MỤC LỤC
DANH MỤC NHỮNG TỪ VIẾT TẮT
GDCD
GV
HS
PPDH
PPTH
SGK
TN
THPT
1
: Giáo dục công dân
: giáo viên
: học sinh
: Phương pháp dạy học
: Phương pháp tình huống
: Sách giáo khoa
: thực nghiệm
: Trung học phổ thông
A. PHẦN MỞ ĐẦU
1.
Lí do chọn đề tài
Giáo dục và đào tạo có sứ mệnh nâng cao dân trí, phát triển nguồn nhân lực,
bồi dưỡng nhân tài, góp phần quan trọng trong việc xây dựng đất nước, xây dựng
nền văn hóa và con người Việt Nam, phát triển nhanh nguồn nhân lực, nhất là
nguồn nhân lực chất lượng cao, tập trung vào việc đổi mới căn bản và toàn diện nền
giáo dục quốc dân; gắn kết chặt chẽ phát triển nguồn nhân lực với phát triển và ứng
dụng khoa học, công nghệ. Nghị quyết hội nghị Trung ương 8 khóa XI đã chỉ đạo:
“Phát triển giáo dục và đào tạo là nâng cao dân trí, đào tạo nhân lực, bồi dưỡng
nhân tài. Chuyển mạnh quá trình giáo dục từ chủ yếu trang bị kiến thức sang phát
triển toàn diện năng lực và phẩm chất người học”. Phát triển phẩm chất và năng lực
người học trong giáo dục phổ thông là định hướng nổi trội mà nhiều nước tiên tiến
đã và đang thực hiện từ đầu thế kỉ XXI đến nay.
Giáo duc công dân là một bộ môn có một vai trò vô cùng to lớn đối với việc
giáo dục đạo đức, lối sống cho học sinh. Nó giúp cho học sinh có những kiến thức,
kỹ năng, kỹ xảo để ứng xử phù hợp trong cuộc sống. Việc dạy học có hiệu quả môn
giáo dục công dân sẽ giúp giảm thiểu những tệ nạn xã hội đang hàng ngày, hàng giờ
diễn ra trong xã hội. Xây dựng môi trường văn hóa học đường lành mạnh, không
còn lối ứng xử thiếu văn hóa, không còn tình trạng bạo lưc trong giáo dục, một xã
hội chỉ có tình yêu thương, sự tôn trọng, hòa bình, hạnh phúc. Các tri thức khoa học
trong môn GDCD là tri trức về triết học, CNXH khoa học, Kinh tế chính trị học,
Đạo đức học, Pháp luật học, đường lối chính sách của Đảng cộng sản Việt Nam.
Các kiến thức đó được sắp xếp, bố trí hợp lí, cấu kết chặt chẽ, lô gíc phù hợp với
học sinh THPT. Môn GDCD vừa có vị trí thông thường của một môn học vừa có vị
trí đặc biệt của nó. Học sinh ở mỗi cấp học được làm quen với nhiều mảng kiến
thức khác nhau, mỗi nội dung đều góp phần hình thành nhân cách cho các em. Đặc
biệt là hình thành kỹ năng sống, thói quen sống khoa học đúng đắn. Trong chương
trình GDCD lớp 12 đề cập đến vấn đề: “Công dân với pháp luật” nhằm giáo dục
pháp luật cho HS lớp 12. Đây là những kiến thức cơ bản nhằm giúp học sinh có
những hiểu biết nhất định trong việc định hướng cho học sinh về mặt nhận thức cũng
như hành động, biết sống tuân thủ pháp luật, biết phát huy quyền công dân, biết phê phán
và đấu tranh với lối sống xem thường pháp luật nhằm góp phần vào sự nghiệp xây dựng
2
đất nước. Học sinh từ cấp THCS lên cấp THPT bắt đầu được tiếp cận và đi sâu hơn về các
kiến thức pháp luật. Các em không chỉ nắm được nội dung cơ bản một số luật mà còn cao
hơn nữa là các embiết phát huy các quyền của mình cũng như ý thức trách nhiệm trước
pháp luật.
Trước yêu cầu đổi mới về chất lượng của giáo dục đào tạo nói chung, chất lượng
giáo dục đối với học sinh THPT nói riêng trong giai đoạn hiện nay thì môn GDCD càng có
vị trí rất quan trọng trong đó bao gồm cả giáo dục ý thức pháp luật cho các em học sinh
nhằm đáp ứng yêu cầu của sự nghiệp CNH,HĐH đất nước.. Giáo dục công dân trước đây
vốn được gắn liền với quan niệm là môn phụ nên học sinh cũng ít để tâm đến và không
xem trọng nó. Cũng một phần là giáo viên chuyên ngành không có để giáo viên khác dạy
thay nên có thể chưa thực sự truyền cảm hứng cho học sinh hết được. Những năm gần
đây hiện tượng học sinh vi phạm pháp luật ngày càng có chiều hướng gia tăng, với
mức độ ngày càng nghiêm trọng. Nguyên nhân dẫn đến tình trạng đó là do sự xuống
cấp về đạo đức của một bộ phận không nhỏ học sinh. Một trong vấn đề cấp bách hiện
nay là việc giáo dục pháp luật hết sức quan trọng, tuy đã có phương tiện dạy học hiện đại
song phương pháp dạy học vẫn còn hạn chế, chủ yếu vẫn được diễn ra theo lối truyền
thống, dạy chay học chay, truyền thụ thụ động, một chiều, thầy giảng trò ghi chép.
Phương pháp dạy học tình huống (PPDHTH) là một phương pháp dạy học tích cực
với có nhiều ưu điểm nổi trội, nó giúp việc dạy học mang lại hiệu quả cao, làm tăng tính
thực tiễn của môn học, giúp học sinh dần hình thành năng lực giải quyết các vấn đề thực
tiễn, làm tăng hứng thú học tập của học sinh. Dạy học bằng tình huống là một trong những
phương pháp dạy học tích cực góp phần thực hiện mục tiêu giáo dục toàn diện. Đây là
phương pháp dạy học hữu hiệu nhằm mang lại niềm vui, hứng thú, thắp lên ngọn lửa say
mê, tìm tòi chiếm lĩnh tri thức, phát triển tư duy, từ đó hình năng lực giải quyết các vấn đề
trong cuộc sống.
Giáo dục công dân là môn học có ý nghĩa cao trong việc hình thành và hoàn thiện
nhân cách học sinh. Việc áp dụng phương pháp dạy học tình huống vào giảng dạy môn
GDCD là cấp thiết. Xuất phát từ những lý do nêu trên, nên tôi chọn: “ Vận dụng phương
pháp tình huống trong dạy môn Giáo dục công dân lớp 12 ở trường THPT Sơn Tây
Hà Nội” làm đề tài khóa luận.
2. Lịch sử nghiên cứu đề tài
- Trên thế giới:
Tình huống vốn đã được sử dụng từ lâu trong lịch sử giáo dục thế giới, thậm
chí từ thời Cổ đại.
3
Ở phương Đông, phương pháp xử lí tình huống đã được đề cập đến trong
nhiều kinh sách, văn học cổ qua các thời đại của Trung Quốc mà tiêu biểu là Đức
Khổng Tử (551-487 TCN), với nhiều tình huống theo hướng nêu vấn đề đặc sắc, cá
thể hóa tiếp nhận, phương pháp xử lí tình huống là những bài học quý báu về răn
dạy con người, được xem là tấm gương về phương pháp giáo dục tích cực cho hậu
thế. Nhật Bản cũng đã thực hiện phương pháp tình huống trong nhiều lĩnh vực, đặc
biệt trong ngành quản lí, du lịch. Bí quyết thành công trong xử lí tình huống của
người Nhật Bản bao gồm bốn bước: Tình huống - Phân tích - Tổng hợp - Hành
động. Với Hàn Quốc, để hướng tới một nền giáo dục hiện đại phục vụ cho việc phát
triển đất nước, họ đã rất quan tâm đến việc giúp cho người học có năng lực giải
quyết vấn đề.
Ở phương Tây, Mĩ là nước sớm nghiên cứu và áp dụng tình huống trong giáo
dục - đào tạo. Năm 1870, giáo sư Christopher Columbus Langdell đã khởi xướng
phương pháp dạy học tình huống cho khoa Luật của Trường Đại học Kinh doanh
Havard và đã được chấp nhận một vài năm sau đó. Năm 1919, Trường Đại học
Western Ontario của Canada cũng đã bắt đầu áp dụng phương pháp tình huống
(PPTH) trong dạy học kinh doanh nhờ sự dũng cảm tiên phong của W. Sherwood
Fox - Trưởng khoa Cơ bản, và K.P.R Neville - Trưởng phòng Giáo dục. Đến nay,
Trường Kinh doanh Richard Ille của Đại học Western Ontarino đã trở thành cơ sở
uy tín số một ở Canada trong việc áp dụng PPTH vào giảng dạy.
Tại Pháp, ngay đầu thế kỉ XX, PPTH cũng đã được áp dụng rộng rãi nhưng
tình huống đưa ra bấy giờ phần nhiều là giả định nên ít có sức thuyết phục. Từ
những năm 1960, Gaston de Vilard đã xây dựng một giáo trình luân lí mà nội dung
là những tình huống có thật, trong đó thầy giáo xác định một số vấn đề lí thuyết
ngắn gọn, nêu tình huống cụ thể cho học sinh tranh luận với nhau, cuối cùng thầy là
người đưa ra kết luận. Phương pháp này đã gây được tiếng vang trong toàn nước
Pháp và sau đó được nghiên cứu, áp dụng trong nhiều ngành học khác nhau.
Dạy học tình huống cũng rất được các nhà khoa học Liên Xô (cũ) và Ba Lan quan
tâm. Tài liệu lí luận về dạy học của họ đã được dịch và phổ biến ở Việt Nam từ cuối những
năm 60 của thế kỉ XX, điển hình như: T.V. Cuđriaxep (1967), A.M. Machiuskin (1972),
ngoài ra còn có I.F. Khalarmôp, M.I. Kluglac, V.N. Nhikitrencô, E.N. Orlôva, O.A.
Abbunhinna, N.V. Cudơmina... đặc biệt không thể không nhắc đến hai nhà nghiên cứu là V.
Okôn (Ba Lan) (1976) và I.Ia. Lecne (1977). Nhìn chung, kiểu dạy học sử dụng tình huống
4
được các tác giả đề cập đến là dạy học nêu vấn đề và dạy học giải quyết vấn đề. Những
kinh nghiệm sử dụng tình huống được nhấn mạnh vào mối quan hệ tương tác giữa giáo
viên (GV) và học sinh (HS), trong đó hoạt động của GV được chú ý. Tình huống có vấn đề
trong dạng dạy học này không chỉ đơn thuần là những tình huống có thật trong thực tế cuộc
sống mà còn bao gồm cả những tình huống có tính lí luận nảy sinh trong quá trình nhận
thức tài liệu học tập. Từ dạng dạy học này, ứng dụng của PPTH trong các ngành nghề,
trong các lĩnh vực quản lí, trong hoạt động sản xuất, trong hoạt động nghiên cứu khoa học
và trong đào tạo nghề nghiệp dần dần được đặt ra. Nhiều tuyển tập, sách giáo khoa của các
ngành học khác nhau được biên soạn nhằm phục vụ cho các giờ học có vận dụng tình
huống.
Từ cuối những năm 60 cho đến đầu những năm 80 của thế kỉ XX, một nhóm các
nhà nghiên cứu khác lại đi sâu vào tìm hiểu các tình huống có vấn đề diễn ra trong giao
tiếp sư phạm, trong giáo dục học sinh. Đó là tình huống sư phạm. T.N. Bônđarepxcaia với
“Sự khéo léo đối xử sư phạm” (1969) nhấn mạnh một trong những biểu hiện rõ nét nhất
của sự khéo léo đó là giải quyết các tình huống giáo dục. Tác giả coi đây là kỹ năng quan
trọng nhất của người GV. Tiếp sau đó là một loạt các công trình nghiên cứu của L.Ph.
Xpirin, M.A. Xtrepinxki, M.L. Phrumxki (1974), N.E. Xalnhicôva (1975), E.G. Vinograi
(1977), A.A. Lamôp (1981), M.M. Potasnhic, B.D. Vunphôp (1983), A.A Bônđarenco
(1984)... Có tác giả đi sâu vào tình huống trong giáo dục gia đình, đó là E.I. Xecmaicơ
(1991). Tác giả đã đưa ra những tình huống khá phổ biến trong giáo dục gia đình, qua đó
các bậc phụ huynh có thể học được những kinh nghiệm giáo dục. Như vậy, cho dù ở khía
cạnh nào, chúng ta đều dễ dàng nhận thấy rằng PPTH đã có một chỗ đứng và ngày càng
-
thể hiện được ưu thế của mình so với các hình thức giáo dục khác đương thời.
Ở Việt Nam:
Phưong pháp xử lý tình huống cũng đã được hình thành lâu đời trong lịch sử dựng
nước và giữ nước của dân tộc Việt Nam.
Trong cuộc sống, phép ứng xử, thuật đắc nhân tâm vốn đã được quan tâm nay càng
được quan tâm và nghiên cứu nhiều hơn. Những câu chuyện dân gian, những câu chuyện
lịch sử, những câu chuyện thường nhật điển hình về ứng xử thường được viện dẫn trong
những cuộc chuyện trò; được đưa ra để tranh luận, trao đổi, để răn dạy người khác với
nhiều hình thức đa dạng và phong phú trên mọi phương tiện và cho mọi lứa tuổi. Điển hình
như những cuộc thi có phần ứng xử, các chương trình truyền hình: Đường lên đỉnh
Olympia, Ai đúng ai sai, Nữ sinh và tương lai... các chuyên mục về tình huống và ứng xử
tình huống trong các báo và tạp chí...
5
Trong giáo dục và đào tạo, các nhà nghiên cứu, giáo dục Việt Nam cũng đã sớm
tiếp cận với việc xây dựng và sử dụng tình huống trong các phương pháp dạy học tích cực
và đã đạt được những thành tựu nhất định. Tuy nhiên những thành tự đó còn ít chưa đáng
kể do vậy việc phát triển các tình huống dạy học là cần thiết.
Đã có rất nhiều những tác giả nghiên cứu về phương pháp tình huống. Đặc biệt là
các đề tài nghiên cứu khoa học, luận văn khóa luận… Có những ấn phẩm đã được xuất bản
thành sách như:
-Trần Văn Hà (1996), Lý thuyết tình huống và phương pháp xử lý tình huống hành
động, Tạp chí ĐH&GDCN.
- Đinh Tuấn Dũng (2002), Đổi mới phương pháp dạy học theo tình huống, Kỷ yếu
Hội thảo nâng cao chất lượng đào tạo toàn quốc lần thứ III, Hà Nội.
- Phan Trọng Ngọ (2005), Dạy học và phương pháp dạy học trong nhà trường, Nxb
ĐHSP.
Từ một số năm trở lại đây, PPDH tình huống cũng đã được đưa vào áp dụng
trong giảng dạy ở các nhà trường đại học Việt Nam, đặc biệt ở các ngành Y, Luật,
Quản trị kinh doanh, tuy chưa phải ở mức phổ biến. Đã có rất nhiều công trình
nghiên cứu khác về vấn đề này, họ có cách tiếp cận phương pháp dạy học tình
huống một cách khác nhau và tôi cũng vậy. Do đó tôi khẳng định đề tài này của tôi
không trùng lặp với các công trình nghiên cứu trước.
Trong đào tạo sư phạm, PPDH tình huống đã được sử dụng rộng rãi nhất là
trong vòng 20 năm trở lại đây và tỏ ra cực kỳ hiệu quả trong việc học gắn với thực
tiễn và làm cho các giờ học trở nên sinh động và hấp dẫn hơn. Hiện nay, phương pháp
dạy học tình huống đang ngày càng được các nhà nghiên cứu, giáo dục đào tạo trên thế
giới quan tâm và phát triển thành một trong những phương pháp dạy học hiện đại mang lại
hiệu quả giáo dục cao.
3. Mục đích nghiên cứu
- Nhằm nâng cao hiệu quả dạy học môn Giáo dục công dân lớp 12 ở trường THPT bằng
phương pháp tình huống
4. Đối tượng nghiên cứu
- Vận dụng phương pháp dạy học tình huống trong dạy học môn Giáo dục công dân lớp 12 ở
trường THPT Sơn Tây Hà Nội
5. Nhiệm vụ và phạm vi nghiên cứu
5.1 Nhiệm vụ nghiên cứu
-
Nghiên cứu cơ sở lý luận của phương pháp dạy học tình huống trong giảng dạy
bộ môn GDCD.
-
Đánh giá thực trạng giảng dạy pháp luật môn Giáo dục công dân ở trường
THPT Sơn Tây hiện nay.
6
-
Tiến hành thực nghiệm giảng dạy môn GDCD lớp 12 bằng phương pháp tình
huống.
-
Đề xuất quy trình và giải pháp nâng cao hiệu quả dạy học môn GDCD lớp 12
bằng phương pháp tình huống.
5.2 Phạm vi nghiên cứu
- Phương pháp tình huống trong dạy học môn GDCD lớp 12 ở trường THPT Sơn
Tây, Hà Nội
6. Phương pháp nghiên cứu
Để thực hiện mục đích và nhiệm vụ của việc nghiên cứu tôi đã sử dụng các phương
pháp sau:
-
Nhóm phương pháp nghiên cứu lý thuyết: phân tích, tổ hợp lý thuyết, phương pháp nghiên
cứu lịch sử trong nghiên cứu lý thuyết phát hiện xu hướng, các trường phái nghiên cứu…
-
từ đó xây dựng tổng quan về vấn đề nghiên cứu…
Nhóm phương pháp nghiên cứu thực tiễn:
+ Phương pháp điều tra: Thiết kế phiếu hỏi thu thập ý kiến của học sinh sau
đó sử lí số liệu
+ Phương pháp quan sát: Quan sát cử chỉ, nét mặt, thái độ của học sinh để
nhận biết mức độ quan tâm, hứng thú của các em về việc vận dụng “Phương pháp
dạy học tình huống để giáo dục pháp luật cho HS môn Giáo dục Công dân lớp 12
tại trường THPT Sơn Tây, Hà Nội”
+ Phương pháp thực nghiệm: Tiến hành dạy thử có sử dụng PPDH tình
huống trong dạy học môn Giáo dục công dân lớp 12 tại trường THPT Sơn Tây, Hà
Nội.
7. Đóng góp của đề tài
- Hệ thống hóa những vấn đề lí luận về phương pháp tình huống
- Tìm hiểu và đánh giá được thực trạng dạy học bằng phương pháp tình huống trong môn
-
GDCD ở trường THPT
Soạn giáo án và tiến hành bài dạy thực nghiệm, từ đó đề xuất quy trình, giải pháp để
nâng cao hiệu quả dạy học môn GDCD lớp 12 bằng phương pháp tình huống
8. Cấu trúc của đề tài
Ngoài phần mở đầu, kết luận, danh mục tài liệu tham khảo và phụ lục thì đề tài bao
gồm 3 chương, 7 tiết:
Chương 1: Cơ sở lí luận và thực tiễn của việc vận dụng phương pháp dạy học tình
huống trong dạy học môn GDCD lớp 12 trường THPT Sơn Tây Hà Nội
Chương 2: Thực nghiệm vận dụng phương pháp tình huống trong dạy học
môn GDCD lớp 12 trường THPT Sơn Tây Hà Nội
7
Chương 3: Quy trình, giải pháp nâng cao hiệu quả vận dụng phương pháp tình
huống trong dạy học môn GDCD lớp 12 trường THPT Sơn Tây Hà Nội
8
B. PHẦN NỘI DUNG
CHƯƠNG 1: CƠ SỞ LÍ LUẬN VÀ THỰC TIỄN CỦA VIỆC VẬN DỤNG
PHƯƠNG PHÁP DẠY HỌC TÌNH HUỐNG TRONG DẠY HỌC MÔN GIÁO DỤC
CÔNG DÂN LỚP 12 TRƯỜNG THPT SƠN TÂY HÀ NỘI
1.1 CƠ SỞ LÍ LUẬN CỦA VIỆC VẬN DỤNG PHƯƠNG PHÁP DẠY HỌC TÌNH
-
HUỐNG TRONG DẠY HỌC MÔN GDCD LỚP 12 Ở TRƯỜNG THPT
1.1.1 MỘT SỐ KHÁI NIỆM LIÊN QUAN ĐẾN ĐỀ TÀI
Khái niệm về phương pháp dạy học:
Qua tìm hiểu tài liệu của người đi trước, tôi ủng hộ và cho rằng: “Phương pháp dạy
học là cách thức làm việc của thầy và trò trong sự phối hợp thống nhất và dưới sự chỉ đạo
của thầy, nhằm làm cho trò tự giác, tích cực, tự lực đạt tới mục đích dạy học”
Trong phương pháp dạy học, chủ thể tác động – người thầy giáo và đối tượng
tác động của họ là học sinh. Còn học sinh lại là chủ thể tác động của mình vào nội
dung dạy học. Vì vậy, người thầy giáo phải nắm vững những quy luật khách quan
chi phối tác động của mình vào học sinh và nội dung dạy học thì mới đề ra những
phương pháp tác động phù hợp.
Từ đó có thể nhận thấy đặc trưng của phương pháp dạy học: người học là đối
tượng tác động của giáo viên, đồng thời là chủ thể, là nhân cách mà hoạt động của
họ (tương ứng vói sự tác động của người giáo viên) phụ thuộc vào hứng thú, nhu
cầu, ý chí của họ. Nếu giáo viên không gây cho học sinh có mục đích tương ứng với
mục đích của mình thì không diễn ra hoạt động dạy và hoạt động học và phương
pháp tác động không đạt được kết quả mong muốn.
Thầy truyền đạt cho trò một nội dung nào đó, theo một lôgic hợp lý, và bằng
lôgic của nội dung đó mà chỉ đạo, ( định hướng, tổ chức, hướng dẫn và kiểm tra,
đánh giá) sự học tập của trò. Trong bản thân phương pháp dạy, hai chức năng này
gắn bó 4 hữu cơ với nhau, chúng không thể thiếu nhau được. Trong thực tiễn, nhiều
giáo viên chỉ chăm lo việc truyền đạt mà coi nhẹ việc chỉ đạo. Người giáo viên phải
kết hợp hai chức năng trên đây bằng chính lôgic của bài giảng, với lôgic hợp lý của
bài giảng, thầy vừa giảng vừa truyền đạt ), vừa đồng thời điều khiển việc tiếp thu
ban đầu và cả việc tự học của trò. Vì vậy phương pháp dạy chính là mẫu, là mô hình
cơ bản cho phương pháp học trong tất cả các giai đoạn của sự học tập.
9
Còn về phía học sinh, khi học tập vừa phải tiếp thu bài thầy giảng, lại vừa
phải tự điều khiển quá trình học tập của bản thân. Nói cách khác, học sinh phải tiếp
thu nội dung do thầy truyền đạt, đồng thời dựa trên toàn bộ lôgic bài giảng của thầy
mà tự lực chỉ đạo sự học tập của bản thân (tự định hướng, tự tổ chức, tự thực hiện, tự kiểm
tra đánh giá). Người học sinh giỏi thường là người biết nắm bắt được lôgic cơ bản của bài
giảng của thầy, rồi tự sáng tạo lại nội dung đó theo lôgic của bản thân. Vậy, trong phương
pháp học, hai chức năng tiếp thu và tự chỉ đạo gắn bó chặt chẽ với nhau, thâm nhập vào
nhau, bổ sung cho nhau, như hai mặt của cùng một hoạt động. Phương pháp dạy học bao
gồm phương pháp dạy và tổ hợp ba phương pháp học ứng với ba giai đoạn học tập.
Giai đoạn 1: Tiếp thu ban đầu các thông tin.
Trong giai đoạn này thầy giảng bài mới. Trò nghe, nhìn, hiểu, ghi chép và sơ bộ
nhớ những điều thầy giảng.
Giai đoạn 2: Xử lý thông tin khi tự học.
Nhiệm vụ chủ yếu của giai đoạn này là sự tự học để xử lý thông tin, biến nó thành
học vấn riêng. Ở đây trò phải sử dụng toàn bộ các thao tác tư duy.
Giai đoạn 3: Vận dụng thông tin để giải bài tập.
1
Đây là bước kết thúc của quá trình lĩnh hội một vấn đề. Nhiệm vụ của nó là vận dụng kiến
thức, kỹ năng và kỹ xảo việc giải quyết các bài tập nhận thức. Trong tất cả các quá trình thì
2
quá trình dạy là vô cùng quan trọng, nó quyết định kết quả đạt được.
- Phương pháp dạy học tình huống:
Theo Trịnh Văn Biều: “dạy học tình huống là một phương pháp dạy học được
tổ chức theo những tình huống có thực của cuộc sống, trong đó người học được kiến
tạo tri thức qua việc giải quyết các vấn đề có tính xã hội của việc học tập ”’.
1
Theo Phan Trọng Ngọ: “bản chất của phương pháp dạy học (PPDH) bằng tình
huống là thông qua việc giải quyết những tình huống, người học có được khả năng
thích ứng tốt nhất với môi trường xã hội đầy biến động. PPDH bằng tình huống rất
gần với PPDH giải quyết tình huống có vấn đề nhưng vẫn có nhiều điểm khác
nhau. PPDH bằng tình huống có cơ sở lí luận và phạm vi ứng dụng rộng hơn”
Theo tôi hiểu phương pháp tình huống là giáo viên đưa ra tình huống có nội
dung liên quan đến bài học cho học sinh giải quyết, từ đó giáo viên lồng ghép nội
dung bài học thông qua tình huống để giảng bài.
2
- Quan niệm về tình huống
10
Theo Boehrer, J. (1995) “Tình huống là một câu chuyện, có cốt chuyện và
nhân vật, liên hệ đến một hoàn cảnh cụ thể, từ góc độ cá nhân hay nhóm, và thường
là hành động chưa hoàn chỉnh. Đó là một câu chuyện cụ thể và chi tiết, chuyển nét
sống động và phức tạp của đời thực vào lớp học” .
Còn theo Hammond, J.S - Đại học Havard “Case Study hay còn gọi là Case
method là phương pháp dạy học thông qua nghiên cứu trường hợp điển hình. Ở đây,
người học được giới thiệu một tình huống cụ thể, có thật và được đặt vào vị trí của
người ra quyết định để giải quyết vấn đề trong tình huống ấy” .
Theo quan điểm triết học, tình huống được nghiên cứu như là một tổ hợp các
mối quan hệ xã hội cụ thể, mà đến một thời điểm nhất định liên kết con người với
môi trường, biến con người thành một chủ thể của một hoạt động có đối tượng
nhằm đạt được một mục tiêu nhất định.
Trong Từ điển tiếng Việt, tình huống là toàn thể những sự việc xảy ra tại một
nơi, trong một thời gian hoặc một thời điểm.
Một cách tổng quát có thể sử dụng khái niệm tình huống được xem xét về
mặt tâm lí học. Đó là tình huống được quan niệm trên cơ sở quan hệ giữa chủ thể và
khách thể, trong không gian và thời gian. “Tình huống là hệ thống các sự kiện bên
ngoài có quan hệ với chủ thể, có tác dụng thúc đẩy tính tích cực của người đó.
Trong quan hệ không gian tình huống xảy ra bên ngoài nhận thức của chủ thể,
trong quan hệ thời gian tình huống xảy ra trước so với hành động của chủ thể.
Trong quan hệ chức năng tình huống là sự độc lập của các sự kiện đối với chủ thể ở
thời điểm mà người đó thực hiện hành động”.
-
Tình huống có vấn đề
Phương pháp dạy học bằng tình huống là đưa ra các tình huống (có thật hoặc
hư cấu) chứa đựng nội dung bài giảng để sinh viên có bối cảnh trải nghiệm, có điều
kiện đưa ra các ý kiến cá nhân, qua đó phát huy tính tích cực của sinh viên trong việc
tự phân tích tìm đường đi đến chân lý. Phương pháp tình huống thuyết phục sinh viên
bằng chính kinh nghiệm và những suy luận cá nhân rút ra sau khi tham gia vào tình
huống. Do đó, những tri thức, kỹ năng, tình cảm, thái độ mà sinh viên thu nhận được
trở thành của chính họ, do họ tự nhận thức, không bị áp đặt bởi giáo viên.
11
Tình huống có vấn đề là tình huống mà khi đó mâu thuẫn khách quan của bài
toán nhận thức được chấp nhận như một vấn đề học tập mà họ cần và có thể giải
quyết được, kết quả là họ nắm được tri thức mới. Trong đó, vấn đề học tập là những
tình huống về lý thuyết hay thực tiễn có chứa đựng mâu thuẫn biện chứng giữa cái
(kiến thức, kỹ năng, kỹ xảo) đã biết với cái phải tìm và mâu thuẫn này đòi hỏi phải
được giải quyết”. “Tình huống có vấn đề, đó là trở ngại trí tuệ của con người, xuất
hiện khi anh ta chưa biết cách giải thích hiện tượng sự kiện, quá trình của thực tế,
khi chưa thể đạt tới mục đích bằng cách thức hành động quen thuộc. Tình huống
này kích thích con người tìm tòi cách giải thích hay hành động mới. Tình huống có
vấn đề là quy luật của hoạt động nhận thức sáng tạo, có hiệu quả. Nó quy định sự
khởi đầu của tư duy, hành động tư duy tích cực sẽ diễn ra trong quá trình nêu ra và
giải quyết vấn đề”.
Tình huống có vấn đề luôn chứa đựng một nội dung cần xác định, một nhiệm
6 vụ cần giải quyết, một vướng mắt cần tháo gỡ. Và do vậy, kết quả của việc nghiên
cứu và giải quyết tình huống sẽ là những tri thức mới , nhận thức mới hoặc phương
thức hành động mới đối với chủ thể.
Có ba yếu tố tạo thành tình huống có vấn đề:
-
Nhu cầu nhận thức hoặc hành động của người học
-
Sự tìm kiếm những tri thức và phương thức hành động chưa biết
-
Khả năng trí tuệ của chủ thể, thể hiện ở kinh nghiệm và năng lực
Đặc trưng cơ bản của tình huống có vấn đề trong dạy học là những lúng túng
về cách giả quyết vấn đề, tức là vào thời điểm đó, tình huống đó thì những tri thức
và kỹ năng vốn có chưa đủ để tìm ra ngay lời giải. Tất nhiên việc giải quyết vấn đề
không đòi hỏi quá cao đối với trình độ hiện có của học sinh.
1.1.2 ƯU ĐIỂM VÀ NHƯỢC ĐIỂM CỦA PHƯƠNG PHÁP DẠY HỌC TÌNH
HUỐNG
1.1.2.1 Ưu điểm của phương pháp dạy học tình huống
- Phương pháp dạy học bằng tình huống giúp người học dễ hiểu và dễ nhớ các vấn đề phức
tạp
12
Thông qua các tình huống được phân tích, thảo luận, người học có thể tự rút
ra những kiến thức lý luận bổ ích và ghi nhớ những kiến thức này một cách dễ dàng
trong thời gian dài. Việc đưa ra tình huống cho người học như một thách thức đối
với họ, người học sẽ có những ấn tượng sâu sắc hơn là giáo viên trực tiếp giảng
giải. Bởi lẽ tình huống kích thích họ vào tình thế bắt buộc phải tìm được hướng giải
quyết, người học tự mình tiếp cận vấn đề sẽ cảm thấy thú vị hơn. Nếu học lý thuyết,
người học có thể rơi vào tình trạng “học vẹt”, học thuộc lý thuyết mà không hiểu
nên rất mau quên thì phương pháp giảng dạy tình huống giúp người học hiểu được
vấn đề một cách sâu sắc gắn liền với quá trình giải quyết tình huống đó.
-
Phương pháp dạy học bằng tình huống giúp người học nâng cao khả năng tư duy độc lập,
sáng tạo
Phương pháp giảng dạy truyền thống là quá trình tiếp nhận thông tin diễn ra
gần như một chiều giữa giảng viên và sinh viên, trong đó giảng viên là người truyền
đạt tri thức và sinh viên là người tiếp nhận tri thức. Người học sẽ rơi vào tình thế
thụ động, lười tư duy chỉ chờ trực sẵn câu trả lời từ giáo viên hoặc sách tài liệu,
thiếu tính chủ động, lười tư duy. Khác hẳn với phương pháp dạy học truyền thống
thì phương pháp giảng dạy tình huống tạo ra một môi trường học tích cực có sự
tương tác giữa học viên và giảng viên, giữa các học viên với nhau. Trong đó, học
viên được đặt vào trong một hoàn cảnh buộc họ phải ra quyết định để giải quyết
tình huống và họ phải dùng hết khả năng tư duy, kiến thức vốn có của mình để lập
luận bảo vệ quết định đó. Họ không bị phụ thuộc vào ý kiến và quyết định của
giảng viên khi giải quyết một tình huống cụ thể mà có thể đưa ra các phương án giải
quyết sáng tạo. Bên cạnh đó, dạy học bằng tình huống còn giúp người học có thể
chia sẻ tri thức, kinh nghiệm cho nhau, học được những ý kiến, quan điểm, thông
tin từ những bạn học khác làm phong phú hơn vốn tri thức của họ.
-
Dạy và học bằng tình huống giúp người học có cơ hội để liên kết, vận dụng các kiến thức
đã học được
Để giải quyết một tình huống, học viên có thể phải vận dụng đến nhiều
kiến thức lý thuyết khác nhau trong cùng một môn học hoặc của nhiều môn học
khác nhau. Nó có thể là kiến thức cũ mà bản thân người học có từ trước, cũng có
13
thể là vốn kiến thức mới vừa lĩnh hội được, quan trọng là người học phải biết
vận dụng linh hoạt vào giải quyết vấn đề trong tình huống thực tế. Ví dụ, để giải
quyết một tình huống thực tế về vụ một nhóm người chưa thành niên có hành vi
dùng dao và gậy cố ý gây thương tích cho người khác, người học phải vận dụng
các kiến thức về tuổi chịu trách nhiệm hình sự, lỗi, đồng phạm, bồi thường thiệt
hại ngoài hợp đồng, xử lý các công cụ, phương tiện phạm tội…Hoặc có thể là
tình huống về kế thừa tài sản, nếu người đó đột ngột qua đời chưa làm di chúc
thì lúc này phải sử dụng những kiến thức liên quan đến Luật thừa kế, đối với vợ
thì luật chia tài sản như thế nào, đối với con ruột và con nuôi, con ngoài dã thú
thì chia tài sản có khác biệt nhau không…
-
Dạy học bằng tình huống thông qua việc giải quyết tình huống giúp người học có thể phát
hiện ra những vấn đề cuộc sống đặt ra nhưng bản thân chưa đủ kiến thức giải quyết
Cuộc sống vốn đa dạng và phong phú nên không loại trừ khả năng phát sinh
những sự kiện mà nhà làm luật hoặc các nhà nghiên cứu chưa dự liệu được trước
đó. Trong tình huống này, khả năng tư duy độc lập, sáng tạo của người học được
vận dụng, phát huy tối đa và không loại trừ khả năng người học sẽ tìm ra được
những các lý giải mới.
-
Phương pháp dạy học bằng tình huống giúp cho người học có thể rèn luyện một số kỹ năng
cơ bản như kỹ năng làm việc nhóm, tranh luận và thuyết trình
Đây là những kỹ năng quan trọng giúp cho người học có thể thành công
trong tương lai. Học bằng tình huống giúp người học dễ dàng nhận ra những ưu
điểm và hạn chế của bản thân khi họ luôn có môi trường thuận lợi để so sánh với
các học viên khác trong quá trình giải quyết tình huống. Họ có cơ hội được tiếp cận
những người giỏi hơn mình để học hỏi, nhìn thấy những điểm yếu của mình để mà
khắc phục. Phương pháp học bằng tình huống cũng giúp người học phát triển các kỹ
năng phát biểu trước đám đông một cách khúc chiết, mạch lạc, dễ hiểu, phân tích
vấn đề một cách logic, hiểu biết thực tế sâu rộng, biết vận dụng linh hoạt lý thuyết
để giải quyết các tình huống thực tế, biết phản biện, bảo vệ quan điểm cá nhân,
đồng thời có khả năng thương lượng và dễ dàng chấp nhận các ý kiến khác biệt, biết
lắng ghe và tôn trọng ý kiến của người khác để làm phong phú hơn vốn kiến thức
của mình.
14
Nếu mục tiêu của giáo dục đào tạo trong giai đoạn hiện nay là dạy kiến thức,
kỹ năng và thái độ thì phương pháp giảng dạy tình huống nếu được áp dụng tốt có
thể đạt được cả ba mục tiêu này.
-
Phương pháp dạy học bằng tình huống giúp cho học sinh có khả năng nghiên cứu và học
tập suốt đời
Tăng cường khả năng tự định hướng trong học tập của học sinh, phù hợp với nhu
cầu và sở thích của cá nhân người học thông qua việc phân tích và thảo luận vấn đề,
học sinh học được cách tiếp cận và giải quyết các vấn đề khác nảy sinh trong tương
lai, biết cách tìm kiếm thông tin và trở thành người có thể tự định hướng học tập và
nghiên cứu sau khi đã tốt nghiệp.
-
Phương pháp dạy học bằng tình huống làm tăng sự hứng thú của phần lớn học sinh đối với
môn học
Trong phương pháp học bằng tình huống, học sinh là người chủ động tìm
kiếm tri thức và quyết định kiến thức nào cần được nghiên cứu và học hỏi. Việc
thảo luận nhóm cũng làm tăng hứng thú của học sinh đối với việc học vì nó kích
thích người học tham gia tích cực vào việc tìm hiểu vấn đề cần nghiên cứu, tìm ra
giải pháp, tranh luận và lý giải vấn đề khoa học để bảo vệ quan điểm của mình. Sau
khi thảo luận, sinh viên vẫn có nhu cầu tiếp tục tìm hiểu, nghiên cứu vấn đề để trả
lời những câu hỏi được đặt ra trong buổi thảo luận. Có thể sẽ người học sẽ nghiên
cứu tìm ra những điều mới mẻ mà trước đây chưa ai khám phá ra được.
-
Trong trường hợp này, giáo viên với vai trò là “điều phối viên” trong một lớp học bằng
phương pháp tình huống vừa có thể hướng dẫn, chia sẻ tri trức, kinh nghiệm cho học sinh
Người dạy cũng có thể học hỏi được những kinh nghiệm, thông tin, giải pháp
mới từ học viên để làm giàu vốn tri thức và phong phú hơn bài giảng của mình, nhất
là từ những học viên đã có qua trình trải nghiệm thực tiễn. Qua quá trình hướng dẫn
học sinh nghiên cứu tình huống, giảng viên cũng có thể phát hiện ra những điểm bất
hợp lý hoặc sai sót của tình huống và có những điều chỉnh nội dung tình huống sao
cho phù hợp.
1.1.2.2 Hạn chế phương pháp dạy học tình huống
PPDHTH trong dạy học mang lại những ưu điểm nổi trội như: tăng tính thực
tiễn của môn học, giảm thiểu rủi ro cho người học khi tham gia thực tiễn cuộc sống,
thực tiễn nghề nghiệp, Nâng cao tính chủ động, sáng tạo, hứng thú của người học,
15
Cung cấp kinh nghiệm, cách nhìn và giải pháp mới cho người dạy, Phương pháp
học phức hợp, tích hợp nhiều hình thức học,...
Ngoài ra, dạy học bằng PPNCTH cũng tạo cơ hội cho người học phát triển
toàn diện các kỹ năng như: Kĩ năng phân tích để xác định vấn đề, Kĩ năng xây dựng
và viết tình huống, Kĩ năng thu thập và xử lý thông tin, Kĩ năng giao tiếp và làm
việc theo nhóm, Kĩ năng trình bày vấn đề/quan điểm trước tập thể, Kĩ năng tranh
luận, đưa ra luận điểm và bảo vệ ý kiến, Năng lực tư duy phê phán, phản biện, Kĩ
năng so sánh, đánh giá các phương án, Kĩ năng ra quyết định và giải quyết vấn đề
(của thực tiễn), Kĩ năng sáng tạo khi đưa ra các giải pháp cho vấn đề
Mặt khác, việc sử dụng phương pháp này trong dạy học cũng mang lại những
thách thức lớn cho cả người dạy và người học, như: Giáo viên cần nhiều thời gian
chuẩn bị/ xây dựng tình huống cũng như phải luôn đổi mới, cập nhật thông tin, giám
sát chặt chẽ người học. Đòi hỏi tính tích cực, năng động sáng tạo, khả năng tư duy
độc lập ở người học.
1.1.3
-
QUY TRÌNH DẠY HỌC BẰNG PHƯƠNG PHÁP TÌNH HUỐNG
Bước 1: Xác định mục tiêu và trọng tâm bài học, tình huống dạy học
Xác định mục tiêu và trọng tâm bài học là định hướng căn bản cho việc tiến hành giảng
dạy một bài cụ thể. Từ đó GV căn cứ vào mục tiêu bài học để lựa chọn tình huống dạy học
-
sao cho phù hợp, chú ý hơn đến các kiến thức trọng tâm.
Xác định nội dung kiến thức dạy học gắn với tình huống sẽ sử dụng
Từ nội dung bài dạy xác định những kiến thức có khả năng thiết kế tình huống. GV
phải tự trả lời các câu hỏi như: sau khi giải quyết xong tình huống, người học sẽ đạt được
điều gì? có phù hợp với mục tiêu và nội dung dạy học không? Sau đây là những căn cứ để
giáo viên lựa chọn tình huống:
- Tính cần thiết và lợi ích của tình huống đem lại sau khi giải quyết.
-Tính đơn giản hay phức tạp của tình huống; tình huống có khó hay quá dễ.
-Có phù hợp với trình độ và tâm sinh lí của học sinh hay không?
- Tình huống có dễ tìm tài liệu không?
Bước 2: Thu thập dữ liệu
Thu thập dữ liệu để thiết kế tình huống bằng cách tìm kiếm từ các nguồn như:
- Những mẩu chuyện ngắn, sách báo, tài liệu tham khảo, các báo điện tử...
- Những tình huống bắt gặp trong cuộc sống hoặc kinh nghiệm bản thân.
-Những kinh nghiệm dân gian trong ca dao, tục ngữ.
Bước 3: Lựa chọn hình thức mô tả tình huống
Sau khi lựa chọn được những thông tin cần thiết, giáo viên cần lựa chọn hình thức
mô tả tình huống nhằm khai thác tối đa giá trị của tình huống. Tùy theo nội dung và điều
kiện cụ thể, có thể mô tả tình huống dưới các hình thức sau:
- Mô tả tình huống bằng câu chuyện kể.
-Mô tả tình huống thông qua các thí nghiệm.
16
-Mô tả tình huống thông qua các câu thơ; ca dao, tục ngữ...
- Sử dụng những đoạn phim ngắn, trích đoạn clip, các đoạn âm thanh ngắn.
- Sử dụng các tranh ảnh, hình vẽ, mẫu vật, làm gia tăng thêm tính chân thực và thực
tiễn của tình huống.
Bước 5: Thiết kế tình huống
-
Giáo viên thiết kế tình huống trên cơ sở những thông tin thu thập được và hình thức
mô tả tình huống đã lựa chọn. GV cần phải phân tích và lựa chọn thông tin, xác lập
logic các sự kiện, tiên lượng trình độ nhận thức, kĩ năng hành động và thái độ của
HS. Tình huống cần được cấu trúc một cách logic để người học dễ suy nghĩ tìm ra
-
1.1.4
hướng giải quyết
Bước 6: Tiến hành dạy học theo kế hoạch đã đề ra
Tiến hành dạy học tình huống, sau đó rút đánh giá và rút kinh nghiệm cho bản thân
NHỮNG LƯU Ý KHI SỬ DỤNG PHƯƠNG PHÁP DẠY HỌC TÌNH HUỐNG
Xét về mặt khách quan, tình huống dạy học là tổ hợp những mối quan hệ xã
hội cụ thể được hình thành trong quá trình dạy học, khi mà người học đã trở thành
chủ thể hoạt động của đối tượng nhận thức trong môi trường dạy học, nhằm một
mục đích dạy học cụ thể. Xét về mặt chủ quan, tình huống dạy học chính là trạng
thái bên trong được sinh ra do sự tương tác giữa chủ thể với đối tượng nhận thức.
Bản chất của tình huống dạy học là đơn vị cấu trúc của bài lên lớp, chứa đựng mối
liên hệ M-N-P (mục đích - nội dung - phương pháp) theo chiều ngang tại một thời
điểm nào đó với nội dung là một đơn vị kiến thức.
Một tình huống thông thường chưa phải là một tình huống dạy học. Nó chỉ
trở thành tình huống dạy học khi người giáo viên đưa những nội dung cần truyền
thụ vào trong các sự kiện tình huống và cấu trúc các sự kiện sao cho phù hợp với
logic sư phạm, để khi người học giải quyết nó sẽ đạt được mục tiêu dạy học.
Giá trị đích thực của tình huống là ở nội dung tình huống. Cho dù người dạy
có vận dụng tốt mọi kĩ năng, kĩ xảo để dẫn dắt, tổ chức, điểu khiển người học tham
gia vào tình huống nhưng bản thân tình huống không hấp dẫn hoặc kém hấp dẫn,
thiếu sức thuyết phục, ít có giá trị thiết thực với chủ thể tiếp nhận thì việc đưa tình
huống vào giảng dạy cũng không đem lại hiệu quả gì lớn lao. Do đó, người dạy cần
17
chú ý:
-
Tình huống xây dựng phải phù hợp và phục vụ cho việc thực hiện mục đích, nội
-
dung của bài học.
Nội dung tình huống phải đảm bảo tính chính xác khoa học, bám sát kiến thức
-
chuẩn từ sách giáo khoa.
Tình huống phải có tính thực tế, phải gắn với những sự kiện liên quan đến đời sống
-
hằng ngày, giúp người học có thể liên hệ với bài học một cách dễ dàng.
Tình huống phải hấp dẫn, khơi dậy sự hứng thú, khơi dậy khả năng tự học và yêu
-
thích bộ môn ở người học.
Tình huống phải mang tính khả thi, bảo đảm những điều kiện cần và đủ để đưa đến
-
giải pháp hợp lí, dễ chấp nhận.
Tình huống phải vừa sức, phải phù hợp với trình độ người học.
1.1.5
MÔN GDCD LỚP 12 VÀ VAI TRÒ CỦA PHƯƠNG PHÁP DẠY HỌC TÌNH
HUỐNG TRONG MÔN GDCD LỚP 12
1.1.5.1 Cấu trúc và đặc điểm của môn Giáo dục công dân lớp 12
Phần “Công dân với pháp luật” trong môn GDCD lớp 12 có nhiệm vụ cung
cấp các kiến thức cơ bản về pháp luật, về quyền của mỗi con người, quyền tự do cơ
bản của công dân, những kiến thức về pháp luật cần thiết như: khiếu nại, tố cáo,
thực hiện pháp luật như thế nào và những kiến thức cần thiết đối với mọi công dân
nói chung và học sinh nói riêng…Đây là phần có nội dung mang tính thực tiễn cao,
những nội dung trong bài học đều đã và đang xảy ra trong thực tế
-
Cấu trúc bài học môn Giáo dục công dân lớp 12 bao gôm những bài sau:
Học kì I: 19 tuần(18 tiết)
Bài 1: Pháp luật và đời sống
Bài 2: Thực hiện pháp luật
Bài 3: Công dân bình đẳng trước pháp luật
Bài 4: Quyền bình đẳng của công dân trong một số lĩnh vực của đời sống
Bài 5: Quyền bình đẳng giữa các dân tộc và tôn giáo
Bài 6: Công dân với các quyền tự do cơ bản
Học kì II: 18 tuần (17 tiết)
Bài 6: Công dân với các quyền tự do cơ bản (TT)
Bài 7: Công dân với các quyền dân chủ
Bài 8: Pháp luật với sự phát triển của công dân
Bài 9: Pháp luật với sự phát triển bền vững của đất nước
18
Vận dụng tốt tình huống luật vào nội dung bài học là giáo viên đã sử dụng có
hiệu quả phương pháp liên hệ thực tiễn giúp học sinh nắm vững kiến thức bài học
một cách sâu sắc, ghi nhớ lâu hơn và vận dụng tốt hơn trong nội dung bài học và
nâng cao hiểu biết pháp luật để các em thực hiện tốt quyền và nghĩa vụ của mình
hoặc khi cần thiết nhờ pháp luật bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của mình, đồng
thời trang bị kiến thức pháp pháp luật trong cuộc sống giúp các em nâng cao ý thức
chấp hành pháp luật.
-
Đặc điểm của môn GDCD lớp 12:
Các tri thức của môn GDCD được truyền thụ cho học sinh có thể mang nhiều nội
dung khác nhau nhưng đều được coi là những tri thức lí luận chính trị. Những tri thức này
được xác định trên các môn khoa học cơ bản như: Triết học, đạo đức học, Kinh tế học
chính trị, Pháp luật học, Chủ trương, đường lối, chính sách của Đảng, pháp luật của Nhà
Nước. Tri thức môn GDCD được sắp xếp hợp lí, kết cấu chặt chẽ, logic, phù hợp với đặc
điểm tâm sinh lí học sinh, thể hiện rõ tính đặc thù riêng biệt đồng thời khuynh hướng tư
tưởng cũng rất rõ rang và nổi trội so với các môn khoa học khác. Có thể nêu một số đặc
điểm như sau:
+ Tính khái quát
Tri thức môn GDCD bao gồm phạm vi kiến thức rộng lớn bao quát toàn bộ đời
sống xã hội, những kiến thức này được khái quát từ những vấn đề rất gần gũi, thiết thực
trong đời sống thường nhật của cá nhân công dân, gia đình và xã hội đến những vấn đề to
lớn của quốc gia, dân tộc và toàn thể nhân loại, đây là những kiến thực thể hiện tên gọi của
một môn học. dạy và học để làm người công dân Việt Nam trong thời đại mới, có sức
khỏe, có tự trọng, có năng lực , kĩ năng, có động lực học tập suốt đời, biết quan tâm người
khác, có trách nhiệm đối với bản thân, gia đình và xã hội.
+ Tính chặt chẽ
Các tri thức môn GDCD mang tính khái quát cao, tính trừu tượng, tính quy luật,
logic chặt chẽ. Đây là những tri thức mang định hướng chính trị sâu sắc, nó trực tiếp đề cập
đến những vấn đề chính trị, tư tưởng của giai cấp công nhân, của Đảng cộng sản Việt Nam,
trực tiếp xác lập, củng cố định hướng chính trị Xã hội Chủ nghĩa cho học sinh. Toàn bộ nội
dung chương trình từ lớp 10 đến lớp 12 tập trung vào xây dựng thế giới quan khoa học,
nhân sinh quan tiến bộ, phương pháp luận đúng đắn với những biện pháp, hình thức khác
nhau. Những kiến thức về Triết học – nền tảng của thế giới quan, phương pháp luận khoa
học đã trực tiếp giúp hóc sinh có được định hướng đúng đắn trong hoạt động thực tiễn, biết
19
cách giải quyết đúng đắn các mối quan hệ của bản than với cộng đồng trên các lĩnh vực và
ở những phạm vi khác nhau. Những kiến thức về kinh tế, chính trị, xã hội, pháp luật, đạo
đức trực tiếp giúp học sinh bước đầu biết tìm hiểu, phân tích, đánh giá và tự rút ra kết luận
đúng đắn về những vấn đề nóng bỏng của dất nước và trên Thế Giới. Mỗi môn học trong
nhà trường THPT đều có nhiệm vụ xây dựng thế giới quan, phương pháp luận khoa học và
giáo dục tư tưởng đạo đức cho học sinh song lợi thế hơn các môn học khác, GDCD thực
hiện nhiệm vụ này một cách trực tiếp, đây chính là đặc điểm nói lên khả năng to lớm và
trách nhiệm nặng nề của môn GDCD ở trường THPT.
+ Tính tích hợp
Tri thức ôn GDCD mang tính tích hợp, có quan hệ chặt chẽ với nhiều môn
khoa học khác, nhiều lĩnh vực khác.Phân thích chương trình GDCD ta thấy nó chứa
nhiều loại kiến thức của các môn học khác và ở mức độ nhất định nó còn chứa đựng
các kiến thức của các môn khoa học tự nhiên, khoa học xã hội.Tính tích hợp đòi hỏi
môn GDCD không chỉ xác lập phương pháp cho cả môn học mà còn phải xác lập
riêng cho từng phần của môn học.
+ Tính thực tiễn
Tri thức môn GDCD gắn bó mật thiết với hiện thực, phản ánh một cách
sinh động đời sống hiện thực.nếu việc dạy học tri thức GDCD tách khỏi hiện
thực thì sẽ mất hết ý nghĩa và tác dụng của nó. Bỏi lẽ dạy học GDCD là dạy để
học sinh trở thành người công dân có tinh thần, trách nhiệm, có kiến thức, kĩ
năng cần thiết để tham gia vào một Thế Giới đang thay đổi nhanh chóng. Do đó
quá trình dạy học phải gắn trực tiếp, cụ thể với đời sống, với việc rèn luyện tu
dưỡng của mỗi học sinh.
1.1.5.2 Vai trò của phương pháp tình huống trong dạy học môn Giáo dục công dân lớp 12 ở
trường THPT
Nội dung pháp luật ở chương trình lớp 12 bộ môn GDCD liên quan đến khá nhiều
luật (Luật Hiến pháp, Luật Khiếu nại và Tố cáo, Luật Hôn nhân và Gia đình, Luật Dân sự,
Luật Hình sự, Luật Giao thông đường bộ...). Để học sinh hiểu được kiến thức pháp luật
một cách cặn kẽ không phải là chuyện dễ. Bởi kiến thức pháp luật vốn dĩ đã khó lại khô
khan cho nên khó hấp dẫn đối với các em. Để khắc phục được điều này đòi hỏi mỗi giao
viên phải thực sự nổ lực trong việc nghiên cứu tìm tòi và vận dụng các phương pháp, biết
chắt lọc các thông tin mang tính thời sự để xây dựng các tình huống có tính thuyết phục
với các em. Trong quá trình giảng dạy GDCD lớp 12 giáo viên có thể sử dụng nhiều
20
phương pháp khác nhau nhưng việc vận sử dụng tình huống thực tiễn để giảng dạy giáo
dục pháp luật thì chưa nhiều. Một số tình huống trong SGK hay trong sách tình huống
GDCD lớp 12 thì ít có tình huống gắn với hiện thực xã hội hiện tại, học sinh khó nhớ. Để
cho bài học trở lên gần giũi, gắn liền với đời sống xã hội thì giáo viên có thể ưu tầm nhiều
tình huống thực tiễn ở địa phương, ngoài xã hội hoặc giáo viên giao nhiệm vụ cho các
nhóm tự sưu tầm theo chủ đề phù hợp với nội dung bài học dưới sự hướng dẫn của giáo
viên.
Trong các môn ở trường phổ thông thì không có nhiều môn sử dụng tình huống
thực tiễn. Chỉ có một vài môn đôi khi có sử dụng tình huống thực tiễn ví dụ như: Địa lí,
Văn học, Lịch sử … tuy nhiên sử dụng chưa linh hoạt, việc sử dụng bảng phụ để cung cấp
tình huống thực tế trong giảng dậy thì rất ít và mức độ sử dụng là chưa thường xuyên. Từ
việc khảo sát giáo viên và học sinh tôi thấy nếu giáo viên GDCD chỉ sự dụng các phương
pháp như thảo luận, thuyết trình, đàm thoại.... mà không sử dụng tình huống thực tiễn khi
giảng dạy pháp luật thì giờ học chưa thực sự cuốn hút được học sinh, kết quả học tập trong
phần này chưa thực sự cao. Kiến thức pháp luật vừa khô vừa khó hiểu do đó nếu giáo viên
chỉ đơn thuần là học lí thuyết thông qua các phương pháp truyền thống thì học sinh dễ chán
nản, không nhớ nội dung bài học. Từ đấy giáo viên không thực hiện tốt mục tiêu giáo dục
hành vi và năng lực thực hiện pháp luật cho công dân khi các em chuẩn bị bước vào giai
đoạn trưởng thành đặc biệt ảnh hưởng đến tinh thần chung của xã hội là sống và làm việc
theo Hiến Pháp và Pháp Luật. Vì thế để thu hút niềm yêu thích môn Giáo dục công dân nói
chung và đặc biệt là để nâng cao hứng thú và kết giáo dục pháp luật cho học sinh lớp12 thì
nên sử dụng phương pháp tình huống để giảng dạy.
1.2 CƠ SỞ THỰC TIỄN CỦA VIỆC VẬN DỤNG PHƯƠNG PHÁP
TÌNH HUỐNG TRONG DẠY HỌC MÔN GIÁO DỤC CÔNG DÂN LỚP 12
1.2.1
MỘT SỐ NÉT KHÁI QUÁT VỀ TRƯỜNG THPT SƠN TÂY HÀ NỘI
Trường Trung học phổ thông Sơn Tây là một trường trung học phổ
thông công lập của thị xã Sơn Tây trực thuộc thành phố Hà Nội. Được thành lập
vào năm 1959, trường nằm ở phố Phan Chu Trinh, phường Ngô Quyền, thị xã Sơn
Tây. Hiện nay, Trường Trung học phổ thông Sơn Tây, Trường thpt chuyên Hà Nội Amsterdam (quận Cầu Giấy), Trường thpt chuyên Nguyễn Huệ (quận Hà Đông)
và Trường thpt Chu Văn An (quận Tây Hồ) là bốn trường có hệ thống lớp chuyên
của Sở Giáo dục và Đào tạo Hà Nội. Trường được tổ chức với mô hình ban giám
hiệu điều hành và quản lý chung với Hiệu trưởng hiện tại là bà Lương Quỳnh Lan
21
và các phó hiệu trưởng là bà Phùng Thị Ngọc Hà, bà Phạm Thị Huyền và ông Vũ
Duy Khôi. Công tác giáo dục được phân chia thành 8 tổ bộ môn: Toán, Lý - Tin Kỹ thuật công nghiệp, Hóa, Sinh, Văn, Sử - Địa - GDCD, Ngoại ngữ, Thể dục.
Ngoài ra còn các phòng ban thực hiện công tác phục vụ vận hành trường gồm: Văn
thư, Thí nghiệm, Thư viện, Bảo vệ, Quản trị, Lao công và Y tế. Tỷ lệ đỗ tốt nghiệp
của trường luôn là xấp xỉ 100%, số học sinh giỏi cấp tỉnh và thành phố khoảng 1300
học sinh, số học sinh đỗ đại học khoảng 10000 học sinh, có 24 học sinh quốc gia và
2 học sinh đạt huy chương bạc giọng hát hay toàn quốc. Trong các năm gần đầy
trường luôn có mặt trong top 200 trường phổ thông tốt nhất Việt Nam và đặc biệt là
trong năm học 2010 này, trường đứng thứ 102 toàn quốc về điểm trung bình thi đai
học. Bên cạnh đó thì trường THPT Sơn tây cũng đã có những thành tích đáng nể
như: thành tích dạy và học, trường đã được Nhà nước Việt Nam trao tặng:
1 huân chương lao động hạng nhì năm 1999
1 huân chương lao động hạng ba năm 2004
Ngày khai giảng năm học 2009-2010, trường vinh dự được đón đồng chí
Tổng bí thư Nông Đức Mạnh về thăm trường.
Tỷ lệ đỗ tốt nghiệp của trường luôn là xấp xỉ 100%, số học sinh giỏi cấp
tỉnh và thành phố khoảng 1300 học sinh, số học sinh đỗ đại học khoảng 10000
học sinh. Trong các năm gần đầy trường luôn có mặt trong top 200 trường phổ
thông tốt nhất Việt Nam và năm 2010, trường đứng thứ 102 toàn quốc về điểm
trung bình thi đai học.
1.2.2 THỰC TRẠNG VẬN DỤNG PHƯƠNG PHÁP DẠY HỌC TÌNH HUỐNG
TRONG MÔN GDCD LỚP 12 TRƯỜNG THPT SƠN TÂY
Để hiểu rõ hơn về thực trạng vận dụng PPDH tình huống trong dạy học môn
GDCD lớp 12 tại trường THPT Sơn Tây, Hà Nội tôi đã tiến hành khảo sát 04 giáo
viên bộ môn đang giảng dạy tại trường. Qua thống kê số liệu đã điều tra và qua
nghiên cứu tìm hiểu tình hình thực trạng dạy học môn GDCD, sau khi xử lí số liệu
tôi thu được kết quả như sau:
Câu hỏi đầu tiên: Theo thầy cô, việc vận dụng PPTH để giáo dục pháp luật
cho HS lớp 12 môn GDCD là:
STT
1
2
22
Vai trò
Rất cần thiết
Cần thiết
Lựa chọn
Số người
4
0
Tỷ lệ %
100
0
3
4
Bình thường
Không cần thiết
0
0
0
0
Từ kết quả 100% giáo viên đã có được nhận thức đúng đắn về bản chất cũng
như ý nghĩa, vai trò của việc sử dụng phương pháp tình huống trong dạy học môn
GDCD. Con số 100% giáo viên cho rằng việc vận dụng PPDH tình huống là rất cần
thiết trong quá trình dạy học môn GDCD. Đây là một thuận lợi vô cùng quan trọng
trong việc vận dụng PPTH vào trong giảng dạy phần công dân với pháp luật, vì để đi
-
đến hành động trước tiên chúng ta cần có nhận thức và ý thức đúng đắn về vấn đề đó.
Câu hỏi 2: Trong quá trình dạy học môn GDCD cho HS lớp 12 các thầy, cô thường
sử dụng phương pháp dạy học nào?
STT
1
2
3
4
5
6
Các phương pháp dạy học
Phương pháp thuyết trình
Phương pháp thảo luận nhóm
Phương pháp nêu vấn đề
Phương pháp dạy học dự án
Phương pháp tình huống
Phương pháp khác
Lựa chọn
Số người Tỷ lệ %
0
0
2
50
0
0
0
0
2
50
0
0
Từ kết quả trên chúng ta có thể thấy việc áp dụng phương pháp tình huống là
rất cần thiết, ngoài ra có thể kết hợp với các phương pháp khác, trong đó có phương
pháp làm việc nhóm. Tuy nhiên thì việc sử dụng các phương pháp khác hầu như là
-
ít, nếu chỉ tập trung vào một phương pháp thì sẽ không hiệu quả.
Câu hỏi 3: Thầy (cô) sử dụng PP tình huống trong dạy học môn GDCD lớp 12 ở
mức độ nào?
STT
1
2
3
4
Mức độ sử dụng
Thường xuyên
Thỉnh thoảng
Hiếm khi
Chưa bao giờ
Lựa chọn
Số người Tỷ lệ %
2
50
2
50
0
0
0
0
Việc khảo sát câu hỏi này thì chúng ta có thể thấy rằng thầy (cô) rất hay sử
dụng phương pháp này, đây là tín hiệu đáng mừng đối với việc đổi mới trong dạy
học, không còn có những tiết học giảng giải thuyết trình nặng về lý thuyết nữa mà
23
thay vào đó là phương pháp tình huống thú vị.
-
Câu hỏi 4:Trong quá trình dạy học, thầy (cô) vận dụng PP tình huống nhằm mục
đích gì?
Lựa chọn
STT
Mục đích
Số
Tỷ lệ %
người
1
Tăng cường hứng thú nhận thức cho học sinh
4
100
2
Làm cho bài giảng thêm sinh động phong phú
1
25
3
Rèn luyện thói quen tư duy phản xạ, giải quyết tình 0
0
huống có vấn đề cho HS
4
Giúp HS tăng tính chủ động sáng tạo của mình
4
100
5
Tạo không khí lớp học hào hứng, vui vẻ, tạo ấn tượng 0
0
ghi nhớ bài học
Như vậy, chúng ta có thể thấy mục đích của việc sử dụng phương pháp tình
huống vào trong dạy học của giáo viên nhằm tăng hứng thú nhận thức cho học sinh
(100%), giúp học sinh tăng tính chủ động sáng tạo hơn (100%), còn những mục
đích khác thì lại chưa chú ý quan tâm.
-
Câu hỏi 5: Khi vận dụng PP tình huống trong giảng dạy, thầy (cô) nhận thấy thái độ
học tập của học sinh như thế nào?
STT
1
2
3
4
Thái độ học tập
Tích cực hơn
Bình thường
Một số học sinh có hứng thú
Không hứng thú
Lựa chọn
Số
Tỷ lệ %
người
4
100
0
0
0
0
0
0
Chúng ta thấy rằng thái độ của học sinh trong một tiết dạy học có sử dụng
phương pháp tình huống hoàn toàn tích cực hơn (100%). Điều này càng khẳng định
được tầm quan trọng của phương pháp dạy học tình huống trong dạy học
-
Câu hỏi 6: Theo thầy(cô) dạy học bằng PP tình huống được vận dụng trong phạm vi
nào?
STT
24
Phạm vi
Lựa chọn
Số
Tỷ lệ %
người
1
2
3
4
5
6
Tất cả các bài
0
Áp dụng cho những bài có nội dung ngắn
4
Chỉ áp dụng cho một số bài có nội dung về quyền 0
con người
Sử dụng cho một phần mở đầu bài học
2
Sử dụng trong giờ ôn tập, củng cố kiến thức
2
Sử dụng trong giờ thực hành
0
0
100
0
50
50
0
Phạm vi vận dụng phương pháp tình huống trong dạy học môn GDCD lớp 12
được thầy cô khoanh vùng rõ rệt, không phải bài nào cũng áp dụng được phương
pháp này. Hầu như thầy cô đều áp dụng cho những bài có nội dung ngắn (100%),
hoặc dành tình huống vào những phần chiếm ít thời gian như phần mở đầu, phần
củng cố. Họ vẫn chưa thực sự áp dụng mạnh tay hơn vào những tiết học khác như
giờ thực hành.
-
Câu hỏi 7: Những khó khăn mà thầy(cô) thường gặp phải khi vận dụng PP tình
huống trong quá trình giảng dạy?
STT
1
2
3
4
5
Khó khăn
Lựa chọn
Số
Tỷ lệ %
người
Không phải bài nào cũng áp dụng được 4
100
phương pháp này
Gây mất thời gian, dễ cháy giáo án
2
50
Không gian lớp học hạn hẹp, ảnh hưởng đến 2
lớp khác
Vẫn có thói quen dạy học thuyết trình giảng 0
giải
Lớp học quá dông, HS có quá nhiều ý kiến
0
50
0
0
Nhìn vào số liệu này chúng ta có thể thấy là thầy cô đã gặp không ít những
khó khăn, trong đó 100% cho rằng không phải bài nào cũng áp dụng được phương
pháp này, do đó phải nghiên cứu kỹ lưỡng, sử dụng tình huống dễ cháy giáo án vì
nó có nhiều những tình huống phát sinh…
-
Câu hỏi 8: Trong quá trình vận dụng PP tình huống trong giảng dạy, thầy (cô) thấy
có những thuận lợi nào?
25