Tải bản đầy đủ (.docx) (123 trang)

KINH tế HUYỆN hải hà (QUẢNG NINH) từ năm 2001 đến năm 2012

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.23 MB, 123 trang )

BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM HÀ NỘI
----˜&™----

KHỔNG THỊ THU TRANG

KINH TẾ HUYỆN HẢI HÀ (QUẢNG NINH)
TỪ NĂM 2001 ĐẾN NĂM 2012
Chuyên ngành: Lịch sử Việt Nam
Mã số: 60.22.03.13

LUẬN VĂN THẠC SĨ KHOA HỌC LỊCH SỬ

Người hướng dẫn khoa học: TS Trần Thị Thái Hà

HÀ NỘI - 2014


LỜI CẢM ƠN
Tôi xin bày tỏ lòng biết ơn sâu sắc tới TS Trần Thị Thái Hà, người đã
tận tình hướng dẫn và giúp đỡ tôi trong quá trình hoàn thành luận văn.
Tôi xin chân thành cảm ơn các thầy, cô trong tổ bộ môn Lịch sử Việt
Nam; phòng Tư liệu - Khoa Lịch sử trường Đại học Sư phạm Hà Nội; Tỉnh
ủy, Ủy ban nhân dân tỉnh Quảng Ninh; Thư viện tỉnh Quảng Ninh; Huyện ủy,
Ủy ban nhân dân, các phòng ban của huyện Hải Hà; gia đình, bạn bè và
đồng nghiệp đã động viên, giúp đỡ tôi trong suốt quá trình học tập, nghiên
cứu và hoàn thành luận văn này.
Hà Nội, tháng 9 năm 2014
Tác giả luận văn

Khổng Thị Thu Trang



2


MỤC LỤC

3


CÁC CHỮ VIẾT TẮT
CCN
CNH, HĐH
CN - TTCN
CN - XD
GTSX
GTTT
HTX
KCN
KCN - CB
KKT
KKTCK
KH&CN
KHKT
KT - XH
UBND
TM - DV
TTCN

Cụm công nghiệp
Công nghiệp hoá, hiện đại hoá

Công nghiệp - Tiểu thủ công nghiệp
Công nghiệp - xây dựng
Giá trị sản xuất
Giá trị tăng thêm
Hợp tác xã
Khu công nghiệp
Khu công nghiệp - cảng biển
Khu kinh tế
Khu kinh tế cửa khẩu
Khoa học và Công nghệ
Khoa học kỹ thuật
Kinh tế - xã hội
Uỷ ban nhân dân
Thương mại - dịch vụ
Tiểu thủ công nghiệp

4


DANH MỤC BẢNG

5


BẢN ĐỒ TỈNH QUẢNG NINH


[Nguồn: Ban quản lý các khu kinh tế tỉnh Quảng Ninh]



SƠ ĐỒ HÀNH CHÍNH HUYỆN HẢI HÀ

[Nguồn: Phòng Thống kê và lưu trữ huyện Hải Hà]


MỞ ĐẦU
1. Lí do chọn đề tài
1. Kinh tế là vấn đề quan trọng hàng đầu quyết định sự tồn tại và phát triển
của các quốc gia. Trong tổng thể nền kinh tế của mỗi quốc gia, kinh tế địa phương
là một thành tố không thể thiếu. Ở mỗi địa phương luôn tồn tại gần như đầy đủ các
lĩnh vực kinh tế: nông nghiệp, công nghiệp, du lịch, dịch vụ, quá trình lưu thông và
phân phối… Vì vậy, để phát triển kinh tế đất nước, Nhà nước nhất thiết phải quan
tâm, phát huy vai trò của kinh tế địa phương; ngược lại, mỗi địa phương cần có chủ
trương, biện pháp phù hợp để thúc đẩy kinh tế phát triển vững mạnh, độc lập trong
sự hài hòa và thống nhất với nền kinh tế quốc gia.
2. Hải Hà là một trong số 14 đơn vị hành chính của tỉnh Quảng Ninh, được
tái lập trên cơ sở huyện Quảng Hà từ năm 2001. Đây là một huyện có điều kiện tự
nhiên, vị trí địa lí tương đối đặc thù và có nhiều tiềm năng kinh tế. Nằm ở phía tây
nam của thành phố Móng Cái, không chỉ là một cửa ngõ kinh tế sôi động, Hải Hà
còn đồng thời là một huyện biên cương, làm nhiệm vụ phên dậu vững chắc cho tỉnh
Quảng Ninh nói riêng và cho cả nước nói chung. Từ khi tái lập đến nay, Hải Hà đã
phát huy vai trò của một địa phương năng động, tiên phong, có nhiều đóng góp cho
sự phát triển kinh tế và ổn định xã hội, an ninh quốc phòng của tỉnh Quảng Ninh.
3. Nghiên cứu tình hình kinh tế của huyện Hải Hà sau hơn 1 thập kỉ tái lập,
với tâm thế của một người đã gắn bó và chứng kiến sự đổi thay của huyện Hải Hà
qua các thời kì, tác giả mong muốn cung cấp một cái nhìn tổng thể về quá trình phát
triển kinh tế của huyện Hải Hà, tìm ra các mặt mạnh, chỉ ra các mặt yếu; những ưu
điểm và hạn chế trong hoạt động kinh tế của huyện cũng như tác động của tình hình
kinh tế đến đời sống văn hóa - xã hội của địa phương; từ đó có thể giúp cho lãnh
đạo địa phương nhìn nhận đúng đắn tiềm năng, thế mạnh của Hải Hà và sử dụng

hợp lí chúng trong công cuộc dựng xây và phát triển đất nước hôm nay.
Thông qua nghiên cứu này, tác giả luận văn cũng hi vọng sẽ củng cố, vun
đắp thêm tình yêu, niềm tin và ý thức đóng góp công sức của cá nhân tác giả cũng
như các thế hệ công dân tỉnh Quảng Ninh với quê hương, đất nước; làm phong phú,

9


sâu sắc hơn kiến thức bộ môn, phục vụ thiết thực cho công tác giảng dạy; đặc biệt là
về lịch sử địa phương.
Xuất phát từ ý nghĩa khoa học và thực tiễn trên, tôi chọn vấn đề: “Kinh tế
huyện Hải Hà (Quảng Ninh) từ năm 2001 đến năm 2012” làm đề tài luận văn Thạc
sĩ của mình.
2. Lịch sử nghiên cứu vấn đề
Với chủ trương, đường lối đổi mới đất nước được đề ra từ Đại hội Đảng toàn
quốc lần thứ VI (tháng 12/1986); đến nay, sau gần 30 năm, bộ mặt đất nước có
những chuyển biến tích cực và những đổi thay to lớn. Những thành tựu trong thực
hiện đường lối đổi mới đất nước, trước hết là kinh tế đã trở thành mảng đề tài phong
phú, thu hút đông đảo sự quan tâm nghiên cứu của các nhà kinh tế, các nhà khoa
học trên nhiều lĩnh vực và đã có hàng loạt các tác phẩm được ra đời:
Trước hết, trong tác phẩm “Lịch sử Việt Nam từ 1975 đến nay” của tác giả
Trần Bá Đệ, Nxb ĐHQG, 1998 đã dành một chương để trình bày về tình hình kinh
tế, văn hóa – xã hội của Việt Nam trong thời kì đổi mới.
Tác phẩm “Sự nghiệp đổi mới vì chủ nghĩa xã hội” của đồng chí Đỗ Mười,
Nxb Sự thật, 1992; Các văn kiện, nghị quyết Đại hội đại biểu toàn quốc của Đảng
lần thứ VI, VII, VIII, IX đã đưa ra những yêu cầu, định hướng về đổi mới, phát
triển kinh tế - xã hội nói chung và vạch ra đường lối đổi mới cho các địa phương.
Cuốn “Kinh tế xã hội của nông nghiệp, nông thôn, nông dân Việt Nam ngày
nay”, tập II, Ban Nông nghiệp Trung ương, Nxb Tư tưởng - văn hóa, Hà Nội, 1991
đã phản ánh khá rõ nét những thành tựu kinh tế - xã hội nông thôn Việt Nam thời kì

đổi mới cũng như những hạn chế còn tồn tại đã cản trở sự phát triển kinh tế.
Trong cuốn “Đổi mới quản lí kinh tế nông nghiệp - thành tựu vấn đề và triển
vọng” của tác giả Nguyễn Văn Bích chủ biên, Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội, năm
1994 đã trình bày thực trạng kinh tế nông nghiệp, nông thôn Việt Nam trước thời kì
đổi mới, quá trình đổi mới quản lí nông nghiệp, những thành tựu đạt được trong
thời kì đổi mới.
Các tác phẩm: “Nhân tố con người trong sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại
hóa” của Nguyễn Hữu Vượng, Tạp chí kinh tế Hà Nội, 1996; “Dự báo kinh tế - xã hội
10


Việt Nam thập kỉ 90” của Trần Hoàng Kim, Lê Thụ, Hoàng Xuân Lộc, Nxb Tổng cục
thống kê, 1991… đã đề cập đến quá trình phát triển kinh tế - xã hội dưới tác động của
đường lối đổi mới, vai trò của nhân tố con người trong cơ chế thị trường.
Dưới góc độ địa phương, cũng đã có những tác phẩm đề cập đến tình hình kinh
tế - xã hội của tỉnh Quảng Ninh nói chung, huyện Quảng Hà từ sau năm 1986 đến
trước năm 2001 và huyện Hải Hà từ 2001 đến nay như: Địa chí Quảng Ninh, (3 tập),
Nxb Thế giới, HN, 2001; Niên giám thống kê tỉnh Quảng Ninh, Nxb Thống kê, HN,
2013; Các văn kiện Đại hội Đảng bộ tỉnh Quảng Ninh, Đảng bộ huyện Hải Hà…
Đặc biệt là các báo cáo tổng kết và thống kê tình hình thực hiện các nhiệm
vụ phát triển kinh tế - xã hội của huyện Hải Hà theo từng quý, từng năm từ năm
2001 đến 2012.
Tất cả các công trình nghiên cứu, các tác phẩm, các bài viết trên đây hoặc đã
nhìn nhận, đánh giá về quá trình phát triển kinh tế xã hội nói chung hoặc đề cập đến
một vài góc độ cụ thể ở các cấp độ khác nhau về tình hình kinh tế - xã hội của
huyện Hải Hà giai đoạn trước và sau khi tái lập. Tuy nhiên, chưa có một công trình
nào nghiên cứu chi tiết, cụ thể có hệ thống về toàn bộ hoạt động kinh tế của huyện
Hải Hà từ 2001 đến nay. Vì vậy, đề tài này sẽ đi sâu nghiên cứu, tìm hiểu các hoạt
động kinh tế điển hình và tác động của những hoạt động kinh tế đó đến đời sống
văn hóa - xã hội của nhân dân huyện Hải Hà kể từ khi tái lập huyện đến năm 2012.

3. Đối tượng, phạm vi nghiên cứu, nhiệm vụ đề tài
3. 1. Đối tượng nghiên cứu
Đối tượng mà đề tài tập trung nghiên cứu là: Các hoạt động kinh tế và tác
động của sự phát triển kinh tế đến mặt văn hóa, xã hội, an ninh quốc phòng của
huyện Hải Hà (Quảng Ninh) từ năm 2001 đến năm 2012.
3. 2. Phạm vi nghiên cứu
Về không gian: Đề tài nghiên cứu toàn bộ hoạt động kinh tế của huyện Hải
Hà thuộc tỉnh Quảng Ninh sau khi tách huyện (bao gồm 15 xã, 1 thị trấn). Ngoài ra,
để có cái nhìn toàn diện về vấn đề, đề tài khảo sát thêm một phần thành phố Móng
Cái và huyện Đầm Hà.

11


Về thời gian: Luận văn tập trung vào giai đoạn 2001 - 2012. Tuy nhiên, trong
quá trình nghiên cứu, để làm sáng tỏ một số vấn đề, đề tài có sử dụng các tài liệu và
số liệu thuộc giai đoạn từ năm 1986 đến năm 2000 và cập nhật đến hết năm 2013.
3.3. Nhiệm vụ đề tài
Phác họa toàn bộ hoạt động kinh tế của huyện Hải Hà, tỉnh Quảng Ninh trên
các lĩnh vực: nông, lâm, ngư nghiệp, tiểu thủ công nghiệp, thương nghiệp, du lịch,
dịch vụ… trong thời gian 12 năm (từ 2001 đến 2012). Từ đó chỉ ra sự phát triển về
kinh tế của huyện Hải Hà cùng với những tác động của sự phát triển đó tới đời sống
văn hóa - xã hội của huyện trong giai đoạn mà đề tài nghiên cứu.
Từ thực tiễn sinh động là sự chuyển biến cả về kinh tế và xã hội của huyện, đề tài
rút ra những nhận định, đánh giá về những thành công, những tồn tại yếu kém cũng như
bài học kinh nghiệm; đề xuất giải pháp bước đầu nhằm tiếp tục đẩy mạnh sự phát triển
kinh tế của huyện trong giai đoạn tiếp theo (trong thời kì công nghiệp hóa, hiện đại hóa).
4. Nguồn tư liệu và phương pháp nghiên cứu
4.1. Nguồn tư liệu
Trong quá trình nghiên cứu, chúng tôi dựa trên các nguồn tài liệu sau:

Tư liệu thành văn: Các tác phẩm kinh điển của chủ nghĩa Mác - Lênin bàn về
kinh tế; Giáo trình lịch sử Việt Nam hiện đại; các sách chuyên khảo viết về công
nghiệp hóa, hiện đại hóa trong nông nghiệp, nông thôn; bàn về kinh tế địa phương;
các nghị quyết, chính sách phát triển kinh tế của Đảng, Nhà nước và của tỉnh; các
báo cáo của Ủy ban nhân dân tỉnh và các Sở, ban, ngành thuộc tỉnh Quảng Ninh về
tình hình phát triển kinh tế - xã hội huyện Hải Hà nói riêng, tỉnh Quảng Ninh nói
chung; Báo cáo tổng kết hàng năm của huyện Hải Hà; Đề án của Ủy ban nhân dân
tỉnh về bổ sung một số khu công nghiệp; khóa luận tốt nghiệp, luận văn thạc sĩ; một
số bài viết có liên quan đăng tải trên các báo, tạp chí, nguồn tài liệu internet…
Tư liệu điền dã: Gồm những tư liệu, thông tin, số liệu, tranh ảnh… tác giả
luận văn trực tiếp thu thập ở địa phương trong quá trình thực hiện đề tài.
4.2. Phương pháp nghiên cứu
Trong quá trình thực hiện đề tài, chúng tôi sử dụng những phương pháp
nghiên cứu sau:
12


+ Phương pháp biện chứng: Nghiên cứu hoạt động kinh tế của huyện Hải Hà
trong khoảng thời gian xác định (từ 2001 đến 2012) và trong giới hạn không gian
địa lí là toàn bộ địa giới hành chính của huyện.
+ Phương pháp lịch sử: tìm hiểu về hoạt động kinh tế của huyện Hải Hà
trong một quá trình hình thành, phát triển và trong sự liên hệ với các địa phương
khác trong tỉnh, trong nước và với bên ngoài.
+ Phương pháp lôgíc: xâu chuỗi các sự kiện, phân tích tìm ra mối liên hệ
giữa sự kiện này với sự kiện khác để tìm ra bản chất của vấn đề.
Ngoài ra, chúng tôi còn sử dụng phương pháp tổng hợp, thống kê, phân tích,
điều tra thực địa… để thực hiện nhiệm vụ nghiên cứu mà đề tài đặt ra.
5. Đóng góp của luận văn
Bổ sung và làm phong phú thêm bức tranh toàn cảnh của kinh tế Việt Nam
thời kì sau đổi mới.

Phác họa lại chặng đường phát triển của kinh tế huyện Hải Hà từ khi tái lập cho
đến nay; quá trình thực hiện đường lối đổi mới, tiến hành công nghiệp hóa, hiện đại
hóa của Đảng và Nhà nước qua trường hợp một địa phương cụ thể là huyện Hải Hà.
Làm rõ những đóng góp của huyện Hải Hà cho sự phát triển kinh tế tỉnh
Quảng Ninh nói riêng và đất nước nói chung. Từ đó, hi vọng giúp ích cho các
cấp lãnh đạo của huyện Hải Hà, của tỉnh Quảng Ninh trong việc đề ra mục tiêu
phát triển kinh tế một cách hợp lý cũng như đề xuất các giải pháp phù hợp với
đặc điểm, điều kiện, lợi thế và tiềm năng của huyện trong giai đoạn tiếp theo.
Bổ sung những hiểu biết về lịch sử địa phương, bồi đắp thêm tình cảm và sự
gắn bó với quê hương của người dân Quảng Ninh; để từ đó mỗi người sẽ có những
hành động thiết thực góp phần xây dựng Quảng Ninh thêm giàu mạnh.
6. Bố cục của đề tài
Ngoài phần mở đầu, kết luận, phụ lục và danh mục tài liệu tham khảo, nội
dung của luận văn gồm 3 chương:
Chương 1: Khái quát về huyện Hải Hà
Chương 2: Kinh tế huyện Hải Hà từ năm 2001 đến năm 2012
Chương 3: Tác động của kinh tế tới đời sống văn hóa - xã hội
13


Chương 1
KHÁI QUÁT VỀ HUYỆN HẢI HÀ (QUẢNG NINH)
1.1. Điều kiện tự nhiên
1.1.1. Vị trí địa lí, địa hình
Hải Hà là huyện miền núi, biên giới và hải đảo, nằm ở phía Đông Bắc tỉnh
Quảng Ninh, có tọa độ từ 21017’ đến 21037’ vĩ độ Bắc và 107031’ đến 107049’ kinh độ
Đông.
Về địa giới hành chính, huyện Hải Hà 1 phía Bắc giáp nước Cộng hòa nhân
dân Trung Hoa với đường biên giới quốc gia dài 17,2 km; Phía Đông giáp thành
phố Móng Cái; Phía Tây giáp huyện Bình Liêu và Đầm Hà; Phía Nam có đường bờ

biển dài khoảng 35km, nằm trọn trong vành đai Vịnh Bắc Bộ.
Huyện Hải Hà có 69.031,1 ha diện tích tự nhiên với 16 đơn vị hành chính
trực thuộc gồm 1 thị trấn và 15 xã. Thị trấn Quảng Hà (tên cũ là Hà Cối 2) là trung
tâm kinh tế - chính trị - xã hội của huyện cách thành phố Hạ Long 150 km về phía
Tây và cửa khẩu quốc tế Móng Cái 40 km về phía Đông. 15 xã là: Cái Chiên (xã
đảo), Đường Hoa, Phú Hải, Tiến Tới, Quảng Chính, Quảng Điền, Quảng Đức,
Quảng Long, Quảng Minh, Quảng Phong, Quảng Sơn, Quảng Thành, Quảng Thắng,
Quảng Thịnh, Quảng Trung.
Hải Hà là huyện có địa hình đồi, núi, sông, biển đan xen tương đối phức tạp,
thấp dần từ Bắc xuống Nam, được chia thành 3 loại địa hình cơ bản sau:
Địa hình vùng núi cao: Có độ cao từ 200m đến 1.500m so với mực nước
1 Đầu thế kỉ XIX vùng đất này là tổng Hà Môn thuộc châu Vạn Ninh. Tháng 6 - 1888, tổng Hà Môn tách
khỏi châu Vạn Ninh thành lập châu Hà Cối. Châu Hà Cối chia làm 3 tổng: Đầm Hà, Hà Cối và Mã Tế. Năm
1937 thêm tổng Thanh Mòi (Tấn Mài), sau lại tách thêm 1 tổng là Hà Cối Nùng. Sau cách mạng tháng Tám,
châu Hà Cối chia làm hai huyện là Đầm Hà và Hà Cối. Ngày 4 - 6 - 1969, hai huyện hợp nhất thành huyện
Quảng Hà. Ngày 10 - 8 - 1981, cắt xã Quảng Nghĩa nhập về huyện Hải Ninh nhưng lại nhập một phần xã Pò
Hèn của huyện Hải Ninh về xã Quảng Đức của huyện Quảng Hà. Ngày 29 - 8 - 2001, căn cứ đề án xin tách
đơn vị hành chính của tỉnh Quảng Ninh, Chính phủ ban hành nghị định số 59/2001/NĐ - CP chia huyện
Quảng Hà thành hai huyện Đầm Hà và Hải Hà. Hải Hà nguyên là huyện Hà Cối xưa.
2 Theo người dân địa phương giải thích, nghĩa Hán Việt của từ Hà Cối là: Hà nghĩa là sông, Cối là cây cối
rậm rạp; Hà Cối có nghĩa là vùng đất rậm rạp cây cỏ ven sông.

14


biển. Kiểu địa hình này thuộc các xã Quảng Sơn, Quảng Đức, Quảng Thành. Đồi ở
đây có tầng đất đỏ dày, màu mỡ. Dưới góc độ kinh tế nông - lâm nghiệp, đất thuộc
hệ thống đồi núi như thế này thích hợp trồng các loại cây công nghiệp (quế, trẩu,
thông, chè), cây ăn quả và sản xuất vật liệu xây dựng; có nhiều loại cỏ thích hợp
phát triển chăn nuôi gia súc.

Địa hình vùng trung du và ven biển (còn gọi là địa hình đồng bằng có nguồn
gốc sông hay đồng bằng cửa sông): Là vùng đồi núi thấp có đồng bằng nhỏ xen kẽ,
thuộc địa bàn của các xã Quảng Thắng, Quảng Minh, Quảng Trung, Quảng Điền,
Quảng Phong. Được hình thành bởi sự tiến triển của các thềm sông và thềm biển cổ,
bởi vậy các dải đồi thấp đã trở thành đối tượng khai thác kinh tế từ lâu đời, hình
thành các vùng chuyên canh nông nghiệp, trồng cây lương thực, thực phẩm, cây ăn
quả, nuôi gia súc, gia cầm… Nơi đây, cư dân tập trung đông đúc với những làng, xã
trù phú và hình thành thị trấn Quảng Hà sầm uất là trung tâm kinh tế, chính trị, văn
hoá của huyện.
Vùng đảo: Hải Hà có một xã đảo Cái Chiên với diện tích là 2.556,78 ha, địa
hình phức tạp, giao thông gặp nhiều khó khăn, việc giao lưu với bên ngoài chủ yếu
là đường thủy. Tuy nhiên, vùng bãi bồi và tuyến đảo chạy dọc bờ biển, đan xen các
cửa sông, cửa lạch, hàng năm được bồi đắp lượng phù sa màu mỡ đó lại rất thích
hợp cho việc nuôi trồng thuỷ, hải sản, nhiều bãi cát trắng để phát triển nghề muối và
là tiềm năng du lịch. Từ xưa, đảo Cái Chiên đã là một bộ phận quan trọng của
thương cảng Vân Đồn là cái nôi buôn bán sầm uất, trung chuyển hàng hoá của ta
với nước ngoài.
Có thể nói, vị trí địa lí, địa hình phong phú, đa dạng đã tạo ra tính độc đáo
của thiên nhiên và những lợi thế riêng có cho Hải Hà. Song bên cạnh đó cũng mang
lại nhiều bất lợi:
Địa hình chia cắt và có sự chênh lệch về độ cao ảnh hưởng trực tiếp đến việc
sử dụng mặt bằng lãnh thổ vào mục đích nông nghiệp, vào việc đầu tư cải tạo đồng
ruộng và bố trí cơ sở hạ tầng. Chất lượng đất nhiều khu vực xấu do hiện tượng thoái
hóa, nhiễm mặn ảnh hưởng đến quá trình sản xuất nông nghiệp và xây dựng kết cấu

15


hạ tầng kỹ thuật cũng như hạ tầng xã hội. Giao thông nội huyện và với các huyện
thị khác tương đối khó khăn, ảnh hưởng tới phân phối, lưu thông, trao đổi hàng hóa

và phát triển dân trí.
Nét độc đáo về tự nhiên của huyện Hải Hà so với các địa phương khác còn ở
chỗ Hải Hà không chỉ là huyện miền núi, có địa thế hiểm yếu giáp biên mà còn là
huyện có vị trí giáp biển.
Biển Hải Hà rộng mênh mông, được đảo phân thành 2 tuyến: Tuyến trong
tạo thành vùng Vịnh, tuyến ngoài trải rộng hoà nhập với biển Đông. Khu vực ven
biển Hải Hà nằm trên vành đai Vịnh Bắc Bộ và 2 hành lang đi Quảng Tây, Vân
Nam - Trung Quốc. Đây là khu vực có tiềm năng rất lớn và quan trọng trong việc
giao thương giữa Việt Nam và Trung Quốc, phù hợp với sự phát triển kinh tế theo
chiến lược: “hai hành lang, một vành đai” giữa hai nước.
Vùng ven biển có gần 100 ha diện tích mặt nước rất thuận tiện cho nuôi
trồng thuỷ sản. Ngoài biển, ngoài xã đảo Cái Chiên còn có nhiều đảo nhỏ không có
người ở, tạo thành cảnh quan thiên nhiên kì thú. Dưới biển có nhiều hải sản quý
như: tôm, cua, mực, sò huyết, sá sùng… Các loại cá: song, ngừ, hồng, chim, thu…
với trữ lượng lớn; hàng năm cung cấp một phần không nhỏ lương thực phục vụ đời
sống nhân dân và xuất khẩu. Vì vậy, nó mở ra triển vọng lớn cho ngành ngư nghiệp,
một ngành kinh tế mũi nhọn trong chương trình phát triển kinh tế của huyện cũng
như chủ trương phát triển kinh tế biển của Quảng Ninh và cả nước.
1.1.2. Đất đai, sông ngòi, khí hậu và giao thông
Về đất đai
Do yếu tố địa hình chi phối nên Hải Hà rất phong phú về loại hình và chất
lượng đất đai. Vùng đồi núi cao chất đất phù hợp cho các loại cây công nghiệp, cây
lấy gỗ, cây ăn quả… vùng đồng bằng ven cửa sông và các bãi bồi tụ màu mỡ là điều
kiện lí tưởng cho việc trồng lúa, ngô, canh tác các loại hoa màu có giá trị cao; vùng
đất mặn ven biển, đảo lại thuận tiện cho việc trồng rừng ngập mặn, nuôi trồng thủy
sản. Mặc dù được khai phá từ lâu đời nhưng do dân cư thưa thớt và các hoạt động
kinh tế của huyện không thuần nông nên cơ bản quỹ đất còn tương đối dồi dào, có

16



triển vọng cho việc phát triển các vùng chuyên canh và mô hình trang trại.
Tuy nhiên, do địa hình có độ dốc tương đối lớn, các đồng bằng không được
bồi tụ và không có khả năng tích tụ phù sa nên có hiện tượng đất bị xói mòn, rửa
trôi (sa bồi thủy phá). Đất vùng đồi núi đang bị bạc màu, thoái hoá do các hoạt động
khai thác rừng bừa bãi, khai thác khoáng sản và xây dựng …
Về sông ngòi.
Hải Hà không có sông lớn nhưng có nhiều sông nhỏ, suối, lạch; toàn huyện
có hai con sông lớn là sông Hà Cối và sông Tài Chi đều chảy theo hướng Tây - Bắc
xuống Đông - Nam với đặc điểm là ngắn, nhỏ, hẹp, độ dốc cao, nhiều thác ghềnh và
độ xói mòn lớn; hệ thống sông, suối có ý nghĩa trong tưới tiêu, sinh hoạt và phát
triển thuỷ điện nhỏ, góp phần đưa ánh sáng tới các bản làng xa xôi hẻo lánh.
Về khí hậu
Được rừng, núi, sông, biển hoà quyện nên khí hậu ở đây êm dịu, trong lành,
mang đặc điểm nhiệt đới gió mùa với 2 mùa khá rõ rệt: Mùa hè nóng ẩm, mưa
nhiều, mùa đông lạnh, khô hanh, có gió mùa Đông Bắc, vùng núi hay có sương
muối. Nhiệt độ trung bình năm là 23,1 0C, nhiệt độ trung bình cao nhất 28,4 0C, nhiệt
độ trung bình thấp nhất 3,2 0C; nơi có địa hình núi cao thường có nhiệt độ thấp hơn
đồng bằng ven biển. Lượng mưa trung bình hàng năm là khoảng 3.120 mm. Độ ẩm
không khí trung bình hàng năm là 83%. [28, tr 64]
Gió ở Hải Hà thổi theo 2 hướng chính là gió Đông Bắc và gió Đông Nam.
Mùa hạ thổi theo hướng Nam và Đông Nam tốc độ trung bình từ 2 - 5 m/s, mang
theo hơi nước biển gây ra mưa nhiều. Mùa đông gió thổi theo hướng Bắc và Đông
Bắc, tốc độ trung bình từ 2 - 4 m/s. [28, tr 64 ]
Do nằm ven biển nên Hải Hà hàng năm chịu ảnh hưởng trực tiếp của bão. Bão
thường xuất hiện từ tháng 6, tháng có nhiều bão nhất là tháng 7 và tháng 8 . Trung
bình mỗi năm có từ 3 - 5 cơn bão đi qua, bão kèm theo mưa lớn gây lũ lụt làm thiệt
hại cho hoạt động sản xuất và đời sống sinh hoạt của nhân dân trên địa bàn.
Giao thông
Trước đây, khi xâm lược và đô hộ nước ta, thực dân Pháp đã rất coi trọng hệ

thống giao thông thuỷ, bộ và hàng không ở đây nhằm bảo vệ vùng Đông Bắc, án
17


ngữ vùng mỏ phía đông chiến khu Việt Bắc và miền Nam Trung Quốc. Đường số 4
nối liền Việt Bắc với Đông Bắc nước ta trong kháng chiến chống Pháp là điểm giao
tranh quyết liệt giữa ta và địch, nay đã được nâng cấp và nhựa hoá. Trục đường
Quốc lộ 18A đi qua huyện cùng với các tuyến đường giáp biển, giáp biên lên điểm
tựa, đường tiểu mạch, đường lâm nghiệp, đường liên xã, liên thôn đường nội đồng
tạo thành một mạng lưới giao thông liên hoàn trên bộ. Đường thuỷ toả đi khắp nơi:
Móng Cái, Đầm Hà, Tiên Yên, Hòn Gai, Cô Tô… các bến bãi, kho tàng ngày càng
được mở rộng.
1.1.3. Tài nguyên thiên nhiên
* Tài nguyên đất
Đất đai của huyện Hải Hà rất phong phú và đa dạng, gồm đất đồi núi và đất
bằng ven biển, thuận lợi cho phát triển sản xuất nông - lâm - ngư nghiệp và là cơ sở
để đa dạng hóa cây trồng vật nuôi. Nếu theo nguồn gốc phát sinh đất đai thì Hải Hà
gồm 2 loại đất chính là đất thủy thành và đất địa thành; nếu theo tính chất nông hóa
thổ nhưỡng thì đất đai của huyện được chia thành các nhóm đất chính sau:
Nhóm đất phù sa không được bồi hàng năm: Có diện tích khoảng 825,55 ha.
Đây là nhóm đất đã được cách ly khỏi ảnh hưởng của sự bồi đắp hàng năm của các
hệ thống sông, rất phù hợp với trồng cây công nghiệp.
Nhóm đất nâu tím: Hình thành và phát triển trên sa phiến thạch tím hạt mịn.
Diện tích khoảng 2.167,60 ha, phân bố ở các xã Quảng Đức, Quảng Sơn, Quảng
Long, Đường Hoa, Quảng Chính, Quảng Thịnh, Quảng Thành. Nhóm đất này phù
hợp với các loại cây trồng như: Hoa màu, cây lâu năm, mô hình nông - lâm nghiệp
kết hợp, trồng rừng.
Nhóm đỏ vàng: Có diện tích khoảng 25.580,16 ha, phù hợp với các loại cây
trồng lâu năm như: chè, cây ăn quả, các loại cây đặc sản như hồi, quế, trám vũ, cây
lấy gỗ như nghiến, đinh hương.

Nhóm đất mùn đỏ trên núi: Hình thành và phát triển ở độ cao trên 700m, khí
hậu lạnh và ẩm hơn vùng đồi núi thấp. Diện tích khoảng 4.674,47 ha, phân bố ở các

18


xã Quảng Đức, Quảng Sơn. Đất có thành phần cơ giới từ thịt nhẹ đến thịt trung
bình, đất bị xói mòn, rửa trôi mạnh, phù hợp với trồng rừng phòng hộ và khoanh
nuôi bảo vệ rừng đầu nguồn.
Nhóm đất cát ven sông, ven biển: Có diện tích khoảng 2.205,78 ha, được
hình thành ở khu vực ven biển, ven các sông chính do sự bồi đắp và hoạt động trầm
tích phù sa của cả hệ thống sông, biển; thường phân bố ở địa hình thấp ngoài đê
biển và thường xuyên chịu ảnh hưởng của chế độ thủy triều. Nghèo dinh dưỡng nên
loại đất này phù hợp với trồng rừng ngập mặn chắn sóng.
Nhóm đất mặn: Có diện tích khoảng 1.762,39 ha, được hình thành từ những
sản phẩm phù sa sông, biển, lắng đọng trong môi trường nước biển, do trầm tích
biển hoặc ảnh hưởng của nước mặn tràn hoặc mạch mặn ven biển. Đối với vùng đất
này ít nếu độ mặn ít, chủ động được nước sẽ phù hợp với trồng sú, vẹt, đước.
Nhóm đất phèn tiềm tàng: Được hình thành dưới rừng ngập mặn và ở vùng
ngập trũng. Sau khi cải tạo có thể trồng 2 vụ lúa trong điều kiện thuận lợi về nước ngọt.
Nhóm đất có tầng sét loang lổ: Có diện tích khoảng 1.136,08 ha, được hình
thành do sự di chuyển mạch lên và xuống của sắt, nhôm trong đất. Đất có phản ứng
chua, hàm lượng chất hữu cơ trung bình, ít lân, kali, thành phần cơ giới nhẹ, thấm
nước tốt, phù hợp với sản xuất nông nghiệp.
Nhóm đất xám: Có diện tích khoảng 563,67 ha, hình thành trên đá cát kết
và phù sa cổ, ở địa hình bậc thang thấp, đất có phản ứng chua, hàm lượng đạm
trung bình, nghèo lân, kali. Nhóm đất này ở khu vực thấp, đủ nước rất phù hợp
cho trồng lúa nước.
* Tài nguyên nước
Huyện có hệ thống sông, suối và hồ khá dày.

Về hệ thống sông: Các con sông trên địa bàn huyện được bắt nguồn từ dãy
núi phía Nam cánh cung Đông Triều - Móng Cái ở độ cao trên 500m, sông chảy
theo hướng Tây Bắc - Đông Nam và đổ ra biển, đoạn thượng lưu có độ dốc lớn, gấp
khúc và ngắn, cửa sông mở rộng đột ngột. Những đặc điểm này có ảnh hưởng lớn
đến mực nước trên các con sông vì khi mưa nước dâng lên rất nhanh và sa u mưa
một thời gian ngắn nước sông có thể bị rút kiệt. Mùa khô nước sông xuống rất thấp
19


không đáp ứng đủ nước cho sản xuất nông nghiệp.
Huyện có hai con sông lớn: Sông Hà Cối có diện tích lưu vực 118,4 km 2 với
chiều dài 28 km, lưu lượng dòng chảy lớn nhất 1.190 m 3/s, lưu lượng nhỏ nhất 2,69
m3/s; Sông Tài Chi có chiều dài 24,4 km với diện tích lưu vực 82,4 km 2, lưu lượng
dòng chảy lớn nhất là 1.490m3/s, lưu lượng nhỏ nhất là 2,72 m3/s. [28, tr 65]
Về hệ thống hồ: Hải Hà có 3 hồ chứa nước ngọt: Hồ Chúc Bài Sơn nằm trên
địa bàn xã Quảng Sơn, có diện tích 110 ha, với dung tích thường xuyên đạt 15 triệu
m3 nước; Hồ Khe Dầu có diện tích 18 ha và Hồ Khe Đình, diện tích 5ha, đều thuộc
xã đảo Cái Chiên. Đây là các hồ chứa nước ngọt lớn trên đảo.
Sông và hồ của Hải Hà đã mang lại nguồn nước mặt với trữ lượng lớn, đảm
bảo cho nhu cầu sản xuất nông nghiệp của các xã trong huyện. Kết quả quan trắc
cho thấy chất lượng nước sông, hồ còn tốt, nằm trong tiêu chuẩn cho phép, ảnh
hưởng của các hoạt động kinh tế - xã hội tới chất lượng nước không lớn. Hải Hà
còn có một trữ lượng nước ngầm khá lớn, chất lượng nước tốt, đảm bảo cho nhu
cầu sinh hoạt của nhân dân. Nguồn nước ngầm được nhân dân sử dụng qua hệ
thống giếng khơi.
* Tài nguyên rừng và thảm thực vật
Hải Hà là huyện miền núi nên có diện tích rừng che phủ tương đối lớn
(chiếm khoảng 66% diện tích tự nhiên của huyện); chủ yếu thuộc loại rừng sản xuất
và phòng hộ. Rừng sản xuất có diện tích 18.711,20 ha, phân bố hầu hết ở khu vực
đồi núi phía Bắc quốc lộ 18A, thuộc các xã Quảng Sơn, Quảng Đức, Quảng Thịnh.

Rừng phòng hộ của huyện có 15.207,54 ha chủ yếu là rừng phòng hộ đầu nguồn
thuộc khu vực hồ Chúc Bài Sơn, đầu nguồn các sông lớn và rừng phòng hộ ven biển
thuộc các xã Tiến Tới, Quảng Điền, Quảng Phong.
Rừng ở Hải Hà rậm rạp, có nhiều loại gỗ quý như: lim, dổi, sến… cùng các
loại sản vật và cây dược liệu quý như nấm hương, mộc nhĩ, vỏ chay, vỏ gió, ràng
ràng, ba kích, hồi, quế… từ lâu đã trở thành các mặt hàng đặc sản, góp phần phục
vụ đời sống và xuất khẩu, có ý nghĩa quan trọng đối với việc phát triển kinh tế - xã
hội, bảo vệ môi trường sinh thái, giữ nguồn nước, tạo cảnh quan, giữ gìn các di tích

20


lịch sử văn hóa của các dân tộc.
Thảm thực vật ở đây rất phong phú và đa dạng với các loại thực vật mang
đặc trưng khu vực đồi núi và khu vực ngập mặn. Khu vực đồi núi chủ yếu là các
loại cây tre, nứa, cây lấy gỗ (keo, bạch đàn, cây đặc sản); ngoài ra là lùm, bụi cây
chịu hạn như sim, mua, cỏ tranh. Khu vực ngập mặn là nơi sinh trưởng chủ yếu của
thông, sú, vẹt, đước. Dưới ảnh hưởng của thuỷ triều, thành phần thực vật ở rừng
ngập mặn khá phong phú với cỏ thuỷ sinh (súng, sen, cỏ năn, rong rêu) mọc ở trên
bề mặt các vùng trũng, đầm lầy.
* Tài nguyên biển
Với bờ biển dài, mở rộng và hòa nhập vào biển Đông, Hải Hà là huyện giàu
tiềm năng để phát triển kinh tế biển. Vùng biển Hải Hà không chỉ rộng, diện tích bãi
triều lớn, gần ngư trường đánh cá, rất thuận lợi cho việc phát triển nghề đánh bắt,
nuôi trồng và chế biến thủy, hải sản mà còn có nhiều loại hải sản có chất lượng và
giá trị dinh dưỡng cao như: tôm, cua, cá, sò huyết, sá sùng, ngán, hải sâm…
Hàng năm, biển Hải Hà cho phép khai thác khoảng 9.000 tấn các loại hải
sản quý hiếm, có giá trị kinh tế cao như tôm he đuôi xanh ở ngư trường núi
Miều, mực nang ở ngư trường Thoi Xanh và một số loại cá quý như cá Song, cá
Vược, cá Tráp…

Khu vực biển ngoài đảo Cái Chiên có những ngư trường lớn tập trung nhiều
tàu thuyền đến khai thác cho sản lượng cao. Ngoài khai thác các loại hải sản ở ngư
trường truyền thống ven bờ, từ đây ngư dân có thể vươn ra các ngư trường khác như
Móng Cái, Đầm Hà, Cát Bà, Cát Hải, Cô Tô, Bạch Long Vĩ để mở mang phát triển
ngành thủy sản, đóng góp vào sự phát triển kinh tế địa phương.
* Tài nguyên du lịch
Tài nguyên du lịch của huyện được nghiên cứu và đánh giá thuộc loại
hình du lịch tự nhiên. Các điểm thu hút khách du lịch là đảo Cái Chiên, hồ Chúc
Bài Sơn, cửa khẩu Bắc Phong Sinh, rừng phòng hộ đầu nguồn,… Đây là những
điều kiện lý tưởng để Hải Hà phát triển đa dạng các loại hình du lịch sinh thái,
du lịch mua sắm, du lịch tắm biển. Ngoài các điểm du lịch trong huyện, Hải Hà

21


có thể mở rộng, liên kết với các địa phương khác trong tỉnh (thành phố Hạ Long,
thành phố Móng Cái,….) để kết nối các tour du lịch biển và đặc biệt hơn nữa là
liên kết với nước bạn Trung Quốc để hình thành các tour du lịch hấp dẫn qua cửa
khẩu Bắc Phong Sinh.
* Tài nguyên khoáng sản và vật liệu xây dựng
Hải Hà được thiên nhiên ưu đãi cho một số khoáng sản, đất đá quý hiếm:
Caolin - pyrophilit, Inmenit - Titan, vàng, đất sét…
Mỏ Caolin – pyrophilit (Cao lanh): Trong số 3 trường quặng lớn thuộc dòng
nguyên liệu chịu lửa Alumin của tỉnh Quảng Ninh thì 2 trường quặng lớn nhất phân
bố tại Hải Hà.
Thứ nhất là trường quặng Tấn Mài thuộc xã Quảng Đức có diện tích phân bố
quặng khoảng 5km2. Mỏ có 6 thân quặng gồm 3 loại tự nhiên: Alumin, Caolin –
pyrophilit và Quaczit cao nhôm, tiềm năng dự báo là 60.500.000 tấn. Trữ lượng đã
tìm kiếm thăm dò là 45.133.000 tấn Caolin - pyrophilit và 4.215.000 tấn Alumin.
Đây là tài nguyên quý và là mỏ có trữ lượng lớn nhất nước ta [28, tr 155; 71, tr 10].

Thứ hai là trường quặng Chúc Bài Sơn (Pình - Hồ) có 5 thân quặng chính
tiềm năng dự báo là gần 60 triệu tấn, cũng có 3 loại quặng như ở trường quặng Tấn
Mài [28; tr 156 ].
Hiện nay, quặng Caolin – pyrophilit Tấn Mài đang được sử dụng vào sản
xuất gạch chịu lửa Samot ở nhà máy gạch Tam Tầng (Bắc Giang), cầu Đuống,
khu gang thép Thái Nguyên, sản xuất men sứ ở nhà máy gạch Thanh Thanh
(thành phố Hồ Chí Minh), Tiền Hải (Thái Bình), sản xuất xi măng trắng. Ngoài
ra còn ứng dụng trong sản xuất thủy tinh siêu dãn, gốm kĩ thuật, phụ gia cho sản
xuất giấy, cao su…
Quặng Pyrit Von Cóng: Là nguyên liệu khoáng, dùng trong công nghiệp hóa
chất, vật liệu kĩ thuật và làm phân bón. Quặng này được phát hiện tại xã Quảng
Sơn, trữ lượng dự báo lên tới vài chục ngàn tấn [28, tr 167].
Inmenit - Titan: Là khoáng vật trọng sa phổ biến ở Quảng Ninh, phân bố
chủ yếu trong các bãi cát ven biển từ Đầm Hà đến Móng Cái. Các điểm quặng

22


này ở Hải Hà rất có triển vọng khai thác. Cụ thể là ở thôn Trung (thị trấn Quảng
Hà) trữ lượng dự báo là 12.250 tấn; thôn Hai trữ lượng tự nhiên là 7.000 tấn; tại
bãi cát ven thị trấn có một tầng cát vàng chứa 6 thân quặng Inmenit, dự báo trữ
lượng 170.446 tấn. Quặng Inmenit hầu hết nằm lộ thiên nên khai thác dễ dàng,
hợp kim của quặng này được sử dụng trong nhiều lĩnh vực công nghiệp nên có
giá trị kinh tế cao [28, tr 150, 151].
Vàng Pình - Hồ: Khoáng hóa sunfua vàng có chiều rộng từ vài chục mét đến 300
mét. Theo kết quả luyện, nung, quang phổ hấp thụ nguyên tử, hàm lượng trung bình 0,4 –
0,9g/tấn, tần xuất bắt gặp vàng là 100%. Trữ lượng dự báo là 44 tấn [28; tr 153].
Đất sét, đất đỏ có mặt ở khắp nơi (khoảng 43 ha đất sét, phân bố ở các xã
Quảng Minh, Quảng Chính, Quảng Trung, Đường Hoa, Quảng Long, Quảng Thành,
Quảng Phong), trữ lượng lớn, độ dẻo cao, thích hợp sản xuất vật liệu xây dựng,

sành sứ và đồ gốm cao cấp. Đất sét là nguồn nguyên liệu để sản xuất gạch, ngói
phục vụ nhu cầu xây dựng của nhân dân trên địa bàn huyện.
Đá ốp lát, chủ yếu là đá Granit phân bố ở núi Quảng Nam châu, trữ lượng
ước khoảng 1,5 triệu m3, có màu hồng xanh khá đẹp, xếp vào loại có giá trị kinh tế
cao; Ngoài ra, Hải Hà còn có một lượng than non, Feranhit, đá non, cát trắng…
đáng kể cùng các loại đá cuội, sỏi, cát, đá hộc… vẫn đang được khai thác ở các lòng
sông, suối của huyện và ven đảo Cái Chiên [74; tr 10].
Nằm trong vùng địa chất có lịch sử kiến tạo phong phú nên huyện Hải Hà có
địa hình đa dạng, địa mạo độc đáo và nguồn tài nguyên khoáng sản quý giá. Các
nguồn tài nguyên kể trên; đặc biệt là tài nguyên biển, tài nguyên rừng và tài nguyên
khoáng sản là những lợi thế mở ra triển vọng cho ngành lâm nghiệp, ngư nghiệp,
thương mại, công nghiệp địa phương… và thu nguồn lợi lớn về kinh tế. Bên cạnh
đó, còn những tài nguyên như cảng biển, núi đá vôi, các vùng sinh cảnh giàu động
thực vật, các sông hồ nước ngọt… sẽ được khai thác giá trị trong quá trình xây dựng
và phát triển kinh tế.
1.2. Điều kiện kinh tế - xã hội
1.2.1. Điều kiện kinh tế
Cư dân sớm nhất ở Hải Hà là những người Kinh sống bằng nghề chài lưới

23


ven biển, sau đó là người ở các tỉnh đồng bằng ra mở đất canh tác lập nên các làng ở
vùng thấp. Ở vùng núi và trung du sớm nhất là người Tày, tiếp đến là các dân tộc
thiểu số từ vùng Thập Đại Vạn Sơn bên kia biên giới, sau cùng là người Hoa.
Người dân Hải Hà có truyền thống cần cù, chất phác, các xã ven biển như
Phú Hải, Tiến Tới rất giỏi nghề biển, các xã vùng cao trồng quế lâu đời, xã Đường
Hoa giỏi trồng chè, các xã khác là cư dân đồng bằng ra khai phá, xây dựng vùng
kinh tế mới đã quen với đồng đất; người dân ở thị trấn Hải Hà giỏi buôn bán, dịch
vụ… đang là nguồn nhân lực quan trọng cho sự phát triển kinh tế Hải Hà.

Như vậy, nguồn sống của cư dân trong huyện từ lâu đời là ngư nghiệp, nông
nghiệp, lâm nghiệp và thương nghiệp nhỏ. Nằm trong đặc điểm chung của tỉnh và
cả nước, Hải Hà có thế mạnh và tiềm năng chủ yếu về lao động đất đai, đánh bắt
thủy hải sản, khai thác khoáng sản, khai thác đá, làm gạch ngói, buôn bán… để
nâng cao đời sống của mình.
Tới nay, Hải Hà đang phát triển kinh tế đa ngành: nông - lâm - ngư nghiệp
(trồng lúa, cây hoa màu, cây ăn quả, cây công nghiệp, chăn nuôi, đánh bắt và nuôi
trồng thủy, hải sản); công nghiệp - tiểu thủ công nghiệp (khai thác Caolin, đá, gỗ,
vật liệu xây dựng, công nghiệp chế biến…); thương mại (buôn bán trong huyện,
tỉnh, cả nước và với Trung Quốc); du lịch sinh thái, du lịch thương mại và các loại
hình dịch vụ… Đây là những ngành kinh tế có ưu thế mang tính chất mũi nhọn, có
tác dụng thúc đẩy sự phát triển kinh tế - xã hội của huyện, có ý nghĩa đối với nền
kinh tế của tỉnh trong việc thực hiện mục tiêu CNH, HĐH.
Được Thủ tướng Chính phủ phê duyệt, dự án Khu công nghiệp cảng biển Hải
Hà sau khi hoàn thành sẽ kết hợp với Khu kinh tế Vân Đồn và Khu kinh tế cửa khẩu
Móng Cái, trở thành cụm kinh tế trọng điểm thúc đẩy sự phát triển kinh tế khu vực
Đông Bắc tỉnh Quảng Ninh và vùng duyên hải Bắc Bộ, tạo mối liên kết phát triển
với các trung tâm kinh tế của tỉnh Quảng Ninh và Nam Trung Quốc. Vì thế, Hải Hà
đang có sự dịch chuyển mạnh về cơ cấu ngành kinh tế theo hướng tăng tỉ trọng công
nghiệp, thương mại và dịch vụ để chứng tỏ vị trí chiến lược quan trọng và khả năng
trở thành một vùng kinh tế mũi nhọn, trọng điểm không chỉ của tỉnh Quảng Ninh

24


mà còn đối với cả nước.
Hải Hà còn có lợi thế về lao động, quỹ đất và cảnh quan thiên nhiên, tài nguyên
lịch sử nhân văn, tiềm năng lớn trong phát triển du lịch dịch vụ, tiềm năng phát triển
trang trại, vườn đồi, sản xuất nguyên liệu cho công nghiệp chế biến, phát triển kinh tế
biển; khai thác và nuôi trồng thuỷ sản với vùng biển rộng và bãi triều lớn.

Tuy nhiên, do nền kinh tế của huyện chưa có tích luỹ, đời sống đại bộ phận
dân cư, nhất là dân cư nông thôn và đồng bào dân tộc còn gặp rất nhiều khó khăn,
chủ yếu dựa vào ngân sách của tỉnh và Trung ương, khu vực dịch vụ phần lớn là
doanh nghiệp vừa và nhỏ, phát triển chậm, chất lượng chưa cao; sức cạnh tranh của
nền kinh tế cũng như điểm xuất phát kinh tế của huyện còn thấp so với nhiều địa
phương trong tỉnh, tốc độ phát triển kinh tế nhanh nhưng chưa đủ để tạo ra sự bứt
phá.
Ngành nông, lâm, ngư nghiệp mới chiếm tỷ trọng 32,0% trong cơ cấu tổng
giá trị sản xuất (GTSX) và 40,3% trong tổng cơ cấu về giá trị tăng thêm (GTTT)
của toàn bộ nền kinh tế trong khi được đánh giá là ngành có tiềm năng lớn. Quỹ đất
nông nghiệp tuy còn khá nhưng đất xấu, bạc màu, địa hình không bằng phẳng
thường ngập úng, lũ lụt vào mùa mưa, gây sạt lở ảnh hưởng đến sản xuất [38; 39]
Những năm gần đây tuy công nghiệp, dịch vụ của Hải Hà có chuyển biến
tích cực nhưng vẫn chưa đủ mạnh để thu hút lực lượng lao động dư thừa ở nông
thôn; Nguồn nhân lực chất lượng cao còn thiếu nhiều nhưng chưa có cơ chế thu hút.
Quá trình hội nhập đang diễn ra nhanh và toàn diện, tạo ra sự cạnh tranh
ngày càng gay gắt, quyết liệt trong khi nội lực của huyện chưa mạnh, sức cạnh tranh
còn thấp, hạ tầng kỹ thuật còn thiếu và yếu, nhất là giao thông và điện, đây là những
hạn chế lớn nhất cho thời kỳ đầu phát triển các khu, cụm công nghiệp trên địa bàn.
1.2.2. Điều kiện xã hội
Dân cư
Không chỉ huyện miền núi, biên giới, hải đảo rộng lớn đông dân của tỉnh
Quảng Ninh, Hải Hà còn là huyện có nhiều dân tộc anh em đến tụ cư từ lâu đời.

25


×