Tải bản đầy đủ (.doc) (50 trang)

THỰC TRẠNG BỆNH VIÊM tử CUNG TRÊN đàn lợn nái NUÔI tại TRANG TRẠI DOANH CHÍNH – HUYỆN văn GIANG –TỈNH HƯNG yên và THỬ NGHIỆM điều TRỊ BẰNG AMOXIL RETARD

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (321.09 KB, 50 trang )

HỌC VIỆN NÔNG NGHIỆP VIỆT NAM
KHOA THÚ Y
----------------------

KHÓA LUẬN TỐT NGHIỆP
Đề tài:
“THỰC TRẠNG BỆNH VIÊM TỬ CUNG TRÊN ĐÀN LỢN NÁI
NUÔI TẠI TRANG TRẠI DOANH CHÍNH – HUYỆN VĂN GIANG –
TỈNH HƯNG YÊN VÀ THỬ NGHIỆM ĐIỀU TRỊ BẰNG AMOXIL
RETARD”
Người thực hiện:
Lớp:
Người hướng dẫn:
Bộ môn:
Khoa:

SV. Phạm Hồng Quân
Thú y c –K55
ThS.Đào Công Duẩn
Nội - Chuẩn
Thú y

Thời gian: Từ tháng 31/7/2014 đến tháng 31/10/2014
Địa điểm:Trại lợn Doanh Chính –Tân Tiến –Văn Giang –Hưng Yên

HÀ NỘI - 2014


Lời cảm ơn
Để hoàn thành khóa luận tôt nghiệp, ngoài sự nỗ lực hết mình của bản thân,
tôi luôn nhận được sự giúp đỡ của các thầy cô khoa thú y Học Viện Nông Nghiệp


Việt Nam, các thầy cô trong bộ môn Nội –Chuẩn,vợ chồng chú Vũ Đức Chính
cùng toàn thể mọi nời cùng làm việc tai nơi tôi thực tập ,cùng với sự quan tâm giúp
đỡ của gia đình bạn bè đã tao điều kiện cho tôi hoàn thành khóa luận tôt nghiệp.
Đặc biệt tôi xin bày tỏ lòng biết ơn sâu sắc về sự giúp đỡ tận tình của thầy
giáo Ths.Đào Công Duẩn – Giảng viên khoa thú Học Viện Nông Nghiệp Việt Nam,
người đã hướng dẫn tôi hoàn thành khóa luân tôt nghiệp này.
Qua đây tôi cũng xin trân thành cảm ơn tới vợ chồng chú Vũ Đức Chính
(chủ trại), anh Hưởng kỹ thuật trại, cùng toàn thể anh chị em làm việc tai trại đã
nhiệt tình giúp đỡ nhiệt tình tôi trong thời gian tôi thực tập tại cơ sở để hoàn thành
khóa luân tốt nghiệp.
Đồng thời tôi cũng xin gửi lơi cảm ơn tới gia đình, bạn bè,những người đã
luôn ủng hộ, tạo điều kiện cho tôi hoàn thành tốt khóa luận của mình
Một lần nữa tôi xin trân thành cảm ơn!

Hà Nội, ngày 31 tháng 10 năm 2014
Sinh Viên
Phạm Hồng Quân

2


MỤC LỤC
DANH MỤC BẢNG
Bảng 2.1. Các tiêu chí chẩn đoán viêm tử cung
Bảng 4.1. Cơ cấu đàn lợn của trại lợn nái DOANH CHÍNH, huyện Văn Giang, tỉnh
Hưng Yên trong thời gian thực tập
Bảng 4.2. Tình hình bệnh viêm tử cung trên đàn lợn nái nuôi tại trại lợn DOANH
CHÍNH trong 3 năm 2012, 2013 và Tháng 09/2014
Bảng 4.3. Tỷ lệ viêm tử cung trên đàn lợn nái nuôi tại trại lợn DOANH CHÍNH
qua các giai đoạn

Bảng 4.4: Kết quả thử nghiệm phòng bệnh viêm tử cung
Bảng 4.5. Kết quả điều trị bệnh viêm tử cung và khả năng sinh sản của lợn nái sau
khi khỏi bệnh tại trại lợn DOANH CHÍNH

3


DANH MỤC HÌNH
Hình 1:
Hình 2:
Hình 3:
Hình 4:

DANH MỤC CÁC TỪ VIẾT TẮT
n

:Số mẫu theo dõi

P

:Trọng lượng

FSH

:Folliculo Stimulin Hormone

LH

:Lutein Hormone


4


Phần I

MỞ ĐẦU
1.1. ĐẶT VẤN ĐỀ
Trong những năm gần đây, nền kinh tế nước ta đang có những bước phát
triển nhảy vọt, kéo theo đó ngành chăn nuôi cũng phát triển không ngừng. Nhiều
vùng chăn nuôi đã chuyển dần phương thức chăn nuôi truyền thống tận dụng các
sản phẩm nông nghiệp sang chăn nuôi lợn ngoại theo hình thức nuôi công nghiệp.
Để chăn nuôi đàn lợn ngoại đạt hiệu quả cao bên cạnh các yếu tố về thức ăn,
chuồng trại, kỹ thuật chăn nuôi thì một trong những yếu tố hết sức quan trọng cần
được đảm bảo là phải có đàn giống tốt. Điều này phụ thuộc rất lớn vào năng suất
sinh sản của đàn lợn nái ngoại.
Tuy nhiên một trong những bệnh làm hạn chế khả năng sinh sản của đàn lợn
nái là các bệnh về sinh sản đặc biệt là bệnh viêm tử cung chiếm tỉ lệ cao. Bệnh này
không những làm ảnh hưởng trực tiếp tới khả năng sinh sản của lợn mẹ mà còn là
một trong những nguyên nhân làm tăng cao tỉ lệ mắc bệnh tiêu chảy ở đàn lợn con
đang trong thời gian theo mẹ, do đó chất lượng của đàn giống bị ảnh hưởng. Nếu
không điều trị kịp thời có thể kế phát viêm vú, mất sữa, nặng có thể dẫn tới rối loạn
sinh sản, chậm sinh, vô sinh, viêm phúc mạc và có thể chết.
Những vấn đề nêu trên chỉ ra rằng việc nghiên cứu về bệnh viêm tử
cung ở đàn lợn nái ngoại và tìm ra phương pháp phòng trị bệnh là một việc là cần
thiết. Với mục đích góp phần nâng cao năng suất sinh sản của đàn lợn nái ngoại,
đồng thời bổ sung vào các tài liệu nghiên cứu về lĩnh vực sinh sản của giống lợn
nái ngoại tôi tiến hành nghiên cứu đề tài: Thực trạng bệnh viêm tử cung trên đàn

5



lợn nái nuôi tại trang trại Doanh Chính –huyện Văn Giang- Tỉnh Hưng Yên
và thử nghiệm điều trị bằng amoxil retard
1.2.MỤC ĐÍCH CỦA ĐỀ TÀI
- Khảo sát tình hình chăn nuôi của trại giống Doanh Chính – Tân Tiến- Văn
Giang- Hưng Yên.
- Xác định thực trạng mắc bệnh viêm tử cung của đàn lợn nái ngoại nuôi tại trang
trại Doanh Chính –Văn Giang -Hưng Yên.
- Đánh giá ảnh hưởng của bệnh viêm tử cung đến năng suất của lợn nái.
- Đưa ra quy trình phòng và điều trị bệnh viêm tử cung của đàn lợn nái ngoại nuôi
tại trang trại.

6


Phần II
TỔNG QUAN TÀI LIỆU
2.1 ĐẶC ĐIỂM GIẢI PHẪU CƠ QUAN SINH SẢN CỦA LỢN NÁI
Bộ phận sinh dục của lợn nái được chia thành bộ phận sinh dục bên trong
(buồng trứng, ống dẫn trứng, tử cung, âm đạo) và bộ phận sinh dục bên ngoài (âm
môn, âm vật, tiền đình).
2.1.1. Buồng trứng (Ovarium)
Buồng trứng của lợn gồm một đôi treo ở cạnh trước dây chằng rộng, nằm
trong xoang chậu. Hình dáng của buồng trứng rất đa dạng nhưng phần lớn có hình
bầu dục hoặc hình ovan dẹt, không có lõm rụng trứng.
Buồng trứng có hai chức năng cơ bản là tạo giao tử cái và tiết các hocmon:
estrogen, progesterone, oxytoxin, relaxin và inhibin. Các hocmon này tham gia vào
việc điều khiển chu kỳ sinh sản của lợn nái. Estrogen cần thiết cho sự phát triển
của cơ xương, tử cung và hệ thống ống dẫn của tuyến vú. Progesterone do thể vàng
tiết ra giúp duy trì sự mang thai do nó kích thích phân tiết của tử cung để nuôi

dưỡng thai, ức chế sự co thắt của tử cung và phát triển nang tạo sữa của tuyến vú.
Oxytoxin được tiết chủ yếu bởi phần sau của tuyến yên nhưng cũng dược tiết bởi thể
vàng ở buồng trứng khi thú gần sinh, nó làm co thắt cơ tử cung trong lúc sinh đẻ và
cũng làm co thắt cơ trơn tuyến vú để thải sữa. Ở lợn, relaxin do thể vàng tiết ra để
gây dãn nở xương chậu, làm dãn và mềm cổ tử cung, do đó mở rộng đường sinh dục
khi gần sinh. Inhibin có tác dụng ức chế sự phân tiết kích tố noãn (FSH) từ tuyến
yên, do đó ức chế sự phát triển nang noãn theo chu kỳ (Trần Thị Dân, 2004). Ở bề
mặt ngoài của buồng trứng có một lớp liên kết được bao bọc bởi lớp biểu mô hình
lập phương. Bên dưới lớp này là lớp vỏ chứa các noãn nang, thể vàng, thể trắng

7


( thể vàng thoái hóa ). Phần tủy nằm của buồng trứng nằm ở giữa, gồm có mạch
máu, dây thần kinh, mạch bạch huyết và mô liên kết. Miền vỏ có tác dụng về sinh
dục vì ở đó xảy ra quá trình trứng chín và rụng trứng. Trên buồng trứng có từ
70.000 – 100.000 noãn bào ở các giai đoạn khác nhau, tầng ngoài cùng là những
noãn bào sơ cấp phân bố tương đối đều, tầng trong là những noãn bào thứ cấp đang
sinh trưởng, khi noãn bao chín sẽ nổi lên bề mặt buồng trứng (Khuất Văn Dũng,
2005). Có 4 loại noãn nang trong buồng trứng: Noãn nang nguyên thủy nhỏ nhất và
được bao bọc bởi lớp tế bào vảy. Noãn nang nguyên thủy phát triển thành noãn
nang bậc một, nó được bao bọc bởi một lớp tế bào biểu mô hình lập phương (tế bào
nang). Khi được sinh ra bưồng trứng đã có sẵn hai loại noãn nang này. Noãn nang
bậc một có thể bị thoái hóa hoặc phát triển thành noãn nang bậc hai. Noãn nang bậc
hai có hai hoặc nhiều lớp tế bào nang nhưng không có xoang nang (là khoảng
trống chứa dịch nang). Noãn nang có xoang được xem như noãn nang bậc ba,chứa
dịch nang và có thể trở nên trội hẳn để chuẩn bị xuất noãn ( nang Graaf ). Noãn
nang có xoang bao gồm 3 lớp: lớp bao ngoài, lớp bao trong và lớp tế bào hạt. Lớp
bao ngoài là mô liên kết lỏng lẻo. Lớp bao trong sản xuất androgen dưới tác dụng
của LH. Lớp tế bào hạt tách rời lớp bao trong bởi màng đáy mỏng. Tế bào hạt sản

xuất nhiều chất sinh học và trên bề mặt tế bào có thụ thể (receptor) tiếp nhận kích
thích tố LH. Những chất quan trọng được sản xuất bởi tế bào hạt là estrogen,
inhibin và dịch nang.
Khi nang Graaf xuất noãn, những mạch máu nhỏ bị vỡ và gây xuất huyết tại
chỗ. Sau khi xuất noãn, phần còn lại của nang noãn cùng với vết xuất huyết được
gọi là thể xuất huyết với kích thước nhỏ hơn nang noãn nhiều lần. Sau đó tế bào
bao trong và tế bào hạt biệt hóa thành tế bào thể vàng để tạo nên thể vàng, (Trần
Thị Dân, 2004).
2.1.2. Ống dẫn trứng (Oviductus)

8


Ống dẫn trứng (vòi Fallop) gồm có phễu, phần rộng và phần eo. Phễu mở ra
để tiếp nhận noãn và có những sợi lông nhung để gia tăng diện tích tiếp xúc với
buồng trứng khi xuất noãn. Phễu tiếp nối với phần rộng. Phần rộng chiếm khoảng
½ chiều dài của ống dẫn trứng, đường kính tương đối lớn và mặt trong có nhiều nếp
với tế bào biểu mô có lông nhỏ. Phần eo nối tiếp sừng tử cung, nó có thành dày hơn
phần rộng và ít nếp gấp hơn.
Vai trò cơ bản của ống dẫn trứng là vận chuyển noãn và tinh trùng đến nơi
thụ tinh trong ống dẫn trứng (1/3 phía trên ống dẫn trứng ), tiết các chất để nuôi
dưỡng noãn, duy trì sự sống và gia tăng khả năng thụ tinh của tinh trùng, tiết các
chất nuôi dưỡng phôi trong vài ngày trước khi phôi đi vào tử cung. Nơi tiếp giáp
giữa phần eo và tử cung có vai trò điều khiển sự di chuyển của tinh trùng đến phần
rộng của ống dẫn trứng hoặc di chuyển của phôi vào tử cung. Ở lợn, sự co thắt của
nơi tiếp giáp eo – tử cung tạo thành cái cản đối với tinh trùng để không có quá
nhiều tinh trùng đi đến phần rộng, nhờ đó tránh được hiện tượng nhiều tinh trùng
xâm nhập noãn.
2.1.3. Tử cung (Uterus)
Tử cung nằm trong xoang chậu, dưới trực tràng, trên bàng quang và niệu đạo

trong xoang chậu, 2 sừng tử cung ở phần trước xoang chậu. Tử cung được giữ tại
chỗ nhờ sự bám của âm đạo vào cổ tử cung và được giữ bởi các dây chằng.
Tử cung lợn thuộc loại tử cung sừng kép, gồm 2 sừng thông với một thân và
cổ tử cung:
Sừng tử cung dài 50 – 10 cm, hình ruột non, thông với ống dẫn trứng.
Thân tử cung dài 3 – 5cm
Cổ tử cung lợn dài 10 – 18cm, có thành dày, hình trụ, có các cột thịt xếp theo
kiểu cài răng lược, thông với âm đạo.

9


Vách tử cung gồm 3 lớp từ ngoài vào trong: lớp tương mạc, lớp cơ trơn, lớp
nội mạc.
- Lớp tương mạc: là lớp màng sợi, dai, chắc phủ mặt ngoài tử cung và nối
tiếp vào hệ thống các dây chằng.
- Lớp cơ trơn: gồm cơ vòng rất dày ở trong, cơ dọc mỏng hơn ở ngoài. Giữa
2 tầng cơ chứa tổ chức liên kết sợi đàn hồi và mạch quản, đặc biệt là nhiều tĩnh
mạch lớn. Ngoài ra, các bó sợi cơ trơn đan vào nhau theo mọi hướng làm thành
mạng vừa dày vừa chắc. Cơ trơn là lớp cơ dày và khoẻ nhất trong cơ thể. Do vậy,
nó có đặc tính co thắt ( Đặng Đình Tín, 1986)
Theo (Trần Thị Dân, 2004) , trương lực co càng cao ( tử cung trở nên cứng)
khi có nhiều estrogen trong máu và trương lực co giảm ( tử cung mềm ) khi có nhiều
progesterone trong máu. Vai trò của cơ tử cung là góp phần cho sự di chuyển của
tinh trùng và chất nhày trong tử cung, đồng thời đẩy thai ra ngoài khi sinh đẻ. Khi
mang thai, sự co thắt của cơ tử cung giảm đi dưới tác dụng của progesterone, nhờ
vậy phôi thai có thể bám chắc vào tử cung.
- Lớp nội mạc tử cung: là lớp niêm mạc màu hồng được phủ bởi một lớp tế
bào biểu mô hình trụ, xen kẽ có các ống đổ của các tuyến nhày tử cung. Nhiều tế
bào biểu mô kéo dài thành lông rung, khi lông rung động thì gạt những chất nhày

tiết ra về phía cổ tử cung. Trên niêm mạc có các nếp gấp.
Lớp nội mạc tử cung có nhiệm vụ tiết các chất vào lòng tử cung để giúp phôi
thai phát triển và duy trì sự sống của tinh trùng trong thời gian di chuyển đến ống
dẫn trứng. Dưới ảnh hưởng của estrogen, các tuyến tử cung phát triển từ lớp màng
nhày, xâm nhập vào lớp dưới màng nhày và cuộn lại. Tuy nhiên các tuyến chỉ đạt
được khả năng phân tiết tối đa khi có tác dụng của progesterone. Sự phân tiết của
tuyến tử cung thay đổi tuỳ theo giai đoạn của chu kỳ lên giống.
2.1.4. Âm đạo (Vagina)

10


Âm đạo nối sau tử cung, trước âm hộ, đầu trước giáp cổ tử cung, đầu sau
thông ra tiền đình, giữa âm đạo và tiền đình có nếp gấp niêm mạc gọi là màng
trinh.
Âm đạo là một ống tròn chứa cơ quan sinh dục đực khi giao phối, đồng
thời là bộ phận cho thai đi ra ngoài trong quá trình sinh đẻ và là ống thải các chất
dịch từ tử cung.
Âm đạo có cấu tạo gồm 3 lớp:
- Lớp liên kết ở ngoài.
- Lớp cơ trơn: có cơ dọc bên ngoài, cơ vòng bên trong. Các lớp cơ âm đạo
liên kết với các lớp cơ ở cổ tử cung.
- Lớp niêm Theo Đặng Đình Tín (1986), âm đạo lợn dài 10 – 12cm.
2.1.5. Tiền đình (Vestibulum vaginae sinusinogenitalism)
Là giới hạn giữa âm đạo và âm hộ. Tiền đình bao gồm:
- Màng trinh là một nếp gấp gồm 2 lá, phía trước thông với âm đạo, phía
sau thông với âm hộ.Màng trinh gồm các sợi cơ đàn hồi ở giữa và do 2 lá niêm mạc
gấp lại thành một nếp.
- Lỗ niệu đạo ở sau và dưới màng trinh.
- Hành tiền đình là 2 tạng cương ở 2 bên lỗ niệu đạo. Cấu tạo giống thể

hổng ở bao dương vật của con đực
Tiền đình có một số tuyến, các tuyến này xếp theo hang chéo, hướng quay về
âm vật.
2.1.6. Âm vật (Clitoris)
Âm vật có cấu tạo như dương vật nhưng thu nhỏ lại và là tạng cương của
đường sinh dục cái, được dính vào phần trên khớp bán động ngồi, bị bao xung
quanh bởi cơ ngồi hổng.
Âm vật được phủ bởi lớp niêm mạc có chứa các đầu mút thần kinh

11


cảm giác, lớp thể hổng và tổ chức liên kết bao bọc gọi là mạc âm vật.
2.1.7. Âm hộ (Vulva)
Âm hộ hay còn gọi là âm môn, nằm dưới hậu môn và ngăn cách với nó bởi
vùng hồi âm. Bên ngoài có 2 môi đính với nhau ở mép trên và mép dưới. Môi âm
hộ có sắc tố đen, tuyến mồ hôi, tuyến bã tiết ra chất nhờn trong và hơi dính.
2.2. MỘT SỐ HIỂU BIẾT VỀ BỆNH VIÊM TỬ CUNG Ở LỢN NÁI
2.2.1. Nguyên nhân của bệnh viêm tử cung.
Theo Trần Tiến Dũng, Dương Đình Long, Nguyễn Văn Thanh (2002), viêm tử
cung là một quá trình bệnh lý thường xảy ra ở gia súc cái sinh sản sau đẻ. Quá trình
viêm phá huỷ các tế bào tổ chức của các lớp hay các tầng tử cung gây rối loạn sinh
sản ở gia súc cái làm ảnh hưởng lớn, thậm chí làm mất khả năng sinh sản ở gia súc
cái.
Bệnh thường xảy ra do một số nguyên nhân sau: công tác phối giống không
đúng kỹ thuật, can thiệp khi nái đẻ khó, vi sinh vật, do phối giống trực tiếp, nái sau
đẻ bị sát nhau và do khâu vệ sinh:
- Công tác phối giống không đúng kỹ thuật:
Những năm gần đây cùng với sự phát triển của khoa học kỹ thuật thì phương
pháp thụ tinh nhân tạo đang được áp rộng rãi, ngoài những ưu điểm so với phương

pháp thụ tinh trực tiếp thì phương pháp này cũng tiềm ẩn một số nguy cơ gây bệnh.
Phương pháp này làm xây xát niêm mạc tử cung, dụng cụ dẫn tinh không được vô
trùng khi phối giống hoặc tay của người phối không được sát trùng cẩn thận mà
cầm vào ống dẫn tinh sẽ làm cho vi khuẩn từ ngoài vào tử cung lợn nái gây viêm.
- Lợn nái đẻ khó và phải can thiệp bằng tay:
Thông thường trong quá trình đẻ tử cung co bóp rất mạnh để đẩy thai ra ngoài,
tuy nhiên trong một số trường hợp lợn đẻ khó do tử cung co bóp yếu, tiêm
Oxytocin để tăng cường co bóp cổ tử cung nhưng ít hiệu quả, vì vậy phải can thiệp

12


bằng tay để đưa con ra ngoài.Trong quá trình thao tác làm có thể niêm mạc tử cung
bị xây sát, tổn thương, vi khuẩn xâm nhập và phát triển gây viêm.
- Do vi sinh vật:
Hầu hết các trường hợp viêm tử cung đều có sự hiện diện của vi sinh vật cơ
hội thường xuyên có mặt trong chuồng nuôi. Lợi dụng lúc sinh sản tử cung, âm đạo
tổn thương chứa nhiều sản dịch, vi khuẩn xâm nhập đường sinh dục gây viêm tử
cung. Một số vi khuẩn gây bệnh thường là: Staphylococcus, Escherichia coli
(E.coli), Streptococcus, Klebsiella.
- Lợn nái phối giống trực tiếp:
Lợn đực mắc bệnh viêm bao dương vật hoặc mang vi khuẩn từ những con lợn
nái khác đã bị viêm tử cung, viêm âm đạo. Khi sử dụng lợn đực mang vi khuẩn để
phối chúng sẽ truyền sang cho lợn nái khoẻ mạnh.
- Lợn nái sau đẻ bị sát nhau xử lý không triệt để:
Sót nhau rất thường gặp trong chăm nuôi heo nái, nhất là ở những đàn có chế
độ chăm sóc nuôi dưỡng kém, điều kiện vệ sinh không tốt. Bệnh thường do hai
nguyên nhân chính: do heo nái bị viêm nhiễm thường xuyên khi mang thai và do
thức ăn kém chất lượng, nhất là khi thức ăn thiếu các khoáng vi lượng và vitamin.
Lợn nái sau đẻ bị sát nhau xử lý không triệt để có thể dẫn đến viêm tử cung.

- Do kế phát từ một số bệnh truyền nhiễm như:
Sẩy thai truyền nhiễm, phó thương hàn, bệnh lao gây viêm. Lợn mẹ mắc bệnh
sảy thai truyền nhiễm làm cho nhau thai con và nhau thai mẹ dính chặt với nhau
nên mặc dù tử cung co bóp bình thường nhưng nhau thai mẹ và nhau thai con
không thể tách rời nhau được dẫn đấn việc bị sát nhau và cuối cùng là viêm tử
cung.
- Do khâu vệ sinh:
Vệ sinh chuồng đẻ vệ sinh bộ phận sinh dục lợn nái trước và sau đẻ không

13


sạch sẽ, trong thời gian đẻ cổ tử cung mở vi sinh vật có điều kiện để xâm nhập vào
gây viêm.
Ngoài các nguyên nhân kể trên viêm tử cung còn có thể là biến chứng nhiễm
trùng do vi khuẩn xâm nhập vào dạ con gây nên trong thời gian động đực (vì lúc đó
cổ tử cung mở), vi khuẩn xâm nhập vào tử cung theo đường máu và viêm tử cung
là một trong những triệu chứng lâm sàng chung (Theo Lê Văn Năm và cộng sự,
1997).
Theo Hội thú y Việt Nam (1995), bệnh viêm tử cung và các bệnh ở đường
tiết niệu có mối quan hệ với nhau, vi khuẩn trong nước tiểu cũng phát triển trong
âm đạo và việc gây nhiễm ngược lên tử cung là rất dễ xảy ra.
Nhiễm khẩn tử cung qua đường máu là do vi khuẩn sinh trưởng ở một cơ
quan nào đó có kèm theo bại huyết, do vậy có trường hợp lợn hậu bị chưa phối
nhưng đã bị viêm tử cung.
2.2.2. Các thể viêm tử cung
Theo Đặng Đình Tín (1985), bệnh viêm tử cung được chia làm 3 thể: viêm
tương mạc tử cung, viêm cơ tử cung, viêm nội mạc tử cung.
2.2.2.1. Viêm tương mạc tử cung (Perimestritis Puerperalis)
Theo Đặng Đình Tín (1995), viêm tương mạc tử cung thường kế phát từ viêm

cơ tử cung. Thể viêm này thường cấp tính cục bộ, toàn thân xuất hiện những triệu
chứng điển hình và nặng. Lúc đầu lớp tương mạc tử cung có màu hồng, sau chuyển
sang đỏ sẫm, sần sùi mất tính trơn bóng. Sau đó các tế bào bị hoại tử và bong ra,
dịch thẩm xuất tăng tiết. Nếu bị viêm nặng, nhất là viêm có mủ, lớp tương mạc có
thể dính với các tổ chức xung quanh gây nên tình trạng viêm mô tử cung ( thể
Paramestritis ), thành tử cung dày lên, có thể kế phát viêm phúc mạc.
Lợn nái biểu hiện triệu chứng toàn thân: nhiệt độ tăng cao, mạch nhanh, con
vật ủ rũ, mệt mỏi, uể oải, đại tiểu tiện khó khăn, ăn uống kém hoặc bỏ ăn. Lượng

14


sữa rất ít hoặc mất hẳn, thường kế phát viêm vú. Con vật luôn biểu hiện trạng thái
đau đớn, khó chịu, lưng và đuôi cong, rặn liên tục. Từ âm hộ thải ra ngoài rất nhiều
hỗn dịch lẫn mủ và tổ chức hoại tử, có màu nâu và mùi thối khắm. Khi kích thích
vào thành bụng thấy con vật có phản xạ đau rõ hơn, rặn nhanh hơn, từ âm hộ dịch
chảy ra nhiều hơn.Trường hợp một số vùng của tương mạc đã dính với các bộ phân
xung quanh thì có thể phát hiện được trạng thái thay đổi về vị trí và hình dáng của
tử cung, có khi không tìm thấy
một hoặc cả hai buồng trứng. Nếu điều trị không kịp thời sẽ chuyển thành
viêm mãn tính, tương mạc đã dính với các bộ phân xung quanh thì quá trình thụ
tinh và sinh đẻ lần sau sẽ gặp nhiều khó khăn, có thể dẫn tới vô sinh. Thể viêm này
thường kế phát bệnh viêm phúc mạc, bại huyết, huyết nhiễm mủ.
2.2.2.2. Viêm cơ tử cung (Myomestritis Puerperalis)
Theo Nguyễn Hữu Ninh, Bạch Đăng Phong (2000), viêm cơ tử cung thường
kế phát từ viêm nội mạc tử cung thể màng giả. Niêm mạc tử cung bị thấm dịch
thẩm xuất, vi khuẩn xâm nhập và phát triển sâu vào tổ chức làm niêm mạc bị phân
giải, thối rữa gây tổn thương cho mạch quản và lâm ba quản, từ đó làm lớp cơ và
một ít lớp tương mạc của tử cung bị hoại tử. Nếu bệnh nặng, can thiệp chậm có thể
dẫn tới nhiễm trùng toàn thân, huyết nhiễm trùng hoặc huyết nhiễm mủ. Có khi do

lớp cơ và lớp tương mạc của tử cung bị phân giải mà tử cung bị thủng hoặc tử cung
bị hoại tử từng đám to.
Lợn nái bị bệnh này thường biểu hiện triệu chứng toàn thân rõ: thân nhiệt tăng
cao, mệt mỏi, ủ rũ, ăn uống giảm, lượng sữa giảm hoặc mất hẳn. Mép âm đạo tím
thẫm, niêm mạc âm đạo khô, nóng màu đỏ thẫm. Gia súc
biểu hiện trạng thái đau đớn, rặn liên tục. Từ cơ quan sinh dục luôn thải ra
ngoài hỗn dịch màu đỏ nâu, lợn cợn mủ và những mảnh tổ chức thối rữa nên có
mùi tanh, thối. Con vật thường kế phát viêm vú, có khi viêm phúc mạc.

15


Thể viêm này thường ảnh hưởng đến quá trình thụ thai và sinh đẻ lần sau. Có
trường hợp điều trị khỏi nhưng gia súc vô sinh.
2.2.2.3. Viêm nội mạc tử cung (Endomestritis)
Theo Nguyễn Văn Thanh (1999), viêm nội mạc tử cung là viêm lớp niêm mạc
của tử cung, đây là một trong các nguyên nhân làm giảm khả năng sinh sản của gia
súc cái, nó cũng là bệnh phổ biến và chiếm tỉ lệ cao trong các bệnh của viêm tử
cung. Viêm nội mạc tử cung thường xảy ra sau khi gia súc sinh đẻ, nhất là trong
trường hợp đẻ khó phải can thiệp làm niêm mạc tử cung bị tổn thương, tiếp đó các
vi khuẩn Streptococcus, Staphylococcus, E.coli, Salmonella, C.pyogenes,
Bruccella, roi trùng Trichomonas Foetus xâm nhập và tác động lên lớp niêm mạc
gây viêm.
Theo Nguyễn Hữu Ninh, Bạch Đăng Phong (2000), bệnh viêm nội mạc tử
cung có thể chia 2 loại:
- Viêm nội mạc tử cung thể cata cấp tính có mủ, chỉ gây tổn thương ở niêm
mạc tử cung.
- Viêm nội mạc tử cung thể màng giả, tổ chức niêm mạc đã bị hoại tử, tổn
thương lan sâu xuống dưới tầng cơ của tử cung và chuyển thành viêm hoại tử.
*Viêm nội mạc tử cung thể cata cấp tính có mủ (Endomestritis Puerperalis)

Lợn bị bệnh này thân nhiệt hơi cao, ăn kém, lượng sữa giảm. Con vật có trạng
thái đau đớn nhẹ, có khi con vật cong lưng rặn, tỏ vẻ không yên tĩnh. Từ âm hộ
chảy ra hỗn dịch, niêm dịch lẫn với dịch viêm, mủ, lợn cợn những mảnh tổ chức
chết. Khi con vật năm xuống, dịch viêm thải ra ngày càng nhiều hơn. Xung quanh
âm môn, gốc đuôi, hai bên mông dính nhiều dịch
viêm, có khi nó khô lại thành từng đám vảy màu trắng xám. Kiểm tra qua âm
đạo, niêm dịch và dịch rỉ viêm thải ra nhiều. Cổ tử cung hơi mở và có mủ chảy qua
cổ tử cung. Niêm mạc âm đạo bình thường.

16


* Viêm nội mạc tử cung thể màng giả
Ở thể viêm này, niêm mạc tử cung thường bị hoại tử. Những vết thương đã ăn
sâu vào tầng cơ của tử cung và chuyển thành hoại tử. Lợn nái mắc bệnh này thường
xuất hiện triệu chứng toàn thân rõ: thân nhiệt tăng cao, lượng sữa giảm có khi hoàn
toàn mất sữa, kế phát viêm vú, ăn uống giảm xuống. Con vật đau đớn, luôn rặn,
lưng và đuôi cong lên. Từ cơ quan sinh dục luông thải ra ngoài hỗn dịch: dịch
viêm, máu, mủ, lợn cợn những mảnh tổ chức hoại tử, niêm dịch.
2.2.3. Chẩn đoán viêm tử cung.
Theo Hội thú y Việt Nam (1995), xuất phát từ quan điểm lâm sàng thì bệnh
viêm tử cung thường biểu hiện vào lúc đẻ và thời kì tiền động đực, vì đây là thời
gian cổ tử cung mở nên dịch viêm có thể chảy ra ngoài. Số lượng mủ không ổn
định, từ vài ml cho tới 200ml hoặc hơn nữa. Tính chất mủ cũng khác nhau, từ dạng
dung dịch màu trắng loãng cho tới màu xám hoặc vàng, đặc như kem, có thể màu
máu cá. Người ta thấy rằng thời kì sau sinh đẻ hay xuất hiện viêm tử cung cấp tính,
viêm tử cung mạn tính thường gặp trong thời
kì cho sữa. Hiện tượng chảy mủ ở âm hộ có thể cho phép nghi viêm nội mạc
tử cung.
Tuy nhiên, cần phải đánh giá chính xác tính chất của mủ, đôi khi có những

mảnh trắng giống như mủ đọng lại ở âm hộ nhưng lại có thể là chất kết tinh của
nước tiểu từ trong bàng quang chảy ra. Các chất đọng ở âm hộ lợn nái còn có thể là
do viêm bàng quang có mủ gây ra.Khi lợn nái măng thai, cổ tử cung sẽ đóng rất
chặt vì vậy nếu có mủ chảy ra thì có thể là do viêm bàng quang. Nếu mủ chảy ở
thời kỳ động đực thì có thể bị nhầm lẫn.
Như vậy, việc kiểm tra mủ chảy ra ở âm hộ chỉ có tính chất tương đối. Với
một trại có nhiều biểu hiện mủ chảy ra ở âm hộ, ngoài việc kiểm tra mủ nên kết
hợp xét nghiệm nước tiểu và kiểm tra cơ quan tiết niệu sinh dục. Mặt khác, nên kết

17


hợp với đặc điểm sinh lý sinh dục của lợn nái để chẩn đoán cho chính xác.
Mỗi thể viêm khác nhau biểu hiện triệu chứng khác nhau và có mức độ ảnh
hưởng khác nhau tới khả năng sinh sản của lợn nái. Để hạn chế tối thiểu hậu quả do
viêm tử cung gây ra cần phải chẩn đoán chính xác mỗi thể viên từ đó đưa ra phác
đồ điều trị tối ưu nhằm đạt được hiệu quả điều trị cao nhất, thời gian điều trị ngắn
nhất, chi phí điều trị thấp nhất.
Để chẩn đoán người ta dựa vào những triệu chứng điển hình ở cục bộ cơ quan
sinh dục và triệu chứng toàn thân. Có thể dựa vào các chỉ tiêu ở bảng sau:
Bảng 2.1: Các chỉ tiêu chẩn đoán viêm tử cung
Các tiêu chí để
phân biệt
Sốt

Dịch viêm
- Màu
- Mùi

Viêm nội mạc


Viêm cơ

Sốt nhẹ

Sốt cao

Trắng xám,

Hồng,nâu

trắng sữa

đỏ

Tanh

Tanh thối

Phản ứng đau

Đau nhẹ

Phản ứng co

Phản ứng co

của cơ tử cung

giảm


phần hoặc hoàn
toàn

Nguồn:

18

tương mạc
Sốt rất
cao
Nâu rỉ
sắt
Thối
khắm
Đau rất


Phản ứng
co

rất

yếu
Bỏ ăn một

Bỏ ăn

Đau rõ


Viêm

Phản
ứng co mất
hẳn

Bỏ ăn

Bỏ ăn

hoàn toàn

hoàn toàn


* Đối với lợn nái sau khi đẻ có thể dựa trên cách tính điểm sau:
+ Số ngày chảy mủ, tính từ ngày đầu tới ngày thứ 5 sau khi sinh, 1 ngày = 1
điểm.
+ Bỏ ăn từ ngày đầu tới ngày thứ 5 sau khi sinh, 1 ngày = 1 điểm, nếu bỏ ăn
một phần tính ½ điểm.
+ Ngưỡng thân nhiệt để tính sốt và số ngày bị sốt là 39.80C, 1 ngày = 1 điểm.
*Tổng số điểm được dùng để đánh giá mức độ nghiêm trọng của bệnh như
sau:
+ Tổng số điểm dưới 1 điểm: không có vấn đề.
+ Tổng số điểm từ 2 đến 5 điểm: mắc bệnh nhẹ đến trung bình.
+ Tổng số điểm trên 6: bệnh nghiêm trọng.
Tóm lại: chẩn đoán viêm tử cung cần rất cẩn thận, phải theo dõi thường
xuyên vì mủ chảy ra ở âm hộ chỉ mang tính chất thời điểm và có khi viêm tử cung
nhưng không sinh mủ.
2.2.4. Hậu quả của bệnh viêm tử cung

Tử cung là một trong những bộ phận quan trọng nhất trong cơ quan sinh dục
của lợn nái, nếu tử cung xảy ra bất kỳ quá trình bệnh lý nào thì đều ảnh hưởng rất
lớn tới khả năng sinh sản của lợn mẹ và sự sinh trưởng, phát triển của lợn con.
Đánh giá được hậu quả của viêm tử cung nên đã có rất nhiều nhà khoa học
nghiên cứu về bệnh và đưa ra các nhận xét có ý nghĩa rất lớn cho quá trình chẩn
đoán, phòng và điều trị bệnh.
Theo Trần Tiến Dũng, Dương Đình Long, Nguyễn Văn Thanh (2002) và
PGS.TS Trần Thị Dân (2004) khi lợn nái bị viêm tử cung sẽ dẫn tới một số hậu quả
chính sau:
- Khi lợn bị viêm tử cung dễ dẫn tới sẩy thai.
Lớp cơ trơn ở thành tử cung có đặc tính co thắt. Khi mang thai, sự co thắt

19


của cơ tử cung giảm đi dưới tác dụng của progesterone, nhờ vậy phôi có thể bám
chặt vào tử cung.
Khi tử cung bị viêm cấp tính do nhiễm trùng, tế bào lớp nội mạc tử cung tiết
nhiều prostaglandin F2α (PGF2α), PGF2α gây phân huỷ thể vàng ở buồng trứng bằng
cách bám vào tế bào của thể vàng để làm chết tế bào và gây co mạch hoặc thoái hoá
các mao quản ở thể vàng nên giảm lưu lượng máu đi đến thể vàng. Thể vàng bị phá
huỷ, không tiết progesterone nữa, do đó hàm lượng progesterone trong máu sẽ giảm
làm cho tính trương lực co của cơ tử cung tăng nên gia súc cái có chửa dễ bị sẩy
thai.
- Lợn mẹ bị viêm tử cung bào thai cũng phát triển kém hoặc thai chết lưu
Lớp nội mạc của tử cung có nhiệm vụ tiết các chất vào lòng tử cung để giúp
phôi thai phát triển. Khi lớp nội mạc bị viêm cấp tính, lượng progesterone giảm nên
khả năng tăng sinh và tiết dịch của niêm mạc tử cung giảm, do đó bào thai nhận
được ít thậm chí không nhận được dinh dưỡng từ mẹ nên phát triển kém hoặc chết
lưu.

- Sau khi sinh con lượng sữa giảm hoặc mất hẳn sữa nên lợn con trong giai
đoạn theo mẹ thường bị tiêu chảy.
Khi lợn nái bị nhiễm trùng tử cung, trong đường sinh dục thường có mặt của
vi khuẩn E.coli, vi khuẩn này tiết ra nội độc tố làm ức chế sự phân tiết kích thích tố
tạo sữa prolactin từ tuyến yên, do đó lợn nái ít hoặc mất hẳn sữa. Lượng sữa giảm,
thành phần sữa cũng thay đổi nên lợn con thường bị tiêu chảy, còi cọc.
- Lợn nái bị viêm tử cung mạn tính sẽ không có khả năng động dục trở lại
Nếu tử cung bị viêm mạn tính thì sự phân tiết PGF 2α giảm, do đó thể vàng vẫn
tồn tại , vẫn tiếp tục tiết progesterone.
Progesterone ức chế thuỳ trước tuyến yên tiết ra LH, do đó ức chế sự phát
triển của noãn bao trong buồng trứng, nên lợn nái không thể động dục trở lại được

20


và không thải trứng được.
Theo Hội thú y Việt Nam (1995), ảnh hưởng rõ nhất trên lâm sàng mà người
chăn nuôi và bác sỹ thú y nhận thấy ở lợn viêm tử cung lúc sinh đẻ là: chảy mủ,
sốt, bỏ ăn. Mặt khác, các quá trình bệnh lý xảy ra lúc sinh đẻ ảnh hưởng rất lớn tới
năng suất sinh sản của lợn nái sau này. Tỷ lệ phối giống không đạt tăng lên ở đàn
lợn nái viêm tử cung sau khi sinh đẻ. Hiện tượng viêm tử cung âm ỉ kéo dài từ lứa
đẻ trước đến lứa đẻ sau là nguyên nhân làm giảm độ mắn đẻ. Mặt khác, viêm tử
cung là một trong các nguyên nhân dẫ đến hội chứng MMA, từ đó làm cho tỷ lệ lợn
con nuôi sống thấp. Đặc biệt, nếu viêm tử cung kèm theo viêm bàng quang thì còn
ảnh hưởng tới hoạt động của buồng trứng.
Qua đó ta thấy hậu quả của viêm tử cung là rất lớn, để tỷ lệ mắc bệnh giảm,
người chăn nuôi phải có những hiểu biết nhất định về bệnh từ đó tìm ra biện pháp
để phòng và điều trị hiệu quả.
2.2.5. Một số bệnh thường gặp ở đường sinh dục của lợn nái.
Trong số các bệnh ở đường sinh dục ở lợn nái, bệnh mà chúng ta thường gặp

nhất bao gồn: viêm âm môn, tiền đình, âm đạo và bệnh ở tử cung.
Viêm âm môn, tiền đình và âm đạo
Trong quá trình sinh đẻ, niêm mạc âm môn, tiền đình và âm đạo bị xây sát,
tổn thương do bào thai hay do can thiệp các trường hợp đẻ khó. Do trong quá trình
đỡ đẻ thao tác kỹ thuật không đúng, dụng cụ đỡ đẻ không vô trùng gây tổn thương
các bộ phận sinh dục bên ngoài. Ngoài ra bệnh có thể kế phát từ hiện tượng sẩy
thai, thai thối rữa trong tử cung hoặc từ bệnh sát nhau.
Lúc đầu niêm mạc bộ phận bị viêm xung huyết nhẹ, có nhiều dịch thẩm xuất.
Kiểm tra âm đạo bằng mỏ vịt, con vật không có phản xạ đau, không có triệu chứng

21


toàn thân. Con vật rặn vặt, đi đái rắt. Nhiều dịch viêm lẫn tổ chức hoại tử màu trắng
chảy ra ngoài.
2.3. MỘT SỐ HIỂU BIẾT VỀ THUỐC DÙNG ĐỂ PHÒNG VÀ ĐIỀU TRỊ
BỆNH VIÊM TỬ CUNG TRÊN LỢN
2.3.1. Thuốc sát trùng:
Là những chất có tác dụng ức chế sự sinh trưởng và sinh sản của vi sinh vật
hoặc giết chết vi khuẩn ở một nồng độ không làm ảnh hưởng đến mô bào vật chủ.
Do đó chúng được sử dụng cho các mô bệnh để ngăn chặn sự nhiễm khuẩn. Ngoài
ra còn có tác dụng tái tạo rất nhanh các mô tại chỗ sát trùng.
1 số thuốc sát trùng thường dùng:
+ Rivanol 0,1-0,2%: diệt trùng mạnh, thậm chí mạnh hơn cả Phenol,Sublimat,
tác dụng mạnh cả trong môi trường có dịch mủ lẫn máu. Thụt rửa dung dịch này
cho lợn sau đẻ có tác dụng phòng và chữa các bệnh đường sinh dục của gia súc cái.
Cách dùng: Thụt rửa tử cung bằng dung dịch Rivanol 0,1-0,2% (2-5g pha 2 lít
nước).
+ Han-iodine 5%: có tác dụng diệt khuẩn đặc biệt là các chủng vi khuẩn gây
bệnh ngoài da, vết thương như Staphylococci, Streptococci, Escherichia coli,

Proteus và Pseudomonas. Cách dùng: pha 75ml Han-iodine 5% với 4 lít nước đem
thụt rửa tử cung 500ml/lần/con/ngày
2.3.2. Thuốc kháng sinh
- Khái niệm: Thuốc kháng sinh là các chất có nguồn gốc tự nhiên và các sản
phẩm cải biến chúng bằng con đường hóa học, có khả năng ức chế hoặc tiêu diệt
các vi sinh vật ngay ở nồng độ thấp ; ở liều điều trị, không hoặc ít độc với cơ thể
vật chủ. Một số còn còn có tác dụng ức chế sự phát triển của tế bào ung thư.

22


- Nguyên tắc dùng kháng sinh: Để phát sử dụng kháng sinh 1 cách hiệu quả
trong điều trị và hạn chế hiện tượng kháng thuốc cần tuân thủ các nguyên tắc sau:
Chỉ sử dụng kháng sinh khi có nhiễm khuẩn; Phải chọn đúng kháng sinh và đường
cho thuốc thích hợp; Phải sử dụng kháng sinh đúng liều lượng và đúng thời gian
qui định; Phải biết các nguyên tắc chủ yếu về phối hợp kháng sinh.
- Một số thuốc thường dùng để điều trị bệnh viêm tử cung:
* Nhóm β – lactamin các thuốc hay sử dụng trong điều trị viêm tử cung:
Penicillin tự nhiên, Penicillin G, Ampicillin và Amoxycillin điều trị viêm tử cung
do vi khuẩn Gram (+) và một vài vi khuẩn Gram (-) gây ra.
* Kháng sinh nhóm Aminoglycosid (AG) gồm có Gentamycin, Kanamycin,
Apramycin được dùng điều trị bệnh viêm tử cung do các vi khuẩn Gram (-), các
cầu khuẩn gây ra.
- Streptomycin phối hợp với Penicillin có tác dụng hiệp đồng tốt để chống lại
các vi khuẩn Grm(+) và Gram(-) gây bệnh viêm tử cung.
- Neomycin dùng điều trị viêm tử cung do vi khuẩn Gram (-) và
Staphylococcus cho hiệu quả cao.
- Gentamycin ứng dụng điều trị viêm tử cung do vi khuẩn Gram (-) và các vi
khuẩn yếm khí khác gây ra.
2.3.3 Thuốc chống viêm

-Viêm là 1 phản ứng bảo vệ cơ thể. Nhưng khi phản ứng viêm xảy ra quá trình
quá mạnh thì phải dùng các thuốc chống viêm.Thuốc chống viêm là thuốc có tác
dụng lên một khâu nào đó của quá trình viêm hoặc làm ngưng hẳn quá trình viêm.
- Thuốc thường dùng: Dexamethasone là một loại thuốc corticoid do vỏ nang
thượng thận tiết ra. Có tác dung chống viêm, chống dị ứng và ức chế miễn dịch.
2.3.4 Thuốc kích thích co bóp tử cung, thuốc tăng cường sức đề kháng

23


-Thuốc kích thích co bóp tử cung:
+ Oxytocin: là thuốc có tác dụng làm tăng co bóp cơ tử cung cả về cường độ
(độ mạnh của mỗi cơn co) cả về tần số (số cơn co trong một đơn vị thời gian), vì
thế nó được gọi là thuốc “thúc đẻ”: làm tăng cơn co, thúc đẩy cuộc chuyển dạ có
cơn co tử cung thưa và yếu. Do đó thuốc có tác dụng điều trị 1 số bệnh như:cơ tử
cung co bóp yếu, điều trị sót nhau, viêm tử cung. Về cách dùng: Có thể Tiêm bắp
thịt, dưới da hoặc tĩnh mạch, với lợn nái tiêm liều từ 2- 4 ml.
+ Hanprost: Là thuốc dạng dung dịch tiêm, thuốc có tác dụng giúp tiêu thể
vàng tồn lưu, nhanh chóng phục hồi tử cung, rút ngắn thời gian động dục trở lại,
tăng co bóp tử cung, tống sản dịch làm sạch tử cung, phòng nhiễm trùng tử cung,
phòng viêm vú, viêm tử cung, nái khoẻ mạnh, tăng tiế sữa, tăng trọng lượng lợn
con cai sữa. Tiêm Han-prost 0.7ml/con tiêm 1 mũi duy nhất
- Thuốc tăng cường sức đề kháng:
Trong quá trình điều trị để tăng hiệu quả và rút ngắn thời gian khỏi bệnh ngoài
việc sử dụng thuốc trị bệnh cần kết hợp sử dụng các thuốc thêm một số thuốc trợ
sức, trợ lực cho cơ thể giúp tăng cường sức đề khá, nhanh chóng phục hồi. Một số
thuốc thường dùng :
+ NANOMIN : Thuốc có tác dụng hỗ trợ điều trị bệnh, trợ sức, trợ lực, cung
cấp năng lượng tăng cường sức đề kháng chó gia súc mắc bệnh, vật nuôi suy nhược
cơ thể,kích thúc kém ăn

+ BIO-ADE+B.COMPLEX : Phòng ngừa và điều trị bệnh thiếu vitamin, tăng
cường sức đề kháng, giúp gia súc mau phục hồi khi mắc bệnh, kích thích tăng năng
suất ở gia súc, gia cầm.
+

24


Phần III
ĐỐI TƯỢNG,NỘI DUNG VÀ PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU
3.1. Đối tượng nghiên cứu

25


×