Tải bản đầy đủ (.doc) (17 trang)

BÀI GIẢNG CHI TIẾT KINH tế CHÍNH TRỊ CÔNG NGHIỆP hóa, HIỆN đại hóa TRONG THỜI kỳ QUÁ độ lên CHỦ NGHĨA xã hội ở VIỆT NAM

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (195.57 KB, 17 trang )

CHUYÊN ĐỀ
CÔNG NGHIỆP HOÁ, HIỆN ĐẠI HOÁ TRONG THỜI KỲ QUÁ ĐỘ
LÊN CHỦ NGHĨA XÃ HỘI Ở VIỆT NAM
1. Mục đích, yêu cầu: Giới thiệu cho người học nắm được những vấn đề
cơ bản về CNH, HĐH trong thời kỳ quá độ lên CNXH. Nắm chắc mục tiêu,
quan điểm, nội dung, tiền đề điều kiện tiến hành CNH, HĐH nền kinh tế đất
nước trong thời kỳ quá độ lên CNXH ở Việt Nam hiện nay.
2. Thời gian: 4 tiết
3. Vật chất đảm bảo: giáo án bài giảng, sách giáo khoa KTCT cho các
đối tượng cao đẳng và đại học không chuyên kinh tế của bộ giáo dục đào tạo ấn
hành năm 2008 về trước.
Văn kiện Đảng khóa XI; XII; NQ 11 của chính phủ về ổn dịnh kinh tế vĩ mô
đảm tăng trưởng kinh tế; NQTW 3 & 4 khóa XI.
4. Nội dung, phương pháp:
Nội dung: gồm 4 phần lớn
phương pháp: thuyết trình kết hợp nêu vấn đề và đạy học nhóm…
Đối người học: Nắm chắc vấn đề đặt ra, trao đổi thảo luận làm rõ vấn đề
theo yêu cầu của giảng viên. Ghi chép nội dung chủ yếu để làm cơ sở nghiên
cứu học tập và vận dụng xem xét…
I. CƠ SỞ VẬT CHẤT KỸ THUẬT CỦA CHỦ NGHĨA XÃ HỘI VÀ SỰ
CẦN THIẾT PHẢI TIẾN HÀNH CÔNG NGHIỆP HOÁ, HIỆN ĐẠI HOÁ
Ở NƯỚC TA
Thời gian: 30 PHÚT
Phương pháp: Nêu vấn đề kết hợp thuyết trình
1. Khái niệm cơ sở vật chất kỹ thuật của chủ nghĩa xã hội
Thời gian: 15 phút
Phương pháp: Nêu vấn đề đàm thoại kết hợp thuyết trình là chính
Hiểu cơ sở vật chất của nền sản xuất xã hội? Và của CNXH?
a. Cơ sở vật chất kỹ thuật của một nền sản xuất xã hội
Cơ sở vật chất kỹ thuật của một nền sản xuất xã hội là toàn bộ hệ thống các
yếu tố vật chất của lực lượng sản xuất xã hội phù hợp với trình độ kỹ thuật


tương ứng mà lực lượng lao động xã hội sử dụng để sản xuất ra của cải vật chất
đáp ứng nhu cầu xã hội.
Trong hệ thống đó thì công cụ sản xuất là yếu tố quan trọng nhất, là tiêu
chuẩn để phân biệt các thời đại kinh tế khác nhau. C.Mác nói: “Những thời đại
kinh tế khác nhau không phải ở chỗ người ta sản xuất ra cái gì, mà là người ta


sản xuất bằng cách nào, với những tư liệu lao động nào”.
Lịch sử xã hội loài người là lịch sử của sự thay thế các phương thức sản
xuất. mỗi phương thức sản xuất bao giờ cũng có cơ sở vật chất tương ứng với
nó, phương thức sản xuất ra đời sau bao giờ cũng có nền tảng cơ sở vật chất cao
hơn phương thức sản xuất trước.
b. Cơ sở vật chất kỹ thuật của chủ nghĩa xã hội
Cơ sở vật chất kỹ thuật của chủ nghĩa xã hội là một nền sản xuất lớn hiện
đại, có cơ cấu kinh tế hợp lý, có trình độ xã hội hoá cao dựa trên trình độ khoa
học công nghệ hiện đại được hình thành một cách có kế hoạch và thống trị
trong toàn bộ nền kinh tế quốc dân.
Cơ sở vật chất kỹ thuật của chủ nghĩa xã hội, một mặt kế thừa thành quả đã đạt
được của chủ nghĩa tư bản, mặt khác được phát triển và hoàn thiện trên cơ sở những
thành tựu mới của cuộc cách mạng khoa học kỹ thuật hiện đại. Theo V.I.Lênin “Cơ
sở vật chất của chủ nghĩa xã hội chỉ có thể là một nền đại công nghiệp cơ khí, có khả
năng cải tạo cả nông nghiệp … một nền đại công nghiệp ở vào trình độ kỹ thuật hiện
đại và có khả năng cải tạo nông nghiệp, đó là điện khí hoá cả nước”.
Tất cả các nước đi lên chủ nghĩa xã hội đều phải xây dựng cơ sở vật chất kỹ
thuật cho chủ nghĩa xã hội. Đối với những nước đã trải qua giai đoạn phát triển
tư bản chủ nghĩa sau khi giai cấp vô sản giành được chính quyền quá độ lên chủ
nghĩa xã hội, nhiệm vụ chủ yếu là xoá bỏ quan hệ sản xuất tư bản chủ nghĩa xây
dựng quan hệ sản xuất mới xã hội chủ nghĩa; sắp xếp lại nền đại công nghiệp tư
bản chủ nghĩa một cách hợp lý hiệu quả hơn, làm cho nó phát triển cân đối và
tiếp tục hiện đại hoá để nâng cao cơ sở vật chất kỹ thuật của chủ nghĩa xã hội.

Đối với những nước kinh tế chậm phát triển, nhất là các nước lạc hậu, sản
xuất nhỏ là phổ biến, chưa có nền sản xuất lớn cơ khí hoá. Khi bước vào thời kỳ
quá độ lên chủ nghĩa xã hội cơ sở vật chất kỹ thuật còn lạc hậu, năng lực sản
xuất thấp kém, muốn tạo ra được cơ sở vật chất kỹ thuật cho chủ nghĩa xã hội
phải tiến hành công nghiệp hoá, hiện đại hóa.
2. Tính tất yếu khách quan của công nghiệp hoá, hiện đại hóa xã hội chủ nghĩa
Thời gian: 15 phút
Phương pháp: Nêu vấn đề và thuyết trình
Công nghiệp hóa là gì? Tại sao ở nước ta hiện nay CNH, HĐH là khách quan?
- Quan niện về công nghiệp hóa, hiện đại hóa:
Từ cuối thế kỷ XVIII đến nay, trong lịch sử đã diễn ra các loại công nghiệp


hóa khác nhau: công nghiệp hóa tư bản chủ nghĩa và công nghiệp hóa xã hội chủ
nghĩa. Các loại công nghiệp hóa này, xét về lực lượng sản xuất, khoa học công
nghệ thì giống nhau. Song chúng có sự khác nhau về mục đích, về phương
hướng tiến hành, về sự chi phối của quan hệ sản xuất thống trị. Công nghiệp hóa
diễn ra ở các nước khác nhau, vào những thời điểm lịch sử khác nhau, trong
những điều kiện kinh tế - xã hội khác nhau, do vậy nội dung công nghiệp hóa có
sự khác nhau.
Trước đây, chúng ta tiến hành công nghiệp hóa cả về lý luận và thực tiễn đều tiếp
cận với quan điểm của Liên xô và các nước xã hội chủ nghĩa, coi: “Công nghiệp hoá
là xây dựng một nền đại công nghiệp cơ khí, có khả năng cải tạo cả nông nghiệp
đó là sự phát triển công nghiệp nặng, trung tâm là ngành chế tạo máy”. Vì vậy,
trong quá trình thực hiện chúng ta đã mắc phải nhiều sai lầm, khuyết điểm.
Hiện nay, kế thừa có chọn lọc và phát triển những tri thức của văn minh
nhân loại về công nghiệp hoá vào điều kiện cụ thể của nước ta, Đảng ta có quan
niệm đổi mới hơn về công nghiệp hoá, hiện địa hoá: “Công nghiệp hóa, hiện đại
hoá là quá trình chuyển đổi căn bản toàn diện các hoạt động sản xuất kinh
doanh, dịch vụ và quản lý kinh tế - xã hội từ sử dụng sức lao động thủ công là

chính sang sử dụng một cách phổ biến sức lao động cùng với công nghệ,
phương tiện và phương pháp tiên tiến, hiện đại dựa trên sự phát triển của công
nghiệp và tiến bộ khoa học - công nghệ tạo ra năng suất lao động xã hội cao”.
Quá trình công nghiệp hoá, hiện đại hoá ở nước ta hiện nay phải kết hợp chặt chẽ hai
nội dung công nghiệp hoá, hiện đại hoá trong một quá trình phát triển. Quá trình ấy,
không chỉ đơn thuần phát triển công nghiệp mà còn phải thực hiện chuyển dịch cơ cấu
trong từng ngành, từng lĩnh vực và toàn bộ nền kinh tế quốc dân theo hướng kỹ thuật và
công nghệ hiện đại. Quá trình ấy, không chỉ tuần tự trải qua các bước cơ giới hoá, tự động
hoá, tin học hoá, mà còn sử dụng kết hợp công nghệ truyền thống với công nghệ hiện đại,
tranh thủ đi nhanh vào hiện đại hoá ở những khâu có thể và mang tính quyết định.
Công nghiệp hóa, hiện đại hóa là quá trình chuyển đổi một cách căn bản,
toàn diện các hoạt động sản xuất kinh doanh, dịch vụ và quản lý kinh tế xã hội
từ sử dụng lao động thủ công là chủ yếu sang sử dụng một cách phổ biến lao
động, cùng với công nghệ, phương tiện, phương pháp tiến tiến hiện đại chứ


không chỉ tập trung đổi mới hay đầu tư cho bất cứ một ngành kinh tế nào.
- Tính tất yếu khách quan của công nghiệp hoá, hiện đại hoá:
Đối với tất cả các nước kém phát triển quá độ lên chủ nghĩa xã hội đều phải
tiến hành công nghiệp hóa, hiện đại hóa. Bởi lẽ:
+ Do yêu cầu của sự nghiệp xây dựng cơ sở vật chất kỹ thuật cho chủ nghĩa xã hội
hay tạo ra một nền công nghiệp lớn hiện đại thích ứng với chủ nghĩa xã hội.
+ Do yêu cầu tăng cường sự lãnh đạo của đảng, của giai cấp công nhân, củng
cố vai trò, chức năng của nhà nước xã hội chủ nghĩa.
+ Do yêu cầu xoá bỏ tình trạng phát triển không đều giữa các khu vực, các
vùng trong cả nước về trình độ sản xuất, trình độ văn hoá và mức sống …
+ Do yêu cầu của việc tăng cường củng cố an ninh quốc phòng, xây dựng nền kinh tế
độc lập tự chủ, tham gia có hiệu quả vào phân công lao động và hợp tác kinh tế quốc tế.
Như vậy, đối với các nước kém phát triển quá độ lên chủ nghĩa xã hội tiến
hành công nghiệp hoá xã hội chủ nghĩa là yêu cầu khách quan. Thành công của

công nghiệp hóa, hiện đại hóa có ý nghĩa quyết định đến thắng lợi của chủ nghĩa xã
hội. Do đó, Đảng ta xác định công nghiệp hoá, hiện đại hóa là nhiệm vụ trung tâm
của cả thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội ở nước ta. Trong những năm qua nền
kinh tế nói chung, các thành phần kinh tế nói riêng đã có nhiều tiến bộ vượt
bậc…Song nhìn chung so với sự phát triển của thế giới thì còn rất nhiều hạn
chế (theo tổ chức cạnh tranh toàn cầu WEF đánh giá xếp hạng Việt Nam 20122013 đạt 4,1 điểm (7 điểm là tuyệt đối) đứng thứ 75 trong144 quốc gia và vùng
lãnh thổ; 2011-2010 đạt 4,2, vị trí 65 trong 142…; 20092010 đạt 4,3 điểm thứ
59 trong 139… về năng lực cạnh tranh. Trong khu vực Đông Nam Á ta đứng
sau Phi líp phin chỉ đứng trên CPC (Lào, Mi An Ma chưa vào danh sách này).
Chỉ số xếp hạng cao nhất của VN là quy mô thị trường (thứ 32/144) thấp nhất
là quản lý kinh tế Vĩ mô (106/144); Chăm sóc y tế cơ bản đứng 64/144; thu
nhập hiện nay theo WEF VN 1.375 USD/người/năm, sức mua đồng tiền VN chỉ
= 0,38%. Thực hư bảng xếp hạng thế nào song cho thấy nền kinh tế nước ta
còn yếu so thế giới hiện nay chính vì vậy tái cấu trúc lại nền kinh tế là tất yếu
(báo GD thời đại số 181 ngày 11/9/2012 trang1-2)
3. Cách mạng khoa học công nghệ hiện đại và nền kinh tế tri thức
Thời gian: 15 phút


Phương pháp: Nêu vấn đề kết thuyết trình
- Cách mạng khoa công nghệ hiện đại
Thế giới đã trải qua hai cuộc cách mạng kỹ thuật hay còn gọi là cách mạng
công nghiệp. Cuộc cách mạng kỹ thuật lần thứ nhất, diễn ra đầu tiên ở nước Anh
vào 30 năm cuối thế kỷ XVIII và hoàn thành vào những năm 50 đầu thế kỷ XX
với nội dung chủ yếu là cơ khí hoá, thay thế lao động thủ công bằng lao động sử
dụng máy móc trong các ngành công nhiệp. Vì vậy, người ta quan niệm thực
chất công nghiệp hóa là tiến hành cuộc cách mạng kỹ thuật.
Cuộc cách mạng kỹ thuật lần thứ hai, còn gọi là cuộc cách mạng khoa học và
công - nghệ hiện đại, xuất hiện vào những năm 60 của thế kỷ XX cho đến nay.
Cuộc cách mạng này có nội dung chủ yếu sau: tự động hoá, năng lượng mới, vật

liệu mới, công nghệ sinh học, điện tử và tin học…
Từ thập niên 80 thế kỷ XX đến nay, do tác động mạnh mẽ của cuộc cách mạng
khoa học và công nghệ hiện đại, đặc biệt là công nghệ thông tin, công nghệ sinh học,
công nghệ vật liệu... nền kinh tế thế giới đang biến đổi sâu sắc, nhanh chóng về cơ cấu,
chức năng và phương thức hoạt động. Đây là, một bước ngoặt lịch sử có ý nghĩa đặc
biệt: lực lượng sản xuất xã hội đang chuyển từ kinh tế tài nguyên sang kinh tế tri thức,
nền văn minh loài người chuyển từ văn minh công nghiệp sang văn minh trí tuệ.
- Nền kinh tế tri thức:
Cho đến nay đã có nhiều quan niệm khác nhau về kinh tế tri thức. Đầu tiên người ta
quan niệm: nền kinh tế tri thức là nền kinh tế chủ yếu dựa vào tri thức, trên cơ sở phát
triển khoa học và công nghệ cao. Đến “Diễn đàn hợp tác kinh tế Châu Á - Thái Bình
Dương” (APEC) năm 2000 quan niệm: “Nền kinh tế tri thức là nền kinh tế mà trong đó
quá trình sản xuất, phân phối và sử dụng tri thức trở thành động lực chính cho tăng
trưởng, cho quá trình tạo ra của cải và việc làm trong tất cả các ngành kinh tế”.
Vậy, “kinh tế tri thức” theo cách giải thích trên, là nền kinh tế hậu công nghiệp, có
bước phát triển mạnh về chất, trong đó tri thức đóng vai trò chủ đạo bên cạnh các thành tố
truyền thống khác của mọi nền kinh tế như lao động, vốn, tư liệu sản xuất. Trong nền kinh
tế đó, các sản phẩm chứa đựng hàm lượng tri thức cao hơn hẳn so với trước đây.
“Nền kinh tế tri thức” không phải là một hình thái kinh tế, cũng không phải
là ngành kinh tế thứ tư bên cạnh các ngành kinh tế truyền thống như nông
nghiệp, công nghiệp, dịch vụ, mà nó chỉ là bước phát triển cao hơn của lực


lượng sản xuất, về bản chất chỉ là công cụ, phương tiện của nền kinh tế, phục vụ
các ngành kinh tế truyền thống. Tự bản thân nó, không sản xuất ra các sản phẩm
phục vụ cuộc sống con người, nó chỉ hỗ trợ cho các ngành nông nghiệp, công
nghiệp, dịch vụ trong việc sản xuất ra các sản phẩm đáp ứng các nhu cầu đó.
Với cách tiếp cận trên, hiện nay Tổ chức hợp tác và phát triển kinh tế
(OECD) đưa ra khái niệm: Nền kinh tế tri thức là nền kinh tế trong đó sự sản
sinh ra, phổ cập và sử dụng tri thức giữ vai trò quyết định nhất đối với sự phát

triển kinh tế, tạo ra của cải, nâng cao chất lượng cuộc sống.
Một ngành kinh tế có thể coi là đã trở thành ngành kinh tế tri thức khi giá trị do
tri thức tạo ra chiếm tỷ lệ áp đảo (khoảng 70%) trong tổng giá trị sản xuất của ngành
đó. Một nền kinh tế được coi là đã trở thành nền kinh tế tri thức khi tổng sản phẩm
các ngành kinh tế tri thức chiếm khoảng 70% tổng sản phẩm trong nước (GDP).
II. MỤC TIÊU, QUAN ĐIỂM CÔNG NGHIỆP HÓA, HIỆN ĐẠI HOÁ
TRONG THỜI KỲ QUÁ ĐỘ Ở VIỆT NAM
Thời gian: 25phút
Phương pháp: Nêu vấn đề để nhóm làm việc và thuyết trình
- Vấn đề nhóm trao đổi:
CNH, HĐH của nước ta được xác định thế nào?
- Yêu cầu làm rõ:
Mục tiêu tổng quát; mục tiêu đến năm 2020.
Quan điểm về CNH, HĐH ở nước ta?
- Tổ chức, thời gian:
Nhóm theo phân công ½ tổng số nhóm làm nội dung 1; số còn lại làm nội
dung 2; thời gian chuẩn bị 5 phut, lớp làm việc 15 phút, kết luận 5 phút
1. Mục tiêu
- Mục tiêu tổng quát:
Đại hội VIII của Đảng ta xác định: “Xây dựng nước ta trở thành một nước
công nghiệp có cơ sở vật chất kỹ thuật hiện đại, cơ cấu kinh tế hợp lý, quan hệ
sản xuất tiến bộ phù hợp với quá trình phát triển của lực lượng sản xuất, đời
sống vật chất và tinh thần cao, quốc phòng an ninh vững chắc, xã hội dân chủ,
công bằng, văn minh, xây dựng nền kinh tế độc lập tự chủ”.
- Mục tiêu trung hạn:
Ra sức phấn đấu đến năm 2020 nước ta cơ bản trở thành một nước công
nghiệp hóa theo hướng hiện đại.
Quan điểm về một nước công nghiệp có các yếu tố sau:
Một là, lực lượng sản xuất đạt trình độ tương đối hiện đại, phần lớn lao động



thủ công được thay thế bằng lao động sử dụng máy móc.
Hai là, công nghệ tiên tiến được áp dụng phổ biến, điện khí hoá được thực
hiện trong cả nước.
Ba là, đại bộ phận lao động đã qua đào tạo.
Bốn là, trình độ nghiên cứu và ứng dụng khoa học công nghệ vào sản xuất khá cao.
Năm là, lao động công nghiệp trở thành phổ biến trong các ngành và các lĩnh
vực của nền kinh tế; tỷ trọng công nghiệp trong nền kinh tế cả về GDP cả về lực
lượng lao động đều vượt trội hơn so với nông nghiệp.
Sáu là, quan hệ sản xuất được phát triển phù hợp với sự phát triển của lực
lượng sản xuất.
Công nghiệp hoá, hiện đại hoá trên đây mới chỉ xem xét dưới góc độ lực lượng
sản xuất, chưa nói đến các yếu tố bảo đảm cho sự kết thúc thời kỳ quá độ. Hơn nữa
cơ sở vật chất kỹ thuật của chủ nghĩa xã hội trong thời đại ngày nay cũng có những
tiêu chuẩn cao hơn không thể xây dựng xong trong vài ba thập kỷ. Do vậy, Đại hội X
Đảng ta xác định: “Nâng cao năng lực lãnh đạo và sức chiến đấu của Đảng, phát huy
sức mạnh toàn dân tộc, đẩy nhanh toàn diện công cuộc đổi mới, huy động và sử
dụng mọi nguồn lực cho công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước; phát triển văn hóa;
thực hiện tiến bộ và công bằng xã hội; tăng cường quốc phòng an ninh; mở rộng
quan hệ đối ngoại; chủ động tích cực hội nhập kinh tế quốc tế; giữ vững ổn định
chính trị - xã hội; sớm đưa nước ta ra khỏi tình trạng kém phát triển, tạo nền tảng để
đến năm 2020 nước ta cơ bản trở thành một nước công nghiệp theo hướng hiện đại”.
2. Quan điểm
- Công nghiệp hoá, hiện đại hoá phải gắn với phát triển kinh tế tri thức.
- Xây dựng nền kinh tế mở, hội nhập với khu vực và thế giới, hướng mạnh về xuất
khẩu, đồng thời thay thế nhập khẩu những sản phẩm trong nước sản xuất có hiệu quả.
- Công nghiệp hóa, hiện đại hoá là sự nghiệp của toàn dân, của mọi thành
phần kinh tế, trong đó thành phần kinh tế nhà nước là chủ đạo.
- Lấy việc phát huy nguồn lực con người làm yếu tố cơ bản cho sự phát triển
nhanh và bền vững, tăng trưởng kinh tế gắn liền với tiến bộ xã hội.

- Khoa học và công nghệ là động lực của công nghiệp hóa, hiện đại hoá, kết
hợp công nghệ truyền thống với công nghệ hiện đại, tranh thủ đi nhanh vào hiện
đại ở những khâu quyết định, cần và có thể rút ngắn thời gian, vừa có bước đi
tuần tự vừa có bước nhảy vọt.
- Lấy hiệu quả kinh tế - xã hội làm tiêu chuẩn cơ bản để xác định phương án


phát triển, lựa chọn dự án đầu tư và công nghệ.
- Kết hợp kinh tế với quốc phòng an ninh.
Những quan điểm cơ bản trên về công nghiệp hoá, hiện đại hoá nói lên những đặc điểm
chủ yếu của công nghiệp hoá, hiện đại hoá ở nước ta. Để thực hiện quan điểm đó Đại hội
Đảng X đề ra định hướng công nghiệp hóa, hiện đại hóa trong thời gian tới chúng ta cần:
+ Đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa nông nghiệp và nông thôn, giải
quyết các vấn đề đồng bộ nông nghiệp, nông thôn.
+ Phát triển nhanh hơn công nghiệp và xây dựng, dịch vụ.
+ Khuyến khích phát triển công nghiệp công nghệ cao, công nghệ chế tác, công
nghệ phần mền; khuyến khích tạo điều kiện cho các thành phần kinh tế tham gia phát
triển các ngành công nghiệp sản xuất hàng tiêu dùng và hàng xuất khẩu; khẩn trương
thu hút vốn trong và ngoài nước thực hiện các dự án quan trọng về khai thác dầu,
luyện kim, hóa chất, vật liệu xây dựng; bổ sung hoàn thiện quy hoạch, phát triển cơ
sở hạ tầng, đô thị…; tạo bước phát triển du lịch, nhất là các ngành có chất lượng cao.
+ Phát triển kinh tế vùng: phát triển cơ cấu kinh tế phát huy lợi thế so sánh từng vùng.
+ Phát triển kinh tế biển: Xây dựng chiến lược phát triển kinh tế biển toàn diện;
phát triển cảng biển, vận tải, khai thác dầu khí, hải sản…; đẩy nhanh công nghệ đóng
tàu; phát triển mạnh, đi trước một bước một số vùng kinh tế ven biển, hải đảo.
+ Chuyển dịch cơ cấu lao động, cơ cấu công nghệ theo hướng sử dụng lao
động kỹ thuật.
+ Bảo vệ và sử dụng hiệu quả tài nguyên, cải thiện môi trường tự nhiên.
III. NỘI DUNG CỦA CÔNG NGHIỆP HÓA, HIỆN ĐẠI HÓA Ở NƯỚC TA
Thời gian: 40 phút

Phương pháp: Nêu vấn đề kết hợp thuyết trình là chính
1. Những nội dung cơ bản (Có mấy nội dung cơ bản cụ thể từng nội dung)
Thời gian: 15 phút
Phương pháp: Nêu vấn đề kết hợp thuyết trình là chính
Một là: đổi mới công nghệ nền sản xuất xã hội.
Phát triển lực lượng sản xuất là vấn đề cốt lõi của công nghiệp hóa, hiện đại
hóa. Công nghiệp hoá thực chất là tiến hành cách mạng khoa hoa học – công
nghệ, từng bước thay lao động thủ công thành lao động sử dụng máy móc làm
cho lực lượng sản xuất ngày càng phát triển để hướng đến một năng xuất lao
động cao.
Phát triển lực lượng sản xuất ở nước ta hiện là trang bị cơ sở vật chất kỹ thuật
ngày càng hiện đại cho người lao động theo hướng cơ khí hoá, điện khí hoá, tự
động hoá sản xuất trên tất cả các lĩnh vực của nền kinh tế nhằm chuyển lao động


thủ công thành lao động sử dụng bằng máy móc hướng đến năng xuất lao động
cao.
Nội dung cơ bản của công nghiệp hóa là làm thay đổi tính chất của nền sản
xuất từ nền sản xuất nhỏ, lao động thủ công là chủ yếu lên một nền sản xuất hiện
đại có năng xuất lao động cao.
- Giải pháp để đổi mới kỹ thuật công nghệ:
+ Tạo lập được thị trường công nghệ.
+ Thực hiện tốt quá trình chuyển giao công nghệ.
+ Đầu tư phát triển khoa học công nghệ, xây dựng một nền khoa học công
nghệ phát triển đến một trình độ nhất định. Phải xác định được những phương
hướng đúng đắn cho sự phát triển khoa học - công nghệ. Phải tạo dựng được
những điều kiện cần thiết cho sự phát triển khoa học - công nghệ.
+ Coi đổi mới kỹ thuật công nghệ là sự nghiệp của toàn dân của mọi thành
phần kinh tế.
- Bước đi cụ thể trong quá trình đổi mới:Kết hợp giữa tuần tự, nhảy vọt, đi tắt đón đầu.

- Đối tượng đổi mới, quy mô đổi mới, trình độ công nghệ được Đảng ta xác
định như sau:
Đối tượng đổi mới là toàn bộ nền kinh tế, trong đó công nghiệp chế tạo tư
liệu sản xuất là ngành quan trọng nhất được ưu tiên, sau đó đến công nghiệp nhẹ
và các ngành kinh tế khác.
Quy mô đổi mới, lấy quy mô vừa và nhỏ là chủ yếu, có kết hợp với quy mô
lớn trong sự lựa chọn, tính toán kỹ lưỡng.
Trình độ công nghệ, áp dụng công nghệ nhiều trình độ, nhiều thang bậc; kết hợp
công nghệ truyền thống với công nghệ tiên tiến hiện đaị, chú trọng công nghệ ít vốn
nhưng thu hút được nhiều việc làm; mạnh dạn đầu tư phát triển công nghệ trong nước.
Hai là: chuyển đổi cơ cấu kinh tế theo hướng hiện đại, hợp lý và hiệu quả cao.
Cơ cấu kinh tế của một nền kinh tế bao gồm (ngành kinh tế, vùng kinh tế,
thành phần kinh tế… về cơ cấu ngành nếu tính từ 1985 trước đổi mới sự dích
chuyển đó rất mạnh mẽ cụ thể: NN 40,2% nay 22,02%; CN&XD 27,4% nay
là 40,79%; DV từ 32 lên 37,19%). Chuyển đổi cơ cấu kinh tế hợp lý là yêu cầu
khách quan trong công nghiệp hóa, hiện đại hóa nền kinh tế.
Chuyển dịch cơ cấu kinh tế trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội ở nước
ta là quá trình chuyển dịch từ cơ cấu kinh tế phiến diện lạc hậu, què quặt, ít hiệu
quả sang một cơ cấu kinh tế phù hợp với xu thế phát triển của nền sản xuất hiện
đại do sự tác động của cuộc cách mạng khoa học kỹ thuật công nghệ tạo ra. Cụ


thể là: Chuyển từ cơ cấu kinh tế hai ngành sang cơ cấu kinh tế đa ngành (công,
nông nghiệp, dịch vụ). Trước mắt, làm sao để tỷ trọng và số tuyệt đối lao động
công nghiệp tăng, tỷ trọng và số tuyệt đối lao động nông nghiệp giảm dần. Về
lâu dài, tỷ trọng lao động trí tuệ ngày càng tăng và chiếm ưu thế so với lao động
giản đơn trong tổng lao động xã hội; tốc độ tăng lao động trong các ngành phi
vật chất tăng nhanh hơn tốc độ tăng lao động trong các ngành sản xuất vật chất.
Xây dựng cơ cấu kinh tế hợp lý ở nước ta hiện nay, là làm cho cơ cấu kinh tế
phản ánh đúng quy luật khách quan, nhất là quy luật kinh tế và xu hướng vận

động kinh tế - xã hội của đất nước, biểu hiện cụ thể là:
Cơ cấu kinh tế phải phù hợp với xu thế phát triển và tiến bộ của khoa học công
nghệ đã và đang diễn ra như vũ bão trên thế giới, cho phép khai thác tối đa mọi tiềm
năng của đất nước, của các ngành, các thành phần cả về chiều rộng lẫn chiều sâu.
Cơ cấu kinh tế cho phép thực hiện tốt sự phân công và hợp tác quốc tế theo
xu hướng sản xuất và đời sống ngày càng được quốc tế hoá. Làm sao để sự phát
triển của cơ sở vật chất gắn với phân công lao động xã hội, gắn với quá trình
hình thành các ngành kinh tế, các vùng kinh tế, các thành phần kinh tế.
Cơ cấu kinh tế phải được xây dựng trên cơ sở kế hoạch hoá, với những chiến
lược phát triển cụ thể phù hợp với đặc điểm điều kiện phát triển của cả nước,
từng vùng; giữa kinh tế trong nước với kinh tế bên ngoài; giữa kinh tế với quốc
phòng; giữa tích luỹ với tiêu dùng; giữa khả năng với hiện thực. Chiến lược đó
được bổ sung phát triển dựa trên những phát hiện mới, những biến đổi về nguồn
lực bên trong cũng như bên ngoài.
Cơ cấu kinh tế hợp lý là điều kiện để nền kinh tế tăng trưởng, phát triển. Vì vậy,
công nghiệp hóa, hiện đại hóa đòi hỏi phải xây dựng cơ cấu kinh tế hợp lý, hiện đại.
Xây dựng cơ cấu kinh tế hợp lý là một quá trình, trải qua những chặng đường nhất định.
Ba là: thiết lập quan hệ sản xuất phù hợp theo định hướng xã hội chủ nghĩa.
Theo quy luật quan hệ sản xuất phải phù hợp với tính chất và trình độ của
lực lượng sản xuất, bất cứ sự thay đổi nào của quan hệ sản xuất, cũng đều là kết
quả tất yếu của sự phát triển lực lượng sản xuất.
Công nghiệp hóa, hiện đại hóa ở nước ta hiện nay không chỉ là phát triển
mạnh lực lượng sản xuất, mà còn là quá trình thiết lập, củng cố, hoàn thiện quan
hệ sản xuất cho phù hợp theo định hướng xã hội chủ nghĩa.
Quá trình thiết lập quan hệ sản xuất phải từng bước từ thấp đến cao phù hợp với


sự phát triển của lực lượng sản xuất, không được nôn nóng chủ quan đốt cháy giai
đoạn dẫn đến hạn chế như trước đây.
2. Nội dung cụ thể của công nghiệp hóa, hiện đại hóa ở nước ta trong

những năm trước mắt
Thời gian: 25 phút
Phương pháp: Nêu vấn đề kết hợp thuyết trình là chính
Nội dung cụ thể của CNH, HĐH ở nước ta hiện nay thể hiện chỗ nào?
Nội dung và nhiệm vụ của công nghiệp hóa được Đại hội Đảng X xác
định: “ Xây dựng cơ cấu kinh tế hiện đại và hợp lý theo ngành, lĩnh vực và
lãnh thổ …Đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa nông nghiệp và nông
thôn, giải quyết đồng bộ các vấn đề nông nghiệp, nông thôn và nông dân…
Phát triển nhanh hơn công nghiệp, xây dựng và dịch vụ…Phát triển kinh tế
vùng lãnh thổ…Phát triển kinh tế biển …Chuyển dịch cơ cấu lao động, cơ
cấu công nghệ …Bảo vệ và sử dụng có hiệu quả tài nguyên quốc gia, cải
thiện môi trường tự nhiên…”. Biểu hiện cụ thể 6 nội dung sau:
Một là, coi trọng công nghiệp hoá, hiện đại hóa nông nghiệp, nông thôn
giải quyết đồng bộ các vấn đề nông nghiệp, nông thôn và nông dân:
Phải phát triển toàn diện nông lâm ngư nghiệp, gắn với chế biến nông, lâm,
thuỷ sản nhằm khai thác có hiệu quả tiềm năng đa dạng của nông, lâm, ngư
nghiệp; bảo đảm vững chắc yêu cầu an toàn về lương thực. Tạo nguồn nguyên
liệu đáp ứng với yêu cầu của công nghiệp chế biến. Tăng giá trị khối lượng hàng
xuất khẩu; tăng việc làm và thu nhập cho người lao động. Thực hiện tốt phân
công lao động xã hội, hình thành các điểm công nghiệp gắn với đô thị hoá tại
chỗ; mở mang thị trường sản phẩm và dịch vụ cho công nghiệp.
Để thực hiện tốt công nghiệp hoá, hiện đại hoá nông nghiệp, nông thôn cần
phải chú trọng thuỷ lợi hoá, áp dụng công nghệ tiến bộ, nhất là công nghệ sinh
học, cơ giới hoá, điện khí hoá; phát triển mạnh công, thương nghiệp, dịch vụ, du
lịch … tăng cường xây dựng kết cấu hạ tầng.
Hai là, phát triển công nghiệp:
trong phát triển công nghiệp cần ưu tiên phát triển các ngành công nghiệp
chế biến lương thực, thực phẩm, sản xuất hàng tiêu dùng, hàng xuất khẩu, công
nghiệp điện tử, công nghệ thông tin. Xây dựng có chọn lọc một số cơ sở công
nghiệp nặng trong những ngành trọng yếu mà nhu cầu đòi hỏi bức bách và có



điều kiện về vốn, công nghệ, thị trường.
Ba là, cải tạo, nâng cấp, xây dựng mới có trọng điểm kết cấu hạ tầng vật
chất của nền kinh tế:
quá trình phát triển kết cấu hạ tầng vật chất của nền kinh tế tiến hành theo
hướng cải tạo, nâng cấp là chủ yếu, vì vốn của ta có hạn. Đối với xây dựng mới
phải tập trung vào những khâu trọng điểm có ý nghĩa quan trọng đối với sự phát
triển của nền kinh tế.
Nghị quyết TW5 khóa XI chỉ rõ 10 định hướng phát triển hệ thống kinh tế
cấu hạ tầng đồng bộ:
1Hạ tầng giao thông(đường bộ năm 2015 có 600km và 2020 có 2000 km
đường cao tốc , đường sắt: đường sắt cao tốc bắc nam và đường sắt cao tốc trên
không ở thành thị, đường thủy nội địa chú ý ở đồng bằng sông cửu long, cảng
biển quốc gia: ưu tiên hiện đại hóa cảng Lạch Huyện Hải Phòng; Cái Mép- Thị
vải ở Bà rịa Vũng Tàu; cảng trung chuyển quốc tế Vân Phong Khánh Hòa, cảng
hàng không)
2Hạ tầng cung cấp điện: Ưu tiên xây dựng nhà máy có công suất 1.000 MW
trở lên cân đối 3 miền, ưu tiên nguồn điện năng lượng mặt trời, điện gió. Xây
dựng nhà máy điện hạt nhân Ninh thuận I&II đến 2020 tổ máy đầu tiên vào hoạt
động 2030 tổng công suất diện hạt nhân là 10.700 MW
3Định hướng phát triển hạ tầng thủy lợi và ứng phó với biến đổi khí hậu;
4Định hướng phát triển hạ tầng đô thị
5Định hướng phát triển hạ tầng khu công nghiệp, khu kinh tế (đến năm 2020
phải hoàn chỉnh đồng bộ hạ tầng khu công nghiệp, khu kinh tế.
6Định hướng phát triển hạ tầng thương mại (tr70 Văn kiện NQTW 5)
7Định hướng phát triển hạ tầng thông tin
8Định hướng phát triển hạ tầng giáo dục và đào tạo, khoa học và công nghệ
9Định hướng phát triển hạ tầng y tế
10Định hướng phát triển hạ tầng văn hóa thể dục thể thao

Bốn là, phát triển nhanh du lịch và các dịch vụ:
phát triển nhanh du lịch và các dịch vụ như: hàng không, hàng hải, bưu
chính viễn thông, tài chính, ngân hàng, kiểm toán, bảo hiểm, pháp lý …
Năm là, phát triển hợp lý vùng lãnh thổ:
chuyển dịch cơ cấu vùng lãnh thổ trên cơ sở khai thác triệt để các lợi thế,
tiềm năng của từng vùng, liên kết hỗ trợ nhau, làm cho tất cả các vùng cùng
nhau phát triển. Kết hợp phát triển và quản lý theo ngành với phát triển và quản lý
theo lãnh thổ.


Sáu là, mở rộng và nâng cao hiệu quả kinh tế đối ngoại:
mở rộng quan hệ kinh tế đối ngoại nhằm tranh thủ tối đa các yếu tố của thời
đại (như vốn, kỹ thuật công nghệ, kinh nghiệm quản lý …) nhằm đẩy nhanh quá
trình công nghiệp hoá, hiện đại hoá. Quá trình mở cửa hợp tác kinh tế cần được
cân nhắc kỹ lưỡng nhằm tranh thủ tối đa những tác động tích cực, hạn chế đến
mức thấp nhất những tác động tiêu cực từ bên ngoài. Trong việc mở cửa phải
đẩy mạnh xuất khẩu, coi xuất khẩu là hướng ưu tiên và là trọng điểm. Điều
chỉnh cơ cấu kinh tế đáp ứng yêu cầu hội nhập khu vực và hội nhập toàn cầu.
IV. NHỮNG ĐIỀU KIỆN, TIỀN ĐỀ CẦN THIẾT ĐỂ TIẾN HÀNH CÔNG
NGHIỆP HOÁ, HIỆN ĐẠI HOÁ Ở NƯỚC TA
Thời gian: 40 phút
Phương pháp: Học Nhóm (nêu vấn đề nhóm làm việc kết hợp thuyết trình)
T
T
1

NỘI DUNG

NHÓM LÀM VIỆC


Ơ nước ta hiện nay muốn Nhóm

LỚPLÀM VIỆC

GHI CHÚ

1,2,3, Đại diện 1,2,3,4 Chỉ

tiến hành thành công chuẩn bị
Thời gian: 15 P
CNH, HĐH cần có những
yếu nào?

báo cáo
định 2
Thời gian: mỗi
nhóm
báo cáo 7 phút
bất kỳ
các nhóm khác
trong 3
theo dõi bổ sung
nhóm
báo
cáo.
Kết

2

Từ vấn đề nghiên cứu của Nhóm


luận 5p
4,5,6, Đại diện 5,6,7 Chỉ

bài rút ra ý nghĩa đối với chuẩn bị
Thời gian: 15P
quốc phòng an ninh hiện
nay ở nước ta?

báo cáo
định 2
Thời gian: mỗi
nhóm
báo cáo 7 phút
bất kỳ
các nhóm khác
trong 3
theo dõi bổ sung
bốn
nhóm
báo


cáo.
luận 5p
Thời

gian

15 Thời gian 20 ph


5 ph

phút
Hướng dẫn nhóm làm việc: Các nhóm (6 nhóm) làm việc theo phân công
cụ thể như trên; Nội dung 1 cần chỉ rõ nội dung từng yếu tố. Nội dung 2 rút ra
dưới dạng phương pháp luận từ vấn đề nghiên cứu CNH, HĐH.
Kết luận nội dung1: nước ta muốn xây dựng thành công CNH, HĐH
cần có các điều kiện tiền đề đó là:
Một là: Huy động và sử dụng vốn có hiệu quả
- Các nguồn vốn cho công nghiệp hoá, hiện đại hoá
+ Nguồn vốn trong nước:
Vốn trong nước được tích lũy từ nội bộ nền kinh tế quốc dân dựa trên cơ sở hiệu quả
sản xuất. Vốn trong nước có hai nguồn, vốn trong dân cư và vốn từ ngân sách nhà nước.
+ Vốn bên ngoài
Vốn vay bên ngoài hiện nay có hai loại (vốn FDI, vốn ODA). Vốn FDI là
vốn đầu tư từ bên ngoài vào, mục đích là sản xuất kinh doanh để thu lợi nhuận.
Vốn ODA là các khoản cho vay và viện trợ phát triển của các nước, các tổ chức
tài chính quốc tế. Sử dụng vốn vay bên ngoài có ưu và nhược điểm sau:
Ưu điểm: thực hiện được các dự án lớn; giúp nước ta khắc phục được khó
khăn về vốn trong thời kỳ đầu công nghiệp hoá, hiện đại hoá; nâng cao trình độ
quản lý về mọi mặt; tạo được nhiều việc làm cho người lao động ở các thành
phần kinh tế.
Nhược điểm: nền kinh tế thường lệ thuộc bên ngoài, phải chấp nhận bị bóc lột,
tài nguyên bị khai thác, nợ nước ngoài tăng lên. Hơn nữa nước ta có thể chế chính trị
khác, kẻ thù đang muốn lợi dụng mở cửa, hội nhập để từ kinh tế chuyển hoá về
chính trị. Do vậy, nước ta không thể kỳ vọng quá lớn vào nguồn vốn bên ngoài. Sử
dụng nguồn vốn nước ngoài là rất cần thiết nhưng phải cân nhắc, có lựa chọn.
Xây dựng và phát triển thị trường vốn là giải pháp có ý nghĩa rất quan trọng,
nhờ có thị trường vốn, người sở hữu vốn nếu nhượng quyền sử dụng vốn cho

người khác sẽ có thu nhập. Đồng thời, khi có thị trường vốn, đồng vốn sẽ dễ
dàng chuyển dịch từ nơi hiệu quả thấp đến nơi có hiệu quả cao.
Hai là: Đào tạo nguồn nhân lực cho công nghiệp hoá hiện đại hoá
Nhân lực cho công nghiệp hóa, hiện đại hóa là mhững con người có đức, có tài,


ham học hỏi, thông minh, sáng tạo; làm việc quyên mình vì nền độc lập và sự phồn
vinh của Tổ quốc; đựơc chuẩn bị tốt về kiến thức văn hóa, được đào tạo thành thạo
về kỹ năng nghề nghiệp, về năng lực sản xuất kinh doanh, về điều hành vĩ mô nền
kinh tế và toàn xã hội; có trình độ khoa học – kỹ thuật vươn lên ngang tầm thế giới.
- Xây dựng nguồn nhân lực đáp ứng yêu cầu công nghiệp hoá, hiện đại hoá
đất nước cần chú ý những vấn đề sau:
+ Coi giáo dục và đào tạo là một trong những hướng chính của đầu tư phát
triển nguồn nhân lực. Giáo dục và đào tạo phải tạo ra được một cơ cấu nhân lực
đồng bộ, bao gồm các lĩnh vực khoa học tự nhiên, khoa học xã hội, cán bộ
nghiên cứu và triển khai công nghệ, cán bộ quản lý, nghiệp vụ kinh tế trong các
ngành kinh doanh, công nhân kỹ thuật …
+ Việc xây dựng nguồn nhân lực phải đáp ứng yêu cầu của mỗi thời kỳ trong
quá trình công nghiệp hóa, hiện đại hoá.
+ Đi đôi với việc đào tạo, bồi dưỡng, phải có chính sách bố trí và sử dụng hợp lý
nguồn nhân lực đã được đào tạo; phải chăm lo sức khoẻ cho người lao động.
Ba là: Phát triển khoa học và công nghệ
Nước ta quá độ lên chủ nghĩa xã hội từ một nền kinh tế kém phát triển nên
tiềm lực khoa học và công nghệ còn yếu kém. Muốn tiến hành công nghiệp hóa,
hiện đại hóa thành công với tốc độ nhanh thì phải xây dựng một tiềm lực khoa
học và công nghệ thích ứng với đòi hỏi của nhiệm vụ. Trong những năm trước
mắt, phát triển khoa học công nghệ cần tuân theo phương hướng chủ đạo sau:
Vận dụng sáng tạo và phát triển chủ nghĩa Mác – Lênin, tư tưởng Hồ Chí
Minh để xây dựng cơ sở khoa học cho việc hoạch định, triển khai đường lối, chủ
trương công nghiệp hóa, hiện đại hóa.

Đẩy mạnh công tác nghiên cứu, thăm dò để đánh giá chính xác về tài nguyên
quốc gia; chủ động nghiên cứu tiếp thu các công nghệ cao cùng những thành tựu
mới về khoa học của thế giới; hướng mạnh vào việc nâng cao năng suất lao động,
đổi mới sản phẩm, nâng cao năng lực cạnh tranh của hàng hoá trên thị trường.
Chú trọng đúng mức nghiên cứu cơ bản về khoa học xã hội nhân văn, khoa
học tự nhiên để làm chỗ dựa lâu dài cho nghiên cứu ứng dụng triển khai và tiếp
cận các thành tựu mới về khoa học và công nghệ.
Mở rộng hợp tác khoa học – công nghệ với các nước và các tổ chức quốc tế
nhằm tiếp cận, kế thừa những thành tựu khoa học – công nghệ của thế giới,


tranh thủ sự ủng hộ và giúp đỡ quốc tế.
Xây dựng tiềm lực nhằm phát triển một nền khoa học tiên tiến, bao gồm đẩy mạnh
các hình thức đào tạo và sử dụng cán bộ khoa học, chú trọng đào tạo lớp chuyên gia
đầu đàn, tăng cường cơ sở vật chất – kỹ thuật cho các ngành khoa học và công nghệ.
Bốn là: Mở rộng quan hệ kinh tế đối ngoại
Ngày nay, cuộc cách mạng khoa học và công nghệ cùng với xu thế toàn cầu hóa
kinh tế đã và đang tạo ra mối liên hệ và sự phụ thuộc lẫn nhau giữa các nước. Do đó,
việc mở rộng quan hệ kinh tế giữa nước ta với các nước khác trở thành một tất yếu
kinh tế. Quan hệ kinh tế đối ngoại càng phát triển rộng rãi, có hiệu quả bao nhiêu thì
sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước càng được tiến hành thuận lợi và
càng thành công nhanh chóng bấy nhiêu. Thực chất của việc mở rộng quan hệ kinh tế
đối ngoại là nhằm thu hút nhiều nguồn vốn bên ngoài; tiếp thu nhiều kỹ thuật và công
nghệ hiện đại; mở rộng thị trường, gắn thị trường trong nước với thị trường thế giới.
Năm là: Tăng cường sự lãnh đạo của Đảng và quản lý của Nhà nước
Công nghiệp hóa, hiện đại hóa là sự nghiệp mang tính tự giác của quần chúng,
sự nghiệp đó đòi hỏi phải có một đảng lãnh đạo, có đường lối đúng mới dành được
thắng lợi. Thực chất của việc tăng cường sự lãnh đạo của đảng đối với công nghiệp
hóa, hiện đại hóa ở nước ta hiện nay là nhằm giữ vững ổn định về chính trị; Đảng
cộng sản phải là người lãnh đạo duy nhất, trực tiếp và toàn diện mọi hoạt động, quá

trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa phải được tiến hành theo đường lối, quan điểm
của đảng. Sự quản lý của nhà nước là nhân tố cơ bản đảm bảo cho quá trình thực
hiện công nghiệp hoá, hiện đại hoá đúng định hướng, tiến trình và có hiệu quả.
- Chức năng quản lý của nhà nước:
Nhà nước tổ chức thực hiện tốt đường lối công nghiệp hóa, hiện đại hóa của
Đảng đã đề ra. Thông qua việc thực thi cơ chế, chính sách và điều hành các hoạt
động kinh tế – xã hội của nhà nước nhằm thực hiện tốt hơn các mục tiêu của
công nghiệp hóa, hiện đại hóa.
Kết luận nội dung 2: ý nghĩa đối với quốc phòng – an ninh:
- Kinh tế mạnh là cơ sở để xây xựng quốc phòng an ninh vũng mạnh…
- Xây dựng nghành công nghiệp lưỡng dụng vừa đáp nền kinh tế hàng hóa,
vừa sẵn sàng huy động đáp ứng cho chiến tranh khi cần thiết
- Đối với quân đội: để xây dựng quân đội nhân dân việt nam, chính quy tinh
nhuệ và từng bước hiện đại phải xuất phát từ thực tiễn nền kinh tế đất nước.
- CNH, HĐH nền kinh tế cũng chính là hiện đại hóa quân đội nhất là về vũ


khí trang bị
- Hải quân là lực lượng bảo vệ biển đảo của tổ quốc, muốn xây dựng Hải
quân hiện đại cần hiện đại cả vũ khí trang bị, cơ sở hạ tầng và cả con người
nhằm bảo đảm tác chiến dài ngày trên biển, trong mọi điều kiên thời tiết…
5. Giao nhiệm vụ nghiên cứu:
1. Cơ sở vật chất của chủ nghĩa xã hội là gì?
2. Mục tiêu, quan điểm CNH của Đảng ta?
3. Nội dung của CNH, HĐH nền kinh tế hiện nay?
4. Muốn tiến hành CNH, HĐH cần điều kiện tiền đề gì?
5. Ý nghĩa đối với quốc phòng an ninh?
6. đọc bài kinh tế nông thôn
6. Rút kinh nghiệm:




×