Tải bản đầy đủ (.docx) (103 trang)

GIẢI PHÁP QUẢN lý và xử lý nợ xấu tại NGÂN HÀNG THƯƠNG mại cổ PHẦN đầu tư và PHÁT TRIỂN VIỆT NAM CHI NHÁNH hà tây

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (470.24 KB, 103 trang )

NGÂN HÀNG NHÀ NƯỚC VIỆT NAM

BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO

HỌC VIỆN NGÂN HÀNG
-----c–&—d-----

NGUYỄN THỊ MỸ HẠNH

GIẢI PHÁP QUẢN LÝ VÀ XỬ LÝ NỢ XẤU
TẠI NGÂN HÀNG THƯƠNG MẠI CỔ PHẦN ĐẦU TƯ VÀ
PHÁT TRIỂN VIỆT NAM - CHI NHÁNH HÀ TÂY

LUẬN VĂN THẠC SĨ KINH TẾ

HÀ NỘI – 2015


NGÂN HÀNG NHÀ NƯỚC VIỆT NAM

BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO

HỌC VIỆN NGÂN HÀNG
-----c–&—d-----

NGUYỄN THỊ MỸ HẠNH

GIẢI PHÁP QUẢN LÝ VÀ XỬ LÝ NỢ XẤU
TẠI NGÂN HÀNG THƯƠNG MẠI CỔ PHẦN ĐẦU TƯ VÀ
PHÁT TRIỂN VIỆT NAM - CHI NHÁNH HÀ TÂY


Chuyên ngành: Tài chính-Ngân hàng
Mã số: 60340201

LUẬN VĂN THẠC SĨ KINH TẾ

Người hướng dẫn khoa học: PGS. TS. TRẦN THỊ HÀ

HÀ NỘI – 2015


LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan đây là công trình nghiên cứu của bản thân. Các số liệu
và kết quả nghiên cứu trong luận văn này là trung thực và không trùng lặp với
các đề tài khác.
Hà Nội, tháng 01 năm 2016
Tác giả luận văn
Nguyễn Thị Mỹ Hạnh


MỤC LỤC


DANH MỤC TỪ VIẾT TẮT
Ký hiệu
Nguyên nghĩa
AMC Công ty quản lý nợ và khai thác tài sản
Công ty quản lý nợ và khai thác tài sản Ngân hàng đầu tư và
BAMC
phát triển Việt Nam.
BIDV Ngân hàng đầu tư và phát triển Việt Nam

CAR Hệ số an toàn vốn tối thiểu
DPRR Dự phòng rủi ro
HSC
Hội sở chính
IAS
Chuẩn mực Kế toán Quốc tế
IMF
Tổ chức tiền tệ Thế giới
NHTM Ngân hàng thương mại
NHNN Ngân hàng nhà nước
Trung tâm nghiên cứu kinh tế và chính sách- Đại học Quốc gia
VERP
Hà nội
TCTD Tổ chức tín dụng


DANH MỤC BẢNG BIỂU, SƠ ĐỒ
Bảng:
đồ:


7

MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài:
Ngân hàng là một trong những ngành có vai trò hết sức quan trọng trong
việc phát triển nền kinh tế đất nước. Hệ thống ngân hàng hoạt động có hiệu
quả hay không gắn liền với sự hưng thịnh của nền kinh tế, trong đó sự tăng
trưởng của hoạt động tín dụng là hoạt động truyền thống và chủ yếu của ngân
hàng thương mại, đem lại lợi nhuận chính cho các ngân hàng. Tuy nhiên, gắn

liền với việc tạo ra lợi nhuận, thì tín dụng cũng đi kèm với rất nhiều rủi ro,
đặc biệt là rủi ro về việc thu hồi nợ.
Trong những năm gần đây, khi mà nền kinh tế Việt Nam đang ở thời kỳ
hậu khủng hoảng nền kinh tế thế giới, thì hoạt động kinh doanh của hệ thống
Ngân hàng thương mại Việt Nam cũng đang phải đối mặt với tình hình nợ xấu
ngày một gia tăng, cùng với các khoản nợ xấu tồn đọng trước đó, đã và đang
đặt các Ngân hàng thương mại vào nguy cơ suy giảm lợi nhuận, chất lượng
khoản vay giảm sút, ảnh hưởng không nhỏ đến hiệu quả sử dụng vốn và uy tín
của ngân hàng.
Xuất phát từ tình hình trên, kết hợp với quá trình tìm hiểu về hoạt động
quản lý và xử lý nợ xấu tại Ngân hàng TMCP Đầu tư và Phát triển Việt NamChi nhánh Hà Tây, tôi nhận thấy chi nhánh vẫn còn nhiều vấn đề bất cập cần
giải quyết.
Dựa trên cơ sở đó, tôi quyết định lựa chọn đề tài “Giải pháp quản lý và
xử lý nợ xấu tại Ngân hàng TMCP Đầu tư và Phát triển Việt Nam-Chi nhánh
Hà Tây” làm đề tài nghiên cứu cho luận văn tốt nghiệp của mình.
2. Mục đích nghiên cứu:
Đề tài nghiên cứu giải quyết 3 vấn đề cơ bản sau:



Hệ thống hóa cơ sở lý luận về nợ xấu.
Phân tích, đánh giá tình hình quản lý và xử lý nợ xấu tại BIDV Hà Tây, từ đó


8



chỉ ra những kết quả đạt được cũng như những hạn chế còn tồn tại.
Đề xuất một số giải pháp và kiến nghị nhằm nâng cao khả năng quản lý và xử

lý nợ xấu tại BIDV Hà Tây.
3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu:



Thực trạng quản lý và xử lý nợ xấu tại BIDV Hà Tây và Nghiên cứu tại BIDV
Hà Tây trong giai đoạn từ 2011-2014.
4. Phương pháp nghiên cứu:
Đề tài được nghiên cứu dựa trên phương pháp thống kê, so sánh, quy
nạp, phán đoán, phân tích, tổng hợp số liệu qua các năm để luận chứng.
5. Kết cấu đề tài:
Ngoài phần Mở đầu và Kết luận, Danh mục tài liệu tham khảo, Danh
mục các từ viết tắt, nội dung của luận văn được chia làm 3 chương:
Chương 1: Tổng quan về quản lý và xử lý nợ xấu của các Ngân hàng
thương mại.
Chương 2: Thực trạng quản lý và xử lý nợ xấu tại Ngân hàng TMCP
Đầu tư và Phát triển Việt Nam-Chi nhánh Hà Tây.
Chương 3: Giải pháp quản lý và xử lý nợ xấu tại Ngân hàng TMCP Đầu
tư và Phát triển Việt Nam-Chi nhánh Hà Tây


9

CHƯƠNG 1
TỔNG QUAN VỀ QUẢN LÝ VÀ XỬ LÝ NỢ XẤU
CỦA CÁC NGÂN HÀNG THƯƠNG MẠI
1.1. TỔNG QUAN LÝ LUẬN VỀ NỢ XẤU
1.1.1. Những vấn đề cơ bản về nợ cho vay và nợ xấu
1.1.1.1. Khái niệm về nợ cho vay
Nợ cho vay của NHTM là khoản tiền NHTM sử dụng cho vay khách

hàng trong một khoảng thời gian xác định với lãi suất xác định hoặc thỏa
thuận được quy định trong hợp đồng cho vay với nguyên tắc hoàn trả.
1.1.1.2. Khái niệm về nợ xấu
Để hiểu về nợ xấu, chúng ta xuất phát từ khái niệm tín dụng và rủi ro
tín dụng.
Tín dụng là một giao dịch về tài sản (tiền hoặc hàng hóa) giữa bên cho
vay (ngân hàng hoặc các định chế tài chính) và bên đi vay (cá nhân, doanh
nghiệp và các chủ thể khác) trong đó chuyển giao tài sản cho bên đi vay sử
dụng trong một thời gian nhất định theo thỏa thuận, bên đi vay có trách nhiệm
hoàn trả vốn gốc và lãi cho bên vay khi đến hạn thanh toán.
Rủi ro tín dụng trong hoạt động ngân hàng của tổ chức tín dụng là khả
năng xảy ra tổn thất trong hoạt động ngân hàng của tổ chức tín dụng do khách
hàng không thực hiện hoặc không có khả năng thực hiện nghĩa vụ của mình
theo cam kết.
Thông thường nợ xấu được hiểu là các khoản nợ dưới chuẩn, có thể quá
hạn và bị nghi ngờ về khả năng trả nợ lẫn khả năng thu hồi vốn của chủ nợ,
điều này thường xảy ra khi khách hàng vay tuyên bố đã phá sản hoặc đã tẩu
tán tài sản. Tuy nhiên, tùy theo quan điểm và mức độ đánh giá rủi ro khác
nhau mà có những khái niệm khác nhau về nợ xấu. Có thể nhắc tới một số
khái niệm nợ xấu như sau:


10

-

Theo khái niệm nợ xấu của Tổ chức Tiền tệ Thế giới (IMF):
Trong Hướng dẫn tính toán các chỉ số lành mạnh tài chính tại các quốc
gia (IFRS)2, IMF đưa ra định nghĩa về nợ xấu như sau: “một khoản vay được
coi là nợ xấu khi quá hạn thanh toán gốc hoặc lãi 90 ngày hoặc hơn; khi các

khoản lãi đã quá hạn 90 ngày hoặc hơn đã được vốn hóa, cơ cấu lại, hoặc trì
hoãn theo thỏa thuận; khi các khoản thanh toán đến hạn dưới 90 ngày nhưng
có thể nhận thấy những dấu hiệu rõ ràng cho thấy người vay sẽ không thể
hoàn trả nợ đầy đủ (người vay phá sản). Sau khi khoản vay được xếp vào
danh mục nợ xấu cho tới thời điểm phải xóa nợ hoặc thu hồi được lãi và gốc
của khoản vay đó hoặc thu hồi được khoản vay thay thế.

-

Theo Chuẩn mực Kế toán quốc tế (IAS):
Chuẩn mực Kế toán quốc tế về ngân hàng thường đề cập các khoản nợ bị
giảm giá trị thay vì sử dụng thuật ngữ nợ xấu. Chuẩn mực kế toán IAS 39
được khuyến cáo áp dụng ở một số nước phát triển vào đầu năm 2005 chỉ ra
rằng cần có bằng chứng khách quan để xếp một khoản vay có dấu hiệu bị
giảm giá trị. Trong trường hợp nợ bị giảm giá trị thì tài sản được ghi nhận sẽ
bị giảm xuống do những tổn thất do chất lượng nợ xấu gây ra.
Về cơ bản IAS 39 chú trọng tới khả năng hoàn trả của khoản vay bất
luận thời gian quá hạn chưa tới 90 ngày hoặc chưa quá hạn. Phương pháp
đánh giá khả năng trả nợ của khách hàng thường là phương pháp phân tích
dòng tiền tương lai chiết khấu hoặc xếp hạng khoản vay của khách hàng. Hệ
thống này được coi là chính xác về mặt lý thuyết, nhưng việc áp dụng thực tế
gặp nhiều khó khăn. Vì vậy, nó vẫn đang được Ủy ban Chuẩn mực kế toán
quốc tế chỉnh sửa lại trong IFRS 9.
- Tại Việt Nam, khái niệm nợ xấu xuất hiện từ khi quy định về phân loại
nợ, trích lập và sử dụng dự phòng, để xử lý rủi ro tín dụng trong hoạt động
ngân hàng của tổ chức tín dụng, ban hành theo Thông tư số 02/2013/TTNHNN ngày 21/1/2013 của Thống đốc NHNN Việt Nam và có một số sửa đổi


11


trong Thông tư 09/2014/TT-NHNN ngày 18/3/2014 của Thống đốc NHNN.
Theo đó, việc phân loại nợ của các TCTD đã bước đầu bám sát thông lệ quốc
tế, phân loại nợ được căn cứ vào thời gian quá hạn của khoản vay và thực
trạng của khách hàng vay vốn, theo đó được phân thành 5 nhóm và nợ thuộc
nhóm 3, 4, 5 được coi là nợ xấu:
Nhóm 1: Nợ đủ tiêu chuẩn;
Nhóm 2: Nợ cần chú ý;
Nhóm 3: Nợ dưới tiêu chuẩn;
Nhóm 4: Nợ nghi ngờ;
Nhóm 5: Nợ có khả năng mất vốn.
1.1.1.3. Phân loại nợ xấu
Là tiêu chí được các NHTM sử dụng để phân tích, đánh giá khoản cho
vay dựa trên cơ sở thời gian quá hạn của khoản vay đó. Các NHTM căn cứ
vào thời gian quá hạn của khoản vay để đánh giá chất lượng khoản cho vay và
xếp hạng tín dụng. Theo thông lệ quốc tế, nếu áp dụng theo phương pháp này,
các khoản nợ được xếp vào một trong năm nhóm sau:
Theo Thông tư số 02/2013/TT-NHNN ngày 21/1/2013 của Thống đốc
NHNN Việt Nam và Thông tư 09/2014/TT-NHNN ngày 18/3/2014 của
Thống đốc NHNN về việc sửa đổi, bổ sung một số điều của Thông tư 02 thì
nợ của các NHTM được xác định dựa trên cả yếu tố thời hạn và khả năng thu
hồi ( tại nội dung điều 10)
a. Nhóm 1 (Nợ đủ tiêu chuẩn) bao gồm:
(i) Nợ trong hạn và được đánh giá là có khả năng thu hồi đầy đủ cả nợ
gốc lẫn lãi đúng hạn;
(ii) Nợ quá hạn dưới 10 ngày và được đánh giá là có khả năng thu hồi
đầy đủ nợ gốc và lãi bị quá hạn và thu hồi đầy đủ nợ gốc và lãi còn lại đúng
thời hạn;
(iii) Nợ được phân loại vào nhóm 1 theo quy định tại khoản 2 Điều này.
b. Nhóm 2 (Nợ cần chú ý) bao gồm:



12

(i) Nợ quá hạn từ 10 ngày đến 90 ngày;
(ii) Nợ điều chỉnh kỳ hạn trả nợ lần đầu;
(iii) Nợ được phân loại vào nhóm 2 theo quy định tại khoản 2 và khoản 3
Điều này.
c. Nhóm 3 ( Nợ dưới tiêu chuẩn) bao gồm:
(i) Nợ quá hạn từ 91 ngày đến 180 ngày;
(ii) Nợ gia hạn nợ lần đầu;
(iii) Nợ được miễn hoặc giảm lãi do khách hàng không đủ khả năng trả
lãi đầy đủ theo hợp đồng tín dụng;
(iv) Nợ thuộc một trong các trường hợp sau đây chưa thu hồi được trong
thời gian dưới 30 ngày kể từ ngày có quyết định thu hồi:
Khoản nợ vi phạm quy định tại các khoản 1, 3, 4, 5, 6 Điều 126 Luật các
tổ chức tín dụng;
Khoản nợ vi phạm quy định tại các khoản 1, 2, 3, 4 Điều 127 Luật các tổ
chức tín dụng;
Khoản nợ vi phạm quy định tại các khoản 1, 2, 5 Điều 128 Luật các tổ
chức tín dụng;
(v) Nợ đang thu hồi theo kết luận thanh tra;
(vi) Nợ được phân loại vào nhóm 3 theo quy định tại khoản 2 và khoản 3
Điều này.
(vii) Nợ phải phân loại vào nhóm 3 theo quy định tại khoản 11 Điều 9
Thông tư này.
d. Nhóm 4( Nợ nghi ngờ) bao gồm:
(i) Nợ quá hạn từ 181 ngày đến 360 ngày;
(ii) Nợ cơ cấu lại thời hạn trả nợ lần đầu quá hạn dưới 90 ngày theo thời
hạn trả nợ được cơ cấu lại lần đầu;
(iii) Nợ cơ cấu lại thời hạn trả nợ lần thứ hai;

(iv) Khoản nợ quy định tại điểm a(iv) khoản 1 Điều này chưa thu hồi


13

được trong thời gian từ 30 ngày đến 60 ngày kể từ ngày có quyết định thu hồi;
(v) Nợ phải thu hồi theo kết luận thanh tra nhưng quá thời hạn thu hồi
theo kết luận thanh tra đến 60 ngày mà vẫn chưa thu hồi được;
(vi) Nợ được phân loại vào nhóm 4 theo quy định tại khoản 2 và khoản 3
Điều này.
(vii) Nợ phải phân loại vào nhóm 4 theo quy định tại khoản 11 Điều 9
Thông tư này.
e. Nhóm 5 ( Nợ có khả năng mất vốn) bao gồm:
(i) Nợ quá hạn trên 360 ngày;
(ii) Nợ cơ cấu lại thời hạn trả nợ lần đầu quá hạn từ 90 ngày trở lên theo
thời gian trả nợ được cơ cấu lại lần đầu;
(iii) Nợ cơ cấu lại thời hạn trả nợ lần thứ hai quá hạn theo thời hạn trả nợ
được cơ cấu lại lần thứ hai;
(iv) Nợ cơ cấu lại thời hạn trả nợ lần thứ ba trở lên, kể cả chưa bị quá
hạn hoặc đã quá hạn;
(v) Khoản nợ quy định lại điểm a(iv) khoản 1 Điều này chưa thu hồi
được trong thời gian trên 60 ngày kể từ ngày có quyết định thu hồi;
(vi) Nợ phải thu hồi theo kết luận thanh tra nhưng quá hạn thu hồi theo
kết luận thanh tra trên 60 ngày mà vẫn chưa thu hồi được;
(vii) Nợ của khách hàng là tổ chức tín dụng được Ngân hàng Nhà nước
công bố đặt vào tình trạng kiểm soát đặc biệt, chi nhánh ngân hàng nước
ngoài bị phong tỏa vốn và tài sản;
(viii) Nợ được phân loại vào nhóm 5 theo quy định tại khoản 3 Điều này.
(ix) Nợ phải phân loại vào nhóm 5 theo quy định tại khoản 11 Điều 9
Thông tư này.

Trong đó: Nợ quá hạn là khoản nợ mà một phần hoặc toàn bộ nợ gốc
và/hoặc lãi đã quá hạn; Nợ xấu là các khoản nợ thuộc nhóm 3, 4, 5.


14

Theo các nhóm trên thì tỷ lệ trích lập dự phòng cụ thể đối với các nhóm
nợ quy định là: Nhóm 1: 0% ; Nhóm 2: 5% ; Nhóm 3: 20% ; Nhóm 4: 50% ;
Nhóm 5: 100%.
1.1.1.4. Các chỉ tiêu đo lường nợ xấu
a. Tỷ lệ nợ có vấn đề.
Nợ có vấn đề là khoản vay chưa đến hạn, chưa được coi là nợ quá hạn,
song trong quá trình theo dõi nhân viên Ngân hàng nhận thấy nhiều khoản tài
trợ đang có dấu hiệu kém lành mạnh và có nguy cơ trở thành nợ quá hạn.
Tỷ lệ nợ có vấn đề phản ánh mức độ rủi ro của những khoản vay. Tỷ lệ
này càng lớn thì các khoản vay có khả năng trở thành nợ quá hạn càng cao.
Nợ có vấn đề
Tỷ lệ có vấn đề =

x 100
Tổng dư nợ

b. Tỷ lệ nợ quá hạn
Nợ qúa hạn là các khoản nợ đã đến ngày đáo hạn nhưng con nợ không có
khả năng thanh toán. Dư nợ quá hạn của Ngân hàng phản ánh toàn bộ các khoản
nợ quá hạn của Ngân hàng.
Dư nợ quá hạn
Tỷ lệ nợ quá hạn =

x 100

Tổng dư nợ

Chỉ tiêu này phản ánh mức độ rủi ro các khoản tín dụng của ngân hàng.
Tỷ lệ này cho biết bao nhiêu đơn vị tiền tệ mà Ngân hàng không thể thu
hồi khi Ngân hàng bỏ ra 100 đơn vị tiền tệ .Ngân hàng được xem có hoạt
động tín dụng yếu kém, nếu tỷ lệ này >7% và nếu chỉ tiêu này lớn hơn 3% và
nhỏ hơn < 5% thi hoạt động của Ngân hàng nằm trong giới hạn cho phép của
Ngân hàng Nhà nước, nếu tỷ lệ này < 3% thì ngân hàng được đánh giá là có
nghiệp vụ tín dụng tốt ,chất lượng cho vay cao.


15

c. Tỷ lệ nợ khó đòi.
Nợ khó đòi là các khoản nợ vay đã quá hạn và khả năng thu hồi là rất thấp.
Tỷ lệ nợ khó đòi là dấu hiệu trực tiếp cho biết nguy cơ mất một phần
hoặc toàn bộ khoản cho vay.
Dư nợ quá hạn trên 360 ngày
Tỷ lệ nợ khó đòi =

x 100
Tổng dư nợ

Tỷ lệ này cho biết bao nhiêu đơn vị tiền tệ khó thu hồi hoặc không có
khả năng thu hồi khi Ngân hàng bỏ ra 100 đơn vị tiền tệ.Tỷ lệ này càng lớn
thì nguy cơ mất khả năng thanh toán của Ngân hàng có thể xảy ra.
1.1.2. Nguyên nhân phát sinh nợ xấu
1.1.2.1. Nhóm nguyên nhân từ môi trường pháp lý về hoạt động ngân hàng
Hệ thống pháp luật là hành lang pháp lý để giảm thiểu rủi ro trong hoạt
động ngân hàng. Nếu hệ thống pháp luật đồng bộ và hoàn thiện sẽ tạo tiền đề

cho ngân hàng hoạt động an toàn, lành mạnh. Nếu hệ thống pháp luật không
đồng bộ, thiếu tính khả thi thì luôn tiềm ẩn rủi ro rất cao đối với hệ thống
ngân hàng. Chính vì vai trò quan trọng của môi trường pháp lý, nên tất cả các
nước đều rất chú trọng đồng bộ hóa và hoàn thiện hệ thống pháp luật.
Ở Việt Nam, mặc dù những năm qua chúng ta đã rất chú ý xây dựng và
từng bước hoàn thiện các văn bản pháp lý về hoạt động ngân hàng, nhưng
nhìn chung có thể thấy hệ thống vă bản pháp luật chưa đồng bộ, chưa hoàn
thiện. Hiệu lực thực thi các văn bản pháp luật về hoạt động ngân hàng chưa
cao, một số điều luật đã có nhưng chưa được triển khai thực hiện. Chủ trương,
chính sách của Nhà nước còn thiếu tính ổn định, làm cho hệ thống ngân hàng
phải đối mặt với nguy cơ rủi ro chính sách, nhất là các chính sách về lãi suất,
tỷ giá, vàng,...
Sự điều tiết của nhà nước thông qua các công cụ chính sách pháp luật là
luôn cần thiết đối với nền kinh tế, tuy nhiên sự thay đổi của các chính sách phải
minh bạch trên cơ sở phải đi theo lộ trình phù hợp có thể dự tính được. Nếu


16

không đáp ứng được hai yêu cầu này thì các hoạt động kinh doanh tất yếu tiềm
ẩn rủi ro cao, nhất là đối với hoạt động kinh doanh tài chính – ngân hàng.
1.1.2.2. Nhóm nguyên nhân từ nội bộ hệ thống tài chính Việt Nam
Tình hình nợ xấu của Việt Nam hiện nay có một phần lớn nguyên nhân
đến từ sự yếu kém từ nội bộ của các ngân hàng, TCTD. Cụ thể:
Một là, năng lực quản trị rủi ro của các NHTM, các TCTD yếu kém.
Năm 2012, theo khảo sát của Trung tâm nghiên cứu kinh tế và chính
sách – Đại học Quốc gia Hà Nội (VERP), mới chỉ có 47% các NHTM đã tiếp
cận với Basel 2 và chỉ có 40% các NHTM đã tiếp cận với Basel 3. Vai trò và
nhiệm vụ của hội đồng quản trị chỉ tuân thủ một phần hoặc chưa tuân thủ các
nguyên tắc quản trị của OECD và Basel. Khuôn khổ quản trị hiện hành cũng

chưa bảo vệ được quyền cổ đông đối với tất cả các cổ đông. Khả năng quản
trị rủi ro còn yếu dẫn đến đánh giá khả năng xảy ra rủi ro tín dụng thấp hơn so
với thực tế cũng như khả năng ngăn ngừa rủi ro thị trường và tác nghiệp thấp.
Từ năm 2005, NHNN đã ban hành nhiều quy định về quản trị rủi ro, an
toàn hoạt động ngân hàng và quản lý tín dụng, đặc biệt là quy định về phân
loại nợ, trích lập dự phòng, quản lý rủi ro tiến dần tới các thông lệ quốc tế.
Các tiêu chí xác định nợ xấu hiện hành bao gồm tiêu chí định lượng (như thời
gian quá hạn, số lần cơ cấu lại thời hạn nợ, ...) và các chỉ tiêu định tính (như
chấm điểm, xếp hạng khách hàng, đánh giá khả năng trả nợ,...)
Bản thân các NHTM cũng đã chủ động xử lý nợ xấu bằng trích lập dự
phòng, hỗ trợ doanh nghiệp và tăng cường quản trị rủi ro tín dụng, mua bán
nợ thông qua công ty mua bán nợ của các ngân hàng và công ty mua bán nợ
của Bộ Tài chính. Tuy nhiên, do khả năng quản trị rủi ro chưa tương xứng và
vẫn được thực hiện theo các biện pháp truyền thống, nên rủi ro trong hoạt
động của các NHTM vẫn rất lớn. Vẫn còn nhiều ngân hàng Việt Nam biến
nghiệp vụ cơ cấu nợ, vốn là một nghiệp cụ bình thường của ngân hàng thành
một hình thức để giảm tỷ lệ nợ xấu của mình do nợ cơ cấu không được tính


17

vào nợ xấu. Đồng thời, không ít ngân hàng đã hạn chế phân loại nợ xuống
nhóm 3 – 5 để tránh trích lập dự phòng rủi ro tín dụng, tránh ảnh hưởng đến
lợi nhuận của mình.
Bên cạnh đó, các ngân hàng chưa chú trọng quản trị danh mục cho vay
dẫn đến tỷ trọng cho vay DNNN cao và rủi ro hơn là nhiều NHTM cổ phần
được thành lập để phục vụ một số nhóm khách hàng ưu tiên cao. Mức tín
dụng cấp cho các đối tượng này rất lớn với những điều kiện ưu đãi cao đã đẩy
nợ xấu tăng cao, trong khi các quy định giám sát hầu như chưa thể giám sát
trường hợp này.

Các ngân hàng chưa trú trọng công tác dự báo, chạy theo lợi nhuận theo
sự tăng trưởng nóng của thị trường bất động sản và chứng khoán. Việc tập
trung quá nhiều vốn cho những thị trường này đã góp phần không nhỏ vào
việc hình thành “bong bóng” bất động sản và chứng khoán. Khi các lĩnh vực
này, đặc biệt là thị trường bất động sản đóng băng và giá bất động sản giảm
sâu kéo theo nợ xấu cho vay lĩnh vực này tăng nhanh.
Hai là, nợ xấu tăng cao là hệ quả tất yếu của quá trình tăng trưởng tín
dụng quá nóng.
Trong khoảng 10 năm trở lại đây, mặc dù NHNN thường xuyên yêu cầu
các NHTM phải hạn chế tăng trưởng tín dụng, nhưng thực tế tăng trưởng vẫn
trên 20%; năm 2007 là 51,39%; năm 2009 là 37,7%; năm 2010 là 31,19%,...
cao hơn rất nhiều so với tốc độ tăng trưởng GDP trong khi tăng trưởng huy
động vốn rất thấp.
Sự phát triển nóng của hệ thống NHTM là nguyên nhân gia tăng nợ xấu.
Một số ngân hàng nhỏ, năng lực quản trị tín dụng yếu kém đã tìm mọi cách
tăng vốn huy động, thúc đẩy tín dụng bằng cách nới lỏng tiêu chuẩn cho vay.
Thực tế những năm qua cho thấy luôn có sự cạnh tranh gay gắt giữa các
NHTM để dành dật thị phần, đặc biệt là một số NHTM nhỏ mới được thành
lập. Các ngân hàng này có xu hướng mở rộng thị phần tín dụng bằng mọi giá,
bỏ qua quy trình tín dụng, hạ thấp tiêu chuẩn tín dụng, tìm cách lẩn tránh sự


18

kiểm soát của Chính phủ.
Ba là, thông tin tín dụng có độ tin cậy thấp.
Việc ra các quyết định kinh tế về căn bản phải dựa trên những thông tin
có độ tin cậy thì các quyết định mới đi vào cuộc sống và đem lại hiệu quả tích
cực. Đối với hoạt động tín dụng thì càng đòi hỏi thông tin phải có độ tin cậy
cao mới đảm bảo được yêu cầu về chất lượng và hiệu quả của các phán quyết.

Nếu đội ngũ cán bộ của các NHTM hạn chế về năng lực và trình độ kế toán
tài chính doanh nghiệp, thiếu kỹ năng nắm bắt và nhạy cảm với các diễn biến
kinh tế - xã hội thì việc ra phán quyết tín dụng sẽ có xu hướng xa rời thực tiễn
và đặt NHTM phải đối diện với rủi ro tín dụng tiềm ẩn.
Bốn là, công nghệ ngân hàng còn nhiều bất cập so với yêu cầu hoạt động.
Công nghệ ngân hàng lạc hậu, chưa đáp ứng được yêu cầu kinh doanh,
nhất là công tác quản trị hệ thống trong điều kiện các NHTM Việt Nam có sự
mở rộng đáng kể về phạm vi địa bàn hoạt động lẫn danh mục các dịch vụ
ngân hàng và tăng trưởng tín dụng quá nhanh. Để các hoạt động diễn ra thuận
lợi, an toàn và hiệu quả, rất cần có sự hậu thuẫn của công nghệ, nhất là công
nghệ thông tin. Nếu như điều kiện này không đáp ứng được thì cũng có nghĩa
là các NHTM càng mở ra thêm nhiều loại hình sản phẩm dịch vụ, càng mở ra
thêm nhiều mạng lưới chi nhánh giao dịch, tốc độ tăng trưởng tín dụng càng
nhanh, thì rủi ro sẽ càng gia tăng khó kiểm soát hơn và khi đó rủi ro tiềm ẩn
sẽ càng lớn.
Năm là, đạo đức nghề nghiệp của cán bộ ngân hàng yếu kém.
Kinh doanh ngân hàng dựa trên sự tin cậy và mức độ tín nhiệm thì đạo
đức nghề nghiệp trong ngân hàng không chỉ cần thiết mà còn mang tính bắt
buộc. Tuy nhiên, do nhiều nguyên nhân mà một số cán bộ ngân hàng đã cấu
kết với khách hàng để che dấu sự thật, gian lận, cố ý làm trái quy định của
NHNN, của NHTM. Mặc dù chưa có số liệu công bố cụ thể nhưng trong tổng
số nợ xấu đó, một tỷ lệ không nhỏ nảy sinh từ vi phạm đạo đức nghề nghiệp.
1.1.2.3. Nhóm nguyên nhân đến từ môi trường kinh doanh và hoạt động


19

của các doanh nghiệp
Kể từ cuối năm 2008, nền kinh tế chịu nhiều tác động tiêu cực của khủng
hoảng tài chính và suy thoái kinh tế toàn cầu, sau đó là vấn đề lạm phát cao,

suy giảm tốc độ tăng trưởng kinh tế trong nước, do đó môi trường kinh doanh
và hoạt động ngân hàng gặp nhiều khó khăn làm cho chất lượng tín dụng suy
giảm và nợ xấu tăng nhanh hơn tốc độ tăng trưởng tín dụng. Nợ xấu cao và
ngày càng lớn gần đây phản ánh mô hình tăng trưởng không hợp lý và kém
hiệu quả. Việc tăng trưởng kinh tế cao và dựa vào vốn là chính, trong khi
quản lý không theo kịp, doanh nghiệp càng vay nhiều càng khó có khà năng
quản lý hiệu quả các đồng vốn vay.
Nợ xấu tăng cao còn xuất phát từ sự khó khăn trong hoạt động sản xuất
kinh doanh của các doanh nghiệp. Cụ thể:
- Nhiều doanh nghiệp hiện nay có năng lực tài chính yếu, chủ yếu dựa
vào vốn vay ngân hàng, vốn chủ sở hữu nhỏ và khả năng ứng phó với sự thay
đổi môi trường kinh doanh kém. Vì vậy khi môi trường kinh doanh xấu đi,
chính sách kinh tế vĩ mô thắt chặt, lãi suất tăng thì các doanh nghiệp sẽ gặp
khó khăn về khả năng trả nợ.
- Sự làm ăn thua lỗ của các doanh nghiệp, nhất là DNNN. Có đến 70%
nợ xấu là nợ của các DNNN do đây là nhóm có nhiều thuận lợi trong tiếp cận
tín dụng và chiếm thị phần lớn trong tổng dư nợ tín dụng của toàn nền kinh tế.
Phần nợ xấu lớn thứ hai sau DNNN xuất phát từ một số doanh nghiệp tư nhân
lớn, trong đó tập trung chủ yếu là các khoản vay đầu tư bất động sản, chứng
khoán, đầu tư ngoài ngành,...
- Nhiều doanh nghiệp dùng nợ ngắn hạn đề đầu tư dài hạn. Nhiều
doanh nghiệp dùng vốn vay đầu tư ra bên ngoài, đặc biệt là đầu tư vào bất
động sản.
1.1.3. Dấu hiệu nhận biết nợ xấu
1.1.3.1. Dấu hiệu từ phía ngân hàng


20

Nợ xấu làm giảm doanh thu của ngân hàng, đồng thời làm giảm hình ảnh

cũng như uy tín của ngân hàng đối với khách hàng, tác động rất tiêu cực đối
với hoạt động của cả hệ thống. Vì vậy, dự báo nợ xấu phát sinh từ các dấu
hiệu định tính và định lượng là một công việc có ý nghĩa quan trọng trong
hoạt động của ngân hàng. Các dấu hiệu đó là:
Cho vay dựa trên các sự kiện bất thường có thể xảy ra trong tương lại, ví
dụ như sáp nhập.
Sự đánh giá không chính xác về rủi ro của khách hàng.
Không xác định rõ kế hoạch hoàn trả đối với từng khoản cho vay.
Cho vay do khách hàng hứa duy trì một khoản tiền lớn trong ngân hàng.
Do cạnh tranh có thể cấp tín dụng cho khách hàng để họ khởi chạy sang
ngân hàng khác dù biết khoản vay có thể dẫn đến rủi ro.
Hồ sơ tín dụng không đầy đủ.
Cơ cấu tín dụng không hợp lý, cho vay tập trung vào một số lĩnh vực
nóng trong nền kinh tế như đầu tư vào bất động sản …
1.1.3.2. Dấu hiệu từ phía khách hàng
Việc phát sinh nợ quá hạn do khách hàng không có khả năng hoàn trả
hoặc khách hàng không muốn trả nợ hoặc là do việc tiêu thụ hàng hóa, thu hồi
công nợ chậm hơn dự tính.
Việc thanh toán tiền không đúng kế hoạch. Người vay tiền thường xuyên
trả nợ không đúng kỳ hạn. Kỳ hạn của khoản vay liên tục bị thay đổi,khách
hàng luôn yêu cầu được gia hạn nợ.
Các số liệu và tài liệu cần thiết cung cấp cho ngân hàng không được kê
khai đầy đủ, chính xác và nộp không theo kế hoạch. Các tài liệu quan trọng
phải nộp cho ngân hàng như: báo cáo kết quả kinh doanh, thuyết minh báo
cáo tài chính, báo cáo lưu chuyển tiền tệ, bảng cân đối kế toán, … liên tục bị
trì hoãn một cách bất thường. Số liệu kê khai, hay số liệu về doanh thu và
dòng tiền thực tế bị nghi ngờ là có chênh lệch khá lớn so với mức dự kiến khi
khách hàng xin vay.



21

Tài sản đảm bảo không đủ các tiêu chuẩn, tài sản đảm bảo có giá trị thấp
hơn so với khi định giá cho vay. Có dấu hiệu tài sản đã cho người khác thuê,
hay bán, trao đổi hoặc bị mất.
Những thay đổi bất lợi về giá cổ phiếu của khách hàng vay vốn.
Những thay đổi trong cơ cấu vốn của người đi vay (tỷ lệ nợ/vốn chủ sở
hữu), khả năng thanh toán.
Hoạt động kinh doanh của khách hàng thua lỗ trong một hay nhiều năm
liên tục, đặc biệt thể hiện qua các chỉ số như ROA, ROE và lãi vay(EBIT) hay
thu nhập trước thuế.
Những thay đổi bất thường ngoài dự kiến và không giải thích được trong
số dư tiền gửi của khách hàng.
1.1.4. Tác động của nợ xấu
Nợ xấu cao là nỗi lo của Chính phủ, các chuyên gia, các NHTM cũng
như toàn thể dân chúng bởi nó tác động lớn đến toàn bộ nền kinh tế, làm tắc
nghẽn dòng vốn và đe dọa an toàn tài chính quốc gia, ảnh hưởng tiêu cực đến
sự phát triển bền vững về kinh tế. Các tác động của nợ xấu cũng như việc giải
quyết nợ xấu tới nền kinh tế có thể nhắc tới như:
Một là, nợ xấu gia tăng tạo ra gánh nặng ngân sách trong vấn đề xử lý nợ
xấu. Tỷ lệ nợ xấu tăng cao đã đặt ra một câu hỏi lớn là kinh phí ở đâu để xử lý.
Con số này lớn đến mức các ngân hàng không thể đứng ra tự xử lý, nên việc xử
lý có thể phải trông cậy vào ngân sách nhà nước. Mặc dù, nguồn vốn để xử lý
nợ xấu chủ yếu từ quỹ dự phòng rủi ro của các TCTD và con số cụ thể về kinh
phí xử lý từ ngân sách Nhà nước chưa được đưa ra, nhưng nhìn vào dư nợ xấu
cũng có thể ước đoán có sự ảnh hưởng lớn đến ngân sách Nhà nước.
Trong khi đó, các nguồn thu ngân sách đang ngày càng khó khăn do sự
đình trệ của nền kinh tế. Về dài hạn, nếu việc xử lý nợ xấu gây ra bội chi ngân
sách sẽ tiềm ẩn rủi ro lạm phát, gây bất ổn nền kinh tế. Có thể nói, chính
những biện pháp sử dụng ngân sách, nới lỏng tín dụng những năm 2008 để



22

thúc đẩy nền kinh tế đã là một nhân tố gây ra lạm phát cao trong những năm
sau đó.
Hai là, khi nợ xấu gia tăng gây đình trệ nền kinh tế. Khi nợ xấu tăng,
ngân hàng phải trích lập sự phòng rủi ro, do đó lượng vốn đưa vào lưu thông
bị hạn chế. Nếu nợ xấu tăng quá cao, ngân hàng không được phép cho vay
đồng nghĩa với dòng huyết mạch của nền kinh tế bị nghẽn lại, các thành phần
khác của nền kinh tế (doanh nghiệp, hộ sản xuất,...) cũng không thể tiếp tục
kinh doanh. Trường hợp Nhật Bản là một ví dụ, năm 2000 Nhật Bản đã phải
chịu cả một “thập kỷ đánh mất” không tăng trường do nợ xấu quá cao. Điều
này sẽ gây ra những tác động xã hội như thật nghiệp, việc làm, an sinh xã hội.
Ba là, nợ xấu tăng đe dọa an toàn hoạt động của cả hệ thống ngân hàng.
Nếu nợ xấu không được xử lý kịp thời, có thể gây ra sự đổ vỡ của một số
ngân hàng yếu kém, khi đó nó sẽ có thể gây ra tác động lan truyền đến cả hệ
thống ngân hàng, gây mất niềm tin của người dân, của nhà đầu tư, của doanh
nghiệp, của các tổ chức quốc tế. Nghiêm trọng hơn nó có thể dẫn đến sự sụp
đổ của hệ thống tài chính quốc gia. Hiện nay, tỷ lệ vốn chủ sở hữu so với tổng
dư nợ vào khoảng 14% (trung bình cho cả hệ thống ngân hàng). Nghĩa là nợ
xấu chỉ cần tăng tới 14% là hệ thống ngân hàng đã có nguy cơ thâm hụt lớn
về vốn chủ sở hữu.
Bốn là, nợ xấu làm giảm lợi nhuận của các NHTM. Nợ xấu hạn chế khả
năng mở rộng và tăng trưởng tín dụng, khả năng kinh doanh của NHTM. Khi
mà nợ xấu tăng cao,thu nhập của ngân hàng giảm, thậm chí không còn lợi
nhuận do không thể thu hồi được nợ, lại phát sinh thêm chi phí trích lập dự
phòng, chi phí quản lý, xử lý nợ xấu và các chi phí khác liên quan. Đồng thời
việc gia tăng nợ xấu sẽ làm giảm uy tín của ngân hàng. Nếu tỷ lệ nợ xấu quá
cao, vượt quá giới hạn an toàn theo thông lệ quốc tế thì uy tín của NHTM

trong nước và quốc tế bị giảm sút nghiêm trọng.
1.2. QUẢN LÝ NỢ XẤU TẠI NGÂN HÀNG THƯƠNG MẠI


23

1.2.1. Sự cần thiết quản lý và xử lý nợ xấu tại ngân hàng thương mại
Quản lý nợ xấu là một quá trình xây dựng và thực hiện các chiến lược,
các chính sách quản lý và kinh doanh tín dụng để đạt được các mục tiêu là an
toàn, hiệu quả và phát triển bền vững, trong đó cần tăng cường các biện pháp
nhằm phòng ngừa và hạn chế phát sinh nợ xấu,đi kèm với việc xử lý các
khoản nợ xấu đã phát sinh, từ đó làm tăng doanh thu,giảm chi phí nâng cao
hiệu quả hoạt động kinh doanh của NHTM.
Hoạt động tín dụng đem lại thu nhập lớn nhất cho ngân hàng. Tổn thất
nếu xảy ra sẽ làm giảm thu nhập, có thể thua lỗ hoặc phá sản cho ngân hàng.
Vì vậy, an toàn tín dụng là nội dung chính trong quản lý rủi ro của mọi Ngân
hàng thương mại. Có hai mối liên hệ giữa rủi ro và sinh lời trong hoạt động
tín dụng. Trước khi tài trợ, mối quan hệ có thể là rủi ro cao hoặc thấp trong
ngắn hạn nhưng đều phải xác lập mối liên hệ giữa rủi ro và sinh lợi nhằm đảm
bảo tăng thu nhập cho ngân hàng trong dài hạn. Nghiên cứu và tìm ra các giải
pháp để hạn chế rủi ro phát sinh, giải quyết và bù đắp tổn thất đã xảy ra là
một trong những nội dung chính của quản lý tín dụng, nhằm đạt đýợc mục
tięu gia tăng thu nhập cho ngân hŕng tręn cő sở an toŕn của từng khoản vay,
của cả danh mục khoản vay.
1.2.2. Nội dung quản lý và xử lý nợ xấu của Ngân hang thương mại
Quản lý nợ xấu có ý nghĩa , vai trò vô cùng to lớn đối với công tác quản
lý nói riêng và toàn bộ hoạt động của ngân hàng nói chung. Do vậy, công tác
quản lý nợ xấu phải được xây dựng và triển khai một cách đúng đắn, khoa
học và phù hợp với thực tiễn của nền kinh tế .
1.2.2.1. Phòng ngừa nợ xấu phát sinh

Theo Thông tư số 02/2013/TT-NHNN ngày 21/1/2013 của Thống đốc
NHNN Việt Nam và Thông tư 09/2014/TT-NHNN ngày 18/3/2014 của
Thống đốc NHNN về việc sửa đổi, bổ sung một số điều của Thông tư 02, nợ


24

xấu chiếm tỷ lệ trong khoảng từ 2 - 5% là một tỷ lệ chấp nhận được. Ngân
hàng thương mại cần phải tập trung vào các biện pháp ngăn chặn nợ xấu sau
để có được một tỷ lệ nợ xấu thấp :
- Nâng cao chất lượng thẩm định tín dụng
Ngân hàng cần phải tiến hành hoạt động thẩm định đối với dự án vay,
khách hàng vay trước khi vay, trong cho vay và sau khi cho vay. Ngân hàng
dùng các biện pháp để kiểm tra lại tính khả thi và sinh lợi của dự án,khả năng
tài chính của khách hàng đi vay, đồng thời thường xuyên theo dõi tình hình
hoạt động của dự án sau khi giải ngân để đưa ra những nhận xét về khả năng
thu hồi vốn, cả gốc và lãi từ dự án. Khi đến kì hạn phải trả nợ, nếu thấy khách
hàng cố tình chây ỳ, lừa đảo, không có thiện ý hoàn trả nợ… thì ngân hàng
phải tiến hành thu nợ. Còn nếu mà khách hàng có thiện ý trả nợ nhưng gặp
khó khăn tạm thời thì ngân hàng có thể tiến hành các biện pháp hỗ trợ như gia
hạn nợ, giảm lãi suất, tiếp tục để khách hàng thu lợi nhuận trả ngân hàng.
Nâng cao chất lượng tín dụng, tăng cường các biện pháp phòng ngừa và
hạn chế rủi ro phải phù hơp với khả năng huy động vốn,kiểm soát rủi ro và
bảo đảm an toàn hệ thống.
Yêu cầu các tổ chức tín dụng phải phân tích, đánh giá các rủi ro có thể
xảy ra trong từng quy trình nghiệp vụ để thực hiện ngay các biện pháp phòng
ngừa, ngăn chặn rủi ro, rà soát, lựa chọn cán bộ có đầy đủ năng lực, trình độ,
phẩm chất và đạo đức để thực hiện các hoạt động nghiệp vụ; có cơ chế ủy
quyền, quy định trách nhiệm đối với cán bộ phụ trách và tác nghiệp. Theo
chức năng nhiệm vụ của mình, các đơn vị thuộc NHNN hoàn thiện cơ chế

thông tin, báo cáo,kiểm soát và xây dựng hệ thống cảnh báo rủi ro để nâng
cao khả năng quản lý thị trường ngoại hối, phát hiện một cách kịp thời những
rủi ro tiềm ẩn để có những biện pháp xử lý thích hợp.
Hoàn thiện cơ chế thông tin, báo cáo, kiểm soát, xây dựng hệ thống cảnh


25

báo để nâng cao khả năng quản lý, kiểm soát thị trường; đẩy nhanh việc xây
dựng các văn bản quy phạm pháp luật.
Đôn đốc các tổ chức tín dụng ban hành những quy định về tiêu chuẩn và
yêu cầu tối thiểu đối với hệ thống quản lý rủi ro trong thanh toán và áp dụng
công nghệ thông tin để đề xuất và triển khai đồng bộ các giải pháp phòng
ngừa rủi ro; sau đó tiếp tục ban hành sửa đổi, hoàn chỉnh chế độ kế toán cho
phù hợp với các chuẩn mực kế toán quốc tế …
- Xây dựng chiến lược hoạt động hợp lý
Chiến lược hoạt động của Ngân hàng một mặt cần phải mang lại thu
nhập cho ngân hàng, mặt khác cần phải đảm bảo khả năng thanh khoản. Ngân
hàng xây dựng và triển khai sản phẩm, dịch vụ truyền thống và hiện đại nhằm
phục vụ nhu cầu ngày càng cao của khách hàng cũng như sự phát triển của
nền kinh tế. Trong hệ thống các hoạt động của ngân hàng, nhất là hoạt động
tín dụng, hoạt động mang lại hơn 70% thu nhập cho ngân hàng,ngân hàng cần
phải xác định mức độ rủi ro tối đa, giới hạn tỷ lệ nợ xấu. Rủi ro luôn đi kèm
với hoạt động của bất kỳ ngân hàng nào, chúng ta có thể làm hạn chế tổn thất
của chúng, nhưng không thể ngăn ngừa chúng xuất hiện. Hoạt động ngân
hàng nằm trong giới hạn rủi ro, đó cũng là một thành công lớn của ngân hàng.
Ngân hàng phải xây dựng danh mục tài sản với các rủi ro có thể chấp
nhận được và danh mục nguồn vốn với chi phí thực sự hợp lý, phù hợp với
khả năng thanh khoản và thực tế ngành kinh tế,vùng kinh tế và cả nền kinh tế.
Ngân hàng đưa ra những sản phẩm và dịch vụ thu hút khách hàng với các

chính sách về lãi suất, phí, khách hàng… hợp lý trên cơ sở nghiên cứu kỹ
hành vi,tâm lý khách hàng và thị trường.
Ngân hàng phải xác định và tận dụng mọi lợi thế của mình trong việc
xác định chiến lược hoạt động ngắn hạn và cả trung dài hạn đồng thời hạn chế
những mặt còn chưa tốt trong nội tại của ngân hàng. Tập trung hoạt động vào


×