Tải bản đầy đủ (.doc) (91 trang)

Thực trạng vận dụng phương pháp trị liệu dosaho trong phục hồi chức năng cho trẻ khuyết tật tại trường PTCB nguyễn đình chiểu

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.52 MB, 91 trang )

LỜI CẢM ƠN

Đề tài nghiên cứu Thực trạng vận dụng phương pháp trị liệu Dosaho
trong phục hồi chức năng cho trẻ khuyết tật tại Trường PTCB Nguyễn Đình
Chiểu là một đề tài mới mẻ, có thể nghiên cứu ở nhiều khía cạnh khác nhau, ở
các mức độ nơng – sâu khác nhau. Nên khi tiến hành thực hiện chúng tôi gặp
rất nhiều khó khăn. Đặc biệt là trong việc thu thập tài liệu về phương pháp
Dosaho. Nhưng được sự động viên, giúp đỡ của các thầy cô, đặc biệt là thầy
giáo hướng dẫn và sự hợp tác nhiệt tình của các cán bộ giáo viên Trường
PTCB Nguyễn Đình Chiểu, Phòng Khoa học, sau đại học và Hợp tác Quốc tế
và các chun gia Nhật Bản nên chúng tơi đã hồn thành được đề tài này
trong thời gian cho phép.
Xin chân thành cảm ơn!


MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài
Sự tồn tại của trẻ khuyết tật là một thực tế khách quan, xã hội càng phát
triển thì sự quan tâm của xã hội đến trẻ khuyết tật càng được nâng cao. Ở Việt
Nam, việc đảm bảo quyền cho trẻ em nói chung và trẻ khuyết tật nói riêng rất
được chú trọng. Điều này thể hiện trong các văn bản pháp quy mà Việt Nam
đã kí và cam kết thực hiện như Cơng ước Quốc tế về Quyền trẻ em, Công ước
về Giáo dục cho mọi người. Hơn nữa, trong Luật Phổ cập giáo dục Tiểu học,
Luật chăm sóc và Giáo dục trẻ em, Luật giáo dục, Pháp lệnh về Người tàn tật
và Luật Người khuyết tật 2010 đã đề cập đến vấn đề trẻ khuyết tật có quyền
như mọi trẻ em khác.
Trong Nghị quyết TW Đảng khoá VI và Chiến lược phát triển giáo dục
2001- 2010 đã xác định rõ mục tiêu, nhiệm vụ của giáo dục trẻ khuyết tật.
Theo đó, Bộ Giáo dục và đào tạo đã áp dụng các mơ hình trẻ khuyết tật khác
nhau và đã thu được những kết quả nhất định. Đồng thời, Bộ Lao động
Thương binh và Xã hội đã có các chính sách dành cho trẻ khuyết tật và gia


đình có trẻ khuyết tật. Tất cả những điều này đã chứng minh sự quan tâm
ngày càng lớn của Đảng và Nhà nước đối với những người khuyết tật nói
chung và trẻ khuyết tật nói riêng.
Theo Báo cáo của Bộ Lao động, Thương binh và Xã hội năm 2008, ước
tính có khoảng 1,2 triệu trẻ em khuyết tật. Do đó, Việt Nam được xếp vào một
trong những nước có số lượng trẻ khuyết tật hàng cao trên thế giới. Trong một
nghiên cứu của Bộ Lao động, Thương binh và Xã hội hợp tác với UNICEF
vào năm 1998 – 1999 trong những trẻ từ 0 đến 17 tuổi cho thấy có khoảng 1
triệu trẻ khuyết tật trên cả nước, chiếm khoảng 1,4% tổng dân số và khoảng
3,1% tổng số trẻ em. Trung bình, cứ mỗi 5,7 hộ gia đình thì có khoảng một
gia đình có trẻ khuyết tật. Khuyết tật vận động là phổ biến nhất (22,4%) sau
đó là khuyết tật ngôn ngữ (21,4%), những vấn đề về hành vi (16,2%), khiếm


thị (14,6 %), khiếm thính (9,7%) và thiểu năng trí tuệ (3,6%). Đa số trẻ
khuyết tật đều bị đa tật.
Tính đến thời điểm hiện tại, chưa có thống kê cụ thể về số lượng trẻ
khuyết tật tại Đà Nẵng. Mặc dù vấn đề chăm sóc và giáo dục trẻ khuyết tật
cũng được quan tâm nhiều; có nhiều chương trình, dự án về trẻ khuyết tật của
các tổ chức chính phủ và phi chính phủ đầu tư. Tuy nhiên, các dự án này chủ
yếu tập trung vào việc hỗ trợ về mặt vật chất, giáo dục cho trẻ và gia đình có
trẻ khuyết tật. Cịn việc điều trị và phục hồi chức năng chưa được chú ý nhiều.
Người khuyết tật thường phải gánh chịu những cảm giác đau đớn, khó
chịu do sự ức chế hoạt động, do di chứng của khuyết tật gây nên. Do đó, việc
vận dụng những phương pháp tác động đặc biệt nhằm giúp trẻ giảm bớt
những cơn đau, sự khó chịu, sự ức chế trong cơ thể giúp trẻ có cảm giác thoải
mái và dễ chịu hơn là hết sức cần thiết. Từ đó, dần dần phục hồi một số chức
năng cho trẻ trong việc di chuyển, tự phục vụ. Góp phần vào việc kéo dài thời
gian sớng cho người khút tật.
Trường PTCB Nguyễn Đình Chiểu – Tp.Đà Nẵng là một trong những cơ

sở có số lượng trẻ khuyết tật đông tại thành phố Đà Nẵng. Trong nhiều năm
qua, cơng tác chăm sóc & giáo dục trẻ khuyết tật đã đạt được nhiều thành tựu.
Trường cũng nhận được sự quan tâm và hỗ trợ của nhiều tổ chức trong và
ngồi nước, đã có nhiều chương trình, dự án được triển khai ở đây. Trong số
những chương trình đó, có chương trình tập huấn “Phương pháp vận động
lâm sàng dành cho trẻ khuyết tật” do Nhóm chuyên gia Nhật Bản phối hợp
với Trường PTCB Nguyễn Đình Chiểu và Trường ĐH Sư phạm Đà Nẵng
thực hiện. Phương pháp này bước đầu đã cho thấy những kết quả khả quan
đến lĩnh vực vận động của trẻ khuyết tật.
Từ những lý do trên, chúng tôi mạnh dạn lựa chọn đề tài “Thực trạng
vận dụng phương pháp trị liệu Dosaho trong phục hồi chức năng cho trẻ
khuyết tật tại Trường PTCB Nguyễn Đình Chiểu – Tp.Đà Nẵng”.


2. Mục đích nghiên cứu
Trên cơ sở nghiên cứu thực trạng vận dụng phương pháp trị liệu
Dosaho trong phục hồi chức năng cho trẻ khuyết tật tại Trường PTCB Nguyễn
Đình Chiểu để đề ra một số biện pháp nhằm nâng cao hiệu quả của phương
pháp này, góp phần vào việc xây dựng mô hình trị liệu trong phục hồi chức
năng cho trẻ khuyết tật bằng phương pháp trị liệu Dosaho theo hướng lâu dài
tại Nhà trường.
3. Khách thể và đối tượng nghiên cứu
3.1. Khách thể
Quá trình trị liệu trong phục hồi chức năng cho trẻ khuyết tật.
3.2. Đối tượng
Phương pháp trị liệu Dosaho trong phục hồi chức năng cho trẻ trẻ
khuyết tật tại TRường PTCB Nguyễn Đình Chiểu – Tp. Đà Nẵng.
4. Giả thuyết khoa học
Hầu hết các cán bộ giáo viên Trường PTCB Nguyễn Đình Chiểu đều
nhận thức được vai trò của phương pháp trị liệu Dosaho sau khi được tập

huấn. Việc vận dụng phương pháp trị liệu Dosaho để phục hồi chức năng cho
trẻ khuyết tật bước đầu đã mang lại hiệu quả . Tuy nhiên, do các cán bộ giáo
viên chưa nắm vững kiến thức, kĩ năng của phương pháp này và thời gian
thực hành còn hạn chế nên hiệu quả vận dụng của phương pháp trị liệu
Dosaho đạt được chưa cao, số lượng học sinh được trị liệu còn hạn chế.
Nếu có những chính sách và chương trình tập huấn dài hạn để nâng cao
kiến thức và kĩ năng vận dụng phương pháp trị liệu Dosaho của cán bộ giáo
viên thì phương pháp này sẽ mang lại hiệu quả cao trong phục hồi chức năng
cho trẻ khuyết tật tại Trường PTCB Nguyễn Đình Chiểu.
5. Nhiệm vụ nghiên cứu


Nghiên cứu cơ sở lý luận của đề tài, bao gồm các khái niệm cơ bản, lý
luận về trẻ khuyết tật, về lý thuyết Dosaho và cơ sở vận dụng của phương
pháp này, các bài tập Dosaho.
Khảo sát việc vận dụng các bài tập Dosaho để điều trị và phục hồi chức
năng cho trẻ khuyết tật tại Trường PTCB Nguyễn Đình Chiểu - Tp.Đà Nẵng.
Đề x́t mợt sớ biện pháp nhằm nâng cao hiệu quả phục hồi chức năng
cho trẻ khuyết tật bằng phương pháp trị liệu Dosaho theo hướng lâu dài tại
Trường PTCB Nguyễn Đình Chiểu
6. Phạm vi nghiên cứu
Chúng tôi chỉ nghiên cứu việc vận dụng các bài tập Dosaho để phục hồi
chức năng cho trẻ khuyết tật vận động, trẻ chậm phát triển trí tuệ và trẻ tự kỷ
tại Trường PTCB Nguyễn Đình Chiểu – Tp.Đà Nẵng.
7. Phương pháp nghiên cứu
Để giải quyết những nhiệm vụ của đề tài, chúng tôi sử dụng những
phương pháp nghiên cứu sau:
7.2.1. Phương pháp nghiên cứu lý thuyết
Nghiên cứu các tài liệu liên quan, trên cơ sở đó phân tích, tổng hợp, hệ
thống hố, khái qt hố thơng tin thu được để làm sáng tỏ cơ sở lý luận, các

khái niệm công cụ của đề tài. Đồng thời, tiến hành dịch một số tài liệu về
phương pháp Dosaho.
7.2.2. Phương pháp nghiên cứu thực tiễn
* Phương pháp phỏng vấn
Tiến hành phỏng vấn cán bộ quản lý, giáo viên theo 2 hình thức để
khảo sát thực trạng vận dụng phương pháp trị liệu Dosaho.
* Phương pháp quan sát
Sử dụng phiếu quan sát để đánh giá thực trạng tiến hành thực hiện
phương pháp Dosaho. Quan sát để đánh giá sự tiến bộ của trẻ.


* Phương pháp nghiên cứu sản phẩm
Nghiên cứu các kế hoạch giảng dạy, hồ sơ trẻ được lập vào tháng
9/2010.
* Phương pháp nghiên cứu trường hợp điển hình
Chúng tôi tiến hành quan sát và sử dụng phiếu trắc nghiệm vận động để
đánh giá tình trạng hiện tại của 6 trẻ điển hình. Sau đó, lập hồ sơ và đối chiếu
với hờ sơ trước đây.
8. Cấu trúc đề tài
Ngồi phần mở đầu, kết luận, phụ lục, danh mục tài liệu tham khảo, phần
nội dung chính của đề tài gồm 3 chương.
Chương 1: Cơ sở lý luận
Chương 2: Thực trạng việc vận dụng phương pháp trị liệu Dosaho trong
phục hồi chức năng cho trẻ khuyết tật tại Trường PTCB Nguyễn Đình Chiểu
- Tp.Đà Nẵng
Chương 3: Đề xuất một số biện pháp nhằm nâng cao hiệu quả phục hồi
chức năng cho trẻ khuyết tật bằng phương pháp trị liệu Dosaho theo hướng
lâu dài tại Trường PTCB Nguyễn Đình Chiểu - Tp. Đà Nẵng.



PHẦN NỘI DUNG
Chương 1: Cơ sở lý luận
1.1. Tổng quan về vấn đề nghiên cứu
Quá trình nghiên cứu về liệu pháp tâm lý và phục hồi chức năng được
khởi đầu bằng một phát hiện trong lĩnh vực nghiên cứu về hiện tượng ngủ ở
người bị bệnh bại não vào năm 1965. Vào thời điểm đó, người ta cho rằng
người bị bệnh bại não không thể vận động được cơ thể bởi vì một phần các tế
bào não của người bệnh đã bị chết. Tuy nhiên, một công trình nghiên cứu về
hiện tượng ngủ đã phát hiện thấy một thanh niên bị liệt não có thể chuyển
động cánh tay nhờ luyện tập kĩ thuật thôi miên. Giáo sư Naruse đã chú ý đến
công trình nghiên cứu này và ngay lập tức thông báo kết quả nghiên cứu khó
tin đó đến các đồng nghiệp của ông. Nhờ có các công trình nghiên cứu lâu dài
của giáo sư Naruse và các đồng nghiệp của ông, khoa học đã khẳng định rằng
một số người bị bệnh bại não có thể vận động cánh tay và cơ thể nhờ sử dụng
biện pháp thôi miên. Điều đó có nghĩa là người ta có thể vận động cơ thể và
các chi bằng chính nỗ lực của mình dù các tế bào não đã bị tổn thương hoặc
một bộ phận các tế bào não đã chết. Kết luận này hoàn toàn ngược với các kết
luận trước đó. Chắc chắn phải xảy ra một quá trình tâm lý trong các vận động
thể chất của cơ thể con người, và các quá trình tâm lý vượt ra ngoài quan
điểm thông thường về y học.
Trong nhiều công trình nghiên cứu và thử nghiệm lâm sàng, giáo sư
Naruse và các đồng nghiệp của ông đã cố gắng mô tả “hệ thống vận động của
con người” – tiếng Nhật gọi là “Dosaho” và đã thành công trong việc phát
triển một chương trình phục hồi chức năng không sử dụng thôi miên dành cho
những bệnh nhân bị bại não và bị tắc nghẽn động mạch não. Chương trình
này có tên gọi là “phương pháp luyện tập Dosaho”. Hiệu quả rõ rệt của
phương pháp tập luyện Dosaho đã được chứng minh trong nhiều trường hợp.
Hơn nữa, phương pháp trị liệu Dosaho không chỉ phát huy tác dụng trong các



chương trình phục hồi chức năng thể chất mà còn trong các chương trình
chăm sóc sức khỏe tâm thần và tâm lý trị liệu. Trong thực tế, đã xảy ra không
ít trường hợp một số trẻ em đã được chẩn đoán sẽ nằm liệt suốt đời do những
tổn thương về thể chất và tâm lý, nhưng sau đó các em lại có thể đứng thẳng,
đi lại thoải mái và thậm chí theo học các lớp bình thường. Cũng trong các
trường hợp sử dụng liệu pháp tâm lý, đã có báo cáo khoa học khẳng định một
trường hợp bệnh nhân sử dụng bài tập Dosaho nhanh chóng cải thiện triệu
chứng trầm cảm. Hiện nay, các chương trình chăm sóc sức khỏe dựa trên
phương pháp tâm lý sử dụng hệ thống các tác động vận động Dosaho làm
công cụ được gọi là chương trình phục hồi chức năng dựa vào liệu pháp tâm
lý, và trong hơn 20 năm qua, phương pháp tập luyện vận động Dosaho được
xem là chương trình phục hồi chức năng dựa vào liệu pháp tâm lý hiệu quả
nhất ở Nhật Bản.
Các chuyên gia tâm lý, các bác sĩ điều trị, các nhà nghiên cứu khoa học
quan tâm đến mối quan hệ không thể tách rời giữa thể chất và tinh thần đã
ứng dụng phương pháp Dosaho tại các trại huấn luyện, trong các chương trình
điều trị bệnh, trong các chương trình hoạt động học tập và chăm sóc sức khỏe.
Hiện nay, cơ sở lý thuyết của phương pháp tập luyện Dosaho đã được khẳng
định, và các nhà khoa học đã phát hiện các phương pháp mới như: Phương
pháp Dosaho thể thao cho các vận động viên thể thao chuyên nghiệp được sử
dụng như là một phương pháp rèn luyện tinh thần, Phương pháp Dosaho
trong giáo dục được ứng dụng trong lĩnh vực giáo dục chuyên biệt... Tại Nhật
Bản, số người bị mắc các chứng bệnh về tâm thần đang ngày càng tăng. Vì
vậy, việc sử dụng “Phương pháp chăm sóc sức khỏe Dosaho” hay “ Liệu pháp
Dosaho” như là một phương pháp duy trì sự cân bằng của tình trạng sức khỏe
thể chất – tâm thần cho người bình thường đang trở thành khuynh hướng lớn
trong lĩnh vực tâm lí học lâm sàng ở Nhật Bản. Liệu pháp Dosaho được
nghiên cứu nhiều nhất bởi các nhà tâm lí học trị liệu, các bác sĩ ở các trường



đại học và các bệnh viện thần kinh, và hiện đang phát triển rất nhanh chóng ở
Nhật Bản. Các bệnh nhân được điều trị bằng liệu pháp Dosaho có thể nhận
thấy sự cải thiện nhanh chóng tình trạng: cứng vai, bệnh đau lưng, các cơn
đau hông, đau đầu gối, đau đầu và các triệu chứng nhẹ của bệnh trầm cảm...
Những phát triển mới của phương pháp tập luyện Dosaho được ứng dụng
nhiều nhất trong các điều trị được gọi chung là “Phương pháp trị liệu
Dosaho”. Phương pháp trị liệu Dosaho phát triển hơn phương pháp tập luyện
Dosaho ban đầu ở sự phong phú của kĩ thuật và ứng dụng. Trong khi phương
pháp tập luyện Dosaho ban đầu được bắt nguồn từ phát hiện trong nghiên cứu
hiện tượng ngủ, và chỉ dành cho những bệnh nhận bị bại bão và bệnh tắc
nghẽn mạch máu não, thì phương pháp trị liệu Dosaho được dựa trên cơ sở
các cơng trình nghiên cứu về phương pháp tập luyện Dosaho, nó được dành
cho tất cả mọi người trong việc chăm sóc sức khỏe hằng ngày, và được ứng
dụng trong nhiều lĩnh vực như giáo dục, điều trị bệnh, thể dục thể thao...
Việt Nam là một trong những quốc gia có tỷ lệ khuyết tật cao. Có nhiều
yếu tố tác động tới tình hình khuyết tật ở nước ta, nhưng chủ yếu vẫn là ảnh
hưởng bởi thương tật, chất độc da cam sau chiến tranh; hậu quả của các vấn
đề sức khoẻ công cộng trong giai đoạn phát triển như tai nạn thương tích, các
bệnh khơng truyền nhiễm, sức khỏe tâm thần .v.v.
Khuyết tật nếu không được phục hồi chức năng và có các can thiệp y tế, kinh
tế, xã hội kịp thời sẽ tác động tới tình trạng sức khoẻ của cơ thể, các chức
năng sinh hoạt cần thiết trong đời sống hàng ngày, gây hạn chế khả năng tham
gia các hoạt động xã hội của cá nhân người khuyết tật, kéo theo các tác động
tới gia đình và xã hội. Chính vì vậy, phục hồi rất được chú trọng, thể hiện rõ
trong Luật Người khuyết tật, có hiệu lực thi hành từ ngày 01 tháng 01 năm
2011.
Tại Đà Nẵng, công tác phục hồi chức năng cũng rất được chú trọng.
Hầu hết các bệnh viện đều có phòng phục hồi chức năng và được trang bị cơ



sở vật chất tương đối hiện đại. Tuy nhiên, ở các trường và cơ sở dạy trẻ
khuyết tật thì vấn đề này chưa được chú trọng và đầu tư nhiều.
1.2. Một số vấn đề chung về trẻ khuyết tật
1.2.1. Trẻ khuyết tật
1.2.1.1. Khái niệm
“Người khuyết tật là người do khiếm khuyết hoặc tình trạng sức khoẻ
bị giảm chức năng và/hoặc hạn chế sự tham gia sinh hoạt, lao động, học tập
và đời sống xã hội“
Khái niệm này cũng tương đương với khái niệm khuyết tật của WHO
khuyến cáo sử dụng theo phân loại ICF, tương đương với khái niệm khuyết
tật được đề cập trong dự thảo Công ước Quốc tế về Quyền người khuyết tật
và không mâu thuẫn với tinh thần của Pháp lệnh về Người tàn tật của Việt
Nam.
1.2.1.2. Phân loại
Căn cứ vào tình hình khuyết tật cụ thể của Việt Nam và kế thừa những
phân loại cũ và phân loại chức năng theo ICF, loại khuyết tật được chia thành
các nhóm như sau:
1. Khuyết tật (giảm chức năng) vận động
2. Khuyết tật (giảm chức năng) về nghe, hoặc nghe và nói kết hợp
3. Khuyết tật (giảm chức năng) nhìn
4. Giảm cảm giác (bao gồm giảm cảm giác do bệnh Phong gây ra, giảm
vị
giác, khứu giác,… do các nguyên nhân khác nhau).
5. Rối loạn chức năng nhận thức: các dạng chậm phát triển trí tuệ,
Down


6. Rối loạn chức năng tâm thần – hành vi: tự kỷ, các dạng bệnh tâm
thần, rối loạn hành vi…
7. Các khuyết tật (giảm chức năng) khác thuộc hệ thống tuần hồn, hơ

hấp, bài tiết, tiết niệu, sinh dục, sinh sản do các bệnh mạn tính gây ra.
Đa khuyết tật: là người khuyết tật mắc hai khuyết tật trở lên như giảm
chức năng nghe, kèm theo giảm chức năng nhìn.
1.2.2. Trẻ khuyết tật vận động
1.2.2.1. Khái niệm
Một trẻ khó khăn về tật vận dộng là trẻ yếu tay, chân, lưng, cổ hoặc do
đau làm trẻ không cử động được. Đối với trẻ lớn không thể cầm một vật,
không thể cúi xuống nhặt một vật lên, không thể đi bộ 10 mét.
1.2.2.2. Nguyên nhân gây khuyết tật vận động
- Do bệnh: bại liệt, bại não, viêm khớp, viêm cơ, bệnh xương.
- Do chân thương: tai nạn, sang chấn khi sinh đẻ.
- Do bẩm sinh.
1.2.2.3. Các loại khuyết tật vận động
- Bại, liệt 1 tay
- Bại, liệt 2 tay
- Bại, liệt 2 chân
- Bại, liệt nửa người
- Bại, liệt tứ chi
- Thiếu, thừa ngón tay
- Ngắn chi, cụt chi
- Bệnh cơ, xương, khớp
- Bàn chân khoèo


1.2.3. Trẻ chậm phát triển trí tuệ (CPTTT)
1.2.3.1. Khái niệm
Theo bảng phân loại của Hiệp hội chậm phát triển tâm thần Mỹ, trẻ
CPTTT liên quan đến những hạn chế cơ bản về các chức năng hiện tại với
những đặc điểm sau:
- Chức năng trí tuệ dưới mức trung bình.

- Hạn chế ít nhất 2 lĩnh vực hành vi thích ứng như: Giao tiếp/ liên cá
nhân, tự phục vụ, sống tại gia đình, xã hội, sử dụng các tiện ích tại cộng đồng,
tự định hướng, kỹ năng học đường chức năng, giải trí, lao động, sức khỏe, và
an tồn,…
- Hiện tượng này xuất hiện trước 18 tuổi.
Theo Grossman, nhà bác học Mỹ: “CPTTT là tình trạng chức năng trí
tuệ tổng qt thấp hơn mức bình thường dẫn đến hành vi thích ứng kém và
xảy ra trong giai đoạn phát triển. Theo ơng, trẻ CPTTT có đủ hai yếu tố:
chức năng trí tuệ thấp và hành vi thích ứng kém.”
1.2.3.2. Nguyên nhân gây khuyết tật CPTTT
* Trước khi sinh
- Di truyền: Bố, mẹ hoặc một trong hai người CPTTT thì có thể sẽ di truyền
cho các thế hệ tiếp sau.
- Do sự đột biến nhiễm sắc thể làm cho cấu trúc gen bị sai lệch dẫn đến một
số hiện tượng như: Bệnh Tớc-nơ(nữ), Clai-phen-tơ(nam), Đao(ba nhiễm sắc
thể ở cặp thứ 21),…
- Người mẹ bị mắc một số bệnh trong thời gian mang thai như: cúm, sởi
Rubela,…
- Thai nhi suy dinh dưỡng, thiếu i-ốt, …


- Yếu tố môi trường độc hại: Thai nhi bị nhiễm độc, ngộ độc, bố/ mẹ bị
nhiễm phóng xạ, các chất gây nghiện ( do hút thuốc, uống rượu, sử dụng ma
túy),…
- Sự mệt mỏi, căng thẳng của người mẹ.
* Trong khi sinh
Những rủi ro trong quá trình sinh: đẻ non, đẻ khó, trẻ bị ngạt,…có can
thiệp y tế nhưng không đảm bảo dẫn đến những tổn thương não bộ.
* Sau khi sinh
- Trẻ bị mắc các bệnh về não như: Viêm não, viêm màng não để lại di

chứng, chấn thương sọ não do tai nạn…
- Do biến chứng từ các bệnh sởi, đậu mùa…
- Dùng thuốc không theo chỉ định,…
- Suy dinh dưỡng, thiếu Iốt…
- Tai nạn trong sinh hoạt, học tập…
- Trẻ sống cách ly cuộc sống xã hội trong thời gian dài,…
1.2.3.3. Đặc điểm vận động của trẻ CPTTT
CPTTT thường kéo theo những khó khăn về vận động cho trẻ. Một trẻ
khó khăn về vận động là trẻ bị yếu tay, chân, lưng, cổ hoặc do đau làm trẻ
không cử động được. Đối với trẻ lớn không thể cầm một vật, không thể cúi
xuống nhặt vật lên, không thể đi bộ được 10 mét.
1.2.4. Trẻ tự kỷ
1.2.4.1. Khái niệm
Năm 1934, Kanner đã đưa ra định nghĩa trẻ tự kỷ là những trẻ không tạo
lập mối quan hệ với con người, thường có thái độ bàng quan, thờ ơ với mọi
người xung quanh, có biểu hiện chậm nói, chủ yếu giao tiếp qua các cử chỉ


đơi khi có vẽ kỳ dị, cùng các hoạt động vui chơi đơn giản, mang tính lặp đi
lặp lại.
Năm 1969, Rutter đã đưa ra 4 đặc trưng chủ yếu của tự kỷ:
- Thiếu quan tâm và đáp ứng trong quan hệ xã hội.
- Rối loạn ngôn ngữ: Từ mức độ khơng có lời đến lời nói lập dị
- Hành vi, hành động dị thường: Từ mức độ chơi hạn chế, cứng nhắc cho
đến khuôn mẫu hành vi phức tạp mang tính nghi thức và thúc ép
- Khởi phát sớm trước 30 tháng
Định nghĩa theo DSM-IV-TR: tự kỷ nằm trong nhóm các rối loạn phát
triển lan toả (PDD: Pervasive Developmental Disorders): Là một nhóm hội
chứng được đặc trưng bởi suy kém nặng nề và lan toả trong những lãnh vực
phát triển: tương tác xã hội, giao tiếp và sự hiện diện của những hành vi và

các ham thích rập khn.
Như vậy có nhiều khái niệm về trẻ tự kỷ. Tuy nhiên các khái niệm này
không đối lập nhau mà bổ sung cho nhau để đưa đến khái niệm hoàn chỉnh về
trẻ tự kỷ.
Theo chúng tôi, học sinh mắc rối loạn tự kỷ là những học sinh có những rối
loạn phát triển lan tỏa phức tạp ở những lĩnh vực sau: Tương tác xã hội, ngơn
ngữ, hành vi định hình lặp đi lặp lại, rối loạn cảm giác. Có 5 phân nhóm chẩn
đốn trong phổ tự kỷ: Tự kỷ điển hình, hội chứng Aperger, Rối loạn Rett, rối
loạn phân rã ở trẻ thơ, rối loạn phát triển lan tỏa – không điển hình.
1.2.4.2. Ngun nhân gây khút tật tự kỷ
* Tởn thương não hoặc não bộ kém phát triển do:
Đẻ non tháng dưới 37 tuần.
Cân nặng khi sinh thấp dưới 2.500g.
Ngạt hoặc thiếu ô xy não khi sinh.


Chấn thương xọ não do can thiệp sản khoa.
Vàng da sơ sinh.
Chảy máu não- màng não sơ sinh.
Nhiễm khuẩn thần kinh như viêm não, viêm màng não.
Thiếu ô xy não do suy hô hấp nặng.
Chấn thương xọ não.
Nhiễm độc thủy ngân.

* Yếu tố di truyền:
Bất thường về nhiễm sắc thể.
Bệnh di truyền theo gen hoặc nhóm gen.
* Yếu tố môi trường:
Môi trường trẻ đang sống kích thích lên sự phát triển của trẻ trong 24
tháng đầu: cho trẻ xem vô tuyến truyền hình, quảng cáo, âm nhạc, các đồ chơi

khác nhau hay do sự quan tâm dạy dỗ của cha mẹ và gia đình.
Một số hóa chất, kim loại nặng có thể gây tổn thương não.
1.2.4.3. Đặc điểm vận động của trẻ tự kỷ
Trẻ tự kỷ thường có những vận động, hoạt động mang tính lặp lại và
rập khuôn. Do đó, trẻ tự kỷ thường có dáng đi và tư thế khác trẻ bình thường.
Đặc biệt, động kinh là điều thường xuyên xảy ra ở trẻ tự kỷ. Nhưng mức độ
khác nhau ở mỗi trẻ.
1.3. Một số vấn đề chung về phục hồi chức năng
1.3.1. Khái niệm
Phục hồi chức năng (PHCN) bao gồm các biện pháp y học, kinh tế - xã
hội, giáo dục và các kỹ thuật phục hồi làm giảm tối đa tác động của giảm


chức năng và tàn tật, đảm bảo cho người tàn tật hội nhập và tái hội nhập xã
hội, có cơ hội bình đẳng tham gia các hoạt động xã hội.
Như vậy PHCN không chỉ là nhiệm vụ của ngành y tế mà cịn là trách
nhiệm của tồn xã hội, ngành y tế chỉ đảm nhiệm một mảng hẹp đó là phục
hồi chức năng bằng các biện pháp y học.
1.3.2. Mục đích phục hời chức năng
Hồn lại một cách tối đa về thể chất, tinh thần và nghề nghiệp.
Ngăn ngừa các thương tật thứ phát.
Tăng cường khả năng còn lại của người tàn tật để làm giảm gánh nặng
cho gia đình và xã hội.
Góp phần đưa người tàn tật hồ nhập xã hội và làm thay đổi thái độ của
cộng đồng và xã hội đối với người tàn tật.
1.3.3. Các phương pháp trị liệu trong phục hồi chức năng
1.3.3.1. Phương pháp tâm vận động: là một phương pháp giáo dục dựa vào sự
quan sát và sử dụng các giác quan một cách hợp lý để kích thích các khả năng
của trẻ em. Thơng qua sự vận động trong các trị chơi, các em dần dần hồn
thiện những kỹ năng cịn yếu của mình.

1.3.3.2. Phương pháp vật lý trị liệu: là phương pháp phòng hoặc/và chữa bệnh
bằng cách sử dụng các tác nhân vật lí tự nhiên hay nhân tạo như: nước, khơng
khí, nhiệt độ, khí hậu, độ cao, điện, tia X, tia cực tím, tia hồng ngoại, siêu âm,
các chất đồng vị phóng xạ, xoa bóp, thể dục - thể thao, đi bộ, dưỡng sinh.
1.3.3.3. Phương pháp mát – xa: Theo gốc Hy Lạp, từ massage có nghĩa là xoa
bóp, với quan niệm rằng cơ thể con người có một dịng chảy năng lượng cịn
gọi là "khí". Sự lưu chuyển tốt của khí giúp cơ thể duy trì được sức khỏe và
sinh lực cịn khi dịng khí này bị ngưng trệ là lúc cơ thể yếu đuối và nảy sinh
nhiều bệnh tật. Massage chính là cách vận khí, chuyển khí để dòng chảy này


lưu thông tốt nhất trong cơ thể con người, khơi thông lại nguồn năng lượng
tiềm năng này trong cơ thể.
1.3.3.4. Phương pháp thơi miên: là phương có thể làm thay đổi hoặc kiểm
soát trạng thái tinh thần của một người đến mức người đó phải làm theo các
chỉ thị của người thơi miên.
1.3.4. Các hình thức phục hời chức năng
1.3.4.1. PHCN tại viện: Là hình thức PHCN nội trú hoặc ngoại trú tại các
khoa PHCN trong các bệnh viện đa khoa, tại các trung tâm hay viện PHCN.
- Ưu điểm:
+ PHCN sớm.
+ Có điều kiện kỹ thuật cao về trang bị máy móc và cán bộ.
+ Tiến hành cơng tác đào tạo và nghiên cứu khoa học.
- Nhược điểm:
+ Số lượng thu dung ít.
+ Trở ngại về vấn đề đi lại của người tàn tật.
+ Thời gian tiến hành PHCN ngắn.
1.3.4.2. PHCN ngoại viện: Là hình thức mà cán bộ PHCN đến điều trị tận nhà
cho người tàn tật.
- Ưu điểm:

+ Hạn chế đi lại cho người tàn tật.
+ Có thể triển khai một số kỹ thuật cao.
- Nhược điểm:
+ Tổ chức khó khăn, số người được PHCN cũng hạn chế.
+ Giá thành cao, cần có sự tài trợ lớn.
1.3.4.3. PHCN dựa vào cộng đồng: Là hình thức PHCN ngay tại cộng đồng
và dựa vào cộng đồng (gồm chính quyền địa phương, y tế cộng đồng, hàng


xóm, gia đình và bản thân người tàn tật) là chính, cán bộ PHCN chỉ đóng vai
trị hướng dẫn, chỉ đạo về chuyên môn và kỹ thuật.
- Ưu điểm:
+ Số người được PHCN cao.
+ Người tàn tật được PHCN tại chỗ.
+ Các phương tiện dụng cụ giản đơn để làm tại chỗ và phù hợp với từng
người
+ Có ý nghĩa kinh tế cao gắn liền với chương trình chăm sóc sức khoẻ ban
đầu, phù hợp với các nước nghèo và đang phát triển.
- Nhược điểm:
+ Không triển khai được kỹ thuật cao.
+ Khó khăn về khâu tổ chức, quản lý nên thường khó duy trì lâu dài.
1.4. Phương pháp Dosaho trong trị liệu và phục hồi chức năng cho trẻ
khuyết tật
1.4.1. Cơ sở lý thuyết Dosaho
Cũng giống như một số triết lý y học châu Á, lý thuyết Dosaho cho
rằng thể chất và tinh thần của con người có mối quan hệ khơng thể tách rời.
Điều đó có nghĩa là một sự thay đổi tinh thần có thể dẫn đến những thay đổi
về thể chất và nguợc lại. Thuật ngữ “Dosaho” trong tiếng Nhật có nghĩa là
“sự vận động” và sự vận động thường chỉ phần vận động về mặt thể chất của
cơ thể. Nhưng điều đáng chú ý là thuật ngữ “Dosaho” không chỉ hàm nghĩa sự

căng thẳng hoặc sự vận động về mặt thể chất của cơ thể mà còn chỉ những
hiện tượng tâm lý đuợc tạo ra bởi nỗ lực của con nguời (đôi khi xảy ra một
cách vơ thức) nhằm thích nghi với cuộc sống thường ngày. Nói một cách
chính xác, Dosaho được định nghĩa như là một quá trình tổng thể bao gồm ý
địng của một người, nỗ lực nhằm hiện thực hóa vận động của cơ thể, và kết
quả có thể nhìn thấy đuợc của vận động thể chất của cơ thể.


Nguời ta cho rằng, tất cả mọi nguời đều có những phuơng thức vận động
Dosaho để tiếp nhận cuộc sống từ khi mối đuợc sinh ra, nhưng những phuơng
thức vận động đó khơng phải lúc nào cũng phù hợp với họ. Loại lỗi vận động
Dosaho này sớm muộn sẽ gây ra những căng thẳng có hại cho các bộ phận
của cơ thể như gây đau mình, tê cứng, thậm chí gây ra những tình trạng bất
lợi cho cơ thể như trạng thái trầm cảm. Trong các chuơng trình sử dụng
phuơng pháp trị liệu Dosaho, các nhà vận động đã phát hiện thấy các phuơng
thức vận động Dosaho của một số nguời khơng phù hợp với sự thích ứng của
nguời đó đối với đời sống hàng ngày. Phần lớn các lỗi Dosaho đuợc gây ra do
nguời bệnh không đạt những vận động thể chất phù hợp hơn. Vì vậy các nhà
trị liệu Dosaho sử dụng cách tác động vào các nỗ lực Dosaho của nguời bệnh,
huớng dẫn họ thay đổi phuơng thức vận động sai để chuyển sang những cách
vận động phù hợp và thoải mái hơn khi hợp tác với các chuyên gia trị liệu để
thực hiện các bài tập Dosaho.
1.4.2. Cơ sở vận dụng Dosaho
Từ cơ sở lý thuyết trên cộng với những thành quả mà phương pháp trị
liệu Dosaho đã đạt được, chúng ta có thể thấy được lợi ích của phương pháp
này.
Với trẻ khuyết tật thì ngoài những khuyết tật chính, đi kèm theo đó còn
có một số khuyết tật khác. Hơn nữa, do những khuyết tật mà trẻ không có
điều kiện để phát huy những khả năng còn lại, phục hồi những chức năng đã
mất. Do đó, trẻ dễ phát sinh nhiều hành vi bất thường hoặc cũng có thể bị tê

cứng nhiều bộ phận.
Một nguyên tắc đặc biệt ở Phương pháp trị liệu Dosaho là người được
chữa trị phải tập trung và tự mình thực hiện những thao tác theo yêu cầu của
người trị liệu. Có nghĩa là người điều trị đã tác động vào bệnh nhân bằng tâm
lý trước để người bệnh thực hiện sau. Và đây chính là nguyên tắc cơ bản cho
mọi bài tập Dosaho.


Trong nhiều năm qua, với những thành công đạt được của Phương pháp
trị liệu Dosaho, các trung tâm, trại huấn luyện Dosaho đã được mở ra ở nhiều
nơi trên khắp nước Nhật. Hơn thế, phương pháp này cũng đã được người
Nhật phổ biến ra một số nước (như Trung Quốc, Hàn Quốc, Malaysia, Iran,
Campuchia) và các nước này cũng đã cử các đoàn sang Nhật để được đào tạo
và học hỏi kinh nghiệm.
Vì vậy, có thể nói phương pháp trị liệu Dosaho là một hướng mới trong
việc phục hồi chức năng cho trẻ khuyết tật.
1.4.3. Thống kê một số bài tập Dosaho
1.4.3.1. Yêu cầu chung về kĩ thuật
Cho đến nay, có khoảng 40 – 50 kĩ thuật Dosaho được phát hiện, và
chuyên gia trị liệu chọn 4 – 5 kĩ thuật cho nguời bệnh của mình, gọi là bài tập
Dosaho. Để điều chỉnh những phương thức vận động Dosaho không phù hợp
trong quá trình điều trị. Bài tập Dosaho đuợc chia làm 2 loại: Bài tập căng
thẳng và bài tập thư giãn. Chuyên gia trị liệu phải yêu cầu nguời tập thực hiện
một số tư thế trong bài tập. Chuyên gia trị liệu cần nghiên cứu mỗi bài tập và
những đặc điểm cũng như những ứng dụng của nó.
- Bài tập Dosaho: Bài tập tạo sự căng thẳng
Bài tập tạo sự thư giãn
- Vận dụng tư thế cho nguời tập: Tư thế ngồi (ngồi trên ghế/ bắt chéo
chân/ ngồi đưa chân về phía trước), tư thế nằm ( nằm ngửa/ nằm sấp/ nằm
nghiêng), tư thế đứng (đứng/ quỳ).

1.4.3.2. Tiến trình chung của một bài tập Dosaho
Bước 1: Đánh giá ban đầu: chuyên gia trị liệu kiểm tra những vấn đề mà
nguời bệnh đang gặp phải, và đánh giá những phuơng thức vận động Dosaho
đuợc xem là không phù hợp với người ấy.


Buớc 2: Thỏa thuận đồng ý: chuyên gia trị liệu thông báo với người bệnh về
phuơng pháp vận động Dosaho (chú ý vấn đề giới tính khi phải động chạm
vào cơ thể người bệnh, đặc biệt là khi người bệnh có giới tính khác với
chun gia trị liệu).
Buớc 3: Xác định bài tập Dosaho: chuyên gia điều trị đề ra một phác đồ trị
liệu, chọ bài tập Dosaho trong tất cả các kĩ thuật sử dụng cho nguời bệnh.
Bước 4: Kiểm tra truớc khi điều trị: chuyên gia trị liệu hỏi người bệnh về tình
trạng cơ thể trước khi bắt đầu liệu pháp để nhằm mục đích sau này đánh giá
hiệu quả của việc điều trị.
Bước 5: Điều trị bằng liệu pháp Dosaho: chuyên gia trị liệu giới thiệu và
huớng dẫn người bệnh về các bài tập Dosaho, khuyến khích và phản hồi về
những nỗ lực của người bệnh.
Bước 6: Kiểm tra sau khi điều trị: chuyên gia trị liệu hỏi người bệnh về tình
trạng cơ thể của họ và so sánh với kết quả kiểm tra trước khi điều trị. Dựa trên
các câu trả lời, chuyên gia trị liệu điều chỉnh các bài tập Dosaho cho đợt điều
trị sau.
1.4.3.3. Giới thiệu một số bài tập Dosaho đơn giản
Có tất cả 64 phương pháp trị liệu Dosaho, mỗi một phương pháp lại có
nhiều bài tập thực hành khác nhau, nhưng tất cả các phương pháp này đều tác
động vào 13 vị trí trên 4 vùng sau: vùng mặt, vùng thân, vùng chi trên, vùng
chi dưới.


* Thực hành xác định 13 vị trí


1. Cổ
2. Bả vai
3. Ngực
4. Lưng
5. Lưng cột sống
6. Mơng
7. Đầu gối
8. Gót chân
9. Ngón chân
10. Vai
11. Khuỷu tay
12. Cổ tay
13. Ngón tay

0. Vị trí mặt (theo đề nghị của giao sư yoshikawa)


a. Trán
b. Khóe mắt
c. Xung quanh vùng mắt
d. Xung quanh vùng miệng(vị trí khóe miệng)
e. Má
f. Đầu lưỡi(bộ phận gốc lưỡi)
g. Da đầu


* Các bài tập tại các vị trí
- Vị trí số 1
Người được điều trị (NĐĐT)

Người điều trị(NĐT)
- Nằm sấp, hai tay úp xuống nền - Giữ 2 bên bắp tay
trước ngực

- Yêu cầu NĐĐT gồng lên – nới lỏng

- Nới lỏng – gồng lên (nhiều lần).

tại vị trí đặt tay.

- Nghiêng mặt sang trái

- Đặt tay ở nốt cổ (trên)

- Nới lỏng – gồng lên (nhiều lần).

- Yêu cầu NĐĐT gồng lên – nới lỏng

- Làm nhiều lần theo yêu cầu của tại vị trí đặt tay.
NĐT

- Yêu cầu NĐĐT nghiêng đầu sang

- Nghiêng đầu sang phải rồi thực hiện phải rồi đặt tay ở nốt cổ (dưới)
lại tương tự theo yêu cầu của NĐT

- Đặt hai tay giữ bắp tay và yêu cầu

- Quay đầu lại vị trí ban đầu rồi gồng gồng – nới
– nới.


- Khi làm đúng thi nói: đúng rồi

- Kết thúc theo yêu cầu của NĐT
- Vị trí số 2, 3

- Hỏi: cảm giác thế nào?`

Người được điều trị (NĐĐT)
- Ngồi hai tay để trên đùi

Người điều trị(NĐT)
- Tay trái cầm vai, tay phải đặt sau

- Gồng và nới lỏng theo yêu cầu của lưng rồi yêu cầu NĐĐT thực hiện.
NĐT.

- Khi NĐĐT nới lỏng thì ép mạnh tay

- Thực hiện tương tự nhiều lần

về phía trước.
- Khi làm đúng thi nói: đúng rồi
- Hỏi: cảm giác thế nào?

- Vị trí số 4,5
Người được điều trị (NĐĐT)
Người điều trị(NĐT)
- Nằm sấp, hai tay úp xuống nền - Đặt 2 tay áp vào lưng
trước ngực


- Yêu cầu NĐĐT gồng lên – nới lỏng


- Nới lỏng – gồng lên

tại vị trí đặt tay. (có đôi lúc ngắt

- Làm nhiều lần theo yêu cầu của quãng)
NĐT

- Khi làm đúng thi nói: đúng rồi

- Kết thúc theo yêu cầu của NĐT

- Hỏi: cảm giác thế nào?

- Vị trí số 6
Người được điều trị nằm ngửa, thả lỏng người. Người điều trị ngồi bên phải
của NĐĐT:
Lần 1: Luồn chân trái sang phía dưới vị trí thắt lưng của NĐĐT. Để cho
NĐĐT nằm thả lỏng như vậy trong 2 phút. Đồng thời NĐT kiểm tra những vị
trí bị cứng của NĐĐT. Sau 2 phút thì rút chân ra. Hỏi NĐ ĐT có cảm giác thế
nào?
Lần 2: Cho NĐ ĐT nằm thả lỏng sau khoảng 3 phút thì thực hiện một
lần nữa. Hỏi NĐ ĐT có cảm giác thế nào?
- Vị trí số 7
NĐĐT
Nằm duỗi thẳng
NĐT

- Ngồi bên trái NĐĐT
- Chân và tay NĐĐT cố định tay và chân NĐĐT bằng cách dùng tay phải
đặt vào vai NĐĐT, chân trái NĐT đặt lên chân NĐĐT. Sau đó đưa tay
vào đầu gối NĐĐT, giúp NĐĐT hạ chân xuống từ từ.
- Vị trí số 8,9
NĐĐT:
- Đứng.
- Ngồi duỗi thẳng chân, 2 tay đặt chống sau lưng rồi co bàn chân trái lên.


×