1
ĐẶT VẤN ĐỀ
Dân số người cao tuổi đã trở thành một trong những vấn đề được coi là
quan trọng ở nhiều nước trong những thập niên qua, tỷ lệ dân số già ngày
càng tăng lên nhanh chóng [1]. Tại Việt Nam, theo nguồn số liệu của Viện
thông tin y học Trung ương, năm 1999 số lượng người cao tuổi ở nước ta xấp
xỉ 6,199 triệu người. Dự báo tới năm 2029 số lượng người cao tuổi sẽ là 16,5
triệu người chiếm 18,7% dân số nước ta [1], [2].
Nghiên cứu của P.D.Barnard năm 1988 ở Astraulia, người cao tuổi từ
65 tuổi trở lên số trung bình lục phân có chỉ số (CPITN 4) cao nhất chiếm tỷ
lệ 70%[3]. Tại Việt Nam, Trần Văn Trường và Lâm Ngọc Ấn đã tiến hành
điều tra sức khỏe răng miệng toàn quốc qua 2 đợt thì nhận thấy rằng qua 2 lần
tỷ lệ bệnh quanh răng của nhóm tuổi >45 tuổi không biến đổi nhiều, đều trên
90%[4].Phạm Văn Việt và cộng sự nghiên cứu năm 2004, cho thấy tỷ lệ
mắc bệnh quanh răng ở người cao tuổi tại Hà Nội là 96,1% [5]. Đoàn Thị
Hoài Giang năm 2009, khám trên 303 người từ 60 tuổi trở lên tại Hoàng
Mai – Hà Nội thấy tỷ lệ người mắc bệnh quanh răng là 93,1%[6]. Nguyễn
Châu Thoa và cộng sự, năm 2010 nghiên cứu về tình trạng sức khỏe răng
miệng của NCT ở miền Nam Việt Nam cho thấy NCT có trung bình mất răng
khoảng 8 chiếc /người [7].
Đối với người cao tuổi, quá trình thoái hóa ảnh hưởng lớn đến sức khỏe
toàn thân cũng như sức khỏe răng miệng. Các dữ liệu hiện có trên thế giới cho
thấy bệnh quanh răng cùng với bệnh sâu răng vẫn là những bệnh lý răng
miệng chính ở người cao tuổi và có mối quan hệ chặt chẽ với các yếu tố xã
hội và hành vi, hầu hết xuất hiện ở người có điều kiện kinh tế thấp và không
được tiếp xúc với điều trị nha khoa [8],[9],[10]. Các bệnh lý vùng quanh răng
khi không được điều trị kịp thời, không những ảnh hưởng đến chức năng ăn
nhai, thẩm mỹ, mà còn có thể gây nhiều biến chứng nặng nề tại chỗ hay toàn
thân, thậm chí còn ảnh hưởng đến tính mạng đặc biệt ở người cao tuổi, khi mà
2
sự lão hoá làm suy giảm khả năng phục hồi, do đó dễ mắc bệnh và mắc nhiều
loại bệnh cùng lúc. Bệnh quanh răng vẫn là nguyên nhân chính gây mất răng
ở người cao tuổi tại các nước chậm và đang phát triển.
Hiện nay trên thế giớiđã có nhiều nghiên cứu về thực trạng bệnh quanh
răng và mối liên quan của bệnh này với các yếu tố: đặc trưng cá nhân, VSRM,
điều kiện kinh tế xã hội, chất lượng cuộc sống của người cao tuổi.Tuy nhiên ở
nước ta vấn đề này còn rất nhiều hạn chế,các nghiên cứu đồng bộ còn chưa có.
Thành phố Hồ Chí Minh là đô thị đặc biệt, một trung tâm lớn về kinh tế,
văn hóa, giáo dục đào tạo và khoa học công nghệ, có vị trí chính trị quan trọng
của cả nước, luôn đi đầu trong việc thực hiện các chính sách xã hội, trong đó
công tác nâng cao chất lượng cuộc sống người cao tuổi luôn được chú trọng.
Tổng số người cao tuổi thành phố năm 2014 là 642.947 người, chiếm tỷ lệ 7,6%
dân số. Điều đó đặt ra một thách thức rất lớn cho các nhà hoạch định chính sách
xã hội, trong đó có chính sách y tế nhằm đáp ứng nhu cầu chăm sóc sức khỏe,
nâng cao chất lượng cuộc sống cho người cao tuổi.
Tuy nhiên cho đến nay những nghiên cứu cũng như những cơ sở điều
trị chuyên sâu về bệnh lý răng miệng người cao tuổi trên địa bàn thành phố
còn nhiều thiếu thốn. Vì những lý do và ý nghĩa nêu trênchúng tôi thực
hiện đề tài “Thực trạng bệnh quanh răng, nhu cầu điều trị và một số yếu
tố liên quan ở người cao tuổi tại Thành phố Hồ Chí Minh năm
2015”vớiba mục tiêu:
1. Xác định thực trạng, nhu cầu điều trịbệnh quanh ở người cao tuổi
tạiThành phố Hồ Chí Minh năm 2015.
2. Phân tích một số yếu tố liên quan đến bệnh quanh răng ởnhóm đối
tượng nghiên cứu nói trên.
3. Nhận xét ảnh hưởng của bệnh quanh răng đến chất lượng cuộc
sống của nhóm đối tượng nghiên cứu nói trên
3
Chương 1
TỔNG QUAN
1.1.Đặc điểm giải phẫu và mô học vùng quanh răng
1.1.1.Giải phẫu vùng quanh răng
Rãnh lợi
Viền lợi
Lợi tự do
Lõm dưới lợi tự do
Xương răng
Dây chằng quanh răng
Lợi dính
Xương ổ răng
Ranh giới lợi – niêm mạc
Niêm mạc di động
Hình 1.1:Giải phẫu răng và vùng quanh răng[11]
Gồm có 4 phần:
Lợi.
Dây chằng quanh răng.
Xương ổ răng.
Xương răng.
1.1.1.1.Lợi
Lợi là vùng đặc biệt của niêm mạc miệng, được giới hạn ở phía cổ răng
bởi bờ lợi và phía cuống răng bởi niêm mạc miệng.Ở phía ngoài của cả hai
hàm và phía trong của hàm dưới, lợi liên tục với niêm mạc miệng bởi vùng
4
tiếp nối niêm mạc di động, ở phía khẩu cái lợi liên tục với niêm mạc khẩu cái
cứng. Lợi được chia thành 2 phần: lợi dính và lợi tự do [11]:
* Lợi tự do: Gồm nhú lợi và đường viền lợi.
Nhú lợi là phần lợi che kín các kẽ răng. Có một nhú phía ngoài, một
nhú phía trong, giữa hai nhú là một vùng lõm.
Đường viền lợiôm sát cổ răng, và cùng với cổ răng tạo nên một khe sâu
khoảng0,5-3 mm, gọi là rãnh lợi.
Hình thể của nhú lợi vàđường viền lợi phụ thuộc hình thể của chân răng
và xương ổ răng, nó còn phụ thuộc vào sự liên quan giữa các răng và vị trí
của răng trên xương hàm.
* Lợi dính:là phần lợi bám dính vào chân răng và xương ổ răng. Bề
rộng của lợi dính cóý nghĩa quan trọngđối với việc giữ cho vùng quanh răng
bình thường.
- Tổ chức lợi:bao gồm biểu mô và tổ chứcđệm.
Phủ bề mặt lợi dính và mặt ngoài viền lợi là lớp biểu bì sừng hoá. Từ
sâu ra nông gồm 4 lớp tế bào:TBđáy, TB gai, TB hạt và TB sừng hoá.
Phủ mặt trong rãnh lợi là biểu mô không sừng hoá, liên tiếp với phía
trên bởi biểu mô sừng hoá của lợi tự do và phía dưới bởi biểu mô bám dính.
Biểu mô bám dính là biểu môởđáy rãnh lợi bám dính vào răng. Lớp biểu mô
này không sừng hoá, không có các lồi ăn sâu vào tổ chức đệmở dưới, và bám
vào men răng, xương răng bởi các bán Desmosom.Tổ chứcđệm: là tổchứcliên
kết nhiều sợi keo ít sợi chun. Những sợi keo xếp thành những bó sợi lớntạo
nên hệ thống sợi của lợi, trong đóđáng chúý là các nhóm sợi răng- lợi, xương
ổ răng- lợi và nhóm sợi vòng.
5
1.1.1.2.Dây chằng quanh răng
Dây chằng quanh răng là mô liên kết có cấu trúc đặc biệt,nối liền răng
với xương ổ răng.Dây chằng quanh răng bao gồm các tế bào, sợi liên kết, chất
căn bản và mạch máu, thần kinh [11].
Nó giữ răng trong ổ răng vàđảm bảo sự liên quan sinh lý giữa răng vàổ
răng nhờ những tế bào liên kếtđặc biệt trong tổ chức dây chằng.Bề rộng của
dây chằng quanh răng khoảng 0,15- 0,21mm. Tuỳ theo sự sắp xếp và hướngđi
của các bó sợi mà người ta phân ra thành 5 nhóm sau:
*
Nhóm cổ răng (hay nhóm màoổ răng):Gồm những bó sợi đi từ mào xương ổ
răng đến xương răng gần cổ răng.
* Nhóm ngang:Gồm những sợi đi từ xương răng ở chân răng thẳng góc với trục
của răng đến xương ổ răng.
* Nhóm chéo:Gồm những bó sợi đi từ xương ổ răng chếch xuống dưới phía
chân răng, bám vào xương răng. Nhóm này chiếm số lượng nhiều nhất trong
dây chằng QR.
* Nhóm cuống răng:Gồm những bó sợi đi từ xương răng ở cuống răng, toả hình
nan quạt để đến bám vào xương ổ răng vùng cuống răng.
* Nhóm giữa các chân răng: Đối với răng nhiều chân còn có các bó sợi đi từ kẽ
giữa 2 hay 3 chân răng đến bám vào vách xương ổ răng.Giữa các bó sợi trên
là tổ chức liên kết lỏng lẻo, trong đó người ta thấy có TB tạo xương răng,
TBxơ non, TB xơ già, TB liên kết dạng bào thai, những đám biểu bì
Mallassez. Ngoài ra còn có mạng lưới rất giàu các mạch máu, bạch mạch,
thần kinh. Theo Weski, những lưới này có tác dụng như một cái hãm
nước.Trong tổ chức liên kết của dây chằng thường thấy có 3 thành phần là: tế
bào chất tựa, sợi, chất nền.Dây chằng QRcấu tạo bởinhững sợi Collagen,
những sợi đó lồng vào trong xương răng, chùm lên chân răng giải phẫu và từ
đó chạy vào lá đáy của túi lợi, màng xương phủ huyệt răng và xương ổ răng,
6
xương răng của răng bên cạnh, quan trọng nhất là trực tiếp vào trong xương ổ
răng riêng biệt.
1.1.1.3. Xương ổ răng
Xương ổ răng là một bộ phận của xương hàm gồm có:
*
Bản xương: có cấu tạo là xương đặc. Bản xương ngoài là xương vỏ ở mặt ngoài và
mặt trong của xương ổ răng, được màng xương che phủ. Còn bản xương trong (gọi
là lá sàng) nằm liền kề với chân răng, có nhiều lỗ thủng (lỗ sàng).
* Xương xốp: nằm giữa hai bản xương trên và giữa các lá sàng [11].
Hoạt động chuyển hoá của xương ổ răng rất mạnh. Quá trình tạo xương
liên tục, nếu xương khoẻ, chiều cao của mào xương ổ răng phát triển liên tục
phù hợp với sự mòn sinh lý của răng, tức là khớp cắn không bị giảm, kể cả ở
lứa tuổi cao. Can xi xương ở trong xương, giữa các sợi là những tinh thể
apatit, ngoài việc đảm bảo độ cứng của xương nó còn là nguồn dự trữ mức
canxi trong máu. Thành phần hữu cơ của xương là chất keo và những TB như
tạo cốt bào, TB xương đa nhân.Xương ổ răng cũng có quá trình tiêu và phục
hồi luôn cân bằng thì xương luôn chắc và đảm bảo chức năng. Nếu mất thăng
bằng, quá trình tiêu xương lớn hơn phục hồi thì dẫn đến tiêu xương (gặp ở
quá trình bệnh lý QR, sang chấn khớp cắn…).
1.1.1.4. Xương răng
Xương răng bọc phần ngà răng ở chân răng. Là một dạngđặc biệt của
xương, trong đó thành phần vô cơ và hữu cơ chiếm tỷ lệ ngang nhau,nhưng
không có hệ thống Havers và mạch máu[11].
Xương răng bao phủ chân răng vàđi qua phần men răng, phủ trên bề
mặtmen ở cổ răng. Bề dày của xương răng thay đổi theo tuổi, tuỳ vùng và
chức năng, dày nhất là vùng cuống răng, mỏng nhất là vùng cổ răng.Zander
nghiên cứu vàđo bề dày xương răng giữa các vùng khác nhau của chân răng,
giữa người già và người trẻ cho thấy:sựđắp dày thêm của xương răng xảy ra
7
từ từ vàđềuđặn theo tuổi. Ngoài ra còn do các yếu tố khácnhư: kích thích của
quá trình viêm, hoá chất vùng cuống răng và do chuyển hoá.
Về cấu trúc, xương răng gồm 2 loại: Xương răng không có tế bào và
xương răng có tế bào. Xương răng không có tế bàolà lớpđầu tiênđược tạo ra
trong quá trình tạo ngàở chân răng, phủ lên chân răng bởi xương răng thứ
phát (hay xương răng có tế bào).Quá trình tạo xương răng có tế bào nhanh,
những tế bào tạo xương răng non bám chắc và giữ lại tới lúc phát sinh lớp
xương răng mới và tế bào xương răng được trưởng thành. Sự bồiđắp xương
răng liên tục, suốt đời, ở cuống răng thì nhanh hơn ở cổ răng, những lớpđược
bồiđắp tạođiều kiện cho sự bám chắc của những dây chằng mớigiữ cho bề
rộng vùng QR, xương răng không bị tiêu sinh lý và thay đổi cấu trúc như
xương. Về mặt chức phận, xương răng tham gia vào sự hình thành hệ thống
cơ học nối liền răng với xương răng, cùng với xương ổ răng giữ bề rộngcần
thiết cho vùng QR, bảo vệ ngà răng và tham gia sửa chữaở một số trường hợp
tổn thương ngà chân răng.
1.1.2. Tuần hoàn quanh răng
Răng, dây chằng QR và xương ổ răng thường có một mạch máu nuôi
dưỡng. Mỗi răng và khe QRđược nuôi dưỡng bởi một động mạch nhỏ là một
nhánh của động mạch chính trong xương tới lỗ cuống răng, trước khi vào lỗ
cuống răng nó tách ra các nhánh vào trong xương ổ răng, một nhánh vào khe
QR nuôi các dây chằng QR. Nhánh chính đi vào tuỷ răng qua lỗ cuống răng,
động mạch tuỷ răng không có nhánh nối với bên ngoài. Còn trong xương ổ răng
thì có nhiều mạng nối chằng chịt với nhau, ở vùng dây chằng QR cũng vậy,có
những nhánh xuyên qua bản xương thành trong huyệt răng nối với mạng lưới
tuần hoàn trong khe QR. Tĩnh mạch đi song song với động mạch và đặc biệt là
mạng lưới nối tĩnh mạch ở vùng QR tập trung quanh lỗ cuống răng.
8
1.1.3. Thần kinh vùng quanh răng
Có hai loại:
- Các sợi giao cảm chạy song song với mạch máu, điều hoà máu chảy
trong các mao mạch.
- Các sợi cảm giác hầu hết là các nhánh có Myelin của nhánh II hoặc
nhánh III của dây thần kinh tam thoa.Vùng dây chằng QR giàu mạng lưới
mạch máu và cũng giàu các sợi cảm giác. Người ta tìm thấy có hai loại thần
kinh tận cùng: là có vỏ bọc và không có vỏ bọc ở đầu tận cùng. Nhánh tận
đầu tự do đáp ứng với cảm giác đau, trong khi đó đầu có vỏ bọc đáp ứng với
thay đổi áp lực; ở những đầu có vỏ bọc cấu trúc phức tạp hơn nhiều so với ở
da và niêm mạc miệng,hơn nữa phần lớn nó đáp ứng với khả năng nhạy cảm
của dây chằng quanh răng.
1.2. Một số đặc điểm biến đổi sinh lý, bệnh lý vùng quanh răng ở người
cao tuổi
1.2.1. Biến đổi sinh lý chung
Lão hóa đưa đến những thoái triển biến đổi dần và không phục hồi về
hình thái và chức năng ở các cơ quan, khả năng thích nghi với những biến đổi
của môi trường xung quanh ngày càng bị rối loạn.
Lão hóa bắt đầu từ da: Da cứng và nhăn nheo, tăng lớp mỡ dưới da ở
bụng, ngực, đùi, mông.
Tóc chuyển bạc, trước ít và chậm sau nhiều và nhanh hơn.
Mắt điều tiết kém đi gây lão hóa và thị lực giảm. Thính lực kém đi.
Hoạt động chức năng các cơ quan, phủ tạng giảm dần, bài tiết dịch vị
kém ăn uống kém ngon và chậm tiêu, hoạt động chức năng gan, thận cũng
giảm dần, hệ thống nội tiết yếu đi.
Sự thích ứng với những thay đổi ngoại cảnh kém dần như thời tiết
nóng, lạnh. Chức năng hô hấp giảm, chức năng tim mạch kém thích ứng với
lao động nặng.
9
Giảm khả năng làm việc trí óc, nhanh mệt, tư duy nghèo dần, liên
tưởng kém, trí nhớ giảm hay quên, kém nhạy bén, chậm chạp.
Thời gian phục hồi vết thương kéo dài, xương dễ gãy do chứng loãng
xương. Khả năng đáp ứng của cơ thể trước các kháng nguyên ngoại lai, vi khuẩn
giảm dễ dẫn đến nhiễm trùng và nổi lên là hiện tượng tự miễn.
Tất cả những lão hóa đó là nguyên nhân làm cho sức khỏe người cao
tuổi giảm sút và hay mắc các bệnh mãn tính và cấp tính.
1.2.2.Biến đổi ở mô niêm mạc miệng
*
Niêm mạc miệng:
Biểu mô phủ và mô liên kết ở khoang miệng teo và mỏng, giảm mối
liên kết giữa các protein và mucoprotein theo tuổi. Tăng số lượng tương bào
và hậu quả là giảm tính đàn hồi và tăng sự nhạy cảm của mô đối với sang
chấn. Tổ chức niêm mạc phủ khoang miệng ở người cao tuổi có những biến
đổi dạng phù nề, các nhú biểu mô mất dần làm cho vùng tiếp giáp giữa biểu
mô và mô liên kết bị xẹp xuống làm cho lớp biểu mô dễ bị bong trước.Thời
gian thay thế tế bào biểu mô kéo dài số lượng tế bào Langerhans ít đi. Vì các
biến đổi nêu trên, nên bề mặt của niêm mạc miệng kém chịu đựng trước các
kích thích như nóng, lạnh, sức đề kháng với nhiễm trùng giảm đi, niêm mạc
dễ bị tổn thương và khi bị tổn thương thì cũng lâu lành.
*
Niêm mạc lưỡi:
Các nghiên cứu cho thấy các gai lưỡi có hiện tượng giảm và teo. Số gai
hình dây của lưỡi giảm làm cho lưỡi có vẻ trơn láng, gai lưỡi hình đài bị teo
nhiều nhất với số lượng giảm hoặc mất dần các nụ vị giác gây ra những rối loạn
vị giác với các chất ngọt, chua, mặn….Nói chung, niêm mạc lưỡi miệng nhợt
nhạt, teo mỏng do giảm chất gian bào, giảm khả năng tăng sinh tế bào và giảm
đáp ứng miễn dịch tại chỗ cũng như toàn thân thường thấy ở người cao tuổi.
10
1.2.3. Biến đổi ở răng,khớp thái dương hàm và xương hàm
*
Khớp thái dương hàm
Ở khớp thái dương hàm thường gặp sự xơ hóa và thoái hóa khớp, thể
tích lồi cầu xương hàm giảm, diện khớp trở lên phẳng, các dây chằng dão.
Cùng với sự thoái triển nêu trên, trương lực của các cơ nâng hàm và hạ hàm
mất dần làm cho khớp mất tính ổn định, vận động của hàm bị ảnh hưởng,
khớp cắn mất cân bằng dẫn đến khả năng nhai, nghiền thức ăn kém, dễ gây
đau, mỏi và có tiếng kêu ổ khớp.
*
Xương hàm
Xương hàm cũng có những biến đổi thoái triển chung theo hệ xương
của cơ thể. Trước hết, xương hàm giảm khối lượng do độ đậm đặc bởi hiện
tượng loãng xương sinh lý. Trên phim X-quang xương, người già ít cản
quang, có những vạch sáng chiều rộng vài mm. Xương hàm người cao
tuổiyếu và dễ gãy, khi bị gãy thường can xấu và chậm. Sống hàm trên tiêu
nhiều hơn theo chiều hướng tâm, sống hàm dưới ít tiêu hơn theo chiều ly tâm.
Như vậy, sau khi mất răng, hình thái các xương hàm trên và dưới sẽ có những
biến đổi sâu sắc.
* Thay đổi về răng
- Men răng: răng trở nên tối màu hơn do men răng ngày càng trong suốt
hơn. Có dấu hiệu của mòn răng - răng, mài mòn, mòn hóa học. Thân răng
ngày càng có nhiều đường nứt dọc.
- Ngà răng liên tục được tạo ra trong suốt cuộc đời. Các bệnh lý như
sâu răng, mòn cơ học, mòn răng - răng, ... làm ngà răng thay đổi đa dạng: ngà
thứ phát sinh lý, ngà xơ cứng và ngà sửa chữa (còn gọi là ngà thứ ba) ngày
càng dày hơn.
- Tủy răng: giảm thể tích và kích thước của buồng tủy do sự tạo ngà
liên tục từ phía mặt nhai và vùng chẽ, tủy canxi hóa có thể xảy ra ở tủy buồng
hoặc tủy chân….
11
Hậu quả của việc thay đổi tổ chức cứng của răng thường đưa đến thay
đổi hình dạng ngoài của răng: mòn mặt nhai quá mức gây mất điểm tiếp giáp
và nương tựa giữa các răng, làm tăng khả năng nhồi nhét thức ăn vàokhe tiếp
giáp dẫn đến tăng nguy cơ bị bệnh quanh răng, ngoài ra bề mặt răng không
trơn nhẵn cũng là những cản trở việc làm sạch mảng bám răng.
1.2.4. Biến đổi trên các chức năng vùng miệng
*
Chức năng nhai:
Tốc độ và biên độ chuyển động của hàm dưới giảm trong quá trình vận
động há, ngậm và độ rộng lên xuống trong khi chiều sang bên thì vẫn giữ
nguyên. Vì vậy, thời gian của chu kì nhai không có khác nhiều so với thời kỳ
trung niên. Tuy nhiên, hiệu quả của nhai bị giảm sút do răng suy yếu, hệ
thống môi, má, lưỡi và các cơ giảm sự khéo léo, khả năng phối hợp.
*
Chức năng nuốt:
Chức năng nuốt liên quan nhiều tới hoạt động của lưỡi. Lưỡi giảm sự
khéo léo làm cho việc đưa thức ăn chuyển động giảm hơn nữa việc nuốt cũng
bị ảnh hưởng do những thoái triển về vận động cơ và thần kinh.
*
Chức năng phát âm:
Có những sự thay đổi nhất định về giọng điệu và khả năng nói theo tuổi.
Nhưng, nếu không có các bệnh lý liên quan thì đặc điểm này ít được chú ý.
*
Chức năng tạo dáng khuôn mặt:
Các biến đổi nét mặt là do mất răng và do giảm hoặc mất trương lực
các cơ ở mặt. Thường có sự thấp tầng mặt dưới, những thay đổi này không
chỉ là thẩm mỹ mà còn là sự trở ngại tới chức năng nhai, nuốt.
*
Chức năng tiết nước bọt:
Nhu mô tuyến nước bọt suy thoái dẫn đến giảm tiết về số lượng nước
bọt kể cả chức năng tổng hợp các protein nước bọt, IgA giảm 2/3. Trên thực
tế tình trạng khô miệng còn do 1 số bệnh lý ở tuyến, đặc biệt do hậu quả một
số thuốc điều trị cao huyết áp, tâm thần….
12
1.2.5.Ảnh hưởng của lão hóa trên cấu tạo mô nha chu
1.2.5.1.Biểu mô lợi
Nhiều nghiên cứu cho thấy sự mỏng đi và giảm sừng hóa của biểu mô
lợi theo tuổi, vì vậy làm tính thấm của biểu mô với kháng nguyên vi khuẩn và
giảm sức đề kháng với các sang chấn chức năng có thể ảnh hưởng lâu dài đến
vùng quanh răng. Ngoài ra, còn có một số thay đổi khác liên quan đến lão hóa
như các gai biểu bì phẳng hơn và thay đổi mật độ tế bào biểu mô.
Tác động của quá trình lão hóa lên vị trí của biểu mô nối là chủ đề
được nghiên cứu nhiều nhất. Một số nghiên cứu cho thấy sự di chuyển về phía
chóp của biểu mô nối trên bề mặt chân răng ở người có men răng bình thường
đi kèm với sự tụt lợi. Cùng với sự tụt lợi, chiều rộng của lợi dính sẽ giảm theo
tuổi. Ngoài ra, sự di chuyển của biểu mô nối về phía chóp có thể là hậu quả
của sự mọc răng liên tục qua biểu mô lợi trong nỗ lực duy trì mặt phẳng cắn
với răng đối diện để thích nghi với sự mòn răng (sự mọc răng thụ động). Tuy
nhiên, tụt lợi không phải là một quá trình sinh lý không thể tránh khỏi của
người già mà do hậu quả tích lũy của quá trình viêm hoặc chấn thương mô
nha chu[12].
1.2.5.2.Mô liên kết lợi
Mô liên kết lợi ngày càng thô hơn và dày đặc hơn theo tuổi, ngoài ra
còn có sự thay đổi về số lượng và chất lượng sợi collagen. Những thay đổi này
bao gồm sự tăng tỷ lệ chuyển đổi từ collagen hoàn thành collagen không hoàn
toàn, tăng sức mạnh cơ học và tăng nhiệt độ làm biến tính collagen. Như vậy, có
sự tăng tính ổn định của collagen do những thay đổi trong cấu trúc phân tử.
Tuy nhiên, tỷ lệ collagen được tổng hợp lại giảm đi theo tuổi.
1.2.5.3.Dây chằng nha chu
Những thay đổi trong dây chằng nha chu do lão hóa bao gồm giảm số
lượng nguyên bào sợi và tăng bất thường cấu trúc. Ngoài ra, có sự giảm sản
13
xuất các chất hữu cơ căn bản, ngừng hoạt động các tế bào biểu mô và tăng số
lượng sợi đàn hồi. Nhiều kết quả trái chiều đã được ghi nhận về sự thay đổi
chiều rộng của dây chằng nha chu theo tuổi trong các mẫu vật của người và
động vật. Một điều chắc chắn là chiều rộng của khoảng quanh răng sẽ giảm
nếu răng không được nhai đến (giảm chức năng) hoặc chịu lực nhai quá mức.
Cả hai tình huống trên đều dẫn đến sự mất răng sớm.
1.2.5.4. Xương răng
Có sự gia tăng chiều dày xương răng theo tuổi do sự bồi đắp liên tục sau
khi mọc răng. Sự gia tăng chiều dày này nhiều hơn ở vùng chóp và mặt lưỡi.
Khả năng sửa chữa xương răng là hạn chế, những bất thường trên bề mặt xương
răng như những hõm tiêu xương răng xuất hiện ngày càng nhiều theo tuổi.
1.2.5.5.Xương ổ răng
Hình thái lá cứng xương ổ răng thay đổi liên quan với tuổi, có ngày
càng nhiều bất thường trên bề mặt xương ổ răng và giảm số lượng kết nối bất
thường với sợi collagen. Ngoài ra,có sự giảm mạch máu trong xương, giảm
trao đổi chất và khả năng tự sữa chữa, tăng quá trình hủy xương và giảm tái
tạo xương. Trong ghép xương đồng loại đông khô khử khoáng, nếu sử dụng
vật liệu ghép từ người cho trên 50 tuổi thì khả năng tạo mô xương ít hơn so
với vật liệu lấy từ người cho trẻ hơn.
Tuy nhiên, tỷ lệ lành xương (can xương) của xương vùng ổ răng đã nhổ
không liên quan tới tuổi tác. Thật vậy, những thành công trong tích hợp
xương trong cấy ghép nha khoa dựa trên đáp ứng lành thương ở mọi mô
xương lành,không liên quan với tuổi tác.
1.2.5.6.Mảng bám vi khuẩn
Sự tích tụ mảng bám ở lợi-răng được cho là tụt lợi làm tăng diện tích bề
mặt mô cứng lộ ra và đặc điểm bề mặt chân răng bị lộ khác so với men răng.
14
Đối với mảng bám trên lợi, không có sự khác biệt thực sự về chất lượng
các thành phần mảng bám.Đối với mảng bám dưới lợi, một số nghiên cứu cho
thấy có sự gia tăng số lượng trực khuẩn đường ruột và pseudomonas ở người
lớn tuổi. Tuy nhiên,cần thận trọng trong việc giải thích kết quả này do sự gia
tăng của những chủng loại vi khuẩn trên trong miệng của những người lớn tuổi.
Có sự thay đổi một số tác nhân gây bênh nha chu với tuổi tác, đặc biệt là
vai trò ngày càng tăng của Porphyromonas gingivalis và vai trò ngày càng giảm
của Actinobacillus actinomycetemcomitans.Tuy nhiên, tác động của lão hóa lên sự
thay đổi sinh thái học vi khuẩn quanh răng vẫn còn chưa thực sự rõ ràng.
1.2.5.7.Đáp ứng miễn dịch
Những tiến bộ mới đây trong sự nghiên cứu về tác động của quá trình
lão hóa trên các phản ứng miễn dịch cho thấy yếu tố tuổi có ảnh hưởng lên
đáp ứng miễn dịch của vật chủ ít hơn so với suy nghĩ trước đây.
Ở người lớn tuổi có sự giảm đáp ứng miễn dịch của tế bào T và B, các
cytokine và tế bào diệt tự nhiên nhưng không có sự khác biệt về đáp ứng miễn
dịch của tế bào đa nhân và đại thực bào hoạt động. Nếu có sự hiện diện của
mảng bám, phản ứng viêm của vùng quanh răng của người lớn tuổi sẽ diễn ra
nhanh hơn và mạnh hơn.
1.2.6.Ảnh hưởng quá trình lão hóa lên sự tiến triển của bệnh nha chu
Sự nhạy cảm của bệnh nha chu tăng theo tuổi. Trong một nghiên cứu
thực nghiệm kinh điển về viêm lợi, đối tượng nghiên cứu được loại trừ hoàn
toàn mảng bám và viêm bằng các phương pháp làm sạch và điều trị chuyên
biệt. Sau đó đối tượng không thực hiện bất kỳ biện pháp vệ sinh răng miệng
nào trong thời gian 3 tuần để tạo điều kiện cho viêm lợi phát triển. So sánh sự
phát triển viêm lợi giữa các cá thể trẻ tuổi và lớn tuổi đã được chứng minh
phản ứng viêm mạnh hơn ở những đối tượng nghiên cứu lớn tuổi hơn, kể cả
người và chó.Trong nhóm người lớn tuổi hơn (từ 65 đến 80 tuổi), người ta
15
nhận thấy khoảng mô liên kết bị thâm nhiễm lớn hơn, gia tăng dịch rỉ viêm và
tăng chỉ số lợi.Ngay cả khi các đối tượng đều có tình trạng lợi hoàn toàn bình
thường trước thử nghiệm, sự khác biệt vẫn có thể tồn tại giữa các nhóm tuổi
trong đó những người càng lớn tuổi thì tình trạng viêm càng nhiều. Ở người
cao tuổi, bệnh viêm lợi thường tiến triển thầm lặng dẫn tới viêm quanh răng
và hậu quả là tiêu xương và mất răng[13].
Rõ ràng khi tuổi cao sẽ không tránh khỏi việc gia tăng sự mất mô liên
kết bám dính. Tuy nhiên điều này còn phụ thuộc vào sự phơi nhiễm với một
số yếu tố gây phá hủy tổ chức quanh răng như:mảng bám, sang chấn cơ học
mạn tính do đánh răng, những tác động không mong muốn do thầy thuốc gây
ra trong phục hình răng,lấy cao răng, kiểm soát bề mặt chân răng.Ảnh hưởng
của những phơi nhiễm này đi theo một hướng duy nhất là làm gia tăng mất
bám dính.
Một số nghiên cứu đã được thiết kế để loại bỏ những yếu tố nhiễu và
hướng tới làm rõ câu hỏi tuổi cao có phải là yếu tố nguy cơ của bệnh nha chu
(yếu tố nguy cơ được định nghĩa là một phơi nhiễm hoặc tác nhân làm tăng
xác suất xảy ra bệnh). Những nghiên cứu này đều cho thấy tác động của tuổi
tác là không tồn tại hoặc ít có ý nghĩa lâm sàng làm gia tăng sự mất bảo vệ
vùng nha chu: tỷ suất chênh cuả tình trạng vệ sinh răng miệng kém đối với
viêm quanh răng là 20,52 trong khi tỷ suất chênh của tuổi tác chỉ là 1,24. Như
vậy, có thể nói tuổi cao không phải là một yêu tố nguy cơ thực sự nhưng là
nền tảng hoặc một yếu tố kết hợp của sự phát triển viêm quanh răng.
1.3.Phân loại bệnh quanh răng
Việc phân loại bệnh quanh răng có ý nghĩa quan trọng trong việc chẩn
đoán, tiên lượng và làm kế hoạch điều trị. Có rất nhiều cách phân loại bệnh
quanh răng. Nhưng theo các xu hướng chung và các quan điểm hiện đại,người
ta chia bệnh quanh răng thành ra làm 2 loại chính là: bệnh của lợi và các bệnh
của cấu trúc chống đỡ răng[12].
16
*
*
Các bệnh lợi bao gồm các bệnh mà chỉ có tổn thương ở lợi.
Các bệnh của cấu trúc chống đỡ bao gồm các bệnh liên quan tới cấu trúc
chống đỡ răng như: dây chằng quanh răng, xương ổ răng và xương răng.
Sau đây là phân loại bệnh quanh răng theo hội nghị quốc tế năm
1999,bao gồm 8 nhóm bệnh dưới đây:
Các bệnh lợi.
Viêm quanh răng mạn.
Viêm quanh răng phá hủy.
Viêm quanh răng là biểu lộ các bệnh toàn thân.
Các bệnh quanh răng hoại tử.
Các apxe vùng quanh răng.
Viêm quanh răng do các tổn thương nội nha.
Các biến dạng và tình trạng mắc phải hay trong quá trình phát triển.
1.3.1. Viêm lợi
•
Nhiều hình thái khác nhau.
•
Triệu chứng chung:
-
Thay đổi màu sắc: đỏ nhẹ / đỏ rực tùy mức độ.
-
Tăng kích thước: sưng nề lợi tự do, có thể có túi lợi giả.
-
Thay đổi hình dạng: phù nề bờ lợi, nhú lợi, mất hình dạng giống vỏ sò ban
đầu của lợi.
-
Mật độ giảm: không săn chắc, khi dùng probe ấn vào lợi dính tạo điểm lõm ≥
30 giây.
-
Chảy máu khi thăm khám hoặc chảy máu tự nhiên.
-
Triệu chứng khác: hôi miệng, đau vùng lợi viêm khi chải răng.
•
Một số dạng viêm lợi điển hình ở người cao tuổi [11]:
-
Viêm lợi tróc mảng mãn tính (ở người mãn kinh).
-
Lợi quá sản phối hợp phì đại do viêm làm gai lợi to, lan rộng, tạo túi giả (do
dùng thuốc).
-
Lợi quá sản, cứng chắc, màu nhạt tái, không đau, không viêm (bệnh máu).
Ngà răng
Ranh giới men-xương răng
Xương răng
17
Rãnh lợi
Men răng
Biểu mô nối
Xương ổ răng
Dây chằng quanh răng
Hình 1.2: Mô quanh răng lành mạnh [11]
Men răng
Mảng bám và cao răng trong rãnh lợi
Ngà răng
Ranh giới men-xương răng
Mô liên kết sưng nề
Phần còn lại biểu mô nối
Xương ổ răng
Xương răng
Dây chằng quanh răng
Hình 1.3: Viêm lợi [11]
1.3.2. Viêm quanh răng
•
Các nghiên cứu trên sọ cổ cho thấy bệnh đã có từ 3000 năm trước công
nguyên và có những bước tiến quan trọng trong nghiên cứu vào cuối thế kỷ
19.
•
Dịch tễ học viêm quanh răng được nghiên cứu một cách hệ thống từ những
năm 40 của thế kỷ 20 và đi đến kết luận: viêm quanh răng là bệnh phổ biến, tỷ
lệ bệnh tăng dần theo tuổi và bệnh có thể giảm nhiều nếu giữ vệ sinh răng
miệng tốt.
•
Triệu chứng chung:
18
-
Viêm lợi, có túi lợi (khe giữa lợi tự do và răng có kích thước > 3 mm).
-
Mất bám dính: do hình thành túi lợi bệnh lý, tụt lợi.
-
Lung lay răng.
-
Trên Xquang: tiêu xương (xương ổ răng, xương vùng chẽ chân răng), dây
chằng quanh răng giãn rộng.
-
Có thể có đau do nhạy cảm hoặc áp xe quanh răng.
Men răng
Ngà răng
Ranh giới men-xương răng
Cao răng & mảng bám
Túi lợi
Biểu mô liên kết sưng nề
Biểu mô nối còn lại
Xương ổ răng
Xương răng
Dây chằng quanh răng
Hình 1.4: Viêm quanh răng [11]
•
Dạng phổ biến nhất của viêm quanh răng là viêm quanh răng tiến triển chậm
hay viêm quanh răng mạn tính ở người lớn[10].
•
Ở người cao tuổi, bệnh thường mạn tính hoặc bán cấp, tiến triển từ chậm đến
trung bình, từng đợt nhưng có giai đoạn tiến triển nhanh (gặp ở những người
có sức khỏe yếu, bệnh toàn thân phức hợp). Đặc điểm của bệnh quanh răng ở
NCT là các bệnh lợi ít có biểu hiện đặc hiệu và thường đã chuyển sang viêm
quanh răng có mất xương hay tụt lợi. Bệnh ít có biểu hiện vì bệnh nhân đã
thích nghi, các đáp ứng miễn dịch ở NCT cũng kém hơn. Điều trị cũng khó
khăn hơn do bệnh thường được khám khi bệnh nhân đã có biểu hiện viêm
cuống, cấu trúc mô quanh răng đã bị phá hủy, cùng với sự giảm của đáp ứng
19
miễn dịch. Viêm quanh răng ở người cao tuổi thường đặc trưng bởi: răng lung
lay, răng di lệch, răng rụng và lộ chân răng.
1.4. Cơ chế bệnh sinh bệnh quanh răng [10], [11]
Vào những năm 60, người ta đã chứng minh được ảnh hưởng của mảng
bám tới viêm lợi (Green, Ramfjord, Loe). Từ viêm lợi đến viêm quanh răng
năm 1973 Lindhe đã chứng minh được trên chó.Tổn thương tôt chức quanh
răng phổ biến nhất là quá trình viêm lợi và các tổ chức bám dính xung quanh
rang. Sự viêm nhiễm này chủ yếu là nhiễm khuẩn mà có liên quan chặt chẽ
đến sự xuất hiện của mảng bám răng tại chỗ. Mảng bám răng là một sản phẩm
có thành phần cấu tạo hết sức phức tạp và được hình thành dần trong suốt quá
trình thay đổi môi trường ở vùng răng miệng. Nếu răng được chải kỹ thì sau 2
đến 4h mảng bám răng đã bắt đầu hình thành do các vi khuẩn trong nước bọt
với các men cacbohydraza và neuraminidaza tác động lên axit sialic trong
mucin của nước bọt. Sản phẩm của quá trình tác động lắng đọng trên mặt răng
và tạo nên một màng tựa hữu cơ đầu tiên. Hai ngày đầu trên các màng tựa đã
thấy xuất hiện các cầu khuẩn Gram (+) và Gram (-). Từ ngày thứ 2 đến ngày
thứ 4 trên mảng bám răng đã thấy thoi trùng và các vi khuẩn có dạng hình sợi.
Từ ngày thứ 4 đến ngày thứ 9 đã thấy có các xoắn khuẩn. Trong các mảng
bảm răng già, các vi khuẩn có cấu trúc hình sợi chiếm tới 40% và như vậy rõ
ràng là bề mặt các vi khuẩn không hoàn toàn gióng nhau trên các mảng bám
răng non và già. Có thể nói là trong một môi trường có các điều kiện sinh lý
và nhiệt độ thích hợp, các vi khuẩn sống và đã chết (chủ yếu là các vi khuẩn
giàu polysaccarit và glycoprotein) cùng với những sản phẩm mà chúng ta đã
phân giải, tạo nên mảng bám răng càng ngày càng dày (50 đến 200µ) với khối
lượng 70% là vi khuẩn và 30% là chất tự hữu cơ. Các vi khuẩn có trên mảng
bám răng tiết ra men pyrophotphataza biến phosphat trong nước bọt thành
phosphat canxi lắng đọng, tạo thành cao răng và thường xuyên kích thích lợi,
20
gây hiện tượng viêm lợi, một mặt khác, kháng nguyên của vi khuẩn có thể kết
hợp với tổ chức quanh răng, tạo thành những phức hợp kháng nguyên và với
cơ chế bảo vệ thông qua kháng thể, có thể cũng làm tổn thương đến các tế bào
biểu mô lợi đã có gắn các thành phần kháng nguyên của vi khuẩn. Bên cạnh
những cơ chế về miễn dịch cơ thể thông qua phản ứng kháng nguyên kháng
thể như đã nói ở trên, cơ chế miễn dịch tế bào với sự xuất hiện của lysozim,
histamin, heparin, lymphokin… tổ chức lợi cũng bị tổn thương có thể dẫn tới
thoái hóa và trong một số trường hợp có thể dẫn tới tiêu xương ổ răng.
Điều trị làm ngăn chặn sự hình thành mảng bám răng thì có thể khống
chế được bệnh quanh răng, nghĩa là làm cho bệnh ngừng lại, hơn nữa vệ sinh
răng miệng sạch làm cho tổn thương lành lại. Nhiều năm nay người ta đã chú
ý đến vai trò vi khuẩn của mảng bám răng và tìm ra các vi khuẩn mảng bám
răng và tìm ra các vi khuẩn của mảng bám đó. Mặt khác bệnh quanh răng
không ảnh hưởng tới mọi người như nhau, vì vậy người ta nghĩ đến yếu tố cá
thể. Cho đến nay người ta cho rằng sử khởi phát bệnh tổ chức quanh răng
cũng như sự di chuyển tiếp từ viêm lợi sang viêm quanh răng phụ thuộc vào
hai yếu tố chính:
-
Vi khuẩn mảng bám răng mà vai trò của nó người ta đã chứng minh được ở
người từ những công trình gây bệnh thực nghiệm viêm lợi người.
-
Sự đáp ứng của cơ thể, đó là phản ứng miễn dịch. Ngoài ra người ta còn thấy
yếu tố làm bệnh nặng thêm như sang chấn khớp cắn hoặc những bệnh toàn
thân khác như tiểu đường, cao huyết áp, béo phì…
Như vậy, có thể nói mảng bám răng là yếu tố hết sức quan trọng trong
bệnh tổ chức quanh răng. Nó là nguyên nhân chính, nguyên nhân chủ yếu,
mắt xích đầu tiên dẫn đến sự phá hủy hoại vùng quanh răng. Nhiều công trình
nghiên cứu cho thấy mối liên quan giữa sự tồn tại và xuất hiện của mảng bám
răng với vệ sinh răng miệng. Trên thực tế, viêm lợi xuất hiện ngay nếu ngừng
21
vệ sinh răng miệng và niêm mạc lợi lại có thể trở lại bình thường nếu vệ sinh
răng miệng tốt.
1.5. Hành vi chăm sóc sức khỏe răng miệng
1.5.1. Hành vi sức khỏe
Hành vi sức khỏe là một trong nhiều khái niệm liên quan tới hành vi
con người. Hành vi sức khỏe có một vai trò vô cùng quan trọng để tạo lập cho
sức khỏe mỗi cá nhân và cộng đồng.
Người ta cho rằng hành vi người là một phức hợp của nhiều hành động
chịu ảnh hưởng bởi những yếu tố như di truyền, môi trường kinh tế - xã hội
và chính trị.
1.5.2. Kiến thức (Knowledge)
Kiến thức bao gồm những hiểu biết của con người thường khác nhau và
thường bắt nguồn từ kinh nghiệm, vốn sống hoặc của người khác truyền lại.
Hiểu biết nhiều khi không tương đông với kiến thức, hiểu biết rất khó thay đổi
khi hiểu biết sai và trở thành định kiến. Kiến thức phòng bệnh răng rất cần
thiết trong phòng tránh bệnh răng miệng.
1.5.3. Thái độ (Attitude)
Là tư duy, lập trường, quan điểm của đối tượng đối với một vấn đề. Nó
có thể bị ảnh hưởng bởi trình độ văn hóa, điều kiện kinh tế, xã hội, gia đình,
khu vực sinh sống ...
1.5.4. Hành vi (Practice)
Xuất phát từ những hiểu biết, có kiến thức và thái độ dẫn đến những
hành động của đối tượng.Kiến thức và thái độ đúng sẽ có hành động đúng và
ngược lại.
22
1.6. Vấn đềkiến thức, thái độ và hành vi sức khỏe răng
miệng ở người cao tuổi
Chăm sóc sức khỏe người cao tuổi đã được đặc biệt quan tâm ở nước ta
cũng như nhiều quốc gia trên thế giới, song với việc chăm sóc sức khỏe răng
miệng nói riêng ở người cao tuổi còn ít được quan tâm và triển khai một cách
hệ thống. Những người cao tuổi thường thiếu những thông tin cần thiết để tự
chăm sóc bảo vệ sức khỏe răng miệng, bản thân họ cũng không tích cực trong
việc thực hiện các biện pháp vệ sinh răng miệng như: ít chải răng, hay thực
hiện các thói quen không tốt cho răng miệng như xỉa tăm, đánh cau khô, ăn
trầu, hút thuốc…[14],[15].
Khi gặp các vấn đề về răng miệng họ cũng ít đi khám nha sĩ hơn những
người trẻ, họ mặc nhiên chấp nhận và chịu đựng đau, hay khó chịu ở vùng
răng miệng…Cũng vì vậy, nguyện vọng của họ thường rất thấp so với nhu
cầu thực tế cần được chăm sóc, điều trị. Đối với một bộ phận những người có
sức khỏe yếu hay khuyết tật không độc lập trong sinh hoạt cá nhân thì các vấn
đề trên càng trở nên nặng nề.
1.6.1. Đặc điểm chung
Sức khỏe là biểu hiện của nhiều yếu tố tác động, trong đó vấn đề kiến
thức, thái độ và thực hành sức khỏe đóng vai trò cực kì quan trọng, nó có thể
thúc đẩy tình trạng sức khỏe tốt lên hay xấu đi.
Nhiều nghiên cứu đã chỉ ra rằng: Kiến thức về chăm sóc sức khỏe răng
miệng ở người cao tuổi chủ yếu là kinh nghiệm tích lũy của bản thân hoặc do
người khác truyền lại, mà trên thực tế theo quan điểm y học hiện đại thì các
kinh nghiệm đó đôi khi đi ngược lại và có thể làm cho tình trạng sức khỏe răng
miệng xấu đi. Hơn nữa, kiến thức chăm sóc răng miệng ở người cao tuổi cũng
phụ thuộc nhiều yếu tố như: Trình độ văn hóa, nghề nghiệp, mức sống, khu vực
sinh sống, sự tự tìm hiểu của từng cá nhân…Thông thường ý niệm về bệnh tật
23
chỉ được quan tâm khi có cảm giác đau, thẩm mỹ bị ảnh hưởng, giao tiếp xã
hội bị hạn chế. Đây là những nhận biết có thể có ở hầu hết người cao
tuổi.Nhưng nếu để hiểu nguyên nhân, hậu quả và các biện pháp phòng chống
bệnh thì đa số tỏ ra không biết hoặc hiểu sai các kiến thức cơ bản, thông
thường. Thực tiễn này đặt ra trách nhiệm cho vấn đề giáo dục nha khoa trong
chương trình nâng cao hiểu biết đối với sức khỏe răng miệng cho người cao
tuổi.
Trên cơ sở nhận thức và thái độ có nhiều hạn chế nên thực hành chăm sóc
sức khỏe răng miệng của người cao tuổi đã thể hiện nhiều yếu tố tiêu cực: Cách
thức vệ sinh răng miệng không tốt, biểu hiện bằng việc ít chải răng và kỹ thuật
chải răng không tốt. Họ sử dụng nhiều biện pháp vệ sinh răng miệng không cơ
bản và có nhiều thói quen không tốt cho sức khỏe răng miệng. Rất ít người có
thói quen đi khám răng miệng định kì để phát hiện và điều trị sớm.
1.6.2. Các yếu tố tác động đến kiến thức, thái độ và hành vi chăm sóc sức
khỏe răng miệng ở người cao tuổi
Sức khỏe răng miệng người cao tuổi chịu sự tác động của nhiều yếu tố.
Sức khỏe kém có thể bắt nguồn từ những nguy cơ nội tại do sự ngấm vôi kém
ở men răng, răng mọc lệch lạc, chen chúc…Nguy cơ cũng đến từ các thói
quen có hại: Hút thuốc, uống rượu, ăn trầu…Các yếu tố ảnh hưởng khác có
thể do trình độ học vấn, mức thu nhập không cao, sức khỏe chung yếu, tập
quán văn hóa và nhất là yếu tố không được chăm sóc bởi các dịch vụ nha
khoa. Các yếu tố này liên quan chặt chẽ với nhau và cần được tìm hiểu để đưa
ra giải pháp can thiệp hợp lý. Nhằm tăng cường nhận thức, thay đổi thái độ,
hành vi sức khỏe người cao tuổi, chúng ta cần giúp họ loại bỏ những thói
quen có hại, giáo dục các đối tượng tự chăm sóc sức khỏe răng miệng có khoa
học và có ý thức thăm khám răng định kì tại các cơ sở nha khoa. Đây là một
24
quá trình cần có sự tác động nhiều mặt, nhưng ý thức bản thân luôn luôn là
một yếu tốt quyết định quan trọng nhất.
1.7. Nghiên cứu về bệnh quanh răng ở người cao tuổi trên
thế giới và Việt Nam
* Ở Việt Nam:
Tại Việt Nam, từ năm 1960 đến nay đã có nhiều công trình điều tra về
bệnh quanh răng ở một số địa phương. Các kết quả điều tra đều cho thấy bệnh
quanh răng chiếm tỷ lệ cao và ở mức báo động.Trần Văn Trường và Lâm
Ngọc Ấn đã tiến hành điều tra sức khỏe răng miệng toàn quốc qua 2 đợt thì
nhận thấy rằng qua 2 lần tỷ lệ bệnh quanh răng của nhóm tuổi >45 tuổi không
biến đổi nhiều, đều trên 90%[4].
Về tình hình bệnh tổ chức quanh răng, theo điều tra cơ bản tại khu vực
Hà Nội của Nguyễn Đức Thắng với lứa tuổi 45-64 và cỡ mẫu (n=150) thì có
CPITN 1 tỉ lệ là 1,33% và CPITN 2 chiếm tỷ lệ cao nhất 64,67% [25].Nguyễn
Văn Cát và Renneberg T và cs (1992) khám 181 người từ 44 đến 64 tuổi
không thấy người nào có mô quanh răng lành mạnh, chỉ số CPITN 1 tỉ lệ là
1,2 cao nhất là chỉ số 3 có tỉ lệ 45,8. Theo tác giảDươngThị Hoài Giang năm
2009 khám trên 303 người từ 60 tuổi trở lên tại Hoàng Mai – Hà Nội thấy tỷ
lệ người mắc bệnh quanh răng là 93,1% [6].
* Trên thế giới:
Bảng 1.1:Tình trạng túi lợi ở người cao tuổi của các nghiên
cứu trên thế giới
Quốc gia, tác giả
Túi lợi
Túi lợi
Năm Tuổi Người nông
sâu (%)
(%)
Bergman J.D và Cs, 1990 60-69
303
15,2
Trung
Trung
bình
bình túi
cao
lợi
răng
2,00
1,60
25
Australian
Galan D. và Cs,
1993 ≥ 60
Canada
Miyazaky H. và Cs,
1994 65-74
Japan
Trần Văn Trường,
2000 ≥ 45
Việt Nam
54
999
37,0
49,0
60,0
10,0
2,70
1,10
35,7
10,5
2,86
1,83
Một số điều tra khác như;theo điều tra sức khỏe quốc gia 1971-1974
của Mỹ,tình hình bệnh nha chu theo độ tuổi như sau: với độ tuổi 55-64 (có
nam bệnh nha chu chiếm 46,9%, còn nữ chiếm 35,8%).Theo điều tra của
P.D.Barnard năm 1988 ở Astraulia thì số trung bình lục phân có số CPITN
cao nhất ở lứa tuổi từ 65 tuổi trở lên thì thấy tỷ lệ CPITN 4 chiếm tới 70%
[3].Theo Brown và cộng sự 1981 ở Mỹ 65% người lứa tuổi từ 19-65 có túi lợi
sâu ≥ 3mm, 28% có túi lợi sâu 4-6mm và 8% có túi lợi sâu > 6mm.
1.8. Nghiên cứu về kiến thức, thái độ và hành vi chăm sóc sức khỏe răng
miệng ở người cao tuổi
Qua một số nghiên cứu trong và ngoài nước đã chỉ ra rằng:Những người
cao tuổi thường không có hiểu biết nhiều về bệnh răng miệng. Vì vậy, mà việc
tự chăm sóc sức khỏe răng miệng ở họ cũng có rất nhiều hạn chế. Schwarz E
và Lo E.C (1994) phỏng vấn 559 đối tượng tuổi 65-74 ở Hồng Kông cho thấy
có tỉ lệ rất cao về số người không hiểu rõ về sâu răng, viêm lợi. Smith J.M và
Cs điều tra tại Anh năm 1980 cho thấy 22% người cao tuổi có từ 1-5 năm và
26% có từ 6-20 năm không đi khám răng miệng. Theo Strayer M.S (1993) tại
Mỹ đã có 60% các bang có chương trình giáo dục sức khỏe răng miệng cho
người cao tuổi. Hầu hết các nghiên cứu đều cho nhận xét là bệnh răng miệng ở
người cao tuổi thường cao hơn các lứa tuổi khác và kiến thức, thái độ và thực
hành của họ cũng rất hạn chế. Theo điều tra của Rademakers L (tại Hà Lan
năm 2008), Carter G và cộng sự (tại Christchurch năm 2004) và Sweeney MP