh đối tượng đó.
+ Mức độ 2: Đối tượng hứng thú thúc đẩy chủ thể hoạt động.
- Theo TS. Nguyễn Thị Thu Cúc, khi nghiên cứu hứng thú học tập bà đã đưa ra
các mức độ của hứng thú học tập như sau:
+ Mức độ 1: Những học sinh chưa có hứng thú học tập đối với môn học.
+ Mức độ 2: Những học sinh có hứng thú gián tiếp đối với mơn học.

+ Mức độ 3: Những học sinh có hứng thú với nội dung tri thức của mơn học –
học sinh có hứng thú trực tiếp đối với môn học.
+ Mức độ 4: Những em có hứng thú với cả nội dung và phương pháp tư duy
của môn học. Đây là hứng thú ở mức độ cao và bền vững nhất.


20

Hiện nay, có thể nói có khơng nhiều tác giả đi sâu nghiên cứu về mức độ của
hứng thú, dựa vào một số quan điểm của các tác giả về hứng thú, chúng tôi đưa ra mức
độ hứng thú được sử dụng trong đề tài:
+ Mức độ 1 - Hứng thú cao. Đây là loại hứng thú mà chủ thể có xúc cảm dương
tính mạnh mẽ xuất phát từ nhận thức đúng về đối tượng, đối tượng phải có ý nghĩa đối
với bản thân và xúc cảm phải thúc đẩy hành động tích cực, mạnh mẽ để chiếm lĩnh đối
tượng đó.
+ Mức độ 2 - Hứng thú trung bình. Đây là loại hứng thú mà chủ thể có xúc cảm
dương tính vừa phải với đối tượng, có nhận thức đúng hoặc tương đối đúng, đầy đủ về
đối tượng, ý nghĩa của đối tượng với bản thân và đã có hành động tích cực để chiếm
lĩnh đối tượng.
+ Mức độ 3 - Chưa có hứng thú. Chủ thể khơng có xúc cảm dương tính với đối
tượng, chưa nhận thức được ý nghĩa của mơn học và chưa có hành động tích cực nhằm
chiếm lĩnh đối tượng. Hoặc chưa có sự tương quan giữa 3 mặt xúc cảm – nhận thức –
hành động (Ví dụ: xúc cảm dương tính mạnh mẽ nhưng chưa thúc đẩy hành động tích
cực, hoặc hành động rất tích cực nhưng khơng xuất phát từ xúc cảm dương tính…).
e. Các loại hứng thú
Có nhiều cách phân loại hứng thú khác nhau:
- Căn cứ vào hiệu quả của hứng thú có thể chia hứng thú làm 2 loại:
+ Hứng thú thụ động: Là loại hứng thú tĩnh quan dừng lại ở hứng thú ngắm
nhìn, chiêm ngưỡng đối tượng gây nên hứng thú, khơng thể hiện mặt tích cực để nhận
thức sâu hơn đối tượng, làm chủ đối tượng và hoạt động sáng tạo trong lĩnh vực mình

hấp thụ.
+ Hứng thú tích cực: Khơng chỉ chiêm ngưỡng đối tượng gây nên hứng thú, mà
lao vào hoạt động với mục đích chiếm lĩnh được đối tượng. Nó là một trong những
nguồn kích thích sự phát triển nhân cách, hình thành kỹ năng kỹ xảo, nguồn gốc của
sự sáng tạo.
- Căn cứ vào nội dung đối tượng, nội dung hoạt động: Chia ra làm 5 loại:
+ Hứng thú vật chất: Là loại hứng thú biểu hiện thành nguyện vọng như muốn
có chỗ ở đầy đủ, tiện nghi, ăn ngon, mặc đẹp...


21

+ Hứng thú nhận thức: Ta có thể hiểu hứng thú dưới hình thức học tập như:
hứng thú vật lý học, hứng thú triết học, hứng thú tâm lý học...
+ Hứng thú lao động nghề nghiệp: Hứng thú một ngành nghề cụ thể: hứng thú
nghề sư phạm, nghề bác sĩ...
+ Hứng thú xã hội – chính trị: Hứng thú một lĩnh vực hoạt động chính trị.
+ Hứng thú mĩ thuật: Hứng thú về cái hay, cái đẹp như văn học, phim ảnh, âm
nhạc...
- Căn cứ vào khối lượng của hứng thú: Chia ra 2 loại:
+ Hứng thú rộng: Hứng thú bao quát nhiều lĩnh vực, nhiều mặt thường không
sâu.
+ Hứng thú hẹp: Hứng thú với từng mặt, từng ngành nghề, lĩnh vực cụ thể.
Trong cuộc sống cá nhân đòi hỏi có hứng thú rộng - hẹp, vì chỉ có hứng thú hẹp
mà khơng có hứng thú rộng thì nhân cách của họ sẽ khơng tồn diện, song chỉ có hứng
thú rộng thì sự phát triển nhân cách cá nhân sẽ hời hợt thiếu sự sâu sắc.
- Căn cứ vào tính bền vững: Chia ra làm 2 loại:
+ Hứng thú bền vững: Thường gắn liền với năng lực cao và sự nhận thức sâu
sắc nghĩa vụ và thiên hướng của mình.
+ Hứng thú không bền vững: Hứng thú thường bắt nguồn từ nhận thức hời hợt

đối tượng hứng thú.
- Căn cứ vào chiều sâu của hứng thú: Chia ra làm 2 loại:
+ Hứng thú sâu sắc: Thường thể hiện thái độ thận trọng có trách nhiệm với hoạt
động, cơng việc. Mong muốn đi sâu vào đối tượng nhận thức, đi sâu nắm vững đến
mức hồn hảo đối tượng của mình.
+ Hứng thú hời hợt bên ngoài: Đây là những người qua loa đại khái trong quá
trình nhận thức, trong thực tiễn họ là những người nhẹ dạ nông nổi.
- Căn cứ vào chiều hướng của hứng thú: Chia ra làm 2 loại:
+ Hứng thú trực tiếp: Hứng thú đối với bản thân quá trình hoạt động, hứng thú
với quá trình nhận thức, quá trình lao động, và hoạt động sáng tạo.
+ Hứng thú gián tiếp: Loại hứng thú do những yếu tố bên ngoài đối tượng của
hoạt động gây nên và gián tiếp liên quan đến đối tượng ấy.


22

f. Mối quan hệ giữa khái niệm hứng thú với một số khái niệm khác
Hứng thú là một hiện tượng tâm lý phức tạp, để hiểu rõ bản chất của nó, cần
phân biệt nó với một số khái niệm liên quan. Với tư cách là một thuộc tính tâm lý cá
nhân, hứng thú liên quan chặt chẽ với các hiện tượng tâm lý khác như: nhu cầu, sở
thích, thị hiếu, tình cảm, tính tị mị, tính ham hiểu biết, năng lực, thái độ...
* Hứng thú và nhu cầu
Một số công trình nghiên cứu đã đồng nhất hứng thú nhận thức với nhu cầu.
L.I.Bôzôvich đã xác định hứng thú nhận thức như là nhu cầu nhận thức giúp con người
hướng vào hoạt động này. Cịn X.L.Rubinstêin, A.G.Cơvaliov đã nhận thấy sự khác
nhau giữa hứng thú nhận thức và nhu cầu nhận thức. Họ đã tìm thấy mối quan hệ qua
lại, qui định lẫn nhau nhưng không đồng nhất chúng với nhau.
Theo Nguyễn Khắc Viện, hứng thú là “biểu hiện của nhu cầu, làm cho chủ thể
tìm cách thỏa mãn, tạo ra khối cảm, thích thú. Nói đến hứng thú tức nói đến một mục
tiêu, huy động sinh lực để cố gắng thực hiện. Có những hứng thú địi hỏi thỏa mãn

trước mắt, như muốn ăn một món gì, có những hứng thú gián tiếp phải thông qua một
hoạt động khác, thường khơng thú vị mới thỏa mãn, như học tốn để cuối năm thi đỗ.
Hứng thú gây chú ý và làm cho chủ thể cố gắng hành động”. Như vậy, Nguyễn Khắc
Viện coi hứng thú có bản chất như nhu cầu, là biểu hiện của nhu cầu: Dù “không thú vị”
học tốn nhưng vì cần thiết để “cuối năm thi đỗ” nên vẫn nỗ lực và khi đỗ mới cảm thấy
“thỏa mãn, tạo ra khối cảm, thích thú”.
Đa số các nhà tâm lý học cho rằng: “Nhu cầu là sự đòi hỏi tất yếu mà con người
thấy cần được thỏa mãn để tồn tại và phát triển”. Trong nhu cầu của con người ln có
sự thống nhất giữa yếu tố khách quan và chủ quan. Khi con người đứng trước một nhu
cầu khách quan nào đó, trước khi nó trở thành động lực thúc đẩy tính tích cực của
mình thì nó phải được phản ánh vào đầu óc con người, phải được con người ý thức về
nó. Một khi nhu cầu đã được con người phản ánh và ý thức sẽ trở thành một thuộc tính
chủ quan, một thái độ của nhân cách; nó có xu hướng điều chỉnh hành vi và hoạt động,
xác định hướng tư duy, tình cảm và ý chí của người đó.
Giữa hứng thú và nhu cầu có mối quan hệ qua lại với nhau. Trước hết nhu cầu
có thể khơng cần yếu tố hấp dẫn nhưng hứng thú phải luôn gắn liền với yếu tố hấp
dẫn. Đối tượng để thỏa mãn nhu cầu có thể cụ thể hoặc trừu tượng, trái lại đối tượng
của hứng thú phải cụ thể rõ ràng. Nhưng giữa hứng thú và nhu cầu có liên quan chặt


23

chẽ với nhau. Nhiều khi hứng thú nảy sinh trên cơ sở của một nhu cầu, ngược lại nhiều
hứng thú có thể tạo ra nhu cầu của cá nhân về đối tượng mà nó say mê.
Tác giả Hồng Trần Dỗn trong nghiên cứu về nhu cầu đã nêu lên mối quan hệ
giữa nhu cầu và hứng thú như sau: Quá trình hoạt động để tồn tại và phát triển của con
người trong xã hội thì nhu cầu xuất hiện như một tất yếu. Khi chủ thể có nhu cầu ý
thức được nó thì bản thân nhu cầu đó sẽ trở thành động cơ thúc đẩy chủ thể hoạt động
để thỏa mãn nhu cầu của mình. Việc thỏa mãn này mang lại lợi ích (lợi ích vật chất
hoặc lợi ích tinh thần) cho họ và tạo ra những hứng thú. Vậy là tồn tại mối quan hệ

giữa nhu cầu, lợi ích và hứng thú trong quá trình hoạt động thỏa mãn nhu cầu của chủ
thể. Việc thỏa mãn này gây hứng thú cho chủ thể, làm cho chủ thể trở nên tích cực
hoạt động hơn để tiếp tục thỏa mãn nhu cầu. Lúc này hứng thú tham gia vào động cơ
thúc đẩy hoạt động thỏa mãn nhu cầu của chủ thể. Như vậy hứng thú được nhận thức
là yếu tố tham gia vào động cơ thúc đẩy hoạt động.
Tuy hứng thú và nhu cầu là động cơ hoạt động, nhưng hứng thú là thái độ, tình
cảm đặc biệt của chủ thể dành cho đối tượng, còn nhu cầu biểu hiện bằng lòng mong
muốn, khát khao của chủ thể với đối tượng có khả năng đáp ứng. Chúng tơi nhấn
mạnh tính hấp dẫn, ý nghĩa và khoái cảm tinh thần của đối tượng đối với hứng thú,
trong khi nhu cầu nhấn mạnh đến sự thoả mãn, có qui luật bão hịa và có tính chu kỳ. ..
* Hứng thú và sở thích, thị hiếu
Sở thích là ý thích riêng của mỗi cá nhân đối với đối tượng nào đó tương đối ổn
định và lâu dài. Trong bất cứ hoạt động nào của con người hay của xã hội cũng tồn tại
sự yêu thích khác nhau của các cá nhân với đối tượng. Sở thích nào được hình thành
và tồn tại trong chủ thể một cách lâu dài, chi phối việc hình thành và hoạt động thỏa
mãn nhu cầu thì được gọi là thị hiếu.
Theo Từ điển Tiếng Việt: Thị hiếu là xu hướng ham thích một lối, một kiểu nào
đó đối với những thứ sử dụng hoặc thưởng thức hằng ngày.
Thị hiếu vừa là biểu hiện sự yêu thích của cá nhân vừa là có tính cộng đồng xã
hội. Thị hiếu có thể thay đổi theo sự thay đổi của xu hướng cá nhân và xã hội theo
những khoảng thời gian khác nhau.
Thị hiếu được hình thành và phát triển trong chính quá trình sản xuất, tiêu dùng,
phương thức để thỏa mãn nhu cầu của cá nhân cũng như của xã hội. Như thế, thị hiếu


24

được hình thành trong một thời gian dài, tồn tại như một phẩm chất văn hóa của chủ thể
thỏa mãn nhu cầu. Trong thành phần của thị hiếu có trình dộ văn hóa, trình độ học vấn và
truyền thống cùng nhiều yếu tố khác.

Thị hiếu trở thành đối tượng được nghiên cứu như một khái niệm căn bản gắn
liền với sự tiêu dùng của cá nhân và xã hội cũng như đặc điểm thỏa mãn nhu cầu
thưởng thức văn hóa, nghệ thuật của chủ thể.
Sở thích và thị hiếu cũng là biểu hiện của hứng thú về những khía cạnh độc đáo,
riêng biệt, đặc thù thường gắn với tiêu dùng, còn hứng thú gắn với hoạt động của cá
nhân nhiều hơn.
* Hứng thú và tình cảm
Tình cảm là những thái độ cảm xúc ổn định của con người đối với những sự vật,
hiện tượng của hiện thực khách quan, phản ánh ý nghĩa của chúng trong mối liên hệ với
nhu cầu và động cơ của họ. Tình cảm là sản phẩm cao cấp của sự phát triển các quá trình
xúc cảm trong những điều kiện xã hội.
Giữa hứng thú với xúc cảm- tình cảm có quan hệ chặt chẽ. Thái độ của xúc cảm
- tình cảm đối với đối tượng là dấu hiệu không thể thiếu được đối với hứng thú. Nhưng
hứng thú khơng phải là xúc cảm - tình cảm. Xúc cảm - tình cảm có thể biểu hiện âm
tính hay dương tính gắn liền với việc đối tượng có thỏa mãn hay khơng thỏa mãn nhu
cầu của chủ thể. Hứng thú gắn liền với sự nhận thức ý nghĩa, giá trị của đối tượng và
sự say mê hoạt động hướng về đối tượng để điều chỉnh, khám phá, sáng tạo,...
* Hứng thú và tính tị mị, tính ham hiểu biết
Hứng thú có liên quan chặt chẽ với các hiện tượng gần với nó như tính tị mị,
tính ham hiểu biết...nhưng hứng thú không đồng nhất với các hiện tượng đó.
Tính tị mị là sự chú ý mạnh mẽ vào yếu tố bất ngờ, cái thay đổi, cái mới xuất
hiện ở mơi trường bên ngồi. Sự chú ý này có thể kéo dài và đầy xúc cảm nhưng chỉ
xuất phát từ khía cạnh bên ngồi mà khơng đi vào bản chất của đối tượng. Tính ham
hiểu biết gần gũi với hứng thú nhưng nó khơng tập trung vào một đối tượng hoặc một
hoạt động nhất định mà nó bị khuyếch tán. Một đứa trẻ ham hiểu biết thường không có
hứng thú sâu sắc với một đối tượng, nhưng lại hứng thú với mọi thứ xung quanh.
Nhiều nghiên cứu về hứng thú đã khẳng định trong quá trình phát triển hứng thú ở cá
thể, tính tị mị là biểu hiện đầu tiên của hứng thú, kế đó tính ham hiểu biết mới xuất



25

hiện.
* Hứng thú và thái độ
Hứng thú là xu hướng chiếm ưu thế của cá nhân nhằm vào đối tượng nào đó có
ý nghĩa trong cuộc sống và tình cảm của nó. Hứng thú là động lực thúc đẩy, duy trì
hoạt động tích cực của cá nhân. Hứng thú là một dạng thái độ đặc biệt, chứa đựng
những quan điểm cảm xúc, cách sử dụng quen thuộc với đối tượng. Vì vậy, biết được
cá nhân có hứng thú với đối tượng nào, đồng thời chúng ta biết được thái độ của họ
với đối tượng đó.
g. Vai trị của hứng thú trong hoạt động của cá nhân
Hứng thú có vai trị quan trọng đối với mọi hoạt động của con người. Cùng với
nhu cầu, hứng thú kích thích hoạt động, làm cho con người hoạt động tích cực, say mê và
đem lại kết quả cao trong học tập, lao động, công tác.
Khi có hứng thú đối với một cơng việc nào đó, con người sẽ thực hiện nó một
cách dễ dàng và đạt kết quả cao. Lúc đó, con người sẽ cảm thấy thích thú trong lao
động, khiến cho cơng việc trở nên nhẹ nhàng, tốn ít sức lực hơn và có sức tập trung
cao độ. Ngược lại, khi tiến hành một hoạt động nào đó mà khơng có hứng thú, khơng
có sự say mê, con người sẽ thực hiện nó một cách gượng ép, khơng mang tính tự giác,
hoạt động trở nên khó khăn, nặng nhọc, dễ gây cho con người mệt mỏi, chán nản và
hiệu quả đạt được sẽ không cao. Như vậy, hứng thú đã làm tăng sức làm việc của con
người, mang lại cho con người niềm vui, niềm say mê trong lao động, làm tăng hiệu
quả, chất lượng của hoạt động.
Hứng thú làm nảy sinh khát vọng hành động và hành động một cách sáng tạo.
Khi được phát triển ở mức độ cao, sâu sắc, hứng thú biến thành nhu cầu cấp bách. Lúc
đó, cá nhân cảm thấy cần phải hành động để thỏa mãn nhu cầu và tự giác bắt tay vào
hành động.
Về phương diện tâm lý học, hứng thú được xem như là một cơ chế bên trong,
sự biểu hiện của động cơ thúc đẩy q trình nhận thức của con người. Trong đó, hứng
thú nhận thức có thể được xem là sự biểu hiện của động cơ chủ đạo trong hoạt động

học tập ở học sinh. Kết quả học tập của người học khơng chỉ tùy thuộc vào những đặc
điểm về mặt trí tuệ của cá nhân, mà còn tùy thuộc cả vào thái độ học tập, hứng thú nhận
thức của các em. Thực tiễn đã cho thấy ở từng học sinh cụ thể, kết quả học tập các môn


×