Tải bản đầy đủ (.doc) (21 trang)

Hành vi xâm phạm quyền tác giả, thực trạng và giải pháp

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (194.98 KB, 21 trang )

Đề tài: Hành vi xâm phạm quyền tác giả, thực trạng và giải pháp
của hành vi xâm phạm quyền tác giả.
MỞ ĐẦU:
Trong xu hướng phát triển của xã hội hiện nay, để có thể phát triển sánh vai
với nước bạn; thì bên cạnh những đột phá, sự ra đời của các sản phẩm khoa học,
thông minh thì về xã hội cũng cần trau dồi và phát triển nền văn hóa dân tộc (các
tác phẩm, công trình kiến trúc,..) ra đời. Song song với sự ra đời của các tác phẩm
này thì vấn đề quyền tác giả cũng được quan tâm, đề cao và chú trọng hơn bao giờ
hết.
Có thể nói, hệ thống pháp luật Việt Nam đã tạo hành lang pháp lý an toàn
khuyến khích các hoạt động sáng tạo và bảo hộ thành quả của lao động đó. Hệ
thống này là phương tiện để các chủ thể quyền tác giả sử dụng nhằm bảo vệ quyền
lợi của mình đồng thời là công cụ quản lý của các cơ quan nhà nước có thẩm
quyền.
Tuy nhiên, hiện nay tình trạng xâm phạm quyền sở hữu trí tuệ, đặc biệt là xâm
phạm quyền tác giả không hề giảm đi mà vẫn có chiều hướng gia tăng, có tính phức
tạp và ngày càng nghiêm trọng. Việc nhận thức được thực trạng xâm phạm quyền
tác giả ở Việt Nam hiện nay có ý nghĩa quan trọng trong việc tìm ra nguyên nhân
và đề xuất những giải pháp hữu hiệu để khắc phục tình trạng này. Nhóm em xin
được trình bày và làm rõ vấn đề: “Hành vi xâm phạm quyền tác giả, thực trạng và
giải pháp của hành vi xâm phạm quyền tác giả”
I)

KHÁI QUÁT CHUNG VỀ QUYỀN TÁC GIẢ.
1.1. Chủ thể của quyền tác giả.
Chủ thể quyền sở hữu trí tuệ là chủ sở hữu quyền sở hữu trí tuệ hoặc tổ

chức, cá nhân được chủ sở hữu chuyển giao quyền sở hữu trí tuệ.
Quyền tác giả là quyền của tổ chức, cá nhân đối với tác phẩm do mình sáng
tạo ra hoặc sở hữu. (khoản 2 Điều 4 LSHTT)



=>Như vậy, chủ thể của quyền tác giả có thể là chính tác giả (đồng tác giả),
hoặc chủ sở hữu quyền tác giả hoặc tổ chức, cá nhân được chủ sở hữu quyền tác giả
chuyển giao quyền tác giả.
- Tác giả : Là cá nhân trực tiếp sáng tạo ra một phần hoặc toàn bộ tác phẩm
văn học, nghệ thuật, khoa học từ lao động trí óc. (Điều 8 Nghị định 100/2006/NĐCP)
+ Theo Điều 37 Luật SHTT : “Tác giả sử dụng thời gian, tài chính, cơ sở
vật chất- kỹ thuật của mình để sáng tạo ra tác phẩm có các quyền nhân thân quy
định tại Điều 19 và các quyền tài sản quy định tại Điều 20 của Luật này”.
+ Đồng tác giả : Là những người cùng nhau trực tiếp sáng tạo ra tác phẩm.
Họ sử dụng thời gian, tài chính, cơ sở vật chất- kỹ thuật của mình để cùng sáng tạo
ra tác phẩm. vì vậy họ có chung các quyền tại Điều 19 và Điều 20 Luật SHTT đối
với tác phẩm đó.
- Chủ sở hữu quyền tác giả : là cá nhân, tổ chức nắm giữ một, một số hoặc
toàn bộ các quyền tài sản quy định của Luật SHTT. (Căn cứ pháp lí Điều 27 Nghị
định 100/2006/NĐ- CP)
+Chủ sở hữu quyền tác giả đồng thời là tác giả :
Có toàn bộ các quyền nhân thân và quyền tài sản theo quy định của pháp
luật shtt.
+ Chủ sở hữu quyền tác giả không đồng thời là tác giả :

 Tổ chức, cá nhân giao nhiệm vụ cho tác giả hoặc giao kết hợp đồng với
tác giả.( Điều 39 luật hhtt)

 Tổ chức, cá nhân được thừa kế quyền tác giả.( Điều 40 luật Shtt)
 Tổ chức, cá nhân được chuyển giao quyền.( Điều 41 luật shtt)
 Nhà nước là chủ sở hữu quyền tác giả. ( Điều 42 luật shtt)
1.2. Đối tượng thuộc phạm vi bảo hộ quyền tác giả
Đối tượng thuộc phạm vi bảo hộ quyền tác giả là các tác phẩm sáng tạo trong
lĩnh vực văn học, nghệ thuật và khoa học được thể hiện bằng bất kỳ phương tiện



hay hình thức nào, không phân biệt nội dung, giá trị và không phụ thuộc vào bất kỳ
thủ tục nào.
Tác phẩm văn học, nghệ thuật và khoa học được bảo hộ phải do tác giả trực
tiếp sáng tạo bằng lao động trí tuệ của mình mà không sao chép từ tác phẩm của
người khác. (Được qui định chi tiết tại Điều 14 luật shtt và nghị định 100/2006/NDCP.)
Ngoài ra luật SHTT cũng liệt kê các đối tượng không thuộc phạm vi bảo hộ
quyền tác giả tại Điều 15 gồm :
- Tin tức thời sự thuần tuý đưa tin.
- Văn bản quy phạm pháp luật, văn bản hành chính, văn bản khác thuộc lĩnh
vực tư pháp và bản dịch chính thức của văn bản đó.
- Quy trình, hệ thống, phương pháp hoạt động, khái niệm, nguyên lý, số liệu.
1.3.

Căn cứ phát sinh quyền tác giả.

Theo khoản 1 Điều 6 Luật SHTT, quyền tác giả được phát sinh kể từ khi tác
phẩm được sáng tạo và được thể hiện dưới một hình thức vật chất nhất định,
không phân biệt nội dung, chất lượng, hình thức, phương tiện, ngôn ngữ, đã công
bố hay chưa công bố, đã đăng ký hay chưa đăng ký. Riêng đối với tác phẩm văn
học, nghệ thuật dân gian tại điểm a, b, c khoản 1 Điều 23 Luật SHTT, bao gồm:
truyện, thơ, câu đố, điệu hát, làn điệu âm nhạc, điệu múa, vở diễn, nghi lễ và các
trò chơi, được bảo hộ không phụ thuộc vào việc định hình.
1.4.

Nội dung quyền tác giả.

Theo Điều 18 Luật SHTT, nội dung của quyền tác giả đối với tác phẩm bao
gồm quyền nhân thân và quyền tài sản.

* Quyền nhân thân.
Theo Điều 19 Luật SHTT, quyền nhân thân của tác giả gồm các quyền:
- Quyền đặt tên cho tác phẩm (khoản 1)
Quyền đặt tên cho tác phẩm tồn tại độc lập với các quyền tài sản, chỉ thuộc
về tác giả- người trực tiếp sáng tạo ra tác phẩm, cho dù tác giả có đồng thời là chủ


sở hữu quyền tác giả hay không. Quyền đặt tên cho tác phẩm không áp dụng đối
với tác phẩm dịch từ ngôn ngữ này sang ngôn ngữ khác.
- Quyền đứng tên: Được nêu tên thật hoặc bút danh khi tác phẩm được công
bố, sử dụng (khoản 2)
- Quyền công bố tác phẩm hoặc cho phép người khác công bố tác
phẩm (khoản 3): Quyền này chỉ dành cho chủ sở hữu quyền tác giả. Nếu tác giả
đồng thời là chủ sở hữu quyền tác giả thì quyền này thuộc về tác giả đó. Tổ chức,
cá nhân khi khai thác, sử dụng quyền này phải xin phép và trả tiền nhuận bút, thù
lao, các quyền lợi vật chất khác cho chủ sở hữu quyền tác giả.
- Quyền bảo vệ sự toàn vẹn của tác phẩm, không cho người khác sửa chữa,
cắt xén hoặc xuyên tạc tác phẩm dưới bất kỳ hình thức nào gây phương hại đến
danh dự và uy tín của tác giả, trừ trường hợp có thỏa thuận với tác giả (khoản 4).
* Quyền tài sản.
- Theo khoản 1 Điều 20 Luật SHTT, quyền tài sản bao gồm:
+ Làm tác phẩm phái sinh.
Quyền làm tác phẩm phái sinh bao gồm quyền dịch, phóng tác, cải biên,
chuyển thể, tuyển tập, chú giải. Quyền làm tác phẩm phái sinh thuộc về chủ sở hữu
quyền tác giả. Khi một người muốn làm tác phẩm phái sinh thì phải được sự đồng ý
của chủ sở hữu quyền tác giả đối với tác phẩm gốc.
+ Biểu diễn tác phẩm trước công chúng.
Quyền biểu diễn tác phẩm trước công chúng do chủ sở hữu quyền tác giả
độc quyền thực hiện hoặc cho phép người khác thực hiện biểu diễn tác phẩm một
cách trực tiếp hoặc thông qua các chương trình ghi âm, ghi hình hoặc bất kỳ

phương tiện kỹ thuật nào mà công chúng có thể tiếp cận được.
+ Sao chép tác phẩm:
Quyền sao chép là một trong các quyền tài sản độc quyền thuộc quyền tác
giả, do chủ sở hữu thực hiện hoặc cho phép người khác thực hiện việc tạo ra bản


sao tác phẩm bằng bất kỳ phương tiện hay hình thức nào, bao gồm cả việc tạo ra
bản sao dưới hình thức điện tử.
+ Phân phối, nhập khẩu bản gốc hoặc bản sao tác phẩm;
Quyền phân phối bản gốc hoặc bản sao tác phẩm là quyền của chủ sở hữu
quyền tác giả độc quyền thực hiện hoặc cho phép người khác thực hiện bằng bất
kỳ hình thức, phương tiện kỹ thuật nào mà công chúng có thể tiếp cận được để
bán, cho thuê hoặc các hình thức chuyển nhượng khác bản gốc hoặc bản sao tác
phẩm. Đối với tác phẩm tạo hình, tác phẩm nhiếp ảnh thì quyền phân phối còn bao
gồm cả việc trưng bày, triển lãm trước công chúng.
+ Truyền đạt tác phẩm đến công chúng bằng phương tiện hữu tuyến, vô
tuyến, mạng thông tin điện tử hoặc bất kỳ phương tiện kỹ thuật nào khác;
+ Cho thuê bản gốc hoặc bản sao tác phẩm điện ảnh, chương trình máy tính.
Quyền cho thuê bản gốc hoặc bản sao tác phẩm điện ảnh, chương trình máy
tính do chủ sở hữu quyền tác giả độc quyền thực hiện hoặc cho phép người khác
thực hiện việc cho thuê để sử dụng có thời hạn.
- Tác giả, chủ sở hữu quyền tác giả có độc quyền thực hiện hoặc cho phép
người khác thực hiện các quyền tại khoản 1 Điều 20 Luật SHTT như trên theo quy
định của Luật SHTT. Tổ chức, cá nhân khi khai thác, sử dụng một, một số hoặc
toàn bộ các quyền trên phải xin phép và trả tiền nhuận bút, thù lao, các quyền lợi
vật chất khác cho chủ sở hữu quyền tác giả.
- Riêng đối với việc sử dụng tác phẩm văn học, nghệ thuật dân gian phải tuân
theo Điều 23 Luật SHTT và Điều 20 Nghị định 100/2006/NĐ-CP. Cụ thể:
1.5. Giới hạn quyền tác giả.
Theo Điều 7 Luật SHTT, giới hạn của quyền tác giả được quy định như sau:

- Chủ thể quyền tác giả chỉ được thực hiện quyền của mình trong phạm vi và
thời hạn bảo hộ theo quy định của Luật SHTT.


- Việc thực hiện quyền tác giả không được xâm phạm lợi ích của Nhà nước,
lợi ích công cộng, quyền và lợi ích hợp pháp của tổ chức, cá nhân khác và không
được vi phạm các quy định khác của pháp luật có liên quan
- Trong trường hợp nhằm bảo đảm mục tiêu quốc phòng, an ninh, dân sinh
và các lợi ích khác của Nhà nước, xã hội quy định tại Luật SHTT, Nhà nước có
quyền cấm hoặc hạn chế chủ thể quyền tác giả thực hiện quyền của mình hoặc buộc
chủ thể quyền tác giả phải cho phép tổ chức, cá nhân khác sử dụng một hoặc một
số quyền của mình với những điều kiện phù hợp;
1.6. Thời hạn bảo hộ quyền tác giả
Điều 27 Luật SHTT quy định về thời hạn bảo hộ quyền tác giả. Theo đó:
- Các quyền nhân thân quy định tại khoản 1, 2 và 4 Điều 19 Luật SHTT dưới
đây được bảo hộ vô thời hạn:
• Quyền đặt tên cho tác phẩm ;
• Quyền đứng tên.
• Quyền bảo vệ sự toàn vẹn của tác phẩm.
- Còn quyền nhân thân tại khoản 3 Điều 19 Luật SHTT và các quyền tài sản
tại Điều 20 Luật SHTT, bao gồm:
• Quyền công bố tác phẩm hoặc cho phép người khác công bố tác phẩm ;
• Quyền làm tác phẩm phái sinh ;
• Quyền biểu diễn tác phẩm trước công chúng ;
• Quyền sao chép tác phẩm ;
• Quyền phân phối, nhập khẩu bản gốc hoặc bản sao tác phẩm ;
• Quyền truyền đạt tác phẩm đến công chúng bằng phương tiện hữu tuyến, vô
tuyến, mạng thông tin điện tử hoặc bất kỳ phương tiện kỹ thuật nào khác ;
• Quyền cho thuê bản gốc hoặc bản sao tác phẩm điện ảnh, chương trình máy
tính.

=>Các quyền trên được bảo hộ theo thời hạn do pháp luật quy định, cụ thể là:


+ Tác phẩm điện ảnh, tác phẩm khuyết danh có thời hạn bảo hộ là 75 năm,
kể từ khi tác phẩm được công bố lần đầu tiên.
Đối với tác phẩm điện ảnh chưa được công bố trong thời hạn 25 năm, kể từ
khi tác phẩm được định hình thì thời hạn bảo hộ là 100 năm, kể từ khi tác phẩm
được định hình.
Đối với tác phẩm khuyết danh, khi các thông tin về tác giả xuất hiện thì có
thời hạn bảo hộ là suốt cuộc đời tác giả và 50 năm tiếp theo năm tác giả chết; nếu
tác phẩm có đồng tác giả thì thời hạn bảo hộ chấm dứt vào năm thứ năm mươi sau
năm đồng tác giả cuối cùng chết;
+ Đối với tác phẩm nhiếp ảnh, tác phẩm mỹ thuật ứng dụng, thời hạn bảo hộ
là 50 năm, kể từ khi tác phẩm được công bố lần đầu tiên. Trong thời hạn 50 năm,
nếu tác phẩm chưa công bố thì thời hạn bảo hộ là 50 năm, kể từ khi tác phẩm được
định hình.
+ Tác phẩm không thuộc loại hình quy định như trên có thời hạn bảo hộ là
suốt cuộc đời tác giả và 50 năm tiếp theo năm tác giả chết; trường hợp tác phẩm có
đồng tác giả thì thời hạn bảo hộ chấm dứt vào năm thứ năm mươi sau năm đồng tác
giả cuối cùng chết;
 Thời hạn bảo hộ theo các quy định trên chấm dứt vào thời điểm 24 giờ
ngày 31 tháng 12 của năm chấm dứt thời hạn bảo hộ quyền tác giả.
+ Đối với tác phẩm di cảo (tác phẩm được công bố lần đầu sau khi tác giả đã
chết), thời hạn bảo hộ quyền tài sản và quyền nhân thân gắn với tài sản là 50 năm,
kể từ khi tác phẩm được công bố lần đầu tiên.


II) XÁC ĐỊNH HÀNH VI VÀ THỰC TRẠNG XÂM PHẠM QUYỀN NHÂN
THÂN CỦA TÁC GIẢ
2.1. Xác định các hành vi xâm phạm quyền nhân thân của tác giả.

Theo Điều 5 Nghị định 105/2006/NĐ- CP, hành vi bị coi là xâm phạm quyền
SHTT nói chung, và xâm phạm quyền nhân thân của tác giả nói riêng phải có đủ
bốn căn cứ:
*Thứ nhất, đối tượng bị xem xét thuộc phạm vi các đối tượng đang được bảo
hộ quyền tác giả.
+Đối tượng bị xem xét được hiểu là đối tượng bị nghi ngờ và bị xem xét
nhằm đưa ra kết luận có phải là đối tượng xâm phạm hay không.( khoản7 Điều 3
nghị định 105/2006/NĐ- CP)
Mặt khác, Điều 28 Luật SHTT quy định về những hành vi xâm phạm quyền
nhân thân của tác giả như sau:
1. Chiếm đoạt quyền tác giả đối với tác phẩm văn học, nghệ thuật, khoa học.
2. Mạo danh tác giả.
3. Công bố ... tác phẩm mà không được phép của tác giả.
4. Công bố ... tác phẩm có đồng tác giả mà không được phép của đồng tác giả đó.
5. Sửa chữa, cắt xén hoặc xuyên tạc tác phẩm dưới bất kỳ hình thức nào gây
phương hại đến danh dự và uy tín của tác giả.”
Theo điều 6 Nghị định 105/2006/NĐ-CP, việc xác định đối tượng được bảo hộ
được thực hiện bằng cách xem xét các tài liệu, chứng cứ chứng minh căn cứ phát
sinh, xác lập quyền theo Điều 6 Luật SHTT.
- Đối với quyền tác giả không đăng ký bảo hộ tại cơ quan có thẩm quyền
(Cục bản quyền tác giả), thì quyền này được xác định trên cơ sở bản gốc tác phẩm
và các tài liệu liên quan (nếu có). Nếu bản gốc tác phẩm và các tài liệu liên quan
không còn tồn tại, quyền tác giả được xem là có thực dựa trên cơ sở các thông tin
về tác giả được thể hiện thông thường trên các bản sao được công bố hợp pháp.


- Đối với quyền tác giả đã được đăng ký bảo hộ tại cơ quan có thẩm quyền,
thì việc xác định đối tượng được bảo hộ dựa vào Giấy chứng nhận đăng ký quyền
tác giả và các tài liệu kèm theo.
*Thứ hai, có yếu tố xâm phạm trong đối tượng bị xem xét.

Yếu tố xâm phạm quyền nhân thân của tác giả là: Tác phẩm giả mạo tên, chữ
ký của tác giả, mạo danh hoặc chiếm đoạt quyền tác giả.
Theo Điều 28 Luật SHTT, những hành vi sau đây là hành vi xâm phạm
quyền nhân thân của tác giả:
• Chiếm đoạt quyền tác giả đối với tác phẩm văn học, nghệ thuật, khoa học
(khoản 1).
• Mạo danh tác giả (khoản 2).
• Công bố tác phẩm mà không được phép của tác giả (khoản 3).
• Công bố tác phẩm có đồng tác giả mà không được phép của đồng tác giả đó
(khoản 4).
• Sửa chữa, cắt xén hoặc xuyên tạc tác phẩm dưới bất kỳ hình thức nào gây
phương hại đến danh dự và uy tín của tác giả (khoản 5).
*Thứ ba, người thực hiện hành vi bị xem xét không phải là chủ thể quyền tác
giả và không phải là người được pháp luật hoặc cơ quan có thẩm quyền cho phép
theo quy định tại các Điều 25, 26 Luật SHTT.
.
Thứ tư, hành vi bị xem xét xảy ra tại Việt Nam.
Hành vi xem xét bị coi là xảy ra tại Việt Nam khi:
+ Hành vi đó được bắt đầu thực hiện tại Việt Nam
+ Hành vi đó kết thúc tại Việt Nam
+ Hành vi bắt đầu và kết thúc ở nước ngoài, nhưng có một giai đoạn được
thực hiện tại Việt Nam
2.2 Thực trạng hành vi xâm phạm quyền nhân thân của tác giả:


Vấn đề xâm phạm quyền tác giả tại Việt Nam, đặc biệt là xâm phạm quyền
nhân thân của tác giả, vẫn xảy ra khá nhiều, gây bức xúc không nhỏ cho những
người sáng tạo ra tác phẩm, chủ sở hữu tác phẩm, cũng như những người thưởng
thức tác phẩm. Những người làm công tác sáng tạo ra các tác phẩm sẽ ngần ngại
thực hiện những ý đồ sáng tạo của mình, và điều này sẽ tác động không tốt đến đời

sống văn hóa tinh thần của cả cộng đồng. Ngoài ra, vấn đề quyền tác giả bị xâm
phạm cũng gây thiệt hại lớn tới nền kinh tế quốc dân.
*Trong lĩnh vực âm nhạc:
Trong lĩnh vực âm nhạc, điển hình là vụ việc Album “Chat với Mozart”. Ngày
10/9/2005, album “Chat với Mozart” được phát hành, gồm những tác phẩm nhạc
không lời của 8 nhạc sĩ cổ điển nước ngoài là Bach, Tchaikovsky, Borodine, Elgar,
Mozart, Schumann, Vivaldi, Gounod, Saint-Saens do nhạc sỹ Dương Thụ viết lời
Việt, nhạc sĩ Anh Quân- Huy Tuấn hòa âm và do ca sỹ Mỹ Linh kiêm nhà sản xuất
trình bày.
Theo tiến sỹ Cù Huy Hà Vũ, album “Chat với Mozart” đã xâm phạm đến quyền
nhân thân của tác giả tại Điều 19 Luật SHTT, bao gồm quyền đặt tên cho tác phẩm
(khoản 1) và quyền bảo vệ sự toàn vẹn của tác phẩm, không cho người khác sửa
chữa, cắt xén hoặc xuyên tạc tác phẩm dưới bất kỳ hình thức nào gây phương hại
đến danh dự và uy tín của tác giả (khoản 4).
*Trong lĩnh vực văn học:
Trong lĩnh vực văn học, điển hình là truyện ngắn “Máu của lá” của Phạm
Minh Phong đăng trên báo Văn nghệ số 26 ra ngày 25/6/2005 có nội dung
giống với truyện ngắn “Máu của lá” của nhà văn Võ Thị Hảo trong tập "Người
sót lại của rừng cười" (NXB Phụ Nữ, 2005), chỉ khác tên nhân vật. Đây có thể coi
là hành vi chiếm đoạt quyền tác giả đối với tác phẩm văn học quy định tại khoản 1
Điều 28 Luật SHTT, bởi lẽ:
+ Bản thân tác phẩm “Máu của lá” là của nhà văn Võ Thị Hảo. Tác phẩm
này đã được in trong tập truyện ngắn đầu tay của bà từ năm 1993, và đã được trao


giải trong cuộc thi Truyện ngắn và Tiểu thuyết của NXB Hà Nội. Sau đó mới xuất
hiện truyện ngắn “Máu của lá” của Phạm Minh Phong đăng trên báo Văn nghệ số
26 ra ngày 25/6/2005. Như vậy, tác phẩm “Máu của lá” của nhà văn Võ Thị Hảo có
trước, sau đó mới có truyện ngắn “Máu của lá” của Phạm Minh Phong. Toàn bộ nội
dung truyện ngắn “Máu của lá” của Phạm Minh Phong hoàn toàn trùng khớp với

nội dung của một phần tác phẩm “Máu của lá” của nhà văn Võ Thị Hảo, thậm chí
tên truyện ngắn còn trùng khớp cả với tên tác phẩm này. Chỉ khác ở một điều là tên
các nhân vật trong truyện ngắn “Máu của lá” của Phạm Minh Phong đã được thay
đổi. Điều này cho thấy, tác phẩm “Máu của lá” của Phạm Minh Phong không hề có
sự sáng tạo, mà đó chỉ là kết quả của hành vi sửa chữa lại tác phẩm đã có trước một
cách vụng về mà thôi.
*Trong lĩnh vực nhiếp ảnh:
Hai tác phẩm nhiếp ảnh Em bé H’Mong và Anh em H’Mong do tác giả Vũ
Thế Long chụp trong dịp đi sáng tác tại làng Sa Lình, huyện Mai Châu, Hòa Bình
ngày 09/12/2007 và đã được tác giả đưa lên trang web photo.vn dưới bút danh
longcocanh và ghi chú địa danh tác phẩm trên từng bức ảnh. Ngày 14/12/2007, tác
giả Vũ Thế Long đã phát hiện trên một số đường phố Hà Nội có những tấm băng
rôn và banner quảng cáo cho chương trình “Nối vòng tay lớn 2007” đã sử dụng 02
tác phẩm trên vào phần chính giới thiệu chương trình mà không xin phép tác giả.
Ngoài ra, trên các băng rôn và banner quảng cáo còn không đề tên tác giả, những
tấm ảnh này còn bị cắt xén, biên tập lại làm thay đổi bố cục của tác phẩm gốc, làm
thay đổi ý tưởng về nội dung và làm mất đi tính nghệ thuật của tác phẩm.
Ngày 15/12/2007, tác giả đã gửi đơn đến Đài Truyền hình Việt Nam và Công ty
cổ phần Giải trí và truyền thông Việt Nam (VEC), đơn vị phối hợp thực hiện
chương trình, yêu cầu gỡ bỏ toàn bộ các băng rôn có sử dụng hình ảnh, bồi thường
danh dự cho ông số tiền là 10 triệu đồng, xin lỗi công khai trên ba số báo liên tiếp.
Sau khi lời qua tiếng lại cả ngoài đời và trên mặt báo, Công ty VEC có văn bản xin
lỗi ông và các thành viên trang web.


III). HÀNH VI VÀ THỰC TRẠNG XÂM PHẠM QUYỀN TÀI SẢN CỦA TÁC
GIẢ.
3.1. Các hành vi xâm phạm quyền tài sản của tác giả
Việc xác định các hành vi xâm phạm quyền tài sản của tác giả cũng tuân theo
quy định tại Điều 5 Nghị định 105/2006/NĐ- CP.

Theo đó, hành vi bị coi là hành vi xâm phạm quyền sở hữu trí tuệ quy định
tại Điều 28 Luật SHTT khi có đủ bốn căn cứ:
+ Đối tượng bị xem xét thuộc phạm vi các đối tượng đang được bảo hộ
quyền sở hữu trí tuệ.
+Có yếu tố xâm phạm trong đối tượng bị xem xét.
+Người thực hiện hành vi bị xem xét không phải là chủ thể quyền sở hữu trí
tuệ và không phải là người được pháp luật hoặc cơ quan có thẩm quyền cho phép
theo quy định tại các Điều 25, 26 Luật SHTT.
+Hành vi bị xem xét xảy ra tại Việt Nam.
Theo khoản 1 Điều 7 Nghị định 105/2006/NĐ- CP, yếu tố xâm phạm quyền tài
sản của tác giả có thể thuộc các dạng sau:
+Bản sao tác phẩm được tạo ra một cách trái phép;
+Tác phẩm phái sinh được tạo ra một cách trái phép;
+ Phần tác phẩm bị trích đoạn, sao chép, lắp ghép trái phép;
+ Sản phẩm có gắn thiết bị kỹ thuật bảo vệ quyền tác giả bị vô hiệu hoá trái
phép.
Sản phẩm có yếu tố xâm phạm quy định tại khoản này bị coi là sản phẩm
xâm phạm quyền tác giả.
=>Căn cứ xác định yếu tố xâm phạm quyền tác giả là phạm vi bảo hộ quyền tác giả
được xác định theo hình thức thể hiện bản gốc tác phẩm. Trong trường hợp xác
định yếu tố xâm phạm đối với tác phẩm phái sinh, căn cứ xác định yếu tố xâm
phạm quyền tác giả được xác định theo nhân vật, hình tượng, cách thể hiện tính
cách nhân vật, hình tượng, tình tiết của tác phẩm gốc.


Theo Điều 28 Luật SHTT, những hành vi xâm phạm quyền tài sản của tác
giả bao gồm:
+ Phân phối tác phẩm mà không được phép của tác giả (khoản 3),
+Phân phối tác phẩm có đồng tác giả mà không được phép của đồng tác
giả đó (khoản 4).

Về yếu tố xâm phạm quyền tác giả đối với hành vi trên, đối chiếu với khoản
1 Điều 7 Nghị định 105/2006/NĐ-CP, pháp luật không có quy định về yếu tố xâm
phạm tương ứng với hành vi này.
+ Sao chép tác phẩm mà không được phép của tác giả, chủ sở hữu quyền tác
giả, trừ trường hợp quy định tại điểm a và điểm đ khoản 1 Điều 25 Luật sở hữu trí
tuệ (khoản 6).
Theo khoản 5 Điều 1 Nghị định 85/2011/NĐ-CP, quyền sao chép thuộc về
chủ sở hữu quyền tác giả hoặc người khác được chủ sở hữu quyền tác giả cho phép
thực hiện. Tác giả chỉ có quyền sao chép tác phẩm khi tác giả đồng thời là chủ sở
hữu quyền tác giả và người được chủ sở hữu quyền tác giả cho phép thực hiện.
+ Các hành vi:
-Làm tác phẩm phái sinh mà không được phép của tác giả, chủ sở hữu quyền
tác giả đối với tác phẩm được dùng để làm tác phẩm phái sinh, trừ trường hợp quy
định tại điểm i khoản 1 Điều 25 của Luật sở hữu trí tuệ (khoản 7).
- Sử dụng tác phẩm mà không được phép của chủ sở hữu quyền tác giả,
không trả tiền nhuận bút, thù lao, quyền lợi vật chất khác theo quy định của pháp
luật, trừ trường hợp quy định tại khoản 1 Điều 25 của Luật sở hữu trí tuệ (khoản
8).
- Cho thuê tác phẩm mà không trả tiền nhuận bút, thù lao và quyền lợi vật
chất khác cho tác giả hoặc chủ sở hữu quyền tác giả (khoản 9).
- Nhân bản, sản xuất bản sao, phân phối, trưng bày hoặc truyền đạt tác
phẩm đến công chúng qua mạng truyền thông và các phương tiện kỹ thuật số mà
không được phép của chủ sở hữu quyền tác giả (khoản 10).


- Xuất bản tác phẩm mà không được phép của chủ sở hữu quyền tác giả
(khoản 11).
- Xuất khẩu, nhập khẩu, phân phối bản sao tác phẩm mà không được phép
của chủ sở hữu quyền tác giả (khoản 16).
Có nhiều hành vi sử dụng tác phẩm, bao gồm: làm tác phẩm phái sinh; biểu

diễn tác phẩm trước công chúng; nhân bản, sản xuất bản sao, sao chép tác phẩm;
xuất bản, phân phối, nhập khẩu bản gốc hoặc bản sao tác phẩm; truyền đạt tác
phẩm đến công chúng bằng các phương tiện kỹ thuật; cho thuê tác phẩm..
Sử dụng tác phẩm là hành vi khai thác giá trị của tác phẩm nhằm mục đích
lợi nhuận, vì thế người có hành vi này phải được sự cho phép của chủ sở hữu quyền
tác giả, và phải trả tiền nhuận bút, thù lao và các quyền lợi vật chất khác cho chủ sở
hữu quyền tác giả. Đối với các trường hợp tại khoản 1 Điều 25 Luật SHTT, đây là
những hành vi sử dụng tác phẩm không nhằm thu lợi nhuận, vì thế không cần phải
xin phép và không phải trả các khoản lợi ích vật chất cho chủ sở hữu quyền tác giả.
+ Các hành vi:
- Cố ý huỷ bỏ hoặc làm vô hiệu các biện pháp kỹ thuật do chủ sở hữu quyền
tác giả thực hiện để bảo vệ quyền tác giả đối với tác phẩm của mình (khoản 12).
- Sản xuất, lắp ráp, biến đổi, phân phối, nhập khẩu, xuất khẩu, bán hoặc cho
thuê thiết bị khi biết hoặc có cơ sở để biết thiết bị đó làm vô hiệu các biện pháp kỹ
thuật do chủ sở hữu quyền tác giả thực hiện để bảo vệ quyền tác giả đối với tác
phẩm của mình (khoản 14).
Các biện pháp kỹ thuật có thể được sử dụng để bảo vệ quyền tác giả đối với
tác phẩm rất đa dạng, ví dụ như: các biện pháp bảo vệ chống sao chép ở các đĩa
CD, DVD ghi âm thanh… Các biện pháp kỹ thuật này có thể bị vô hiệu hóa bởi
một số các thiết bị chuyên dụng.
+Cố ý xoá, thay đổi thông tin quản lý quyền dưới hình thức điện tử có trong
tác phẩm (khoản 13).
+ Làm và bán tác phẩm mà chữ ký của tác giả bị giả mạo (khoản 15).


3.2. Thực trạng xâm phạm quyền tài sản của tác giả.
Trong những năm qua, chính sách bảo hộ quyền tác giả đã phát huy tác dụng
tích cực và đã có tiến bộ trong thực thi bảo hộ quyền tác giả. Tuy nhiên, hiện nay,
thực trạng xâm phạm quyền tài sản của tác giả vẫn xảy ra rất thường xuyên, phổ
biến trong nhiều lĩnh vực. Trong đề tài này chúng em chỉ đề cập đến một số lĩnh

vực tiêu biểu như: xuất bản, dịch thuật, sản xuất và kinh doanh băng đĩa, phần mềm
máy tính.
*Trong lĩnh vực xuất bản.
Tình trạng sách, giáo trình bị in ấn trái phép (in lậu) đang diễn ra tràn
lan và khó kiểm soát. Tình trạng này đã duy trì nhiều năm qua, gây thiệt hại
lớn về kinh tế cho nhiều đơn vị xuất bản nhưng vẫn chưa được giải quyết triệt
để. Trước đây, sách in lậu có thể dễ dàng nhận biết được do chữ in bị nhòe,
mực bị mờ. Nhưng hiện nay, sách in lậu ngày càng tinh vi, phức tạp, khó nhận
biết, và rất dễ nhầm với sách thật.
Ví dụ:
- “Ngày 12-11-2011, Phòng CSĐT tội phạm về TTQLKT&CV cùng Đội
Quản lý thị trường số 15, đã tổ chức kiểm tra khẩn cấp hệ thống cơ sở gia công sau
in Huy Thi (chủ kinh doanh là Nguyễn Văn Thi) tại khu tập thể Bộ Tổng tham
mưu- Lưu Phái, Ngũ Hiệp, Ngọc Hồi, Hà Nội. Tại đây, các lực lượng chức năng đã
thu giữ gần 10.000 cuốn sách lậu, sách giả cùng một số lượng lớn các trang bìa và
ruột của một số cuốn sách chưa thành phẩm.
Học sinh, sinh viên đang là đối tượng phải chịu hậu quả nghiêm trọng nhất.
Hầu hết các bộ sách giáo khoa, giáo trình in lậu hoặc sách photocopy đều có chất
lượng rất kém, in sai nội dung, in mờ...
Ngoài ra, hiện tượng vi phạm xảy ra cũng bởi chính các nhà xuất bản. Một số
nhà xuất bản không được sự cho phép của tác giả khi xuất bản.
* Về việc dịch các tác phẩm sang những ngôn ngữ khác.


Tình trạng dịch các tác phẩm sang tiếng Việt, hoặc từ tiếng Việt sang các
ngôn ngữ khác mà không xin phép cũng như trả tiền thù lao cho tác giả hiện đang
là một vấn đề đáng quan tâm.
+ Trong lĩnh vực âm nhạc.
Các nhạc sỹ thường có tâm lý dễ dàng bỏ qua mà không có đòi hỏi gì khi phát
hiện ra các tác phẩm của mình được dịch sang ngôn ngữ khác mà không xin phép,

bởi họ cũng mong muốn tác phẩm của mình được yêu thích, phổ biến ở nước ngoài
cho nhiều người biết đến. Điều này khiến các cơ quan chức năng khó có thể can
thiệp.
+ Trong lĩnh vực văn học.
Tình trạng dịch các tác phẩm mà không được sự cho phép của tác giả đang
diễn ra khá phổ biến, đặc biệt là các trường hợp diễn ra trên mạng internet. Hiện
nay, có rất nhiều tác phẩm tiểu thuyết, truyện ngắn của các tác giả nổi tiếng được
dịch và đăng trên các trang web hay blog cá nhân. Hầu hết các trường hợp dịch này
đều không được sự cho phép của tác giả, và không được thẩm định về chất lượng
bản dịch, thậm chí có trường hợp tác giả không hề biết rằng tác phẩm của mình
được dịch sang ngôn ngữ khác.
*Trong lĩnh vực sản xuất, kinh doanh băng, đĩa.
Hiện nay tình trạng sao chép và bán băng, đĩa lậu đang diễn ra rất phổ biến.
Nhiều vụ việc đã được các cơ quan chức năng phát hiện, nhiều cơ sở sản xuất và
tiêu thụ băng, đĩa lậu đã bị xử lý, tuy nhiên việc sản xuất và bán băng, đĩa lậu vẫn
đang là vấn đề nan giải.
Một thực trạng đang diễn ra là việc các nhà sản xuất băng, đĩa âm thanh,
băng đĩa hình không xin phép tác giả, chủ sở hữu tác phẩm có các tác phẩm mà họ
sử dụng trong băng, đĩa sản xuất. “Theo thống kê, 1/3 số đĩa nhạc được sản xuất
trong năm 2004 là nhạc ngoại lời Việt (chủ yếu là nhạc Trung Quốc, Thái Lan,
Nhật Bản). Khi sản xuất các đĩa này, nhà sản xuất cũng không xin phép tác giả, chủ
sở hữu tác phẩm.”


*Trong lĩnh vực phần mềm máy tính.
Thực tế hiện nay cho thấy tình trạng vi phạm quyền tác giả trong lĩnh vực
này đang ngày càng gia tăng. “Trong năm 2010, lực lượng thanh tra liên ngành đã
tổ chức thanh tra tại 60 doanh nghiệp, kiểm tra là 2.361 máy tính. Hầu hết các
doanh nghiệp đều vi phạm sử dụng phần mềm máy tính không hợp pháp và đã bị
xử phạt vi phạm hành chính và yêu cầu dừng sử dụng phần mềm bất hợp pháp.

Việc xâm phạm quyền tác giả đối với phần mềm máy tính gây hậu quả
nghiêm trọng, làm hạn chế sự sáng tạo về công nghệ thông tin, là mối đe dọa lớn
đối với nền kinh tế toàn cầu nói chung, và kinh tế Việt Nam nói riêng.
=>Thực trạng xâm phạm quyền tài sản của tác giả còn diễn ra rất đa dạng trong
các lĩnh vực khác nhau.
Có thể nói, tình trạng vi phạm quyền tài sản của tác giả đã và đang gây thiệt
hại lớn cho chủ thể quyền và tác động tiêu cực đến hoạt động sáng tạo, ảnh hưởng
xấu đến môi trường đầu tư, hợp tác kinh tế - văn hóa với các nước trên thế giới.
IV) Nguyên nhân dẫn đến thực trạng xâm phạm quyền tác giả
1. Nguyên nhân nói chung:
-Thứ nhất, về tính pháp lí liên quan, cụ thể là các văn bản pháp luật:
Trong những năm qua, nước ta đã từng bước hoàn thiện hệ thống văn bản
pháp luật về sở hữu trí tuệ nói chung, về quyền tác giả nói riêng. Tuy nhiên, các
quy định về quyền tác giả và hành vi xâm phạm quyền tác giả vẫn còn thiếu hệ
thống, chưa thực sự đầy đủ và đồng bộ, còn tản mạn trong nhiều văn bản
Ngoài ra, các quy định về các biện pháp và chế tài xử lý vi phạm mới chủ yếu
dừng lại ở hình thức xử lý hành chính, chế tài hình sự chỉ áp dụng được đối với các
cá nhân vi phạm, mà không thể áp dụng đối với các pháp nhân có hành vi vi phạm.
Điều này chưa phù hợp với tình hình thực tế, chưa đủ sức răn đe đối tượng có hành
vi vi phạm.
-Thứ hai, về sự quản lí, giám sát của các cơ quan nhà nước trong quan hệ giữa các
chủ thể cho luật sỡ hữu trí tuệ điều chỉnh:
Cơ quan quản lý còn gặp nhiều khó khăn khăn trong quá trình thanh tra, kiểm tra
, xử lý vi phạm, công tác đấu tranh phòng chống tội xâm phạm sở hữu trí tuệ hiện


còn nhiều hạn chế, chưa đáp ứng được yêu cầu bảo quyền sở hữu trí tuệ một cách
hiệu quả. Đồng thời do “cơ chế bảo đảm thực thi chưa được hoàn thiện và chưa
phát huy đúng mức, biểu hiện vụ việc được giải quyết ở tòa án rất ít ỏi, mà chủ yếu
được giải quyết ở các cơ quan hành chính, cùng với các quy định đã có nhưng mới

chỉ dừng ở nguyên tắc chứ chưa đủ chi tiết, nên việc áp dụng các chế tài bị lẫn lộn
và thiếu hiệu quả.
Ngoài ra, trình độ chuyên môn, nghiệp vụ của phần lớn đội ngũ cán bộ làm
công tác bảo vệ pháp luật còn hạn chế, đặc biệt là trong lĩnh vực sở hữu trí tuệ nói
chung, quyền tác giả nói riêng.
- Thứ ba, về phía người có hành vi xâm phạm:
Những người này thường mang tâm lý tham lam, ích kỷ, tham cái lợi trước
mắt, bỏ qua cái lợi chung của cộng đồng mà không ngần ngại thực hiện hành vi
xâm phạm đến quyền và lợi ích của chủ thể khác. Có một số trường hợp chủ thể có
hành vi vi phạm là người có chức vụ, quyền hạn nhất định.
- Thứ tư, về góc độ chủ thể của quyền tác giả:
Phần lớn các chủ thể của quyền tác giả ở nước ta chưa thực sự chủ động chú
ý đến việc bảo vệ quyền lợi của mình mà họ vẫn mang nặng tâm lý ỷ lại vào nhà
nước. Điểu này thể hiện ở việc các chủ thể của quyền tác giả chưa có ý thức cao
trong việc đăng ký bảo hộ những tác phẩm của mình.
- Thứ năm,về phía cộng đồng dân cư:
Một nguyên nhân nữa dẫn đến tình trạng xâm phạm quyền tác giả là do trình
độ nhận thức, sự hiểu biết của đại đa số người dân về quyền tác giả còn hạn chế,
đồng thời ý thức chấp hành pháp luật còn kém, chưa nghiêm túc, chưa hình thành
tập quán tôn trọng quyền tác giả trong cộng đồng, dẫn đến việc “biết đó là hành vi


vi phạm pháp luật mà vẫn cứ thực hiện”, thậm chí còn lặp lại hành vi vi phạm
nhiều lần, tạo thành phong trào có ảnh hưởng xấu trong đời sống xã hội.
Nhiều cá nhân, tổ chức đã ý thức trong việc phát hiện và ngăn ngừa hành vi
xâm phạm tác phẩm của mình, nhưng vẫn chưa chủ động phối hợp với các cơ quan
chức năng trong việc kiểm tra, kiểm soát.
V. Giải pháp
5.1. Hoàn thiện các quy định chung về quyền tác giả.
- Các văn bản pháp luật về quyền tác giả cần được xây dựng đầy đủ, đồng

bộ, có tính hệ thống cao để người dân dễ hiểu và dễ thực hiện, các chủ thể có thẩm
quyền dễ áp dụng vào thực tế. Đồng thời, các quy định của Luật SHTT cần được
cập nhật trong các văn bản pháp luật khác, ví dụ như BLHS, BLDS…
Quyền nhân thân trên thuộc về tác giả và được bảo hộ vô thời hạn theo quy
định của pháp luật. Đây là một trong những quyền quan trọng nhất nhưng lại hay bị
xâm phạm nhất trong thực tiễn. Do đó, bất cứ hành vi nào sửa chữa, cắt xén hay
xuyên tạc tác phẩm đều phải bị coi là hành vi xâm phạm quyền tác giả mà không
phụ thuộc vào việc hành vi đó có gây phương hại đến danh dự, uy tín của tác giả
hay không.
5.2. Hoàn thiện các quy định về xử lý hành vi xâm phạm quyền tác giả
Theo đó, khi một tổ chức, cá nhân có hành vi xâm phạm quyền sở hữu trí tuệ
nói chung, và quyền tác giả nói riêng của tổ chức, cá nhân khác thì tùy theo tính
chất, mức độ xâm phạm, có thể bị xử lý bằng các biện pháp dân sự, hành chính,
hình sự..
- Biện pháp dân sự: hoàn thiện các qui định của pháp luật về việc bồi thường
thiệt.
- Biện pháp hành chính: đây là biện pháp được áp dụng chủ yếu để xử lý các
hành vi xâm phạm quyền tác giả. Hành vi xâm phạm quyền tác giả không những
xâm phạm quyền lợi của chủ thể quyền mà còn xâm phạm đến lợi ích hợp pháp của
bên thứ ba và của xã hội. Vì vậy, mục đích của biện pháp hành chính trong thực thi


quyền tác giả là bảo vệ quyền tác giả của chủ thể quyền, đồng thời bảo vệ lợi ích
của người thứ ba và xã hội.
- Biện pháp hình sự:
Các hành vi xâm phạm quyền nhân thân của tác giả cần được quy định xử lý
bằng biện pháp hình sự nhằm xử lý nghiêm khắc, răn đe các đối tượng vi phạm,
bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của chủ thể quyền tác giả cũng như của người
dân. Có như vậy mới khiến các tác giả yên tâm sáng tạo ra những tác phẩm mới
phục vụ đời sống tinh thần của nhân dân, góp phần làm giàu đẹp văn hóa dân tộc.

5.3. Hoàn thiện cơ chế bảo vệ quyền tác giả.
Cần tăng cường nâng cao trình độ chuyên môn, nghiệp vụ của đội ngũ cán bộ
làm công tác bảo vệ pháp luật theo hướng chuyên sâu về lĩnh vực quyền tác giả.
Tiếp tục hoàn thiện pháp luật về tố tụng đối với việc giải quyết các vụ án
tranh chấp về quyền sở hữu trí tuệ nói riêng và tranh chấp về quyền tác giả nói
chung, nhằm tạo ra cơ chế giải quyết thuận lợi, nhanh chóng và bảo đảm các quyền,
lợi ích hợp pháp của các chủ thể quyền sở hữu trí tuệ. Đồng thời, cần nâng cao vai
trò của việc giải quyết các tranh chấp về quyền sở hữu trí tuệ bằng biện pháp dân
sự, vì quyền sở hữu trí tuệ là chế định pháp luật dân sự, thuộc quan hệ pháp luật
dân sự.
Cần tiếp tục nâng cao trình độ dân trí, hiểu biết pháp luật của người dân bằng
cách tuyên truyền, phổ biến kiến thức pháp luật về quyền tác giả qua các phương
tiện truyền thông, phương tiện thông tin đại chúng.
5.4. Giải pháp công nghệ để bảo vệ quyền tác giả
Bên cạnh các giải pháp pháp lý đã đề cập, nên sử dụng một số phương tiện
công nghệ sau đây để phòng ngừa, ngăn chặn những nội dung được đăng tải trên
website của mình khỏi hành vi sao chép, cắt xén:
Dùng Javascript - một ngôn ngữ lập trình có thể ngăn chặn không cho người
dùng bôi đen nội dung trong bài viết hoặc cấm click chuột phải khi đọc bài viết.
Sử dụng công cụ Tynt Publisher Tools: Tự động thêm link nguồn vào bài viết


được copy
Sử dụng DMCA Protected: yều cầu nhà cung cấp dịch vụ ISP (Internet
Service Provider) như Viettel, FPT, VNPT can thiệp bảo vệ quyền lợi của bạn.
PHẦN Kết: ))
Trên đây là phần trình bày của nhóm 7, với vốn kiến thức hạn chế chắc hẳn bài
làm của nhóm còn nhiều thiếu sót. Nhóm rất mong nhận được sự góp ý từ giảng
viên và tất cả các bạn. Nhóm em xin chân thành cảm ơn!




×