Tải bản đầy đủ (.doc) (83 trang)

Nghiên cứu đề xuất quy trình quản lý chất lượng môi trường nước một lưu vực sông

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (984.71 KB, 83 trang )

Nghiên cứu đề xuất quy trình quản lý chất lượng môi trường nước một lưu vực sông

MỞ ĐẦU
Quá trình công nghiệp hoá và hiện đại hoá mạnh mẽ xuất phát từ sự phát triển
kinh tế xã hội nhanh của Việt Nam đang gây ra những quan ngại về ô nhiễm môi
trường tại các thành phố lớn như Hà Nội, Hồ Chí Minh, các trung tâm đô thị chính
khác và các vùng phụ cận. Đối với môi trường nước, nhất là môi trường lưu vực
sông, ô nhiễm được gây ra do nước thải sinh hoạt chưa qua xử lý được thải ra từ các
hộ gia đình, văn phòng,... và nước thải chưa qua xử lý được thải ra từ nhiều hoạt
động trong sản xuất công nghiệp, khai khoáng, làng nghề… Chính Phủ Việt Nam và
các cơ quan nhà nước về quản lý môi trường đã và đang có những nỗ lực đáng kể để
giải quyết vấn đề này, tuy nhiên các biện pháp hiện nay vẫn chưa đủ tương ứng với
sức ép ngày càng lớn từ tải lượng ô nhiễm.
Để khắc phục được tình trạng đó, Việt Nam đã đẩy mạnh quá trình quản lý
môi trường nước với việc sử dụng phương pháp tiếp cận theo lưu vực sông. Chính
Phủ ban hành một số các văn bản pháp lý và các chương trình, đề án, hoạch định
hướng dẫn nhằm thúc đẩy việc hiện thực công tác quản lý lưu vực sông. Đồng thời,
để bảo vệ nguồn tài nguyên nước, kiểm soát ô nhiễm tài nguyên nước và dự báo
được diễn biến môi trường LVS cần đánh giá chất lượng nước và xu hướng phát
triển chất lượng nước, kiểm soát và có đủ chế tài xử lý các nguồn gây ô nhiễm. Ở
đây quy trình quản lý chất lượng nước lưu vực sông có một ý nghĩa rất quan trọng.
Một quy trình quản lý chất lượng nước sông có sử dụng phần mềm mô hình
hóa hỗ trợ là một công cụ được sử dụng hiệu quả trên thế giới phục vụ công tác
quản lý chất lượng nước lưu vực sông. Tại Việt Nam đã bắt đầu nghiên cứu và sử
dụng công cụ phần mềm mô hình hóa môi trường trong khoảng 10 năm gần đây, tuy
nhiên, chưa có một quy trình quản lý chất lượng nước lưu vực sông hoàn chỉnh. Vì
vậy, quy trình quản lý chất lượng nước một lưu vực sông có sử dụng công cụ phần
mềm mô hình hóa được chọn làm đối tượng nghiên cứu của đề tài.
Trong luận văn, dựa trên những kinh nghiệm của thế giới và hiệu chỉnh quá
trình đảm bảo phù hợp điều kiện thực tiễn và hiện trạng quản lý lưu vực sông của
Việt Nam, tác giả nghiên cứu và đề xuất một quy trình quản lý chất lượng nước lưu



Nguyễn Thị Thu Huyền

1

Cao học Quản lý Môi trường 2009 - 2011


Nghiên cứu đề xuất quy trình quản lý chất lượng môi trường nước một lưu vực sông

vực sông gồm 10 bước cụ thể. Quy trình đưa ra hướng dẫn chi tiết theo từng bước
và lộ trình cụ thể để thu được những đánh giá thực trạng chất lượng nước sông và
dự đoán mô phỏng chất lượng nước trong tương lai. Luận văn sử dụng chương trình
mô phỏng chất lượng nước QUAL2K là công cụ kỹ thuật hỗ trợ quy trình. Phần
mềm QUAL2K được phát triển bởi Cục Bảo vệ môi trường Mỹ (EPA) là một trong
những mô hình tiên phong được sử dụng rộng rãi trên thế giới phục vụ nghiên cứu
ảnh hưởng của các chất ô nhiễm thông thường đến chất lượng nước sông. Mặc dù,
phần mềm QUAL2K không phải là một kỹ thuật mới nhưng dễ sử dụng với tính
hiệu quả cao và không yêu cầu nhiều dữ liệu như các phần mềm khác, phù hợp là
công cụ nghiên cứu bước đầu cho Quy trình đề xuất.
Đối tượng áp dụng thử nghiệm quy trình đề xuất là lưu vực sông Nhuệ - Đáy,
một lưu vực sông lớn, quan trọng của vùng đồng bằng Bắc Bộ. Chất lượng môi
trường nước của các con sông thuộc lưu vực đã và đang bị suy giảm nhanh chóng
do ảnh hưởng từ các hoạt động phát triển kinh tế, do các khu công nghiệp, khu đô
thị, làng nghề, các cơ sở sản xuất mọc lên rất nhanh nhưng thiếu sự quản lý chặt chẽ
đối với các vấn đề môi trường. Trong khi đó hàng triệu người sống trong lưu vực
sông Nhuệ - Đáy sử dụng nguồn nước này trong các nhu cầu khác nhau của cuộc
sống. Vì vậy, việc có một quy trình quản lý thống nhất, hiệu quả và bền vững chất
lượng nước lưu vực trở thành yêu cầu vô cùng cấp thiết.
Đối tượng nghiên cứu của luận văn là một vấn đề cấp thiết, có ý nghĩa khoa

học và thực tiễn to lớn. Chính bởi lý do đó, tác giả đã tiến hành luận văn “Nghiên
cứu đề xuất quy trình quản lý chất lượng môi trường nước một lưu vực sông”.
Luận văn bao gồm những nội dung cơ bản như sau:
Chương I: Tổng quan quy trình quản lý chất lượng nước lưu vực sông.
Chương II: Cơ sở lý thuyết đề xuất quy trình quản lý chất lượng nước lưu vực
sông.
Chương III: Đánh giá tính khả thi quy trình quản lý chất lượng môi trường
nước áp dụng với lưu vực sông Nhuệ - Đáy.

Nguyễn Thị Thu Huyền

2

Cao học Quản lý Môi trường 2009 - 2011


Nghiên cứu đề xuất quy trình quản lý chất lượng môi trường nước một lưu vực sông

CHƯƠNG I:
TỔNG QUAN QUY TRÌNH QUẢN LÝ
CHẤT LƯỢNG NƯỚC LƯU VỰC SÔNG
1.1. Một số khái niệm cơ bản về lưu vực sông
1.1.1. Chất lượng nước lưu vực sông
 Khái niệm lưu vực sông:
Theo EPA, lưu vực sông (river basin) có thể được hiểu là một vùng địa lý mà
trong phạm vi đó nước mặt, nước dưới đất chảy tự nhiên vào sông. Khi nói tới lưu
vực sông (LVS) là xét đến toàn bộ vùng đất với tài nguyên nước (nước mặt, nước
dưới đất), đất đai, rừng, hệ động vật…[24].
Theo Bộ Tài nguyên và môi trường tiểu bang Bắc Carolina - Mỹ, LVS là vùng
đất mà các dòng nước chảy qua hoặc chảy ngầm dưới đất cùng đổ vào một con

sông. Giống như một cái bồn thu toàn bộ lượng nước rơi vào phía trong nó, LVS
chuyển toàn bộ lượng nước rơi vào trong nó đến sông chính và chảy đến cửa sông
hoặc cửa biển. LVS có thể chia thành các tiểu lưu vực (watershed) đó là vùng đất
xung quanh sông nhỏ, dòng suối hoặc hồ.
Do đó, có thể hiểu đơn giản, LVS là phần diện tích khu vực tập trung toàn bộ
nước đổ vào con sông hay vận chuyển nước chảy trên vùng đất phụ cận đến sông
chính và chảy đến cửa sông hoặc cửa biển.

Hình 1.1: Sơ đồ lưu vực sông [16]

Nguyễn Thị Thu Huyền

3

Cao học Quản lý Môi trường 2009 - 2011


Nghiên cứu đề xuất quy trình quản lý chất lượng môi trường nước một lưu vực sông

 Chất lượng nước lưu vực sông:
Chất lượng nước là tính chất lý hoá và thành phần sinh học của nước. Ngoài
lượng nước, chất lượng nước rất quan trọng quyết định việc khai thác sử dụng
nguồn nước. Chất lượng nước xét đến toàn bộ các tính chất vật lý (như độ dẫn, độ
đục, nhiệt độ...), thành phần hoá học (pH, DO, BOD, COD, N, P...) và thành phần
vi sinh (coliform, Ecoli, pathogen...) có trong nước. Hàm lượng các chất này quyết
định việc nguồn nước đó có thể sử dụng cho các mục đích khác nhau. Để xác định
các yếu tố chất lượng nước, đòi hỏi sự đo đạc, phân tích mẫu nước trong các phòng
thí nghiệm chuyên dụng.
Chất lượng nước tác động mạnh mẽ đến sự sống của con người cũng như môi
trường. Nói chung, trong tự nhiên nước sông khá sạch, nhưng do các chất thải độc

hại không được xử lý đổ vào môi trường nước, khi vượt quá giới hạn nào đó, nguồn
nước có thể trở thành nguồn độc và là nguồn bệnh.
1.1.2. Ô nhiễm nước sông
 Định nghĩa ô nhiễm nước
Sự ô nhiễm môi trường nước là sự thay đổi “chất lượng” so với nước tự nhiên.
Nguồn gốc ô nhiễm có thể do các hoạt động của con người, do các quá trình tự
nhiên, do thiên tai, do mất cân bằng hệ sinh thái... Có thể phân loại sự ô nhiễm nước
như sau: ô nhiễm tại nguồn, ô nhiễm tại nơi tiếp nhận, ô nhiễm do thiếu ô xy, do các
chất dinh dưỡng (N, P, …), do các chất độc...[16].
Ô nhiễm môi trường nước: Có ảnh hưởng quan trọng đến các vấn đề môi
trường, hệ sinh thái, sức khỏe... nên cần kiểm soát được để có thể quản lý chất
lượng nước nghĩa là cần đánh giá được trước khi có thể kiểm soát và quản lý.
 Khái niệm ngưỡng chịu tải ô nhiễm của nguồn nước
Khái niệm ngưỡng chịu tải (carrying capacity) liên quan tới khả năng chống
chịu và phục hồi, tức là là một con số giới hạn mà khi vượt quá sẽ làm mất cân bằng
hệ sinh thái [Nguồn: The concepts and analysis of carrying capacity-a management
tool for effective planning, Lim L.C (1995)]. Kỹ thuật tìm ngưỡng chịu tải ô nhiễm
của nguồn nước đòi hỏi nhiều công cụ: mô hình hóa, các nghiên cứu về độc tính,…

Nguyễn Thị Thu Huyền

4

Cao học Quản lý Môi trường 2009 - 2011


Nghiên cứu đề xuất quy trình quản lý chất lượng môi trường nước một lưu vực sông

1.1.3. Quy trình quản lý chất lượng nước lưu vực sông
Quản lý chất lượng nước LVS là hoạt động thuộc chương trình quản lý LVS,

là một quá trình thúc đẩy sự hợp tác giữa khai thác và quản lý nước, đất và các tài
nguyên khác trong lưu vực, với mục đích đạt được lợi ích kinh tế và xã hội cao nhất
một cách hợp lý mà không làm tổn hại đến sự bền vững của hệ sinh thái [12].
1.2. Tổng quan chất lượng nước các lưu vực sông ở Việt Nam
1.2.1. Đặc điểm lưu vực sông ở Việt Nam
Việt Nam có một mạng lưới sông ngòi dày đặc với 2.370 con sông có chiều
dài lớn hơn 10 km. Trong số đó, 10 con sông chảy qua biên giới nhiều nước. Việt
Nam có 16 LVS chính, trong các lưu vực đó có 9 lưu vực chiếm diện tích trên 90%
tổng diện tích LVS của cả nước. Chín (9) lưu vực đó bao gồm: lưu vực sông Hồng,
sông Thái Bình, sông Bằng Giang - Kỳ Cùng, sông Mã, sông Cả, sông Thu Bồn,
sông Ba, sông Đồng Nai và sông Cửu Long (Mekong). Bản đồ các LVS lớn ở Việt
Nam thể hiện qua hình 1.2 [22,7].

Nguyễn Thị Thu Huyền

5

Cao học Quản lý Môi trường 2009 - 2011


Nghiên cứu đề xuất quy trình quản lý chất lượng môi trường nước một lưu vực sông

Hình 1.2. Bản đồ các lưu vực sông lớn của Việt Nam [2]

Nguyễn Thị Thu Huyền

6

Cao học Quản lý Môi trường 2009 - 2011



Nghiên cứu đề xuất quy trình quản lý chất lượng môi trường nước một lưu vực sông

Mỗi LVS có đặc điểm riêng về tài nguyên thiên nhiên cũng như tài nguyên
nước. Các LVS mang lại các giá trị rất to lớn [8]: Cung cấp các nguồn tài nguyên
quý giá cho sản xuất và sinh hoạt; Bảo vệ sự sống của con người và các hệ sinh
thái; Là môi trường tiếp nhận, chuyển tải và làm sạch các chất thải; Là nơi tập trung
nhiều loại hàng hoá tự nhiên có giá trị về mặt kinh tế; các giá trị của tài nguyên
nước như cung cấp nước cho sinh hoạt và công nghiệp, phục vụ giao thông vận tải
thuỷ, khai thác cát lòng sông, cung ứng dịch vụ phi thị trường như tiếp nhận và tự
làm sạch chất thải, tạo cảnh quan môi trường và các giá trị bảo tồn như tham gia
vào chu trình nước trong tự nhiên, bảo tồn đa dạng sinh học….
Đặc điểm các hệ thống sông chính có ở Việt Nam như sau (bảng 1.1).
Bảng 1.1: Các thông số chính của một số lưu vực sông lớn chảy
qua địa phận Việt Nam

(Nguồn: Dữ liệu về tài nguyên nước quốc gia, Cục Quản lý Tài nguyên nước)

Hiện tại, tài nguyên nước sẵn có tính theo đầu người trung bình khoảng 10.000
m3/người/năm. Trên phạm vi toàn quốc, Việt Nam được coi là có nguồn tài nguyên
nước dồi dào nhưng phụ thuộc nhiều vào lượng nước bên ngoài lãnh thổ, và theo số
liệu thống kê, đa số lượng nước là của sông Mekong. Tổng lưu lượng nước hàng
năm của sông Mekong chiếm 60% tổng lượng nước trên toàn quốc. Sông Hồng

Nguyễn Thị Thu Huyền

7

Cao học Quản lý Môi trường 2009 - 2011



Nghiên cứu đề xuất quy trình quản lý chất lượng môi trường nước một lưu vực sông

chiếm 15% và sông Đồng Nai chiếm 4% tổng lượng nước [27]. Nếu không tính đến
lượng nước của sông Mekong, thì phần còn lại của lãnh thổ Việt Nam sẽ ở tình
trạng thiếu hụt nước. Nếu loại trừ tất các các nguồn nước từ ngoài lãnh thổ, thì
trong tương lai Việt Nam có lượng nước dưới mức thiếu hụt. Mặt khác, với sự gia
tăng mạnh mẽ của dân số và việc sử dụng nguồn nước không hợp lý, “mức căng
thẳng” nguồn tài nguyên nước đang trở thành vấn đề quan trọng [2,27]. Hình 1.3
cho thấy mức độ khai thác nước tại các LVS Việt Nam vào mùa khô rất đáng báo
động.
Hình 1.3: Mức độ khai thác nước vào mùa khô tại 16 lưu vực sông Việt

(Nguồn: Báo cáo đánh giá ngành nước)

Như vậy, hiện nay, một số khu vực trên lãnh thổ Việt Nam đang phải đối mặt
với sự thiếu nước và sự cạnh tranh để được sử dụng nguồn nước. Theo xu hướng
phát triển và nhu cầu sử dụng trong tương lại, sự thiếu hụt càng trầm trọng hơn.
Điều đó cho thấy việc quản lý bền vững nguồn TNN và đảm bảo chất lượng nước là
rất cần thiết đối với Việt Nam.
1.2.2. Hiện trạng chất lượng nước lưu vực sông Việt Nam
Việt Nam là quốc gia có tiềm năng nguồn nước mặt khá phong phú nhưng
những năm gần đây hoạt động phát triển kinh tế xã hội nhanh đã tác động rất lớn
đến TNN dẫn đến nguy cơ suy thoái về chất lượng. Theo kết quả điều tra của Cục

Nguyễn Thị Thu Huyền

8

Cao học Quản lý Môi trường 2009 - 2011



Nghiên cứu đề xuất quy trình quản lý chất lượng môi trường nước một lưu vực sông

Quản lý TNN thì có năm (5) LVS hiện nay đang bị ô nhiễm nghiêm trọng là lưu
vực đồng bằng sông Cửu Long, sông Hồng - Thái Bình, sông Đồng Nai, Sông Vũ
Gia - Thu Bồn, LVS Cả trong đó có nhiều điểm nóng là sông Đồng Nai - Thị Vải,
sông Trà Khúc, sông Cầu, LVS Nhuệ - Đáy đang bị suy thoái nghiêm trọng.
Nguyên nhân ô nhiễm nước chủ yếu là do việc xả thải các loại nước thải vào lưu
vực và khai thác sử dụng nguồn nước không hợp lý. Một số dạng nước thải như sau:
Nước thải công nghiệp của các ngành nghề khác nhau có lưu lượng và tải
lượng khác nhau nhưng nói chung chứa nhiều chất độc hại như: dầu mỡ, chất rắn lơ
lửng, chất hữu cơ, hoá chất vô cơ, kim loại nặng… nếu không được xử lý và thải
trực tiếp xuống sông làm ô nhiễm nước càng trở nên trầm trọng. Theo báo cáo hiện
trạng môi trường Quốc gia năm 2006, trên LVS Cầu có hơn 2.000 doanh nghiệp sản
xuất công nghiệp, LVS Nhuệ-Đáy có tới 4.113 doanh nghiệp công nghiệp, LVS
Đồng Nai có tới 9.147 doanh nghiệp sản xuất công nghiệp... nên đây là nguồn gây
áp lực rất lớn tới sự suy giảm chất lượng nước của các LVS [2]. Hình 1.4 là ví dụ
cho thấy sự ô nhiễm nghiêm trọng hàm lượng N-NH 4 tại LVS Nhuệ -Đáy, đặc biệt
tại sông Nhuệ nồng độ vượt gấp nhiều lần so tiêu chuẩn cho phép.

(a)

(b)

(Nguồn: Trung tâm quan trắc môi trường – Tổng cục Môi trường, 2010)
Hình 1.4: Số liệu quan trắc nồng độ N-NH4 trên LVS Nhuệ - Đáy từ năm
2006 đến năm 2010 so với QCVN 08:2008
(a) sông Nhuệ (b) sông Đáy


Nguyễn Thị Thu Huyền

9

Cao học Quản lý Môi trường 2009 - 2011


Nghiên cứu đề xuất quy trình quản lý chất lượng môi trường nước một lưu vực sông

Nước thải sinh hoạt của cư dân sống trong lưu vực cũng là một nguồn gây ô
nhiễm lớn. Dân số của các tỉnh thuộc các LVS ngày càng tăng trong khi hạ tầng kỹ
thuật đô thị không phát triển tương ứng càng làm gia tăng vấn đề ô nhiễm do nước
thải sinh hoạt. Đặc trưng của nước thải sinh hoạt là chứa nhiều các chất hữu cơ,
chứa nhiều vi sinh vật gây bệnh và mầm bệnh do đó nếu không được xử lý trước khi
thải thì nguy cơ gây ô nhiễm cho sông là tất yếu. Có thể nói hầu hết lượng nước thải
sinh hoạt không được xử lý mà đổ trực tiếp vào các sông. Hình 1.5 là ví dụ cho thấy
sự gia tăng ô nhiễm BOD5 trên một số con sông do dòng nước thải đổ vào dòng
sông từ các khu đô thị và công nghiệp.

(a)

(b)

(c)

(d)

(Nguồn: Trung tâm quan trắc môi trường – Tổng cục Môi trường, 2007)
Hình1.5: Nồng độ BOD5 trung bình trong 5 năm gần đây (2005-2009) so
với quy chuẩn quốc gia Việt Nam về chất lượng nước mặt, tại

(a) LVS Cầu
(b) sông Nhuệ (c) sông Đáy (d) sông Đồng Nai
Nước thải làng nghề: lưu lượng lớn, mức độ ô nhiễm cao, thành phần các chất
ô nhiễm phức tạp là một nguồn gây ô nhiễm đáng lưu ý. Số lượng các làng nghề

Nguyễn Thị Thu Huyền

10

Cao học Quản lý Môi trường 2009 - 2011


Nghiên cứu đề xuất quy trình quản lý chất lượng môi trường nước một lưu vực sông

trên các LVS Việt Nam khá lớn: LVS Cầu có khoảng 200 làng, LVS Nhuệ- Đáy có
458 làng nghề [2]. Các làng nghề này thường là các cơ sở tiểu thủ công nghiệp sử
dụng hệ thống thiết bị lạc hậu, công nghệ đơn giản, quy mô nhỏ mang tính gia đình,
khả năng đầu tư hệ thống xử lý nước thải hạn chế nên nước thải thường không xử lý
hoặc xử lý không đạt tiêu chuẩn và thải trực tiếp vào nguồn tiếp nhận.
Nước thải y tế là một trong những nguồn đặc biệt nguy hiểm do đặc tính loại
nước thải này thường chứa nhiều hoá chất độc hại, các chất hữu cơ, các vi sinh vật
gây bệnh và nhiều mầm bệnh khác... Do đó đây là nguồn tiềm ẩn nguy cơ lan truyền
dịch bệnh qua môi trường nước.
Các hoạt động nông nghiệp cũng có tác động đến ô nhiễm nguồn nước do sử
dụng quá mức phân bón hoá học và thuốc trừ sâu. Ngoài ra, các hoạt động chăn
nuôi gia súc, gia cầm trên các tỉnh thành ngày càng tăng nhưng có rất ít cơ sở chăn
nuôi thực hiện các biện pháp xử lý chất thải kể cả các trang trại chăn nuôi quy mô
lớn, hầu hết nước thải đều đổ trực tiếp vào nguồn tiếp nhận.
Nguồn nước ngầm ven biển cũng bị ô nhiễm nhiễm mặn do nước biển ngấm
vào khi khai thác quá mức nước ngầm hoặc chất gây ô nhiễm qua các lỗ khoan

ngấm vào các tầng nước ngầm. Hoạt động giao thông thủy với những sự cố rò rỉ
dầu trên sông, biển, làm ô nhiễm nặng nguồn nước và phá huỷ môi trường sống nơi
vết dầu loang tràn qua.
Như vậy, ô nhiễm nguồn nước không chỉ gây ảnh hưởng đến cảnh quan môi
trường tại các LVS, gây ảnh hưởng tiêu cực đối với phát triển kinh tế (đặc biệt vấn
đề cung cấp nước) mà còn là nguy cơ gây bệnh tiềm ẩn đối với con người nên dẫn
đến những mâu thuẫn trong sử dụng nước làm tăng nguy cơ thiếu hụt nước cấp [5].
Có thể nhận thấy, cùng với sự gia tăng dân số, phát triển KT - XH, việc khai
thác quá mức, sử dụng và bảo vệ nguồn nước không hợp lý đã dẫn đến suy giảm về
chất lượng và số lượng nguồn nước tại các LVS Việt Nam. Để khôi phục, bảo vệ và
sử dụng bền vững nguồn tài nguyên này, cần có những chính sách và biện pháp
quản lý hiệu quả. Trong khi, hiện nay, trên thế giới phương pháp quản lý thống nhất
theo LVS với công cụ kỹ thuật (mô hình hóa..) là hướng quản lý đạt hiệu quả nhất.

Nguyễn Thị Thu Huyền

11

Cao học Quản lý Môi trường 2009 - 2011


Nghiên cứu đề xuất quy trình quản lý chất lượng môi trường nước một lưu vực sông

Thực trạng quản lý theo LVS tại nước ta như sau
1.3. Thực trạng công tác quản lý lưu vực sông và quy trình quản lý chất lượng
nước lưu vực sông tại Việt Nam
Việc quản lý thống nhất và tổng hợp nguồn nước của một LVS là vấn đề còn
nhiều vướng mắc đối với Việt Nam, hạn chế về mặt nhận thức và tất yếu sẽ gặp
không ít lúng túng khi triển khai. Quản lý môi trường nước có thể được xem xét
trên hai khía cạnh: (1) các biện pháp bảo vệ nước tại các nguồn ô nhiễm do các cơ

sở phát sinh thải lượng ô nhiễm thực hiện và, (2) quản lý và phản ứng của nhà nước
về hướng dẫn và giám sát các biện pháp bảo vệ nước. Cụ thể hơn, tại Việt Nam hiện
nay, tình hình quản lý các LVS như sau [2, 26].
1.3.1. Chính sách và hệ thống văn bản quy phạm pháp luật về công tác quản lý
lưu vực sông
Bảo vệ môi trường nước các LVS là một trong những nội dung cơ bản của quy
hoạch khai thác, sử dụng và quản lý TNN trong LVS. Một số văn bản quy phạm
pháp luật có liên quan sử dụng và quản lý TNN nói chung và LVS nói riêng như
sau:
- Luật bảo vệ môi trường - năm 2005; Luật tài nguyên nước - năm 1998; Luật
đất đai - năm 2003;
- Quyết định số 67/2000/QĐ-TTg ngày 15 tháng 6 năm 2000 - thành lập Hội
đồng quốc gia về TNN; Quyết định số 99/2001/QĐ-TTg ngày 28 tháng 6 năm
2001về việc ban hành Quy chế tổ chức hoạt động của Hội đồng quốc gia về TNN;
- Nghị định số 149/2004/NĐ-CP ngày 27 tháng 7 năm 2004 của Chính phủ
quy định việc cấp phép thăm dò, khai thác, sử dụng tài nguyên nước, xả nước thải
vào nguồn nước; Thông tư số 02/2005/TT-BTNMT ngày 24 tháng 6 năm 2005 về
hướng dẫn Nghị định số 149/2004/NĐ-CP;
- Nghị định số 34/2005/NĐ-CP ngày 17 tháng 3 năm 2005 của Chính phủ quy
định về việc xử phạt hành chính trong lĩnh vực TNN;
- Quyết định số 59/2006/QĐ-BTC ngày 25 tháng 10 năm 2006 của Bộ trưởng
Bộ Tài chính về việc quy định mức thu, chế độ thu, nộp, quản lý và sử dụng phí

Nguyễn Thị Thu Huyền

12

Cao học Quản lý Môi trường 2009 - 2011



Nghiên cứu đề xuất quy trình quản lý chất lượng môi trường nước một lưu vực sông

thẩm định, lệ phí cấp phép thăm dò, khai thác, sử dụng tài nguyên nước, xả nước
thải vào nguồn nước và hành nghề khoan nước dưới đất;
- Nghị định số 112/2008/NĐ-CP ngày 20 tháng 10 năm 2008 của Chính phủ
quy định về việc quản lý, bảo vệ, khai thác tổng hợp tài nguyên nước và môi trường
các hồ chứa, thủy điện, thủy lợi;
- Nghị định số 120/20008/NĐ-CP ngày 01 tháng 12 năm 20008 của Chính phủ
quy định về Quản lý LVS như một giải pháp chiến lược nhằm quản lý tổng hợp và
toàn diện tài nguyên nước vùng LVS với các nhận thức mới, phù hợp với yêu cầu
thực tiễn phát triển KT - XH của đất nước và khu vực. Nghị định số 120 có thể phát
triển định hướng quản lý LVS, nó cho phép quản lý ảnh hưởng giữa các vùng và
giữa các vùng với môi trường và cung cấp cơ hội để tối thích việc sử dụng cơ sở hạ
tầng chung để đạt được nhu cầu khác nhau. Nghị định rất toàn diện và bao gồm: các
nguyên lý và nội dung của quản lý LVS; danh sách các LVS, sự đầu tư chính sách
cho phát triển bền vững LVS; điều tra cơ bản về môi trường LVS và các nguồn
nước; chương trình LVS; kiểm soát các nguồn ô nhiễm và sự bảo vệ chất lượng
nước LVS...
- Thông tư số 14/2009/TT-BTC ngày 22 tháng 01 năm 2009 của Bộ Tài chính
để thực hiện nhiệm vụ, dự án thuộc Đề án bảo vệ môi trường LVS;
- Hệ thống tiêu chuẩn, quy chuẩn Việt Nam như QCVN 08:2008/BTNMTQCKT Quốc gia về chất lượng nước mặt, QCVN 14:2008/BTNMT- QCKT quốc
gia về nước thải sinh hoạt, QCVN 40:2011/BTNMT- QCKT quốc gia về nước thải
công nghiệp.... Các văn bản này đã tạo cơ sở pháp lý quan trọng trong việc thực
hiện công tác bảo vệ chất lượng và phòng chống ô nhiễm nguồn nước nói chung và
nước LVS nói riêng.
Đến nay, luật nước được thực hiện hơn 10 năm đã bộc lộ những khiếm khuyết,
vì vậy Bộ TN&MT đang tiến hành sửa đổi Luật Tài nguyên nước và trình Quốc hội
vào cuối năm 2011. Các văn phản pháp luật khác về TNN mặc dù đã cơ bản được
xây dựng nhưng còn thiếu nhiều nội dung và chưa đáp ứng với yêu cầu của quản lý
TNN. Nghị định về quản lý LVS với những nhận thức mới cơ bản định hướng đúng


Nguyễn Thị Thu Huyền

13

Cao học Quản lý Môi trường 2009 - 2011


Nghiên cứu đề xuất quy trình quản lý chất lượng môi trường nước một lưu vực sông

theo thực tế và xu hướng thế giới, nhưng chưa có hướng dẫn thi hành trong thực tế.
Trong bối cảnh chung đó, chúng ta có thể tham khảo, học hỏi kinh nghiệm của các
nước và các tổ chức quốc tế về các vấn đề liên quan và cố gắng vận dụng các kinh
nghiệm đó vào trong hiện trạng chính sách quản lý LVS Việt Nam một cách linh
hoạt và phù hợp nhất có thể.
1.3.2. Công tác tổ chức quản lý môi trường lưu vực sông [27]
Các cơ quan quản lý môi trường có vai trò quan trọng đến xu hướng biến đổi
chất lượng môi trường nước, bởi vì quyết định quản lý thực chất là dung hòa giữa
lợi ích kinh tế và BVMT. Hiện nay, Nhà nước đã có những văn bản quy định rõ
chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn và cơ cấu tổ chức của các cơ quan quản lý cấp
quốc gia (như Bộ TN&MT, Bộ NN&PTNT…), cấp liên vùng và địa phương (các
Ủy ban LVS, các Sở TN&MT, UBND...) như sau:
- Bộ TN&MT: Theo nghị định số 25/2008/NĐ-CP quy định chức năng, nhiệm
vụ, quyền hạn và cơ cấu tổ chức của BộTN&MT. Theo đó, tại điều 1 quy định Bộ
TN&MT là cơ quan của Chính phủ thực hiện chức năng quản lý nhà nước trong lĩnh
vực TNN ;
- Bộ NN&PTNT: Theo nghị định số 01/2008/NĐ-CP quy định chức năng,
nhiệm vụ, quyền hạn và cơ cấu tổ chức của Bộ NN&PTNT có chức năng thường
trực quốc gia về công tác phòng, chống lụt, bão.
- Các Bộ, ngành khác: Các Bộ, cơ quan ngang Bộ, cơ quan thuộc Chính phủ

thực hiện chức năng quản lý nhà nước về TNN theo sự phân công của Chính phủ
theo quy định tại Luật tài nguyên nước;
- Cục Quản lý tài nguyên nước: Là tổ chức trực thuộc Bộ TN&MT, có chức
năng tham mưu giúp Bộ trưởng quản lý nhà nước và thực thi nhiệm vụ, quyền hạn
quản lý nhà nước về TNN trong phạm vi cả nước. Chức năng, nhiệm vụ và quyền
hạn của Cục Quản lý TNN được quy định tại Quyết định số 1035/2008/QĐBTNMT ngày 19 tháng 05 năm 2008 của Bộ trưởng Bộ TN&MT;
- Ủy ban nhân dân các tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương chịu trách nhệm
quản lý nhà nước về TNN trong phạm vi địa phương theo quy định của Luật Tài

Nguyễn Thị Thu Huyền

14

Cao học Quản lý Môi trường 2009 - 2011


Nghiên cứu đề xuất quy trình quản lý chất lượng môi trường nước một lưu vực sông

nguyên nước, các quy định khác của pháp luật và sự phân cấp của Chính phủ. Theo
nghị định số 179/1999/NĐ-CP ngày 30/12/1999 quy định việc thi hành Luật Tài
nguyên nước, UBND cấp tỉnh, thành phố có nhiệm vụ thực hiện các quy định về
bảo vệ TNN, các quy định về khai thác, sử dụng TNN;
- Sở TN&MT là cơ quan tham mưu giúp UBND các tỉnh, thành phố thực hiện
quản lý nhà nước tại địa phương theo quy định tại Thông tư liên Bộ TN&MT - Bộ
Nội vụ số 03/2008/TTLT-BTNMT-BNV ngày 15/07/2008;
- Sở NN&PTNT là cơ quan tham mưu giúp UBND tỉnh, thành phố thực hiện
chức năng phòng chống lụt bão tại địa phương;
- UBND cấp huyện, xã: chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn về quản lý tài nguyên
nước được quy định trong Luật tài nguyên nước.
- Việt Nam hiện có 16 LVS lớn và đã có 11 tổ chức LVS: Ban Quản lý Quy

hoạch LVS Hồng-Thái Bình, Cầu, Đáy, Cả, Vũ Gia-Thu Bồn, Đồng Nai, Serepok và
Cửu Long, Ủy ban Bảo vệ Môi trường LVS Cầu, Đồng Nai, Nhuệ-Đáy. Với việc
thành lập các ban quản lý LVS và các ủy ban BVMT LVS cho thấy Việt Nam đã có
những bước tiến nhất định trong cách tiếp cận tiên tiến trong phát triển và quản lý
TNN theo hướng bền vững. Tuy nhiên về thể chế, chức năng và nhiệm vụ của các tổ
chức LVS cần tiếp tục cải tiến để xử lý được những vấn đề quản lý TNN trong tình
hình phát triển kinh tế xã hội nhanh và mạnh như hiện nay.
Như vậy, mặc dù theo hướng dẫn nguyên tắc quản lý LVS của Nghị định
120/2008/NĐ-CP, TNN trong LVS phải được quản lý thống nhất, không chia cắt
giữa các cấp hành chính, giữa thượng nguồn và hạ nguồn... Tuy nhiên, thực tế hoạt
động quản lý ô nhiễm môi trường nước tại Việt Nam từ lâu vẫn được xử lý theo địa
giới hành chính là chủ yếu. Để thực thi hiệu quả cần có sự thay đổi cách tổ chức
quản lý như hướng dẫn trong nghị định 120/2008/NĐ-CP, đó cũng là phù hợp xu
hướng thế giới.
1.3.3. Áp dụng các công cụ kinh tế
Các công cụ kinh tế (thuế, phí, lệ phí, cota ô nhiễm, hệ thống ký quỹ và hoàn
trả, quỹ môi trường…) đóng một vai trò quan trọng trong quản lý môi trường LVS.

Nguyễn Thị Thu Huyền

15

Cao học Quản lý Môi trường 2009 - 2011


Nghiên cứu đề xuất quy trình quản lý chất lượng môi trường nước một lưu vực sông

Hầu hết các tỉnh, thành phố trong lưu vực đều thu được phí BVMT đối với tài TNN
tuy rằng tỷ lệ phần trăm số tiền thu được so với dự kiến là rất thấp, đây là dấu hiệu
rất đáng mừng, tạo đà cho việc phát triển và áp dụng các công cụ kinh tế trong

BVMT các LVS.
1.3.4. Thực hiện quy hoạch lưu vực sông
Trong các hoạt động quy hoạch và quản lý LVS cần kể đến quy hoạch TNN
LVS với mục tiêu là xây dựng khuôn khổ chung cho công tác bảo vệ, khai thác,
phát triển và sử dụng TNN, phòng chống và giảm thiểu tác hại do nước gây ra và
BVMT có liên quan đến TNN LVS; xác định các quy tắc, các hoạt động cần thực
hiện để quản lý sử dụng tổng hợp và bền vững TNN LVS. Tuy nhiên, công tác này
mới chỉ đạt triển khai ở giai đoạn đầu về lập nhiệm vụ quy hoạch từng khu vực.
Trước khi Nghị định số 120/2008/NĐ-CP về quản lý LVS và Thông tư số
15/2009/TT-BTNMT ngày 05/10/2009 quy định về Định mức kinh tế - kỹ thuật lập
quy hoạch, điều chỉnh quy hoạch TNN ban hành, Việt Nam đã tiến hành Quy hoạch
TNN tại các LVS và vùng kinh tế trọng điểm (LVS Đồng Nai, sông Ba, vùng cực
Nam trung bộ, sông Hương và vùng phụ cận, vùng bán đảo Cà Mau, LVS Cầu,
vùng kinh tế trọng điểm Bắc Bộ, vùng kinh tế trọng điểm miền Trung, vùng kinh tế
trọng điểm phía Nam và tài nguyên nước đảo Phú Quốc). Sau khi Nghị định số
120/2008/NĐ-CP và thông tư số 15/2009/TT-BTNMT ban hành, Việt Nam đã thực
hiện lập nhiệm vụ quy hoạch LVS Hồng, sông Cả, sông Mã, sông Lô - Gâm, sông
Serêpok và sông Bằng Giang - Kỳ Cùng.
Trong khi đó, việc phân vùng khai thác, sử dụng tài nguyên nước và xả nước
thải cũng hết sức quan trọng, phải được thực hiện thống nhất cho toàn LVS nhằm
tránh sự xung đột, mâu thuẫn giữa các địa phương, giữa vùng thượng, trung, hạ lưu
các con sông. Những khó khăn trong công tác lập quy hoạch TNN: năng lực các cơ
quan trong việc lập quy hoạch TNN còn hạn chế, cơ sở vật chất, hạ tầng cơ sở kỹ
thuật của các đơn vị chưa đảm bảo và đáp ứng được yêu cầu lập quy hoạch TNN.
Nhưng hiện nay, mỗi ngành khai thác, sử dụng TNN chỉ chú trọng đến lợi ích của

Nguyễn Thị Thu Huyền

16


Cao học Quản lý Môi trường 2009 - 2011


Nghiên cứu đề xuất quy trình quản lý chất lượng môi trường nước một lưu vực sông

ngành mình là chủ yếu chưa có một sự điều phối chung về việc phân phối sử dụng
TNN một cách hiệu quả, kể cả công trình đa mục tiêu.
Như vậy, công tác lập quy hoạch LVS cần được đầu tư vật chất và kỹ thuật
nhiều hơn để đảm bảo sự phát triển bền vững hiệu quả của các LVS phù hợp phát
triển chung của đất nước.
1.3.5. Hiện trạng quy trình quản lý chất lượng nước LVS
Nghiên cứu về LVS ở Việt Nam đã được thực hiện khá sớm, đặc biệt những
nghiên cứu chuyên sâu về các lĩnh vực: khí tượng - thủy văn, địa hình - địa mạo…
và gần đây các nghiên cứu về diễn biến, chất lượng môi trường nước trong LVS đã
được phát triển mạnh hơn. Các công trình nghiên cứu này đề xuất một số giải pháp
thiết thực, có những đóng góp tích cực trong công tác BVMT các LVS và cung cấp
các số liệu quý giá cho các nghiên cứu tiếp theo. Tuy nhiên, hoạt động nghiên cứu
vẫn còn một số hạn chế như: phân tán, không tập trung, mới dừng ở mức khái quát,
chưa có nghiên cứu chuyên sâu về chất lượng nước, thiếu phương pháp luận trong
quy hoạch…
Bên cạnh đó, các đề án nhiệm vụ trọng tâm về bảo vệ chất lượng nước LVS
tiêu biểu được thực hiện là: (1) Quy hoạch tổng thể mạng lưới quan trắc tài nguyên
và môi trường quốc gia đến năm 2020 (Căn cứ Quyết định Số 16/2007/QĐ-TTg
ngày 29/1/2007 của Thủ tướng Chính phủ), (2) Đề án tổng thể BVMT của ba LVS
chính đến năm 2020 (sông Nhuệ- Đáy, sông Cầu, sông Đồng Nai) (Theo quyết định
số 57/2008/QĐ-TTg ngày 29/04/2008). Các nghiên cứu, đề án đã đạt được mục tiêu
sau:
- Đánh giá hiện trạng môi trường và tác động môi trường của các hoạt động
KT-XH thuộc lưu vực (LVS Nhuệ- Đáy, sông Cầu, sông Đồng Nai...). Điều tra
thống kê các nguồn thải, hiện trạng môi trường và những tác động đến môi trường

trên LVS;
- Tiến hành quan trắc môi trường liên tục và thường xuyên các chỉ tiêu hóa lý
cơ bản, sinh học, bùn lắng và độc học với số điểm và tần suất, thông số quan trắc
ngày càng tăng;

Nguyễn Thị Thu Huyền

17

Cao học Quản lý Môi trường 2009 - 2011


Nghiên cứu đề xuất quy trình quản lý chất lượng môi trường nước một lưu vực sông

- Dự báo diễn biến môi trường LVS, xác định nguyên nhân gây ô nhiễm môi
trường vùng nghiên cứu... bằng công cụ mô hình (mô hình QUAL2E, mô hình sinh
thái AQUASIM, mô hình MIKE 11, MIKE 21, mô hình DPSIR (Driving force Pressure - State - Impact - Respond)...) cho các giai đoạn hiện tại, giai đoạn đến
năm 2015, năm 2020;
- Đánh giá ngưỡng chịu tải và đề xuất các giải pháp quản lý, khắc phục tình
trạng ô nhiễm môi trường nước LVS;
- Lập quy hoạch BVMT LVS Nhuệ - Đáy, sông Cầu, sông Sài Gòn - Đồng Nai
đến năm 2015 và định hướng đến năm 2020;
- Các đề án cũng đã nêu rõ xu hướng chung để quản lý tổng hợp TNN thì cần
áp dụng đầy đủ và triệt để các công cụ luật pháp và chính sách; công cụ kinh tế;
công cụ kỹ thuật quản lý; công cụ giáo dục và nâng cao nhận thức. Hiện nay, các
công cụ kỹ thuật quản lý LVS thường được áp dụng và đóng vai trò quan trọng
trong việc ra quyết định quy hoạch và quản lý LVS là công cụ mô hình, công nghệ
viễn thám, hệ thống thông tin địa lý GIS. Trong đó, công cụ mô hình đã và đang
được sử dụng rộng rãi trên thế giới cũng như tại Việt Nam đặc biệt trong công tác
quản lý chất lượng nước. Các mô hình 1D, 2D và 3D cho nước ngầm và nước mặt,

được xây dựng theo các sơ đồ sai phân hữu hạn và phần tử hữu hạn đã rất phát triển.
Các mô hình hiện có thuộc về hai dạng miễn phí và thương mại. Các phần mềm
thương mại có giá bán rất cao, thường khá mạnh và dễ sử dụng… trong khi đó các
phần mềm miễn phí thường có giao diện kém thân thiện, khó tìm hiểu và sử dụng.
Các chương trình nghiên cứu và đề án môi trường trọng điểm đã và đang được
thực hiện khá tốt, giảm thiểu đáng kể các nguồn xả thải trực tiếp gây ô nhiễm
nghiêm trọng vào các LVS, song các hoạt động này được thực hiện ở quy mô phân
tán, mới chỉ dừng tại mức đánh giá khái quát, chưa theo một quy trình quản lý
thống nhất trong cả nước, không đưa ra dự báo ngăn chặn trước khi ô nhiễm xảy ra,
nên khi đã bị ô nhiễm phải thực hiện những biện pháp xử lý tốn kém đồng thời môi
trường bị suy giảm. Ngoài ra, hiện tại, do sự phối hợp giữa các Bộ và các địa
phương trên LVS chưa đồng bộ, chồng chéo và quyền chế tài chưa đủ mạnh, việc

Nguyễn Thị Thu Huyền

18

Cao học Quản lý Môi trường 2009 - 2011


Nghiên cứu đề xuất quy trình quản lý chất lượng môi trường nước một lưu vực sông

triển khai xây dựng các dự án cụ thể tại các địa phương với nguồn lực đầu tư hạn
chế, dẫn tới sự suy thoái môi trường lưu vực vẫn có nguy cơ gia tăng.
Vấn đề này có thể giải quyết bằng quy trình quản lý chất lượng nước LVS.
Tuy nhiên, sau nghị định 120/2008/NĐ-CP về quản lý LVS, hiện chưa có thêm
hướng dẫn cụ thể hay về quy trình thực hiện quản lý LVS.
Như vậy, hiện nay ở nước ta quản lý nước theo LVS đã bắt đầu được thực
hiện, nhưng chưa hiệu quả. Quá trình quản lý vẫn được thực hiện theo địa giới hành
chính là phương thức truyền thống thuộc trách nhiệm của bộ máy hành chính các

cấp từ trung ương đến địa phương (thể hiện trong điều 58 của Luật Tài nguyên
nước). Trong khi đó, các LVS của nước ta đang có nhiều tồn tại và bức xúc không
chỉ trong quy hoạch và cả trong quản lý nguồn nước cần phải tháo gỡ, hậu quả của
cách quản lý riêng rẽ theo địa giới hành chính từ nhiều năm qua để lại đến ngày nay.
Hiện tại nhà nước đã phân cấp cho hệ thống quản lý nước theo địa giới hành
chính chịu trách nhiệm quản lý nước tại các tỉnh và địa phương, nhưng bao quát và
giải quyết các vấn đề về quản lý nguồn nước trên toàn bộ LVS cả số lượng và chất
lượng thì gần như chưa có ai chịu trách nhiệm (thí dụ như các vấn đề phân chia hợp
lý nguồn nước giữa các ngành dùng nước, giữa các khu vực, thượng lưu và hạ lưu,
duy trì dòng chảy trên dòng chính và yêu cầu nước cho hệ sinh thái ,..). Điều này sẽ
gây trở ngại rất nhiều cho việc thực hiện các nguyên tắc về quản lý tổng hợp TNN
và phát triển bền vững TNN trên lưu vực và chỉ có thể giải quyết được khi trao chức
năng này cho tổ chức LVS.
Các phân tích trên cho thấy việc giao trách nhiệm chỉ đạo, điều phối và kiểm
soát việc sử dụng nước trong phạm vi toàn bộ LVS cho các tổ chức LVS của nước ta
như phần lớn các tổ chức LVS trên thế giới thường đảm nhận là rất cần thiết để khắc
phục các tồn tại của quản lý nước riêng rẽ theo địa giới hành chính hiện hành. Tuy
nhiên, để không chồng chéo thì các tổ chức LVS ở nước ta không nên tham gia vào
các hoạt động quản lý khai thác và sử dụng nước của hệ thống quản lý nước theo
địa giới hành chính hiện hành mà tổ chức LVS chỉ nên đóng vai trò theo dõi, kiểm
soát và trợ giúp cho hoạt động quản lý nước của các tỉnh và địa phương trên LVS

Nguyễn Thị Thu Huyền

19

Cao học Quản lý Môi trường 2009 - 2011


Nghiên cứu đề xuất quy trình quản lý chất lượng môi trường nước một lưu vực sông


hài hoà với nhau, vì quyền lợi riêng của các tỉnh cũng như cả lợi ích chung của toàn
bộ LVS. Mặt khác, chỉ có được giao cho tham gia trực tiếp vào việc chỉ đạo, điều
phối và kiểm soát việc sử dụng nước trên LVS thì tổ chức LVS mới có vai trò và
ảnh hưởng rõ rệt tới phát triển của LVS và hơn nữa có thể sử dụng một phần các
nguồn thu về thuế, phí tài nguyên nước,.. cho các hoạt động thường xuyên của tổ
chức LVS.
Việc thực hiện quản lý nước theo LVS là một xu thế và định hướng cần thiết.
Tuy nhiên đây là vấn đề còn mới và trong bối cảnh của nước ta thì việc thực hiện
trong thực tế không phải dễ dàng, sẽ có nhiều vấn đề đặt ra cần phải nghiên cứu để
từng bước giải quyết. Phương hướng chung là phải tiếp cận kinh nghiệm của các
nước trên thế giới và nghiên cứu vận dụng với điều kiện tự nhiên, KT-XH của các
LVS ở nước ta, thông qua trao đổi rộng rãi để tìm ra một mô hình hợp lý.
1.4. Kinh nghiệm thực hiện quy trình quản lý lưu vực sông trên thế giới
Quản lý LVS là một vấn đề đã được thực hiện ở nhiều quốc gia trên thế giới
trong nửa cuối thế kỷ 20 và phát triển mạnh trong những thập kỷ gần đây nhằm đối
phó với sự khan hiếm nước, sự gia tăng ô nhiễm nước, sự suy thoái các nguồn
TN&MT và ảnh hưởng của biến đổi khí hậu. Nhiều nước, đặc biệt là các nước phát
triển như các nước châu Âu, Mỹ, Pháp, Úc, Trung Quốc, Nhật Bản,… đã sử dụng
nhiều mô hình tổ chức quản lý LVS rất đáng để học tập kinh nghiệm.
1.4.1. Một số Chương trình Quản lý lưu vực sông điển hình
Chương trình quản lý vùng lưu vực sông Danube [29]: Là một chương trình hợp
tác đa quốc gia lớn, 13 quốc gia hợp tác trong Hiệp định Bảo vệ sông Danube
(DRPC) cùng tiến hành mọi nỗ lực để thực thi Nghị định về khung nước châu Âu
(WFD). Chương trình bắt đầu được thiết lập vào tháng 11 năm 2000, nhiều nhiệm
vụ đã được thực hiện từ năm 2001 đến năm 2015 .Chương trình quản lý LVS
Danube gồm 4 giai đoạn và đánh giá cải tiến chương trình 6 năm/lần (hình 1.6)

Nguyễn Thị Thu Huyền


20

Cao học Quản lý Môi trường 2009 - 2011


Nghiên cứu đề xuất quy trình quản lý chất lượng môi trường nước một lưu vực sông
Khung hợp tác
2003

Pha I

Đặc trưng lưu vực sông

Nghiên cứu cơ bản & bản đồ
2004

Pha
II
2006

2007

Tham vấn ý kiến cộng đồng

Quan trắc

Pha
III
Xác định đối tượng môi trường


2008
Chương trình quản lý LVS và chương trình đo

2009

Pha
IV

2012

Hầu hết các nhiệm vụ vận hành
đồng thời & thường bắt đầu
sớm hơn biểu đồ này

2015

Đánh giá và cập nhập chương trình
quản lý LVS 6 năm/lần

Hình 1.6: Chương trình quản lý LVS Danube thực thi theo khung WFD

Nguyễn Thị Thu Huyền

21

Cao học Quản lý Môi trường 2009 - 2011


Nghiên cứu đề xuất quy trình quản lý chất lượng môi trường nước một lưu vực sông


Chương trình quản lý LVS bao gồm bốn giai đoạn như hình trên. Hầu hết bốn
giai đoạn này vận hành đồng thời để đảm bảo thực hiện đúng tiến độ và xã hội hóa
Chương trình Quản lý Vùng LVS Danube.
Giai đoạn I: Xác định vùng LVS, xác định cơ cấu và thể chế hợp tác.
Giai đoạn II: Phân tích các đặc điểm LVS, áp lực - tác động, phân tích tính
kinh tế và thiết lập đăng ký các khu vực được bảo vệ.
Giai đoạn III: Phát triển hệ thống và chương trình giám sát.
Giai đoạn IV: Phát triển Chương trình Quản lý LVS Danube tổng quát,
chương trình đo đạc và sự tham gia cộng đồng.
Cấu trúc Chương trình Quản lý LVS: được thiết lập để chương trình có thể
thực hiện với tiểu lưu vực mức quốc gia và mức vùng LVS Danube. Với mục đích
này, xu hướng modul được lựa chọn, giới thiệu vấn đề chung của vùng LVS
Danube, tổng quan đặc trưng lưu vực, áp lực và tác động, các chương trình đo đạc,
thông tin cộng đồng và quá trình tham vấn ý kiến cộng đồng. Cấu trúc gồm hai
phần: phần A đưa ra tổng quan toàn bộ lưu vực, phần B đưa ra tất cả các thông tin ở
mức quốc gia và thông tin hợp tác song phương giữa các quốc gia.
 Chương trình Quản lý Vùng lưu vực sông quốc tế Neagh Bann [28]: Chương
trình thực hiện hướng kết hợp bảo vệ, phát triển và sử dụng LVS quốc tế Neagh
Bann mô tả điều kiện môi trường nước hiện tại, những đối tượng cho sự phát triển
và đo đạc mà sẽ được sử dụng để thực hiện sự phát triển này. Dự thảo chương trình
có ý nghĩa to lớn là đối tượng thực cho chu kỳ ba chương trình LVS tiếp theo tới
năm 2015, năm 2021 và năm 2027. Hiện nay, châu Âu đang phát triển chương trình
trong giai đoạn từ năm 2009 đến năm 2015.
Chương trình bao gồm các hạng mục:
- Khung bộ máy và luật pháp
- Khung kỹ thuật và quản trị
- Chương trình Quản lý Lưu vực sông dự thảo
- Đánh giá ảnh hưởng của chương trình
- Giáo dục ý thức cộng đồng trong việc bảo vệ LVS


Nguyễn Thị Thu Huyền

22

Cao học Quản lý Môi trường 2009 - 2011


Nghiên cứu đề xuất quy trình quản lý chất lượng môi trường nước một lưu vực sông

Chương trình quản lý vùng LVS Neagh Bann áp dụng cho 6 hạt thuộc quốc
gia Bắc Ireland (là một phần của Vương quốc Liên hiệp Anh và Bắc Ireland) là
chương trình quản lý LVS của một quốc gia vừa đảm bảo đạt theo yêu cầu WFD
vừa đảm bảo đạt tiêu chuẩn riêng của Neagh Bann. Theo kết quả đầu vào phần LVS
Neagh Bann chỉ ra rằng chất lượng nước sông là khá tốt, 23% nước bề mặt (sông,
hồ, phần nước ven biển... thuộc lưu vực) được phân loại là tốt đến tốt hơn, 93%
nước ngầm được phân loại là tốt. Với hiện trạng chất lượng nước tốt, chương trình
quản lý vùng LVS Neagh Bann có những yêu cầu mục đích riêng và do đó các bước
hoạt động đặc trưng riêng.
 Tại Ấn Độ [30]: Đối với một quốc gia đang phát triển có dân số rất đông như Ấn
Độ, nước là nguồn tài nguyên cần thiết nhất nhưng đang bị đe dọa nghiêm trọng.
Hiện tại, chất lượng và khả năng sẵn có của nguồn nước ngọt đang là áp lực thách
thức lớn nhất đối với cân bằng quốc gia. Với quá trình đô thị hóa nhanh, công
nghiệp hóa và sự phát triển nông nghiệp dẫn đến ảnh hưởng cao với chất lượng và
số lượng TNN Ấn Độ. Ban kiểm soát ô nhiễm trung ương (CPCB) thuộc Bộ Môi
trường và Rừng Ấn Độ đã thực hiện đánh giá chất lượng nước ở nhiều bang khác
nhau và nguồn dữ liệu được sử dụng để hình thành chương trình quản lý chất lượng
nước. Chương trình quản lý chất lượng nước nhằm mục tiêu bảo vệ và khôi phục
chất lượng nước trong quá trình phát triển đất nước. Chương trình tổng hợp và dựa
trên những chính sách pháp luật liên quan quản lý chất lượng nước của Ấn Độ, đưa
ra khung kiểm kê các hoạt động thải và biện pháp bảo vệ nguồn nước khác nhau,

bao gồm các bước thực hiện như sau:
- Tổng quan về chính sách pháp luật hiện hành
- Tổng quan chất lượng nước hiện tại
- Xác định ảnh hưởng đe dọa chất lượng nước
- Xác định mục tiêu chất lượng nước cho từng phần nước
- Xác định bản chất sự ô nhiễm
- Kiểm kê nguồn
- Xác định tải lượng ô nhiễm

Nguyễn Thị Thu Huyền

23

Cao học Quản lý Môi trường 2009 - 2011


Nghiên cứu đề xuất quy trình quản lý chất lượng môi trường nước một lưu vực sông

- Lựa chọn phương pháp đối phó vấn đề ô nhiễm
- Lựa chọn công nghệ bền vững nhất
- Công nghệ chi phí thấp và tái sử dụng nước thải trong tưới tiêu
- Xác định yếu tố tài chính
- Áp dụng nguyên tắc người gây ô nhiễm trả phí
- Xác định một số chỉ thị đơn giản cho quá trình và thực hiện chương trình
- Công khai trong quan trắc quá trình và những lợi ích mang lại
- Thiết lập hệ thống phản hồi thông tin.
Chương trình này được thực hiện tại DelHi - Ấn Độ bắt đầu từ năm 2006 và
đã thu nhận được những phản hồi tích cực: xác định cơ bản chất lượng nước 86
phần nước từ 1.019 trạm quan trắc được thiết lập từ chương trình; một vài đoạn ô
nhiễm được xử lý có dòng thải vào đạt tiêu chuẩn; giảm lượng nước thải đô thị ảnh

hưởng nguồn ô nhiễm về nước mặt và nước ngầm; giảm lượng thuốc trừ sâu sử
dụng trong nông nghiệp; cung cấp nguồn quỹ cho việc lắp đặt các nhà máy xử lý
nước thải để kiểm soát ô nhiễm từ hoạt động sản xuất và sinh hoạt ở các đô thị...
 Hệ thống quản lý lưu vực sông ở nước Pháp [6]: Dựa vào 6 sông lớn, ở Pháp
đã ghép một số sông nhỏ gần 6 sông lớn thành 6 LVS và lấy việc quản lý thống nhất
theo 6 LVS này làm nền tảng của việc quản lý nước. Ở mỗi cấp lưu vực có Ủy ban
Lưu vực và Cơ quan quản lý lưu vực:

- Ủy ban LVS: thành phần Ủy ban LVS của Luật nước bao gồm 50% là đại
diện của lãnh đạo địa phương và lãnh đạo những cơ quan nhà nước ở địa phương,
họ thống nhất chỉ định hoặc bầu ra một ông Chủ tịch. 25% là đại diện của những

Nguyễn Thị Thu Huyền

24

Cao học Quản lý Môi trường 2009 - 2011


Nghiên cứu đề xuất quy trình quản lý chất lượng môi trường nước một lưu vực sông

người dùng nước, những điền chủ hai bên bờ sông, những hiệp hội sử dụng nước...
25% là đại diện của nhà nước và của các cơ quan Bộ, Ngành liên quan.
Chức năng: Ủy ban LVS đóng vai trò như một nghị viện hoặc Hội đồng về
nước của LVS. Ủy ban thực hiện hai chức năng chính: Thảo luận, phê chuẩn hoặc
trình cấp thẩm quyền phê chuẩn các đề án về quản lý và quy hoạch phát triển TNN
trên LVS. Thảo luận, phê chuẩn hoặc trình cấp thẩm quyền phê chuẩn các chính
sách kinh tế về nước như: giá nước, phí ô nhiễm, thuế TNN.
- Cơ quan Nước Lưu vực: quản lý chung về số lượng và chất lượng nước và hệ
sinh thái sông. Thanh tra thực hiện luật nước và các văn bản dưới luật về nước. Thu

phí gây ô nhiễm nước và thuế tài nguyên nước (qua cơ quan cấp nước)....
Mô hình quản lý theo các ủy ban LVS song song với Cục quản lý nước đã
được thực hiện tại Pháp từ những năm 1960 là ví dụ điển hình chứng minh xu
hướng tổ chức quản lý theo LVS là hiệu quả và phù hợp cho đến ngày nay.
 Tại Trung Quốc [15]: Quản lý tổng hợp LVS đã được đặt ra từ những năm 30
của thế kỷ trước, tuy nhiên, tới năm 1950, Ủy ban bảo tồn sông Hoàng Hà mới được
thành lập có nhiệm vụ quản lý toàn diện LVS. Đến nay, ở Trung Quốc hiện có 7 Ủy
ban quản lý LVS, nhưng chỉ có duy nhất Ủy ban sông Hoàng Hà quản lý trực tiếp
toàn lưu vực với ba nhiệm vụ cơ bản là quản lý vùng hạ lưu, quản lý lũ, quản lý và
phân phối nguồn nước. Nhiệm vụ của ủy ban gồm:
- Thực thi, hướng dẫn và giám sát việc thi hành các luật và quy định (luật
Nước, luật Bảo vệ đất và nước) trong phạm vi lưu vực;
- Xây dựng các chính sách, kế hoạch chiến lược, các chương trình trung và dài
hạn về phát triển TNN trên toàn lưu vực;
- Cùng với các cơ quan và các chính quyền địa phương, xây dựng quy hoạch
tổng thể và các quy hoạch chuyên ngành có liên quan nhằm quản lý thống nhất
TNN, quan trắc và đánh giá TNN trên lưu vực;
- Hướng dẫn và điều phối các lĩnh vực: bảo vệ TNN, quản lý sông hồ và vùng
cửa sông, phòng chống lũ lụt; điều phối giải quyết các tranh chấp về nước giữa các
ngành và các địa phương, hướng dẫn và quản lý tổng thể các khu vực bị xói mòn

Nguyễn Thị Thu Huyền

25

Cao học Quản lý Môi trường 2009 - 2011


×