Tải bản đầy đủ (.doc) (12 trang)

chuyên đề tổ xã hội VÀI BIỆN PHÁP GỢI HỨNG THÚ HỌC VĂN HỌC TRUNG ĐẠI Ở BẬC THCS

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (179.21 KB, 12 trang )

Trường THCS Nhơn Mỹ 2

Chuyên đề tổ Khoa học xã hội

Lờ i ngỏ


Học tập là một quá trình tiếp thu kiến thức mới. Quá
trình đó không phải tiến hành một cách dễ dàng, trôi
chảy. Nó là một quá trình đấu tranh rất gian khổ để tiếp
thu cái mới và cái chưa biết. Do đó đòi hỏi người học phải
có sự nhiệt tình, hăng say vượt khó với một tinh thần, thái
độ học tập đúng đắn thì mới có thể tiếp thu tốt và sâu
sắc bài học.
Với suy nghó đó, nhằm phát huy tối đa khả năng làm
việc cá nhân, đồng thời giúp học sinh biết hợp tác hoạt
động tập thể . Giáo viên Trường THCS Nhơn Mỹ 2 nói
chung, giáo viên tổ Xã hội nói riêng, luôn trăn trở làm sao
để mỗi tiết lên lớp được lý thú sinh động hơn, với phương
châm “ Dạy tốt, học tốt”, chuyên đề “ Vài biện pháp khơi
gợi hứng thú học Văn học Trung đại cho học sinh ( bậc
học THCS)” được hình thành từ mục tiêu trên.
Mặc dù có rất nhiều cố gắng nhưng chuyên đề chắc
chắn vẫn còn nhiều thiếu sót, mong sự đóng góp quý báu
của đồng nghiệp.
Trân trọng !
Tổ khoa học Xã hội

Trang 1



Trường THCS Nhơn Mỹ 2

Chuyên đề tổ Khoa học xã hội

NỘI DUNG VÀ CHƯƠNG TRÌNH LÀM VIỆC
**************

TT

NỘI DUNG

1

*Từ 9 giờ 50
1. Mục đích – Yêu cầu của việc tổ
chức chuyên đề
Lời ngỏ
Báo cáo chuyên đề:
Vài biện pháp gợi hứng thú học Văn
học trung đại ở Bậc học THCS
Minh họa (1 tiết – Ngữ văn 7)
Tiết 29 – Bài “Qua Đèo Ngang” (Bà
Huyện Thanh Quan)
Thảo luận – Góp ý của đại biểu
Ý kiến của BGH Trường THCS Nhơn
Mỹ 2
Phát biểu của Phòng GD-ĐT Kế Sách

2
3


4

5
6
7

NGƯỜI TRÌNH BÀY

Trang 2

 Thầy Nguyễn Phú Được
 Cô Lê Thò Bích Vân
 Cô Trần Thò Thanh Trúc

 Cô Trần Thò Việt Kiều

 Hội đồng sư phạm nhà trường
 HT: Thầy Nguyễn Tấn Mười
 Nêú có


Trường THCS Nhơn Mỹ 2

Chuyên đề tổ Khoa học xã hội

VÀI BIỆN PHÁP GI HỨNG THÚ HỌC
VĂN HỌC TRUNG ĐẠI
Ở BẬC THCS
1. LỜI NÓI ĐẦU

Văn học trung đại có một vai trò vò trí rất quan trọng trong tiến trình phát
triển của văn học Việt Nam.
Là một bộ phận cấu thành, văn học trung đại (VHTĐ) gắn liền với lòch sử
đấu tranh dựng nước và giữ nước của dân tộc Việt Nam, được phản ánh đậm nét
trong văn học Việt Nam.
Gần ngàn năm Bắc thuộc, dù chòu ảnh hưởng nhiều mặt về chữ viết, văn
học, triết lý, phong tục, tập quán … của phương Bắc, nhưng dân tộc Việt Nam với
ý thức quốc gia và tinh thần tự chủ cao độ, thiên bẩm này chính là ý chí quyết liệt
gắn bó với ruộng vườn, dan díu với núi sông, trung thành với tổ tiên, tranh đấu
cho chủ quyền chủng tộc, đã giúp cho nhân dân Việt Nam tự tồn mà vẫn theo kòp
đà văn minh, vay mượn một cách đam mê những văn minh tập quán của các láng
giềng mà vẫn bảo tồn được cá tính quốc gia dân tộc.
Ý thức thường trực về lo sợ bò đồng hóa, nên dân tộc Việt Nam dù vay
mượn chữ Hán nhưng đọc theo lối riêng của mình. Chính ý hạn chế dùng chữ
Hán, hạn chế ảnh hưởng và sức chi phối của Trung Hoa, tổ tiên ta đã sáng tạo ra
lối viết chữ mới, đó là chữ Nôm.
Dòng văn học truyền miệng (Còn gọi là văn chương truyền khẩu) cùng
với dòng văn học chữ Hán và dòng văn học chữ Nôm đã hoàn chỉnh diện mạo
văn học Việt Nam. Nét nhấn nổi bật ở đây là văn học trung đại, giai đoạn từ
cuối thế kỷ thứ 10 đến thế kỷ thứ 19, dòng văn học thể hiện đậm nét tinh thần
đấu tranh quật cường, độc lập tự chủ của dân tộc.
2. HỌC SINH KHÔNG THÍCH HỌC VĂN HỌC TRUNG ĐẠI – THỰC
TRẠNG NGUYÊN NHÂN:
2.1: Số liệu thống kê:
Qua các bài kiểm tra đònh kỳ về phần VHTĐ trong năm 2006 -2007 của
khối 7 và khối 9, ta có bảng thống kê số liệu điểm số như sau:
KHỐI

7
9

Tổng cộng

Tổng số
học sinh
89
93
182

Từ 1 điểm
đến 4 điểm
45
47
92
Trang 3

Điểm số
Từ 5 điểm
đến 7 điểm
34
33
67

Từ 8 điểm
trở lên
10
13
23


Trường THCS Nhơn Mỹ 2


Chuyên đề tổ Khoa học xã hội

Kết quả thống kê được hiểu như sau:
- Có 50,5% học sinh (HS) không thích học hoặc không am hiểu VHTĐ
trong chương trình bậc học THCS (Điểm từ 1 đến 4).
- Có 36,8% HS chỉ coi việc học các môn văn hóa nói chung, VHTĐ nói
riêng là bình thường, chỉ là điều cần và đủ (Điểm từ 5 đến 7).
- Có 12,7% HS thật sự yêu thích VHTĐ, học với sự say mê hứng khởi đầy
nhiệt tình (Điểm từ 8 trở lên).
2.2: Nguyên nhân:
Thăm dò, trao đổi, nhận xét về tình hình học tập ở HS, nổi bật lên những
nguyên nhân sau, có thể lý giải cho việc không thật sự yêu thích học VHTĐ:
- Phần lớn tác phẩm VHTĐ được viết bằng chữ Hán, thứ chữ vay mượn
nên khó hiểu, khô khan. Văn xuôi, văn vần đều viết theo lối biền ngẫu, sử dụng
nhiều điển tích điển cố nên gây ít nhiều trở ngại cho việc gây dựng hứng thú học
tập ở HS.
- Vốn ngôn ngữ Hán Việt chưa nhiều nên HS khó nắm bắt phần nguyên âm
của bài thơ.
- Chưa đủ trình độ nhận thức được nghệ thuật uyên bác tinh tế của thơ
Đường.
- HS chưa xây dựng được hoặc chưa thực nghiêm túc thời khóa biểu tự học
ở nhà, nhất là khâu soạn bài mới.
- Với lứa tuổi hiếu động (Từ 12 đến 15 tuổi), HS khó có thể tập trung chú ý
lâu dài, khó có cảm giác đắm mình trọn vẹn trong tác phẩm, nhất là những ý tình
đó được thể hiện theo kiểu “ý tại ngôn ngoại”.
3. CHUẨN BỊ CỦA GIÁO VIÊN (GV) KHI GIẢNG DẠY VHTĐ Ở
BẬC THCS:
Nhìn ra được nguyên nhân thực trạng, tỉnh táo đánh giá, chúng ta thấy để
có được một tiết lên lớp thực sự hấp dẫn HS, người GV phải thường trực suy nghó

là “Học sinh là trung tâm” và “Học là quá trình phát hiện thông tin chứ không
phải đơn thuần truyền đạt thông tin từ người thầy đến học trò”. Do đo,ù GV phải
chuẩn bò kỹ càng khi giảng dạy nói chung và dạy VHTĐ nói riêng; chỉ có sự
chuẩn bò hoàn hảo mới giúp GV đạt hiệu suất tối ưu của tiến trình hoạt động dạy
và học.
3.1: Chuẩn bò về kiến thức chuyên môn:
3.1.1: Nhận ra và biết cách khai thác từ “đắt”:
Học VHTĐ là phải tắm mình được tắm mình trong hoàn cảnh lòch sử, trăn
trở cùng nhân vật, hít thở không khí thời đại đương đại, sức thu hút đầu tiên đó là
ngôn ngữ. GV phải khai thác triệt để được kênh chữ, bằng vốn ngôn ngữ Hán
Việt của mình, GV phải giúp HS nắm bắt được nội dung, nghệ thuật đặc sắc của

Trang 4


Trường THCS Nhơn Mỹ 2

Chuyên đề tổ Khoa học xã hội

bài, việc khai thác có dụng ý những từ “đắt” trong tác phẩm sẽ tạo tiền đề cho
HS thâm nhập sâu tác phẩm.
Ví dụ:
Dạy bài “Bạn đến chơi nhà” – Nguyễn Khuyến (Sách Ngữ văn 7, tập 1)
Với văn bản này, GV nhấn trọng âm vào từ “nay” sẽ giúp HS cảm nhận
được khái niệm thời gian tình cảm:
“Đã bấy lâu/ nay/ bác tới nhà”
Sự trông mong da diết đến bây giờ mới được thỏa mãn, được thể hiện trọn
vẹn ở từ nay rất đắt; biết nhấn mạnh, GV sẽ khai thác tốt nội dung tình bạn thắm
thiết được thể hiện bước đầu trong tác phẩm.
3.1.2: Nắm vững các thể thơ và đặc trưng thể loại:

Các tác phẩm VHTĐ thường được thể hiện bằng văn vần, thể thơ được ưa
chuộng là dạng thất ngôn bát cú Đường luật. GV cần nhấn mạnh, trong thơ, cảm
xúc là chủ đạo, trình tự chi tiết lớp lang có thể được xem nhẹ.
Ví dụ: Khi nói về Mã Giám Sinh , Nguyễn Du không cần miêu tả một cách
chi tiết cụ thể, mà chỉ là:
“Ghế trên ngồi tót sỗ sàng”
Thế là bao nhiêu dối trá, bản chất thất học của tên vơ lại đều lồ lộ.
3.1.3: Có vốn kiến thức nhất đònh về văn học sử:
Nắm vững về tiến trình phát triển văn học sử, sẽ giúp GV có cái nhìn bao
quát hơn, dễ dàng đưa tác phẩm VHTĐ vào bối cảnh lòch sử, hoàn cảnh sáng tác,
vì mỗi tác phẩm thường gắn với tiến trình lòch sử; tác phẩm thường được phả hồn
thời đại, thông qua lăng kính chủ quan, ý thức hệ cùng với nhân sinh quan, tác giả
gởi gắm tâm tư tình cảm của mình, của dân tộc vào tác phẩm.
Ví dụ:
Dạy bài “Hoàng Lê nhất thống chí” của Ngô gia văn phái (Văn học 9, tập
1, Nhà xuất bản GD )
Gv cần chú ý đặc điểm lòch sử của giai đoạn này. Tác phẩm là một bức
tranh hiện thực rộng lớn về xã hội phong kiến Việt Nam khoảng 30 năm cuối thế
kỷ XVIII và mấy năm đầu thế kỷ XIX, trong đó hiện lên cuộc sống thối nát của
vua quan triều Lê-Trònh và quá trình phát triển phong trào Tây Sơn, với hình
tượng nhân vật Nguyễn Huệ, đánh thắng thù trong giặc ngoài. Hoàng Lê nhất
thống chí của Ngô gia văn phái vừa ca ngợi người anh hùng dân tộc Nguyễn Huệ
vừa phê phán quyết liệt đối với giai cấp phong kiến thống trò, phơi bày nỗi thống
khổ của nhân dân.
Có kiến thức về văn học sử, việc truyền thụ của GV sẽ toàn diện, chính
xác hơn.
3.1.4: Có vốn từ Hán Việt:

Trang 5



Trường THCS Nhơn Mỹ 2

Chuyên đề tổ Khoa học xã hội

VHTĐ Việt Nam với 2 dòng thơ chữ Hán và chữ Nôm, có nội hàm tinh tế,
hàm súc, nên GV cần trang bò cho mình sự hiểu biết sâu rộng về từ Hán Việt.
Khi dòch thơ, dù người dòch đã rất nhiều cố gắng, nhưng do đặc thù ngữ
nghóa của ngôn ngữ, nên không thể nào lột tả hết tinh thần mà tác giả gởi
gắm.Với vốn từ Hán Việt phong phú, GV dễ dàng có khả năng luân chuyển, so
sánh giữa bản phiên âm, bản dòch nghóa và bản dòch thơ để giúp HS nắm được
hồn của tác phẩm.
Ví dụ:
Khi dạy bài “Xa ngắm thác núi Lư” (Vọng Lư Sơn bộc bố) của Lý Bạch
(Văn học 7, tập 1, trang 109, Nhà xuất bản GD)
Với vốn từ Hán Việt đươc trang bò, GV sẽ giúp HS cảm nhận sự tinh tế hàm
súc trong bản phiên âm so với bản dòch nghóa, dòch thơ, giữa:
“Nhật chiếu Hương Lô sinh tử yên”
Và:
“Nắng rọi Hương Lô khói tía bay”
Sự sinh ra đã bò mất trong bản dòch thơ, hồn của bài thơ bò mất đi cái động,
chỉ còn cái tónh trơ vơ.
3.2: Chuẩn bò về kỹ năng sư phạm:
GV cần chuẩn bò tốt nghiệp vụ sư phạm khi đứng lớp. Việc sử dụng thủ
thuật sư phạm nào, với mức độ ra sao là tùy thuộc vào bản lónh của GV. Bằng
kinh nghiệm thực tế, học hỏi đồng nghiệp, GV sẽ có nhiều cách tiếp cận và giải
mã nội dung tác phẩm; tuy nhiên kỹ năng cần và đủ của GV dạy Văn là thái độ
nghiêm túc, chuẩn xác, toàn diện đối với tác phẩm phân tích.
Điều này sẽ được nói rõ hơn ở phần sau.
4. TIẾP CẬN TÁC PHẨM VHTĐ NHƯ THẾ NÀO ĐỂ KHAI THÁC

TỐT NỘI DUNG VÀ NGHỆ THUẬT CỦA TÁC PHẨM:
4.1: Về phía GV:
4.1.1: Tiếp cận tác phẩm từ góc độ lòch sử:
Tác phẩm VHTĐ phản ánh lòch sử xã hội đương đại.
Nắm được lòch sử xã hội, thời điểm ra đời của tác phẩm, ý thức hệ của tác
giả, GV có thể thâu tóm được chính xác và toàn diện tư tưởng chủ đề của tác
phẩm.
Mỗi giai đoạn lòch sử đều có sự tương ứng với lực lượng sáng tác và ý
thức hệ chủ đạo bấy giờ. Vốn kiến thức của GV phải đáp ứng được yêu cầu hiểu
biết này. Nghiên cứu, tham khảo tài liệu bổ trợ, trong chừng mực nào đó, ranh
giới Văn-Sử không phải là rào cản nữa, bài giảng sẽ phong phú hơn, HS có thêm
hứng thú học tập, khi vừa giải mã nội dung tác phẩm vừa được tắm mình trong
không khí thời đại đương thời.
4.1.2: Tiếp cận tác phẩm từ hoàn cảnh sáng tác:
Trang 6


Trường THCS Nhơn Mỹ 2

Chuyên đề tổ Khoa học xã hội

Mỗi tác phẩm đều có sự ra đời rất riêng, đôi khi rất đặc biệt. Cảm hứng
ban đầu, được tác giả thai nghén, trở thành đứa con tinh thần , truyền đến những
thế hệ sau nhiều ám ảnh vấn vương, khi được tiếp xúc.
Ví dụ:
Nữ só tài hoa Bà Huyện Thanh Quan, dù lòng nhớ nước thương nhà có đậm
đà đến đâu, nếu không có cảnh Đèo Ngang bóng ái hoang sơ thì chúng ta chưa
chắc có cảnh:
“Bước tới Đèo Ngang bóng xế tà
Cỏ cây chen đá, lá chen hoa”

Tính trữ tình và tính thời sự có mối liên hệ chặt chẽ hổ tương nhau trong tác
phẩm VHTĐ, đặc biệt thể hiện rõ nét trong các tác phẩm giai đoạn nửa cuối thế
kỷ 19.
Chú ý được hoàn cảnh sáng tác, GV sẽ giúp HS nắm bắt được vấn đề tưởng
như rất chung mà lại rất riêng: lòng yêu nước nồng nàn của dân tộc.
Không ước lệ hào hùng kiểu “gươm đàn nửa gánh non sông một chèo”,
chí khí anh hùng được thể hiện trong các tác phẩm giai đoạn này rất hào hùng
nhưng lại rất đời thường,kiểu như “gian nan chi kể việc con con” (Đập đá ở Côn
Lôn – Phan Châu Trinh), hoặc:
“Thân ấy hãy còn còn sự nghiệp
Bao nhiêu nguy hiểm sợ gì đâu”
(Vào nhà ngục Quảng Đông cảm tác – Phan Bội Châu)
Hiểu được hoàn cảnh sáng tác, HS sẽ không bò động tiếp thu tác phẩm một
chiều mà sẽ gợi cho các em trí tò mò muốn khám phá tác phẩm: Từ hoàn cảnh
sáng tác như vậy thì tác giả sẽ khai thác đề tài gì trong tác phẩm? Tư tưởng tác
giả gởi gắm trong tác phẩm là gì?…
4.2: Về phía HS:
- Nhằm khắc phục tình trạng không thông hiểu từ Hán Việt, GV cần tạo
điều kiện cho HS tiếp xúc với tự điển nhiều như dành thời gian học trái buổi tổ
chức chơi đố chữ, tìm và ghép từ Hán Việt, giải nghóa từ…
- Yêu cầu HS soạn bài trước ở nhà, đồng thời GV cần có biện pháp kiểm
tra sát sao (Thông qua tổ học tập bộ môn, ban cán sự…)
- Tạo được môi trường giao tiếp tốt, tin cậy lẫn nhau để HS có thể mạnh
dạn trao đổi những gì chưa hiểu rõ với bạn, với GV.
5. PHỐI HP VÀ PHÁT HUY TỐI ƯU CÁC PHƯƠNG PHÁP TRONG
DẠY VÀ HỌC VHTĐ:
Mỗi phương pháp đều có thế mạnh riêng của nó. Việc sử dụng các thủ
pháp nghệ thuật nào, phối hợp ra sao tùy thuộc vào bản lónh của GV, nội dung
của bài dạy và tình huống sư phạm cụ thể.
5.1: Phương pháp phân tích kết hợp gợi mở:

Trang 7


Trường THCS Nhơn Mỹ 2

Chuyên đề tổ Khoa học xã hội

5.1.1: Ưu điểm:
Với đặc trưng riêng của môn Văn, GV cần phải sử dụng linh hoạt các
phương pháp giảng dạy. Phải sống với tác phẩm, vui buồn trăn trở với nhân vật,
do đó, phương pháp thích hợp là phân tích kết hợp gợi mở.
Kênh âm thanh rất quan trọng. Chỉ cần nhấn mạnh từ “đắt” là có thể giúp
HS cảm nhận nội dung.
Ví dụ:
“Bước tới Đèo Ngang bóng xế tà”
Khai thác có dụng ý từ “xế tà”, GV sẽ giúp HS hình dung được khoảng thời
gian cuối ngày, vào buổi chiều, mặt trời xuống gần đến chân trời. Khoảng thời
gian lặng này mang đến cho con người nhiều suy tư xúc cảm lắng sâu, tâm hồn
man mác trìu tróu.
Gợi mở “xế tà” để phân tích “xế tà”, GV đưa HS đến thời gian nghệ thuật,
nơi Bà Huyện Thanh Quan mở đầu xúc cảm, bước đầu tạo hứng thú tìm hiểu bài
thơ nơi HS.
5.1.2: Vài lưu ý khi dùng phương pháp phân tích kết hợp gợi mở:
Môn Văn - môn khoa học xã hội đặc trưng – nên lời nói mang sức truyền
cảm sẽ có hiệu quả thuyết phục rõ nét. Tuy nhiên, dù lời phân tích có thuyết phục
đến đâu, GV cũng không nên quá lạm dụng, vì điểm hạn chế lớn nhất của phương
pháp này là HS bò thụ động trong quá trình học. Vì vậy, cần sử dụng phương pháp
này theo đònh hướng sau:
- Phân tích gợi mở (Kênh tiếng) kết hợp hợp với mô hình, biểu bảng (Kênh
hình).

Ví dụ:
Khi dạy bài Qua Đèo Ngang (Bà Huyện Thanh Quan), Bài ca Côn Sơn
(Nguyễn Trãi), GV cần chuẩn bò tranh ảnh để HS cảm nhận được vẻ hoang sơ của
Đèo Ngang hoặc cảnh như vẽ ở Côn Sơn.
Hình ảnh phải nêu được khái quát trọng tâm của bài dạy.
Đối với tranh ảnh trực quan , GV phải sử dụng minh họa đúng lúc, kết hợp
cùng HS khai thác kiến thức hoặc tăng cảm xúc biểu cảm; ngoài ra, kích thước và
màu sắc tranh ảnh phải phù hợp với thực tế diện tích phòng học, só số học sinh, cơ
sở vật chất của phòng như cửa sổ, đèn chiếu sáng, màu vôi tường…
5.2: Sử dụng phối hợp hợp lý hệ thống câu hỏi để khơi gợi hứng thú học
(1)
Văn
Trong dạy, học Văn, để đánh thức tiềm năng của cá thể HS, huy động được
tối đa khả năng làm việc độc lập hay theo nhóm, GV cần đặt HS vào tình huống
có vấn đề. Bằng hệ thống câu hỏi, GV có thể tạo ra và dẫn dắt HS tới nội dung
cần đạt tới.
5.2.1: Câu hỏi tái hiện:
Trang 8


Trường THCS Nhơn Mỹ 2

Chuyên đề tổ Khoa học xã hội

Với loại câu hỏi này, HS sẽ được yêu cầu phát biểu, trình bày lại vấn đề đã
được hiểu.
Câu hỏi loại này chỉ là tiền đề tiếp chuyển tới nội dung phức tạp hơn.
Ví dụ 1:
Bài Qua Đèo Ngang – Bà Huyện Thanh Quan (Sách đã dẫn – Sđd)
GV có thể hỏi như sau:

? Hãy cho biết thời gian được tác giả nói đến qua cụm từ “bóng xế tà”?
Ví dụ 2:
Bài Sông núi nước Nam (Nam quốc sơn hà) (Lý Thường Kiệt- Ngữ văn 7 –
Tập 1)
(Bài này có hai ý kiến về tác giả: của Lý Thường Kiệt và chưa rõ tác giả.
Ở đây, chấp nhận hướng thứ nhất: của Lý Thường Kiệt)
Sau khi đã cho HS đọc hiểu văn bản, GV có thể dùng loại câu hỏi tái hiện:
? Em hãy diễn xuôi lại nội dung câu thơ thứ nhất của bài Sông núi nước
Nam?
5.2.2: Câu hỏi rèn năng lực tư duy và sử dụng ngôn ngữ:
Trên cơ sở HS đã hiểu nội dung, GV sử dụng loại câu hỏi này để yêu cầu
HS trình bày lại về nội dung tư tưởng, quan điểm nghệ thuật của tác phẩm.
Câu hỏi loại này không thể dựa vào kết quả có sẵn đã biết, HS cần vận
dụng năng lực tư duy của mình để sắp xếp lại các sự kiện, chi tiết, lựa chọn ngôn
từ, cách lập luận… để diễn đạt một cách chính xác, rõ ràng vấn đề.
Dạng câu hỏi này GV dùng để kiểm tra kiến thức, ôn tập, củng cố sau khi
HS đã nghiên cứu thấu đáo tài liệu mới.
Ví dụ:
Bài Sông núi nước Nam (Lý Thường Kiệt)
? Ý thức độc lập, chủ quyền đã được khẳng đònh ngay từ đầu và rất sớm
trong cộng đồng người Việt cổ. Dựa vào 2 câu đầu của bài Sông núi nước Nam,
em hãy chứng minh?
HS phải sắp xếp các chi tiết đã hiểu như nam quốc, nam đế cư, phận đònh,
thiên thư để lập luận, diễn đạt làm nổi bật được ý chính qua từng từ cụ thể: bộ ba
Quốc, Đế, Cư khẳng đònh nước ta là một quốc gia độc lập, có lãnh thổ (Quốc), có
chủ (Đế), có thực quyền xử lý mọi việc (Cư), đòa vò của bậc đế vương, của đất
nước, của dân tộc đã được khẳng đònh (Phận đònh), và tất cả điều này đã được
thiết lập một cách hiển nhiên trong kinh của Nguyên Thủy Thiên Tôn (Thiên thư
– Sách của Trời).
Dạng câu hỏi này đòi hỏi HS phải biết quy nạp vấn đề, tư duy ngôn ngữ để

diễn đạt nội dung.
5.2.3: Câu hỏi giải thích:

Trang 9


Trường THCS Nhơn Mỹ 2

Chuyên đề tổ Khoa học xã hội

Loại câu hỏi này đòi hỏi HS, sau khi đã hiểu thấu đáo nội dung, thì cần
phải biết chọn lọc chi tiết để giải quyết vấn đề được GV đưa ra.
HS phải có những hoạt động tư duy sau để giải quyết như: đònh hướng sự
việc, lựa chọn chi tiết, nắm được bản chất vấn đề trong sự so sánh đối chiếu với
toàn bộ nội dung đã học.
Ví dụ:
Bài Sông núi nước Nam (Lý Thường Kiệt)
Trên cơ sở đã học xong bài thơ này, GV đặt câu hỏi
? Tại sao có thể coi bài Sông núi nước Nam có ý nghóa như là bản Tuyên
ngôn độc lập lần thứ nhất của dân tộc Việt Nam?
HS phải có khả năng khái quát hóa sự việc: Ý thức bình đẳng quốc gia, dân
tộc của người Đại Việt ( Nam quốc sơn hà nam đế cư), chân lý này là sự thật hiển
nhiên (Tiệt nhiên phận đònh tại thiên thư), vô cớ xâm lược nước khác là trái
nghóa, vô đạo lý (Như hà nghòch lỗ lai xâm phạm), lời cảnh cáo đanh thép về hậu
quả thê thảm đối với bọn xâm lược nếu cố tình xâm phạm (Nhữ đẳng hành khan
thủ bại hư).
HS phải xâu chuỗi chi tiết từng câu thơ, biết cách lập luận, diễn đạt, sử
dụng ngôn ngữ chính xác để trình bày.
Loại câu hỏi này kích thích tư duy và huy động khả năng làm việc của HS
tương đối cao.

5.2.4: Câu hỏi vấn đề:
Loại câu hỏi này thường được dùng để kiểm tra toàn bộ nội dung bài dạy.
Nó có tác dụng vừa củng cố khắc sâu kiến thức, vừa có hướng mơ ûra những khả
năng tìm tòi cách giải quyết sáng tạo mới, vấn đề được giải quyết trên cơ sở tổng
hợp sự hiểu biết của HS.
Việc lựa chọn giải pháp giải quyết trên cơ sở phương án “mở” (Nghóa là sẽ
có những cách giải quyết khác nhau).
Ví dụ:
Bài “Chuyện người con gái Nam Xương” của Nguyễn Dữ (Văn 9, tập 1,
trang 40)
GV có thể nêu câu hỏi
? Khi bò chồng là Trương Sinh nghi ngờ mình thất tiết, cách giải quyết trong
truyện là Vũ nương tự vẫn để chứng tỏ lòng trong sạch của mình, theo em, Vũ
Nương còn có cách giải quyết nào khác tốt hơn không?
HS sẽ có nhiều phương án lựa chọn:
- Nhờ bà con hàng xóm nói dùm để minh oan.
- Giả vờ tự vẫn, để sau này khi Trương Sinh hiểu ra thì sẽ trở về.
- Tra hỏi cặn kẽ người nói ra sự việc này để có cơ hội giãi bày, minh oan.
Trang 10


Trường THCS Nhơn Mỹ 2

Chuyên đề tổ Khoa học xã hội

Dạng câu hỏi này thích hợp với hoạt động thảo luận tập thể. Nhiệm vụ của
các em HS trong nhóm là đề ra phương án có tính khả thi nhất, được bảo vệ vững
chắc bằng những luận cứ, luận điểm của nhóm mình.
Ví dụ:
Nếu HS lựa chọn phương án “Nhờ bà con hàng xóm nói giùm để minh oan”

thì phải có luận cứ, luận điểm cụ thể trong bài; nhóm HS đó phải tìm ra (Có thể
qua gợi mở của GV) là Vũ Nương vốn thuận thảo với mọi người (Chi tiết minh
họa: Vũ Nương tốt người đẹp nết, họ hàng làng xóm bênh vực và biện bạch cho
nàng…) (Dòng 6, trang 48, Văn 9, tập 1).
6. KINH NGHIỆM – KẾT QUẢ:
Sau một thời gian vận dụng, qua khảo sát, chúng tôi nhận thấy có sự tiến
bộ trong HS, như năng lực cảm thụ, nhận xét, phân tích… văn thơ sâu sắc, chín
chắn hơn. Các em không còn thụ động tiếp thu, mà chủ động hơn, thậm chí cả
“đặt hàng” nội dung muốn hiểu biết cho GV, giờ học sinh động hẳn lên, “ồn tích
cực” theo sự mong muốn của GV.
Kết quả thống kê sau cho thấy rõ hơn:
Khối
Số HS
Điểm số
Từ 1 đến 4
Từ 5 đến 7
Từ 8 điểm
điểm
điểm
trở lên
7
89
29
46
14
9
93
31
44
18

Tổng cộng
182
60
90
32
Tỉ lệ
33%
49,5%
17,5%
(So với trước)
(>17,5%)
(<12,7%)
(<4,8%)
7. KẾT LỤÂN:
Trên đây là những vấn đề được GV tổ Xã hội trao đổi, rút kinh nghiệm và
áp dụng vào thực tế giảng dạy. Tuy mức độ áp dụng chưa đều tay ở các lớp, khối,
giáo viên…; nhưng bước đầu đã gặt hái được nhiều tích cực, cả về phía GV lẫn
HS.
Chúng tôi mong nhận được những ý kiến đóng góp quý báu của bạn đồng
nghiệp để đề tài này được hoàn thiện hơn, áp dụng rộng rãi trong môn Ngữ văn
nói riêng, các môn học khác nói chung.

Nhơn Mỹ 2, ngày 14 tháng 02 năm 2008.
Tập thể giáo viên tổ Xã hội

Trang 11


Trường THCS Nhơn Mỹ 2


Chuyên đề tổ Khoa học xã hội

Trang 12



×