Tải bản đầy đủ (.doc) (18 trang)

THUYẾT MINH ĐẠI NỘI HUẾ

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (224.36 KB, 18 trang )

KHÁI QUÁT ĐẠI NỘI HUẾ:
Có lẽ khi chưa đến Huế, các quý vị đã biết được ít nhiều về Huế, là thành phố nằm ở miền Trung
Việt Nam, đồng thời là kinh đô cuối cùng của nhà nước phong kiến Việt Nam. Nơi đây còn lưu
giữ hang trăm các di tích văn hóa lịch sử, mà nổi cộm nhất là thành quách, lăng tẩm của các các vị
vua triều Nguyễn (từ 1802 đến 1945). Người ta nói rằng, nếu có thể so sánh, thì Vịnh Hạ Long hay
động Phong Nha – Kẻ bàng là điều kì diệu của thiên nhiên ban tặng, còn di tích cố đô Huế là di sản
văn hóa do bàn tay khối óc của con người Việt Nam tạo ra, được UNESCO công nhận là di sản văn
hóa thế giới vào năm 1993, và đây là di sản văn hóa thế giới đầu tiên ở Việt Nam.
Tại phiên họp lần thứ 17 của Uỷ ban Di sản thế giới, Colombia từ ngày 6 đến 11/12/1993,
UNESCO đã quyết định công nhận quần thể di tích Cố đô Huế là di sản văn hoá của nhân loại.
- Quần thể di tích Cố đô Huế là di sản văn hóa thế giới theo tiêu chí số 4, đã hội đủ các yếu
tố:
+ Tiêu biểu cho những thành tựu nghệ thuật độc đáo, những kiệt tác do bàn tay con người
tạo dựng.
+ Có giá trị to lớn về mặt kỹ thuật xây dựng, nghệ thuật kiến trúc trong một kế hoạch phát
triển đô thị hay một chương trình làm đẹp cảnh quan tại một khu vực văn hoá của thế giới;
+ Một quần thể kiến trúc tiêu biểu của một thời kỳ lịch sử quan trọng.
+ Kết hợp chặt chẽ với các sự kiện trọng đại, những tư tưởng hay tín ngưỡng có ảnh hưởng
lớn, hay với các danh nhân lịch sử.
I. Sơ lược lịch sử kinh đô Huế:
- Năm 1802, sau khi đã thống nhất được cả lãnh thổ lẫn nhân tâm, Nguyễn Ánh lên ngôi hoàng
đế với niên hiệu Gia Long và chọn Phú Xuân - Huế làm kinh đô của cả nước với ba lí do sau:
- Yếu tố phong thủy: Thiên nhiên vùng Huế là một món quà vô giá mà tạo hóa đã dành sẵn
cho con người. Vùng đất này hội tụ hầu hết các yếu tố tự nhiên trong nước: rừng núi, gò đồi, đồng
bằng, sông ngòi, đầm phá, biển cả ...Đồng bằng ở đây tương đối hẹp, xung quanh là núi biếc, ở giữa
có dòng sông uốn lượn mềm mại trong lòng đô thị. Ở vài nơi, sông hương và núi Ngự xích lại gần kề
bên nhau, tạo thành một bức tranh sơn thủy hữu tình: Sông Hương êm đềm, trong vắt, “Con sông
dùng dằng con sông không chảy/ Sông chảy vào lòng nên Huế rất sâu” (Thu Bồn); còn Núi Ngự thì
trang nghiêm trầm mặc như dáng dấp của một nhà hiền triết. Cả hai muôn thưở như cặp tình nhân,
đóng vai trò quan trọng nhất đối với đối với kiến trúc kinh đô Huế... Từ khi xây dựng Thủ phủ Phú
Xuân đến lúc nâng cấp thành kinh đô Huế các nhà kiến trúc đã không để cho công trình kiến trúc của


mình tồn tại một cách đơn lẻ và khô cứng, mà họ đã nâng cao giá trị của các thực thể địa lí tự nhiên
trong vùng bằng cách gắn vào cho chúng những chức năng tâm linh xuất phát từ Dịch lí và luật
Phong thủy, trên cơ sở đó thổi vào các công trình xây dựng một cái hồn và tạo ra cho chúng một thần
thái: Núi Ngự Bình - tiền án, - hậu chẩn, Cồn hến – tả thanh long, cồn Dã Viên – hữu bạch hổ, Sông
Hương – minh đường
1


- Hoàn cảnh chính trị và lãnh thổ: lãnh thổ nước ta kéo dài từ mục Tam Quan đến mũi
Cà Mau. Nếu triều Nguyễn đóng đô phía Bắc thì sợ sự xâm lấn của nhà Thanh, ngoài ra ở Bắc vẫn
còn tàn dư của Chúa Trịnh. Ở miền Nam là lãnh thổ mới khai thiên lập địa. Nên việc triều Nguyễn
đóng đô ở Huế là hoàn toàn hợp lí.
- Yếu tố kế thừa tâm linh: nơi đây có mộ của tiên tổ của Vua Gia Long. Nếu ông chọn chỗ
khác – rõ ràng là phủ nhận công lao của tiên tổ.
Thưa quý khách, trong suốt gần một thế kỉ rưỡi, Triều đình nhà Nguyễn đã xây dựng và hoàn
thiện ở Huế một kinh đô huy hoàng và tráng lệ chưa từng có. Kiến trúc kinh đô nói chung và Đại Nội
nói riêng là sự kết hợp giữa kiến trúc kinh thành truyền thống dân tộc, Phương Đông và kiến trúc
Vobant của Pháp. Cụ thể là:
- Phong cách kiến trúc truyền thống được thể hiện ở chỗ: Bố cục mặt bằng của hệ thống kiến
trúc Đại Nội rất chặt chẽ và đăng đối. Trong kiến trúc thể hiện tư tưởng độc tôn (đề cao Vua): các
công trình của Hoàng Thành và toàn bộ hệ thống cung điện bên trong được bố trí trên một trục đối
xứng, những công trình dành cho vua nằm trên trục chính (đường Trung đạo) và thường dịch về phía
trước vì theo quan niệm của xã hội lúc bấy giờ Vua là thế lực vĩnh cửu, là thiên tử, là trung tâm của
vũ trụ nên phải đứng giữa; các công trình khác đều hướng về nhà Vua, đối xứng từng cặp qua trục
chính (từ Ngọ Môn đến lầu Tứ Phương Vô Sự) và ở những vị trí tiền, hậu; thượng, hạ; tả, hữu; luôn
nhất quán (tả văn hữu võ, tả nam hữu nữ, tả chiêu hữu mục). Con số 9 và 5 được sử dụng nhiều trong
kiến trúc vì theo Dịch lý, con số ấy ứng với mạng thiên tử. Ngoài ra, trong kinh thành còn xây dựng
các miếu thờ (đây là hiện tượng mà từ trước tới nay chưa từng có): Miếu thờ tổ tiên của triều Nguyễn
và miếu thờ các vị vua. Ngay cả trong các miếu thờ cũng có sự sắp xếp theo thứ tự “tả chiêu hữu
mục” (bên trái trước, bên phải sau, lần lượt theo thời gian). Kiến trúc xây dựng tuân theo kiểu chữ

KHẨU, ĐINH, CÔNG.
- Phong cách kiến trúc Vobant được thể hiện ở cách xây dựng thành lũy: bờ xung quanh
là những đường gấp khúc, lỗ châu mai, tạo nên tầm ngắm không gian cho các ổ súng.
- Thưa quý khách, kinh đô Huế được xây dựng theo ba vòng:
+ Vòng 1: Kinh thành
+ Vòng 2: Hoàng thành
+ Vòng 3: Tử cấm thành
- Kinh thành là tòa thành lũy đồ sộ và kiên cố dùng để phòng vệ cho tất cả các công trình kiến
trúc bên trong và các sinh hoạt của triều đình cũng như gia đình Nhà Vua. Hoàng thành và Tử Cấm
thành (Tử Cấm thành nằm trong lòng Hoàng thành) - hai vòng thành có mối liên quan chặt chẽ với
nhau về sự phân bố vị trí của các công trình dựa theo chức năng sử dụng thường được gọi là hoàng
cung, từ thế kỉ XX trở đi còn được dân địa phương gọi bằng một tên khá phổ biến đó là Đại Nội.
- Bây giờ, tôi xin phép nói sơ lược về Hoàng thành và tử cấm thành, nơi mà các vị sẽ vào thăm
quan sau ít phút.
2


II. Hoàng thành:
- Hoàng thành với hai nghĩa: Thứ nhất là Thành của Vua chúa và lớn lao; thứ hai, là màu vàng:
màu sơn của tòa thành là màu vàng (khác với Tử cấm thành được sơn màu tím). Có 4 cửa: Cửa phía
Nam dựng thời Vua Gia Long, gọi là Nam Khuyết Đàn, không có tầng cổ lâu bên trên, có 3 lối vào.
Cửa Đông là cửa Hiển Nhân (làm sang tỏ nhân đức) dành cho nam giới. Cửa Chương Đức (làm sang
tỏ đức độ) dành cho nữ giới (các phi tần và các cung nữ đi ra vô chợ búa). Cửa Hòa bình ở phía sau
dành để Vua đi chơi, đi săn bắn v.v. Về sau, Minh Mạng không thích kiến trúc của cửa Nam khuyết
Đàn nên ông cho xây dựng lại và gọi tên là Ngọ Môn.
- Hoàng thành là vòng thành thứ hai bên trong Kinh thành Huế, có chức năng bảo vệ các cung
điện quan trọng nhất của triều đình, các miếu thờ tổ tiên nhà Nguyễn và bảo vệ Tử Cấm Thành - nơi
dành riêng cho vua và hoàng gia. Sau đây tôi sẽ mô tả sơ lược về vòng thành này:
- Hoàng Thành được xây dựng năm 1804, nhưng mãi đến năm 1833 đời vua Minh Mạng mới
hoàn chỉnh toàn bộ hệ thống cung điện với khoảng hơn 100 công trình.

- Xét về kiến trúc, Hoàng Thành có mặt bằng gần vuông, mỗi bề khoảng 600m, xây bằng gạch,
cao 4m, dày 1m, xung quanh có hào bảo vệ, có 4 cửa để ra vào: Cửa chính (phía Nam) là Ngọ Môn,
phía Đông có cửa Hiển Nhơn, phía Tây có cửa Chương Đức, phía Bắc có cửa Hòa Bình. Các cầu và
hồ được đào chung quanh phía ngoài thành đều có tên Kim Thủy.
- Mặc dù có rất nhiều công trình lớn nhỏ được xây dựng trong khu vực Hoàng Thành nhưng
tất cả đều được xây dựng theo tư tưởng độc tôn như tôi đã nói ở trên, được đặt giữa thiên nhiên với
các hồ lớn nhỏ, vườn hoa, cầu đá, các hòn đảo và các loại cây lưu niên tỏa bóng mát quanh năm. Mặc
dù quy mô của mỗi công trình có khác nhau, nhưng về tổng thể, các cung điện ở đây đều làm theo
kiểu “trùng lương trùng thiềm” (hay còn gọi là “trùng thiềm điệp ốc” - kiểu nhà kép hai mái trên một
nền), đặt trên nền đá cao, vỉa ốp đá Thanh, nền lát gạch Bát Tràng có tráng men xanh hoặc vàng, mái
cũng được lợp bằng một loại ngói đặc biệt hình ống có tráng men thường gọi là ngói Thanh lưu ly
(nếu có màu xanh) hoặc Hoàng lưu ly (nếu có màu vàng). Các cột được sơn thếp theo mô típ longvân (rồng-mây). Nội thất cung điện thường được trang trí theo cùng một phong cách nhất thi nhất họa
(một bài thơ kèm một bức tranh) với rất nhiều thơ bằng chữ Hán và các mảng chạm khắc trên gỗ theo
đề tài bát bửu, hay theo đề tài tứ thời)[2].
- Bên trong Hoàng thành bao gồm các khu vực sau:
+ Khu vực phòng vệ: gồm vòng thành bao quanh bên ngoài, cổng thành, các hồ (hào), cầu
và đài quan sát.
+ Khu vực cử hành đại lễ, gồm các công trình: Ngọ Môn, cửa chính của Hoàng Thành - nơi
tổ chức lễ Duyệt Binh, lễ Truyền Lô (đọc tên các Tiến sĩ tân khoa), lễ Ban Sóc (ban lịch năm mới).
Điện Thái Hòa - nơi cử hành các cuộc lễ Đại Triều một tháng 2 lần (vào ngày 1 và 15 Âm lịch ),
lễ Đăng Quang, lễ Vạn Thọ, lễ Quốc Khánh...
3


+ Khu vực các miếu thờ: được bố trí ở phía trước, hai bên trục dọc của Hoàng Thành theo thứ
tự từ trong ra gồm:
Triệu Tổ Miếu ở bên trái thờ Nguyễn Kim.
Thái Tổ Miếu thờ các vị chúa Nguyễn.
Hưng Tổ Miếu ở bên phải Nguyễn Phúc Luân.
Thế Tổ Miếu thờ các vị vua nhà Nguyễn.

+ Khu vực dành cho bà nội và mẹ vua (phía sau, bên phải), gồm hệ thống cung Trường Sanh
(dành cho các Thái hoàng Thái hậu) và cung Diên Thọ (dành cho các Hoàng Thái hậu).
+ Khu vực dành cho các hoàng tử học tập, giải trí như vườn Cơ Hạ, điện Khâm văn... (phía
sau, bên trái).
+ Ngoài ra còn có kho tàng (Phủ Nội Vụ) và các xưởng chế tạo đồ dùng cho hoàng gia (phía
trước vườn Cơ Hạ)
+ Khu vực Tử cấm thành (tôi xếp Tử cấm thành là một khu vực của Hoàng thành vì Tử cấm
thành nằm trong Hoàng thành)
- Tử Cấm thành thuộc quần thể di tích cố đô Huế là trung tâm sinh hoạt hằng ngày của vua và
hoàng gia triều Nguyễn. Tử Cấm thành có vị trí sau lưng điện Thái Hòa, được khởi xây năm Gia
Long thứ 3 (1804) gọi là Cung thành và các vua triều Nguyễn xây dựng thêm. Đến năm Minh Mạng
thứ 3 (1822), vua đổi tên là Tử Cấm thành, nghĩa là thành cấm màu tía. Theo nghĩa hán tự, chữ Tử có
nghĩa là màu tím, lấy ý theo thần thoại: Tử Vi Viên ở trên trời là nơi ở của Trời, Vua là con Trời nên
nơi ở của Vua cũng gọi là Tử, Cấm Thành là khu thành cấm dân thường ra vào.
- Tử cấm thành là vòng tường thành thứ 3 của Kinh đô Huế, nằm trên cùng một trục Bắc-Nam
với Hoàng Thành và Kinh Thành, gồm một vòng tường thành có bình diện hình chữ nhật, cạnh nam,
bắc dài 341m, cạnh đông, tây dài 308m chu vi 1300m; tường thành xây hoàn toàn bằng gạch vồ, dày
0,7m, cao 3,7m, có 7 cửa: nam là Đại cung (Đại Cung môn) kết cấu hoàn toàn bằng gỗ, lợp ngói
hoàng lưu ly; đông là của Hưng Khánh và cửa Đông An, về sau lấp cửa Đông An, mở thêm cửa
Duyệt Thị ở phía đông Duyệt Thị Đường, ở mặt này cũng mở thêm cửa Cấm Uyển nhưng rồi lại lấp;
tây là cửa Gia Tường và Tây An; bắc là cửa Tường Loan và Nghi Phụng (trước năm 1821 mang tên
Tường Lân), dưới thời Bảo Đại, sau khi xây lầu Ngự Tiền Văn Phòng mở thêm cửa Văn Phòng.
Trong tử cấm thành có khoảng 50 công trình lớn nhỏ, trong đó có các cung điện như:
Điện Cần Chánh (nơi vua tổ chức lễ Thường triều).
Điện Càn Thành (chỗ ở của vua),
Cung Khôn Thái (chỗ ở của Hoàng Quý phi),
Lầu Kiến Trung (từng là nơi ở của vua Bảo Đại và Hoàng hậu Nam Phương),
- Nhà đọc sách và các công trình khác phục vụ cho nhu cầu sinh hoạt của nhà vua và gia đình
như Thượng Thiện Đường (nơi phục vụ ăn uống), Duyệt Thị Đường (nhà hát hoàng cung) ...
4



- Đáng tiếc, các công trình kiến trúc trong Tử cấm thành hầu như đã bị hủy diệt hoàn toàn
trong hai cuộc chiến tranh. Chỉ một vài công trình còn tồn tại và tôi sẽ giới thiệu với quý khách ngay
sau khi chúng tiến hành tham quan Điện Thái hòa.
III. Bây giờ xin mời các quý khách theo tôi đến thăm khu vực cử hành đại lễ:
- Thưa quý khách, trước mặt mọi người là Ngọ Môn - cổng chính phía nam lớn nhất của
Hoàng thành Huế, được xây dựng vào năm Minh Mạng 14 (1833). Trước kia tại vị trí này là Nam
Khuyết Đài, xây dựng đầu thời Gia Long. Trên đài này có điện Càn Nguyên, hai bên có hai cửa là Tả
Đoan Môn và Hữu Đoan Môn. Đến năm Minh Mạng 14 (1833) khi triều Nguyễn tổ chức qui hoạch
lại toàn bộ mặt bằng kiến trúc Hoàng thành, Nam Khuyết Đài bị giải thể hoàn toàn để lấy chỗ xây
dựng Ngọ Môn. Ngọ môn được xây dựng trên trục chính (đường Trung đạo). Ngọ Môn có nghĩa đen
là Cổng giữa trưa hay Cổng xoay về hướng Ngọ. Về mặt từ nguyên, Ngọ Môn có nghĩa là chiếc cổng
xây mặt về hướng Ngọ. Hướng này, theo quan niệm của địa lý phong thủy phương Đông là hướng
Nam. Hướng của Ngọ Môn cũng như toàn bộ Kinh thành Huế trên thực tế là hướng càn - tốn (tây bắc
- đông nam) nhưng vẫn được xem là hướng Ngọ (hướng nam). Theo Dịch học hướng Nam là hướng
dành cho bậc vua Chúa để “nhi thính thiên hạ, hướng minh nhi trị” (hướng về ánh sáng để nghe thiên
hạ và cai trị thiên hạ một cách sáng suốt). Qua việc Minh mạng đặt tên cho cổng này như vậy, thì quý
khách có thể hình dung ngay được vị trí quan trọng của nó trong tổng thể kiến trúc Hoàng cung. Ngày
xưa, cổng này luôn luôn đóng, chỉ được mở khi vua ra vào vào những dịp đại lễ, hoặc trong những
dịp tiếp kiến các sứ thần ngoại quốc quan trọng của Hoàng cung.
- Vị trí của Ngọ Môn trên đường Ngự Đạo có thể nói lên tầm quan trọng về mặt lịch sử của
nó: Ngọ Môn là nơi chứng kiến nhiều sự kiện lịch sử quan trọng. Nơi đây ngày xưa vẫn thường diễn
ra các buổi lễ quan trọng nhất của triều Nguyễn như lễ duyệt binh, lễ Ban sóc (ban lịch mới), Truyền
Lô (tuyên đọc tên tiến sĩ tân khoa)... Ngày 30 tháng 8 năm 1945, tại Ngọ Môn, vua Bảo Đại, vị vua
cuối cùng của Việt Nam, đã thoái vị và trao chính quyền lại cho chính phủ lâm thời Việt Nam Dân
chủ Cộng hòa.
- Về mặt cấu trúc, Ngọ Môn có hai phần chính là: đài - cổng và lầu Ngũ Phụng – hai hệ thống
này đã được thiết kế ăn khớp với nhau một cách chặt chẽ từ tổng thể đến chi tiết tạo thành một vòng
tay của chủ nhân đang dang ra phía trước để đón khách vào.

- Thưa quý khách, xin mời quý khách theo tôi vào bên trong nền đài. Đây là phần đài - cổng,
có bình diện hình chữ U vuông góc, đáy dài gần 58m, cạnh bên dài hơn 27m. Đài được xây bằng
gạch đá kết hợp với các thanh dầm chịu lực bằng đồng thau. Đài cao gần 5m, diện tích chiếm đất hơn
1560m2 (kể cả phần trong lòng chữ U). Thân đài trổ 5 lối đi. Ở phần giữa của nền đài có ba lối
đi song song nhau: lối chính giữa là Ngọ Môn, chỉ dành cho vua đi. Hai lối bên là Tả Giáp Môn và
Hữu Giáp Môn, dành cho quan văn, võ theo cùng trong đoàn Ngự đạo. Hai lối đi bên ngoài cùng nằm
ở hai cánh chữ U là Tả Dịch Môn và Hữu Dịch Môn, dành cho binh lính và voi ngựa theo hầu. Xin
5


mời quý khách nhìn lên phần trên của 5 lối đi: đều xây cuốn thành vòm cao, nhưng riêng ở 3 lối đi
giữa có hệ thống xà ngang, xà dọc bằng đồng thau với tiết diện vừa phải để gia cố cho sự chịu lực của
Lầu Ngũ Phụng. Những chỗ có mật độ xà ngang, xà dọc dầy hơn là những chỗ chịu lực nhiều hơn.
Còn đây là những bậc cấp được xây bằng đá Thanh, chúng nằm lộ thiên nhưng có vẻ rất kín đáo phải
không ạ. Quanh nền nhà quý vị có thể nhìn thấy hệ thống tường hoa và lan can được trang trí bằng
nhiều kiểu gạch hoa đúc rỗng tráng men ngũ sắc làm tôn vẻ đẹp thanh thoát của nền đài. Hệ thống
nền đài được xây bằng các vật liệu kiên cố (đá, gạch, đồng), nhưng nhờ sự tạo dáng mềm mại, bố trí
hài hòa chau chuốt như tôi đã nói ở trên, nên trông rất nhẹ nhàng, thanh thoát. Các lối xuyên qua thân
nền đài thành là những đường hầm rất dài, nhưng ánh sáng thiên nhiên vẫn chiếu dọi vào đầy đủ nhờ
những dạ cửa được nâng cao và trổ thêm các cửa sổ tròn trang trí hình chữ “Thọ”. Tất cả những chi
tiết này càng làm cho tổng thể kiến trúc trở nên thanh tú và chứng tỏ sự thành thạo và tinh tế trong
công việc xây dựng của những người thợ Việt thưở xưa.
- Xin mời quý khách theo tôi lên Lầu Ngũ Phụng. Đây là phần lầu đặt ở phía trên đài - cổng.
Ngoài phần thân đài, lầu còn được tôn cao bởi một hệ thống nền cao hơn 1m cũng chạy suốt thân đài
hình chữ U. Lầu có hai tầng, kết cấu bộ khung hoàn toàn bằng gỗ lim với chẵn 100 cây cột, trong đó
48 cây cột ăn suốt cả hai tầng.
- Mái tầng dưới đơn giản, nối liền nhau, chạy vòng quanh để che mưa, che nắng cho phần hồi
lang. Trước đây, quanh các phía tầng dưới đều bỏ trống, chỉ trừ tòa nhà chính giữa có hệ thống cửa
gương ở mặt trước, hai bên và mặt sau chỗ thiết ngự tọa để vua ngồi dự lễ có dựng đồ bản.
- Nhưng mái tầng trên lại trên chia thành 9 bộ, với rất nhiều hình chim phụng trang trí ở phần

bờ nóc, bờ quyết, hình ảnh rồng, dao, dơi ngậm vòng tròn, thơ văn, hoa lá khiến tòa lầu trông rất nhẹ
nhàng, thanh thoát, trang nhã khác hẳn với Thiên An Môn. Bộ mái chính giữa của lầu Ngũ Phụng là
lớn hơn, cao hơn được lợp ngói ống hoàng lưu li (màu vàng), vì nơi đây dành cho vua ngồi dự lễ, tám
bộ còn lại nhỏ hơn, thấp hơn, được lợp ngói ống thanh lưu li (màu xanh), vì đây là vị trí dành cho các
quan lại triều đình. Quý khách có thể thấy, 9 bộ mái như được chia ra thành 3 dãy, mỗi dãy 3 nóc:
dãy chính chạy ngang theo đáy của chữ U, hai dãy phụ chạy dọc theo 2 cánh của chữ U, 2 dãy này
được gọi là Tả dực lâu và Hữu dực lâu. Ở tầng trên này, mặt trước nhà giữa dựng cửa lá sách, chung
quanh nong ván, nhưng có trổ nhiều cửa với các dạng khác nhau: hình tròn, hình quạt, hình cái khánh
v.v. Tầng trên không có chức năng sử dụng, mà chỉ để tạo dáng cao sang cho công trình kiến trúc ngọ
môn nói chung.
- Các vị có thể dễ dàng nhận thấy, về mặt kiến trúc, Ngọ Môn có dáng dấp tương tự Thiên An
môn ở Cố cung Bắc Kinh (tất nhiên triều Nguyễn có học tập kiểu cách chung của kiến trúc Thiên An
Môn), tuy nhiên vẫn thể hiện rõ phong cách kiến trúc truyền thống của dân tộc Việt Nam: nhìn
chung, khi nhìn lên Thiên Môn quý khách sẽ có cảm giác một hình khối rất nặng, nền móng vững
chãi, thành dài, bên trên là một cấu trúc tầng, tiếp theo vách cũng đồ sộ, trên là bộ mái cứng, to lớn
tạo ra cảm giác bị choáng ngợp khi đứng trước một cung điện hùng vĩ như thế. Còn Minh Mạng thì
6


không áp dụng lối kiến trúc như thế, mà cho xây một công trình khá phức tạp hình chữ U và hệ thống
Lầu Ngũ Phụng chìa ra thành 9 bộ mái lớn nhỏ, cao thấp, nằm nhấp nhô trông vui mắt: “Ngọ Môn
năm cửa chín lầu/ một lầu vàng, tám lầu xanh…”, với những hàng cột thon nhỏ như thế là vì để tránh
đi sự nặng nề của một công trình kiến trúc hình khối đồ sộ, trở nên một công trình xinh xắn đáng yêu.
Ngoài ra đạo Âm dương ngũ hành của nền triết học Phương Đông đã biểu hiện cụ thể trên kiến trúc
Ngọ Môn: đó là những số đếm trên kiến trúc Ngọ Môn như số: 5, 9, 100 (5 lối đi vào cửa Ngọ Môn
tượng trưng cho Ngũ Hành, 9 bộ mái biểu hiện con số 9 trong hào “cửu ngũ” của Kinh dịch, ứng với
mạng thiên tử, 100 cột ở Lầu ngũ Phụng là số cộng của “Hà đồ” và “Lạc thư” trong Kinh dịch)
- Vậy, theo quý khách, Ngọ môn có xứng đáng được liệt vào hang những công trình kiến trúc
đặc sắc nhất thời Nguyễn không ạ.
- Thưa quý khách, điểm tham quan tiếp theo của quý khách sẽ là Điện Thái Hoà và Sân Đại

Triều Nghi.
- Xin quý khách dừng chân và xếp thành hình vòng cung và nghe tôi giới thiệu.
- Bây giờ chúng ta đang đứng ở tại địa điểm sân chầu, trước cửa Điện Thái Hòa, nơi đã diễn ra
biết bao sự kiện lịch sử của đất nước. Điện cùng với sân chầu là địa điểm được dùng cho các buổi
triều nghi quan trọng của triều đình như: lễ Đăng Quang của 13 vua triều Nguyễn từ Gia Long đến
Bảo Đại, sinh nhật vua, những buổi đón tiếp sứ thần chính thức và các buổi đại triều được tổ chức
một tháng 2 lần vào ngày mồng 1 và 15 âm lịch hàng tháng. Sân Đại triều nghi có ba cấp: cấp cao
nhất là đệ nhất bái đình, cấp thứ hai là đệ nhị bái đình; cấp thứ ba là đệ tam bái đình. Hai cấp trên lát
đá thanh lưu li, cấp dưới lát gạch. Các cấp được nối với nhau bằng những bậc tam cấp. Nếu tính cụ
thể, tổng số bậc cấp từ cấp thứ ba đến cấp một là 9 bậc (số chín ứng với mạng thiên tử), từ cấp 1 lên
nền điện là 5 bậc (số năm biểu tượng cho ngũ hành).
- Thưa quý khách, khi làm lễ, theo luật lệ của triều đình, các quan từ nhất phẩm đến cửu phẩm
không bao giờ được đứng trong ngôi điện lợp ngói hoàng lưu li (màu vàng) kia, mà phải sắp hàng ở
sân, quay mặt vào trong Điện Thái Hòa để chầu: các quan từ nhất phẩm đến tam phẩm sắp hàng ở đệ
nhất bái đình (cấp trên cùng); các quan từ tứ phẩm đến cửu phẩm sắp hàng ở đệ tam bái đình (cấp thứ
2); các hương hào, kì lão trong hoàng tộc từ 70 tuổi trở lên sắp hàng ở đệ tam bái đình (cấp thứ 3). Từ
đệ nhất bái đình đến đệ nhị bái đình, hai bên có 18 bia quy định phẩm trật của các quan để theo đó mà
sắp hàng theo thứ tự: bên trái là quan văn, bên phải là quan võ.
- Bên trong Điện Thái Hòa chỉ có Vua ngự trên ngai vàng, đứng hai bên ngai vàng là các
hoàng thân quốc thích và 4 vị đại thần tứ trụ của triều đình. Tất nhiên các vị quan đứng chầu ngoài
sân đều không thể trực tiếp nghe thấy Vua nói, vì ngày xưa không có hệ thống Micro như bây giờ.
Hơn nữa vua không cần phải hét to để các quan ngoài sân nghe, vì các vị tưởng tượng xem, nhà vua
ngồi trong kia, còn các quan quỳ ở ngoài này, nên nhà vua có hét to mấy các quan cũng không nghe
thấy. Khi làm lễ, với uy quyền của mình, nhà vua chỉ cần nói nhẹ thôi, và lời của vua sẽ được một
hàng quan truyền khẩu từ cửa Điện Thái Hòa ra đến sân Đại triều nghi.
7


- Cuối sân này, hai bên đặt hai con kì lân. Đây là con vật không có trong thực tế. Tương
truyền rằng, giống vật này chân đi không chạm đất, miệng ngậm cỏ non, lòng lúc nào cũng trong

sạch, đứng ở đây làm chức năng “giám sát” các quan thi hành lễ và kiểm tra lòng trung thành của các
quan đối với Vua.
- Thưa quý khách, trước mặt quý khách là Điện Thái Hòa, được coi là trung tâm của đất nước
dưới chế độ phong kiến, là ngôi điện cho tới nay vẫn còn lưu lại những nét vàng son về lịch sử chói
lọi của một triều đại, vì ngôi điện đã chứng kiến biết bao sự kiện lịch sử vinh quang và tủi nhục của
đất nước Việt Nam dưới triều Nguyễn gồm 13 vị vua từ Gia Long đến Bảo đại như tôi đã nói ở trên;
- Chính vì vậy, khi quy hoạch mặt bằng hệ thống kiến trúc Kinh thành, các nhà kiến trúc
đương thời đã định vị cho Điện Thái Hòa ở ngay trung tâm điểm của Kinh thành vì một lí do rất đơn
giản, nhưng lại vô cùng hệ trọng: đó là nơi đặt ngai vàng của nhà Vua. Dưới chế độ quân chủ, ngai
vàng là biểu tượng thiêng liêng, đồng thời là một khái niệm cao cả nhất.
- Ngoài ra, ngôi điện còn lưu lại những dấu ấn văn hóa, nghệ thuật kiến trúc truyền thống đặc
sắc. Xin quý khách nhìn lên mái của ngôi điện. Mái được lợp bằng ngói hoàng lưu li (màu vàng), vì
đây là công trình dành cho vua ngự trong các buổi lễ đại triều. Trên mỗi mái điện là bờ quyết được
đắp nổi 9 con rồng ở trong các tư thế khác nhau: lưỡng long chầu hổ phù đội bầu rượu, lưỡng long
chầu mặt nhật, hồi long (rồng quay đầu lại), rồng ngang v.v…Có thể nói điện Thái Hòa là giang sơn
để cho loài rồng bay lượn để tượng trưng cho vương quyền.
- Để chiêm ngưỡng nghệ thuật kiến trúc bên trong của ngôi điện, xin mời quý khách theo tôi
vào bên trong ngôi điện. Xin quý khách lưu ý là ở đây không được chụp ảnh và cũng không được
bước qua sợi dây để đến gần ngai vàng. Nếu quý khách có mong muốn, hãy đến thăm Tả vu, Hữu vu,
hoặc nhà hát Duyệt Thị Đường, nơi có dịch vụ mặc quần áo vua và hoàng hậu để chụp ảnh.
- Thưa quý khách, xin mời quý khách nhìn lên trên, chúng ta bắt gặp dòng chữ “THÁI HÒA
ĐIỆN” được sơn son thếp vàng. Cái tên “THÁI HÒA ĐIỆN” mang một ý nghĩa sự hòa hợp âm
dương đến cự điểm, có nghĩa là đối với Vua, cương và nhu đúng lúc trong trị vì thì mới hữu ích cho
thiên hạ.
- Về quá trình xây dựng, trùng tu và tôn tạo ngôi điện này có thể chia làm 3 thời kỳ chính, tạm
gọi là thời Gia Long, thời Minh Mạng và thời Khải Định. Mỗi thời kỳ đều có những thay đổi lớn, cải
tiến về kiến trúc và trang trí:
- Thời Gia Long: Vua Gia Long khởi công xây dựng vào ngày 21 tháng 2 năm 1805 và hoàn
thành vào tháng 10 cùng năm. Bấy giờ ngôi điện tọa lạc vị trí Đại cung môn (cửa Tử cấm thành), nằm
cách Điện Thái Hòa hiện nay khoảng 50 m về phía sau lưng, cũng ở trên trục chính của Hoàng cung.

- Thời Minh Mạng: Năm 1833 khi vua Minh Mạng quy hoạch lại hệ thống kiến trúc cung đình
ở Đại Nội, trong đó có việc cho dời điện về mé Nam và làm lại đồ sộ và lộng lẫy hơn.

8


- Thời Khải Định: Năm 1923 dưới thời vua Khải Định để chuẩn bị cho lễ Tứ tuần Đại khánh
tiết của nhà vua (mừng vua tròn 40 tuổi) diễn ra vào năm 1924, điện Thái Hoà đã được "đại gia trùng
kiến".
- Qua các đợt trùng tu lớn nói trên và nhiều lần trùng tu sửa chửa nhỏ khác dưới thời vua
Thành Thái, Bảo Đại và trong thời gian gần đây (vào năm 1960, 1970, 1981, 1985 và 1992) điện
Thái Hòa đã ít nhiều có thay đổi, vẻ cổ kính ngày xưa đã giảm đi một phần. Tuy nhiên, cốt cách cơ
bản của nó thì vẫn còn được bảo lưu, nhất là phần kết cấu kiến trúc và trang trí mỹ thuật.
- Điện Thái Hoà được xây theo lối “trùng thiềm điệp ốc” / “trùng diêm trùng lương”, nghĩa là
nhà trước và nhà sau của ngôi điện nằm trên cùng một nền và được nối lại với nhau bằng một hệ
thống vì kèo thứ 3, nho nhỏ xinh xinh, đỡ một hệ thống tràn gỗ được uốn cong lên như hình vỏ vua,
còn gọi là vì vỏ cua (vì vỏ cua là loại vì kèo mang chức năng trang trí nhiều hơn là chức năng kiến
trúc. Nó được làm từ một phiến gỗ nguyên khối: dài khoảng 1m4, rộng gần 1m, dày 0,1m, từ phiến
gỗ đó, nghệ nhân trang trí theo quyết định của chủ nhà (tuy nhiên,ở ngôi điện này người ta dùng kĩ
thuật chạm lộng đối với hai vì nối nhau). Vì vỏ cua bao giờ cũng tuân thủ theo nguyên tắc sau: tạo
mộng ăn với cột hàng ba (cột hiên), cột hàng hai (cột quân) ở hai bên theo chiều thẳng đứng và tạo
mộng khớp với đòn tay ở bên trên theo chiều vòm cong. Đây là kiểu kiến trúc tiêu biểu của các công
trình cung điện, chùa chiền ở Huế và cũng là kiểu kiến trúc văn hóa đặc sắc của các công trình nhà
cổ ở Hội An: phong phú, đa dạng về kiểu dáng, vừa phần nào đánh giá được mức độ giàu ngheo của
từng gia chủ).
- Bên trên trần này không có mái, mà chỉ có một cái máng xối bằng đồng rất lớn dùng để hứng
nước mưa từ mái sau nhà trước và mái trước của nhà sau đổ xuống được gọi là Trần thừa lưu (là cái
máng xối nhận nước, dẫn ra hai đầu máng, rồi cho chảy xuống mái hạ bằng hai miệng rồng đắp nổi
như đầu rồng đang phun nước).
- Hệ thống vì kèo nóc nhà sau tương đối đơn giản, chỉ làm theo kiểu "vì kèo cánh ác" (đáng

tiếc kiểu vì kèo này đã bị trần nhà che khuất), nhưng hệ thống vì kèo nóc nhà trước thì thuộc loại vì
kèo "chồng rường - giả thủ" được cấu trúc tinh xảo (bộ vì này gồm hai loại cấu kiện chính liên kết
vuông góc nhau theo phương tung – hoành. Đó là thanh gỗ ngang gọi là rường, có độ dài không đều
nhau, đặt song song, cách đều nhau theo trật tự ngắn dần về phía nóc. Chúng được liên kết với nhau
bằng những thanh gỗ đứng (giả thủ) có kích thước như nhau: chân trụ ăn mộng vào lưng rường dài
phía dưới, thân trụ ăn mộng với đầu rường phía trên, đầu trụ trực tiếp đỡ lấy xà trên mái. Mỗi bộ vì
kèo chồng rường giả thủ có 3 rường và 5 trụ đội, chúng đều được tạo dáng mềm mại, chạm trổ, trang
trí khá tỉ mỉ, công phu nên được đặt ở phòng khách).
- Toàn bộ hệ thống vì kèo, rường cột, xuyên trến ở đây đều liên kết với nhau một cách chặt
chẽ bằng hệ thống mộng mẹo chắc chắn. Mái điện lợp ngói hoàng lưu ly, nhưng không phải là một
dải liên kết mà được chia làm ba tầng chồng mí lên nhau theo thứ tự từ cao xuống thấp, gọi là mái
9


"chồng diêm" hoặc "trùng thiềm", mục đích là để tránh đi sự nặng nề của một tòa nhà quá lớn đồng
thời để tôn cao ngôi điện bằng cách tạo ra ảo giác chiều cao cho tòa nhà.
- Giữa hai tầng mái trên là dải cổ diêm. Dải cổ diêm được phân khoảng ra thành từng ô hộc để
trang trí hình vẽ và thơ văn trên những tấm pháp lam (đồng tráng men nhiều màu) theo lối Nhất thi
nhất họa (theo thứ tự một bài thơ, rồi đến một bức tranh). Tuy Điện Thái Hòa không đồ sộ và hoành
tráng như Điện Thái hòa ở Bắc kinh, nhưng với 297 bài thơ văn của các vị vua và các quan lại triều
Nguyễn, ngôi điện này phản ánh một truyền thống văn hóa dân tộc đặc sắc của nước Việt: đó là cần
kiệm và hiếu học.
- Toàn bộ kiến trúc cung điện được sơn son thiếp vàng. Các mái được chống đỡ bằng 80 cột
gỗ lim, mỗi cây cột này sau khi trải qua 13 lớp sơn ta mới được sơn son thếp vàng và trang trí hình
rồng vờn mây - một biểu tượng về sự gặp gỡ giữa hoàng đế và quần thần đúng như chức năng vốn có
của ngôi điện. Như quý khách đã biết, gỗ lim là một loại gỗ tốt, không mối, mọt. Tuy nhiên, hai bên
đầu nhà có trưng bày 2 cột gỗ đã được thay thế bằng cột khác, không phải vì mối mọt, mà do đạn bắn
hồi hai cuộc chiến tranh.
- Ở gian giữa của ngôi điện quý khách có thể nhìn thấy ngai vàng của vua. Chắc hẳn quý
khách sẽ thắc mắc tại sao một ngai vàng biểu tượng cho sự thiêng liêng của một nước mà lại bé như

vậy. Đơn giản là vì, ngai vàng được đúc từ thời vua Gia Long, thời kì đất nước còn nghèo, thêm vào
đó các vị vua sau không đúc lại ngai vàng khác to hơn, đẹp hơn, vì đúc lại ngai vàng có nghĩa là thay
đổi cả một triều đại. Tuy nhiên, Ngai vàng không phải được đúc hoàn toàn bằng khối vàng mà được
làm bằng gỗ quý, phía ngoài dát vàng. Trong kinh dịch người ta nói rằng: “Thánh nhân nam diện nhi
thính thiên hạ”, có nghĩa là bậc thánh nhân luôn luôn ngồi xoay về hướng nam để để cai trị thiên hạ,
và ngai vàng của vua triều Nguyễn cũng chỉ quay về hướng tốt nhất – đó chính là hướng nam. Đặc
biệt, ngai vàng được đặt trên ba tầng bệ tượng trưng cho Thiên – Đại – Nhân (sự kết hợp hài hòa giữa
thiên thời – địa lợi – nhân hòa). Ở trước ngai vàng có đặt một cái bàn người ta gọi là Hoàng án, nơi
đốt trầm và hương tạo ra cho không khí buổi đại lễ có phần uy nghiêm và long trọng; và còn một lí do
tại sao đốt trầm hương tại đây nữa là khi nhìn lên ngai vàng, người ta có cảm giác không chỉ nhìn
thấy trên ngai vàng một thiên tử con trời, mà còn là một vị thần linh huyền bí. Phía sau ngai vàng là
cánh cửa; đằng sau cánh cửa vàng đó là đường đi lên ngai vàng của Vua. Tất cả các đường giữa, cửa
giữa chỉ dành cho vua đi mà thôi. Trên ngai vàng của vua có một bức bửu tán bằng pháp lam ngũ sắc
trang trí hình cửu long, chung quanh rủ các lớp diềm. Mỗi mặt chạm lộng hình 9 con rồng thếp vàng
chói lọi. Có lẽ khi mới nhìn vào, quý khách cho rằng dù chỉ một cơn gió thoảng qua, bức diềm cũng
có thể lung lay. Nhưng thực ra, bức diềm đó sẽ không bao giờ lung lay được, vì bên trong được làm
bằng gỗ tốt, bên ngoài được sơn son thếp vàng. Tâm lực và tài năng của của ông cha ta ngày xưa đã
làm cho chúng ta có cảm giác nhầm lẫn như vậy, thật đáng ngạc nhiên phải không ạ!
- Trang trí cũng như kiến trúc của điện Thái Hòa nói chung, có một khái niệm đặc biệt đáng
chú ý là con số 5, số 5 tượng trưng cho thuyết âm dương ngũ hành: ở đâu có sự hài hòa âm dườg thì ở
10


đó vạn vật sinh xôi nảy nở; và nhất là con số 9, con số ứng với thiên tử: các nhà kiến trúc đã lấy nghĩa
của con rồng và số 9 trong kinh dịch: “Càn nguyên dụng cửu, thiên hạ trị dã” – trong đạo làm vua mà
biết dùng 9 phép trị nước của Cơ Tử ở Binh thư thì bình trị được thiên hạ; “Phi long tại thiên, lợi
kiến đại nhân” – như con rồng đã hiện ra giữa trời, mình đi ra mắt kẻ đại nhân thì có lợi. Hai con số
này chẳng những xuất hiện ở trang trí nội ngoại thất của tòa nhà mà còn ở trên các bậc thềm của nó
nữa. Từ phía Đại Cung Môn của Tử Cấm Thành đi ra điện Thái Hòa, vua phải bước lên một hệ thống
bậc thềm ở tầng nền dưới là 9 cấp và ở tầng nền trên là 5 cấp. Trước mặt điện số bậc cấp bước lên Đệ

nhị Bái đình và Đệ nhất Bái đình cộng lại là 9. Tiếp đó, hệ thống bậc thềm ở nền điện cũng có 5 cấp.
Trên mái, ở các bờ quyết đều được đắp nổi 9 con rồng ở trong các tư thế khác nhau: lưỡng long chầu
hổ phù đội bầu rượu, lưỡng long chầu mặt nhật, hồi long (rồng quay đầu lại), rồng ngang v.v…Ở nội
điện cũng thế, từ ngai vàng, bửu tán, các mặt diềm gỗ chung quanh cho đến mỗi mặt của ba tầng bệ
mỗi nơi đều trang trí một bộ 9 con rồng.
- Xin mời quý khách theo tôi bước sang phía gian sau của ngôi điện.
- Thưa quý khách, đây là sơ đồ toàn bộ các công trình trong Hoàng thành. Quý khách đang tọa
lạc ở Điện Thái Hòa, tại vị trí này trong sơ đồ. Phía sau Điện Thái Hòa là Tử Cấm Thành, là nơi làm
việc và sinh hoạt hằng ngày của vua và hoàng gia triều Nguyễn. Vòng thành này mang tên Tử Cấm
thành: nghĩa là thành cấm màu tím. Theo nghĩa hán tự, chữ Tử có nghĩa là màu tím, lấy ý theo thần
thoại: Tử Vi Viên ở trên trời là nơi ở của Trời, Vua là con Trời nên nơi ở của Vua cũng gọi là Tử,
Cấm Thành là khu thành cấm dân thường ra vào.
- Trong tử cấm thành có khoảng 50 công trình lớn nhỏ, được chia làm hai khu vực: khu vực
Ngoại Cấm thành: bao gồm Điện cần chánh (nơi vua tổ chức lễ Thường triều), Tả vu và Hữu Vu (là
nơi các quan ngoài chờ và sửa sang, chỉnh đốn quan phục trước khi thiết triều: Tả Vu là toà nhà dành
cho các quan văn, còn Hữu Vu là toà nhà dành cho các quan võ. Chái bắc Tả Từ Vu là viện Cơ Mật,
nơi tổ chức thi đình và yến tiệc; chái nam là phòng Nội Các, nơi đây tập trung phiến tấu của các Bộ,
nha trình vua ngự lãm; hiện nay, Tả vu là nơi trưng bày các cổ vật, còn Hữu vu là nơi đặt ngai vàng
giả (không phải là ngai vàng của nhà vua ngồi) để làm dịch vụ cho khách du lịch mua vé dịch vụ:
người ta mặc quần áo vua và hoàng hậu cho quý khách để chụp ảnh làm kỉ niệm); khu vực nội cấm
thành bao gồm các cung điện như: Điện Càn Thành (chỗ ở của vua), Cung Khôn Thái (chỗ ở của
Hoàng Quý phi), Lầu Kiến Trung (từng là nơi ở của vua Bảo Đại và Hoàng hậu Nam Phương), Nhà
đọc sách và các công trình khác phục vụ cho nhu cầu sinh hoạt của nhà vua và gia đình như Thượng
Thiện Đường (nơi phục vụ ăn uống), Duyệt Thị Đường (nhà hát hoàng cung) v.v.
- Đáng tiếc, các công trình kiến trúc trong Tử cấm thành hầu như đã bị hủy hoại trong hai cuộc
chiến tranh và chỉ còn lại những vết tích chứng tỏ chúng đã từng tồn tại. Chỉ một số công trình còn
tồn tại cho đến ngày nay.
- Tuy nhiên, có một vài công trình đang được khôi phục lại. Một trong những công trình đó là
Trường lang và Hồi lang, hệ thống hành lang nối toàn bộ hệ thống các cung điện trong Tử cấm thành
11



với nhau. Trên hành lang này có treo rất nhiều bài thơ được sao chép lại các tác phẩm nguyên bản của
các vua Nguyễn, các quan lại triều đình, trong đó có Cao Bá Quát nhằm ca tụng vẻ đẹp của thiên
nhiên: xuân, hạ, thu, đông; đất nước, con người v.v.
- Vào trong Tử cấm thành, hẳn quý khách sẽ đặt dấu hỏi cho vấn đề: hai vạc dầu đặt ở sân
trước Điện Cần Chánh có phải là những vạc dầu nhúng người hay không. Chúng tôi khẳng định, đây
không phải vạc dầu nấu dầu sử phạt tội phạm, vì dưới chế độ phong kiến, không có triều đại nào sử
dụng hình thức này. Dưới triều Nguyễn chỉ sử dụng hai hình phạt chính: thứ nhất, voi giầy, ngựa xé,
thứ hai, chém. Cổng chém của triều Nguyễn nằm cách đây khoảng 1 km về phía tay trái của chúng ta
– cổng chém An Hòa (1916 hai nhà yêu nước là ông Trần Cao Vân và Thái Phiên đã bị người Pháp
chém ở cổng chém đó). Còn những vạc dầu này cùng với một số vạc khác đặt ở trong nội cấm thành
được đúc trong hoàn cảnh sau: sau khi chiến thắng nhà Trần, chúa Nguyễn Phúc tần đã cho thu gom
các chiến lợi phẩm của nhà Trần để đúc nên chúng: vạc bên trái được đúc năm 1662 và vạc bên phải
– 1660 và đặt ở đây để răn đe con cái và tưởng nhớ công lao của người đi trước.
- Bây giờ xin mời quý khách dành 30 phút để thăm quan Tả vu và Hữu vu. Đúng 10.30 hẹn
gặp quý khách ở Đại cung môn để chúng ta tiếp tục cuộc hành đến thăm Thế miếu và Hiển lâm các.
THẾ TỔ MIẾU:
- Thế Tổ Miếu thường gọi là Thế Miếu tọa lạc ở góc tây nam bên trong Hoàng thành Huế, là
nơi thờ các vị vua triều Nguyễn. Đây là nơi triều đình đến cúng tế các vị vua quá cố, nữ giới trong
triều (kể cả hoàng hậu) không được đến tham dự các cuộc lễ này.
- Xây dựng: Năm 1804, Gia Long cho xây dựng miếu Hoàng Khảo ở vị trí của Thế Miếu ngày
nay để thờ cha mình là Nguyễn Phúc Luân. Đến năm Minh Mạng thứ 2 (1821), Hoàng Khảo Miếu
được dời lùi về phía bắc khoảng 50 m, đổi thành Hưng Miếu, để dành vị trí xây tòa Thế Tổ Miếu thờ
vua Gia Long và Hoàng hậu. Miếu được xây dựng trong 2 năm (1821-1822), ban đầu chỉ dành để thờ
Thế Tổ Cao Hoàng Đế (vì thế mới có tên gọi Thế Tổ Miếu) nhưng về sau trở thành nơi thờ tất cả các
vị vua của triều Nguyễn.
- Kiến trúc: Khuôn viên của Thế Tổ Miếu có hình chữ nhật, diện tích khoảng trên 2ha,
chiếm đến 1/18 diện tích toàn bộ các khu vực bên trong Hoàng thành và Tử Cấm thành. Tòa Thế Tổ
Miếu là một công trình kiến trúc gỗ rất lớn được xây theo lối "trùng thiềm điệp ốc" đặt trên nền cao

gần 1 m. Bình diện mặt nền hình chữ nhật (54,60 m × 27,70 m), diện tích 1500 m². Nhà chính có 9
gian và 2 chái kép, nhà trước có 11 gian và 2 chái đơn, nối liền nhau bằng vì vỏ cua chạm trổ rất tinh
tế. Mái được lợp ngói hoàng lưu ly với đỉnh nóc gắn liền thái cực bằng pháp lam rực rỡ. Bên trong
khuôn viên ngoài tòa Thế Tổ Miếu là công trình chính còn có thêm các công trình khác như Thổ
Công Từ, Cửu Đỉnh, Hiển Lâm Các, Canh Y điện, Tả Vu, Hữu Vu.
- Các Án thờ vua Nguyễn:
+ Bên trong miếu, ngoài án thờ vua Gia Long và 2 Hoàng hậu đặt ở gian giữa, các án thờ của
các vị vua còn lại đều theo nguyên tắc "tả chiêu, hữu mục" để sắp đặt. Tuy nhiên, theo gia pháp của
12


họ Nguyễn, các vị vua bị coi là "xuất đế" và "phế đế" đều không được thờ trong tòa miếu này, do đó,
trước năm 1958, bên trong Thế Tổ Miếu chỉ có 7 án thờ của các vị vua dưới đây: [1]
+ Án thờ Thế Tổ Cao Hoàng Đế (vua Gia Long) và 2 Hoàng hậu Thừa Thiên, Thuận Thiên ở
gian chính giữa.
+ Án thờ Thánh Tổ Nhân Hoàng Đế (vua Minh Mạng) và Hoàng hậu ở gian tả nhất (gian thứ
nhất bên trái, tính từ gian giữa).
+ Án thờ Hiến Tổ Chương Hoàng Đế (vua Thiệu Trị) và Hoàng hậu ở gian hữu nhất (gian thứ
nhất bên phải, tính từ gian giữa).
Án thờ Dực Tông Anh Hoàng Đế (vua Tự Đức) và Hoàng hậu ở gian tả nhị (gian thứ hai bên trái).
+ Án thờ Giản Tông Nghị Hoàng Đế (vua Kiến Phúc) ở gian hữu nhị (gian thứ hai bên phải).
+ Án thờ Cảnh Tông Thuần Hoàng Đế (vua Đồng Khánh) và Hoàng hậu ở gian tả tam (gian
thứ ba bên trái).
+ Án thờ Hoằng Tông Tuyên Hoàng Đế (vua Khải Định) và Hoàng hậu ở gian hữu tam (gian
thứ ba bên phải).
- Đến tháng 10 năm 1958, án thờ 3 vị vua chống Pháp vốn bị liệt vào hàng xuất đế không được
thờ trong Thế Tổ Miếu[2] là Hàm Nghi, Thành Thái và Duy Tân đã được hội đồng Nguyễn Phúc Tộc
rước vào thờ ở Thế Tổ Miếu[2]. Hiện nay án thờ vua Hàm Nghi được đặt ở gian tả tứ (gian thứ tư bên
trái). Án thờ vua Thành Thái đặt ở gian tả ngũ (gian thứ năm bên trái), còn án thờ vua Duy Tân đặt ở
gian hữu tứ (gian thứ tư bên phải). Còn các án thờ vua Dục Đức, Hiệp Hòa và Bảo Đại đến nay vẫn

chưa có mặt trong Thế Tổ Miếu.[2]
Nhằm đem lại sự hồi sinh thực sự với những giá trị văn hóa cả về vật chất lẫn tinh thần cho di tích,
năm 2004, lần đầu tiên dự án thí điểm chỉnh lý trưng bày nội thất Thế Tổ Miếu với bước khởi đầu từ
gian thờ của vua Gia Long đã được ra mắt, trả lại sự tôn nghiêm trang trọng cho các nghi lễ diễn ra
tại đây.
Mành tre phục chế tại Thế Miếu
- Dựa vào những thành công bước đầu trong dự án này, hiện nay, Trung tâm Bảo tồn Di tích
Cố đô Huế tiếp tục từng bước chỉnh lý nội thất các gian thờ còn lại trong Thế Tổ Miếu. Trong giai
đoạn này, hơn 20 bức mành tre khổ cực lớn đã và đang được phục chế bởi bàn tay của các nghệ nhân
Phạm Hữu Ngô (76 tuổi) và Nguyễn Thị Sum (75 tuổi) cùng nhiều thợ thủ công làm mành và họa sĩ
trang trí.
- Khác với các loại mành hàng chợ hiện nay, loại mành tre treo trong miếu thờ ở Hoàng Cung
Huế đòi hỏi rất nhiều công phu và sự khéo léo. Trước hết, để có được nguyên liệu cho loại mành khổ
lớn có chiều ngang hơn 4m, các nghệ nhân phải chọn loại tre già, thân thẳng. Đặc biệt, chỉ lấy được
đoạn giữa, không lấy đoạn có nhiều đốt mắt kiến (loại này đốt nhỏ nhưng lại đen, làm sản phẩm có
màu không đẹp) hoặc đốt mắt cái (đốt to, không chẻ được). Để có được loại tre theo đúng yêu cầu
phải đi thu mua từ tháng 10 đến đầu tháng 4 (âm lịch), lúc này tre ít mọt, sản phẩm sẽ có độ bền cao.
13


Nếu không thu mua được vào thời điểm này, nghệ nhân phải cho tre ngâm nước ít nhất 4 tháng, sau
đó đem phơi khô ít nhất 3-4 ngày để giảm độ giãn nở về sau.
Bà Nguyễn Thị Sung và nhóm thợ đang mành tre
- Tre sau khi mua về, xử lý mối mọt, ngâm tẩm, phải đem chẻ nhỏ, chuốt bóng, đem kết sợi.
Với một bức mành có chiều rộng 4m theo kích thước bề rộng của một gian thờ trong miếu của Hoàng
cung, người ta phải cần đến 8 thợ dệt. Khi đã dệt thành hình bức mành, người ta cắt diềm để chỉnh độ
dài các thanh tre, đem sơn đủ ít nhất 3 lớp với 2 lớp sơn phủ và 1 lớp sơn bóng bên ngoài rồi mới kết
dây treo. Để trang trí các loại hàng chợ, người ta chỉ cần vẽ lên bề mặt các đường viền hoa lá đơn
giản, nhưng để trang trí bức mành ở Thế Miếu, Trung tâm Bảo tồn Di tích Cố đô Huế đã phải tiến
hành nghiên cứu nhiều loại tư liệu: tư liệu viết, tư liệu ảnh, nhân chứng sống...v..v...để đi đến một

mẫu vẽ trang trí chung cho 27 bức mành tại Thế Miếu với hình rồng mây, thuỷ ba uy nghiêm, trang
trọng.
- Việc phục chế các mành tre ở Thế Tổ Miếu góp phần tôn vinh vẻ đẹp kiến trúc cung đình
Nguyễn. Bên cạnh đó, hoạt động này của Trung tâm Bảo tồn Di tích Cố đô Huế cũng góp phần giúp
nghề làm mành tre truyền thống của Huế có cơ hội gìn giữ và phát huy.
- Ngoại thất: Bên ngoài Thế Tổ Miếu, trước mặt là một chiếc sân rộng lát gạch Bát Tràng.
Trên sân đặt 1 hàng 14 chiếc đôn đá, bên trên đặt các chậu sứ trồng hoa. Hai bên sân lại có một đôi
kỳ lân bằng đồng đứng trong thiết đình. Cuối sân là chín chiếc đỉnh đồng to lớn (Cửu Đỉnh) đặt thẳng
hàng với 9 gian thờ trong miếu. Tiếp theo là gác Hiển Lâm, 3 tầng cao vút, hai bên có lầu chuông, lầu
trống nối liền với gác bằng một bờ tường gạch. Bên dưới lầu chuông, lầu trống trổ 2 cửa, Tuấn Liệt
(bên trái) và Sùng Công (bên phải). Bên ngoài bờ tường này có 2 miếu nhỏ cũng được gọi là Tả Vu
và Hữu Vu thờ các công thần, thân huân thời Nguyễn.
- Thổ Công Từ và Canh Y điện đều là những tòa nhà hình vuông nằm đối xứng với nhau theo
chiều đông-tây của Thế Tổ Miếu (điện Canh Y nằm ở phía đông đã bị hủy hoại từ lâu), ở sát thần
phía tây của miếu còn có một cây thông cổ thụ, có hình dáng uốn lượn rất đẹp, tường truyền được
trồng từ khi dựng Thế Tổ Miếu.
- Trong 5 ngôi miếu thờ đặt bên trong Hoàng thành: Triệu Tổ Miếu, Thái Tổ Miếu, Hưng
Tổ Miếu, Thế Tổ Miếu và miếu Phụng Tiên, Thế Tổ Miếu là khu miếu thờ bề thế và được qui hoạch
đẹp nhất. Đây cũng là khu vực thờ tự còn nguyên vẹn nhất của triều Nguyễn.
- Cửu Ðỉnh: Được khởi công từ cuối năm Minh Mạng thứ 16, và hoàn thành vào cuối năm
Đinh Dậu, Cửu Đỉnh là sự kết hợp tuyệt vời giữa bàn tay khéo léo của các nghệ nhân đúc đồng Việt
Nam với ước mơ về một sự trường tổn, vĩnh bền lâu dài của đất nước. Ước mơ ấy được thể hiện ngay
trong đặt tên gọi cũng như tầm vóc và các hoa văn chạm nổi trên Cửu Ðỉnh. Mỗi đỉnh có khắc một
tên riêng bằng chữ Hán, lấy từ miếu hiệu của một vị vua nhà Nguyễn. Và cái đỉnh ấy được xem là
biểu tượng của vị vua đó.
14


- Cao Đỉnh: tương ứng với Thế Tổ Cao Hoàng Đế, vua đầu tiên của triều Nguyễn có niên hiệu
là Gia Long.

- Nhân Đỉnh: tương ứng với Thánh Tổ Nhân Hoàng Đế, niên hiệu Minh Mạng
- Chương Đỉnh: tương ứng với Hiến Tổ Chương Hoàng đế, niên hiệu Thiệu Trị
- Anh Đỉnh: tương ứng với Dực Tông Anh Hoàng đế, niên hiệu Tự Đức
- Nghị Đỉnh: tương ứng với Giản Tông Nghị Hoàng đế, niên hiệu Kiến Phúc
- Thuần Đỉnh: tương ứng với Cảnh Tông Thuần Hoàng đế,niên hiệu Đồng Khánh
- Tuyên Đỉnh: tương ứng với Hoằng Tông Tuyên Hoàng đế, niên hiệu Khải Định
- Hai đỉnh Dụ và Huyền chưa được tương ứng với vị vua nào thì triều Nguyễn đã chấm dứt.
Mặc dù còn 6 vị vua khác là Dục Đức, Hiệp Hòa, Hàm Nghi, Thành Thái, Duy Tân, Bảo Đại nhưng
không được tương ứng với các đỉnh.
- Cửu Đỉnh được đặt ở trước Hiển Lâm Các đối diện với Thế Miếu, phía tây nam Hoàng
Thành. Để làm được 9 đỉnh này, phải huy động hàng trăm nghệ nhân nổi tiếng khắp nước,mỗi đỉnh
người thợ phải hiệp 60 lò nấu đồng lại, mỗi lò chỉ nấu chảy được 30 đến 40 cân đồng. Khuôn đúc lật
ngược và người thợ rót nước đồng nóng chảy vào chân đỉnh. đúc xong đỉnh mới gắn đôi quai và các
hình chạm nổi. Kích thước và trọng lượng các đỉnh không giống nhau. Cao Đỉnh cao 2,5m, nặng
2601kg - là đỉnh cao và nặng nhất. Huyền Đỉnh cao 2,31m, nặng 1935kg - là đỉnh thấp và nhẹ nhất.
- Quanh hông mỗi đỉnh đều chạm trổ 17 cảnh vật. Như vậy có tới 153 cảnh vật được chạm nổi
trên Cửu Đỉnh. Có thể xem 153 bức chạm khắc ấy là 153 bức tranh. Mười bảy bức tranh chạm nổi
chung quanh mỗi đỉnh gồm những gì tiêu biểu của đất nước từ Lạng Sơn xuống tận mũi Cà Mau và
được qui lại trong các chủ đề: tinh tú, sông núi, biển cả, thuyền bè, xe cộ, các sản vật quí giá trên
rừng, dưới biển của nước Việt Nam đầu thế kỷ XX.
Ta sẽ thấy sông Hồng trên Tuyên Đỉnh, sông Cửu Long trên Huyền Đỉnh, sông Hương trên
Nhân Đỉnh.
Họa tiết cửu đỉnh Huế
- Cửu Đỉnh được đúc trong 6 tháng từ tháng Chạp 1835 đến 6-1836, sau đó trang trí chạm trổ
thêm 9 tháng nữa, đến 3-1837. P.Chovet cho biết: "Các cách làm của các thợ chạm An Nam không
khác biệt các phương pháp áp dụng của thợ chạm châu Âu. Có một chi tiết khá hay: là các giũa và
dao chạm đều do thợ tự làm bằng tay một cách thô sơ bằng cách dùng búa tán"!
- Bằng tất cả sự khéo léo tài nghệ, thợ đúc đồng đã đúc nên tuyệt tác Cửu Đỉnh làm cho
người châu Âu thời đó phải kinh ngạc thán phục. Cửu Đỉnh là một công trình nghệ thuật bằng đồng
có giá trị nhất tại Huế nói riêng, và Việt Nam nói chung, dùng làm biểu tượng cho sự giàu đẹp, thống

nhất của đất nước và ước mơ triều đại mãi vững bền.
- Hiển Lâm Các: Hiển Lâm Các là một công trình kiến trúc nằm trong quần thể di tích cố đô
Huế được xây dựng vào năm 1821 và hoàn thành vào năm 1822 thời vua Minh Mạng. Hiển Lâm Các
nằm trong khu vực miếu thờ trong hoàng thành Huế, cao 17m và là công trình kiến trúc cao nhất
15


trong Hoàng Thành [1]. Đây được xem là đài kỷ niệm ghi nhớ công tích của các vua nhà Nguyễn và
các quan đại thần có công lớn của triều đại.
- Kiến trúc: Hiển Lâm Các được kiến trúc bằng gỗ cao tầng, xây dựng trên khối nền cao hình
chữ nhật, lát gạch Bát Tràng, xây bó bằng gạch vồ, vôi vữa và đắp nổi mảnh sành để trang trí. Từ
dưới bước lên mặt nền bằng hai hệ thống bậc cấp đá Thanh, ở trước và sau mỗi hệ thống có 9 cấp
bậc. Hai bên thành bậc cấp đắp hình rồng ở giữa là giới hạn lối đi giành riêng cho vua. Kiến trúc của
Hiển Lâm các được chia làm 3 phần rõ rệt chia làm 3 phần mái chính. Tầng 1 có tất cả 5 gian, kiến
trúc của tầng 1 được xem là sắc sảo với những bản điêu khắc đạt đến trình độ điêu khắc tinh xảo. Tại
các cột, kèo của tầng 1, các bản điêu khắc có in hình rồng, hoa, lá có giá trị rất cao về mặt kiến trúc.
Ở hàng cột 3 tính từ mặt trước, dựng một dãy đố bản, giữa mỗi gian trổ một cửa vòm. Các hệ thống
kèo, liên ba, đố bản ở tầng này đều chạm nổi các mô típ hình rồng cách điệu hoá thành dây leo lá
cuốn. Trên cửa giữa treo tấm hoành phi lớn đề ba chữ "Hiển Lâm Các" trên nền sơn màu lục, khung
chạm 9 con rồng vờn mây sơn son thếp vàng.
- Chiếc cầu thang nhỏ bằng gỗ được bắc lên tầng 2 được xem là một tác phẩm giá trị nhất của
Hiển Lâm Các. Cầu thang được trang trí rất đẹp. Hai tay vịn chia thành các ô hộc trang trí hình chữ
"thọ", chữ "vạn" và đường nét kỷ hà. Ðầu và cuối tay vịn đều chạm nổi hình đầu và đuôi rồng uốn
lượn mềm mại...
- Tầng 2 được chia làm 3 gian và tầng 3 chỉ có 1 gian. Trên cùng của tầng 3 có đựng một bình
rượu màu vàng.
- Kết cấu của kiến trúc Hiển Lâm Các khá vững chãi một phần nhờ vào sức chống đỡ của 24
cột . Độc đáo của Hiển Lâm Các nhất chính là công trình này được làm hoàn toàn bằng gỗ và có tất
cả 12 mái, 4 cột chính chạy suốt chiếu cao của Hiển Lâm Các 13 m Diện tích mặt bằng Hiển Lâm
Các là 300 m².

- Tình trạng: Hiển Lâm Các là công trình đẹp và độc đáo của khu vực Hoàng Thành.
Nó là công trình được bảo quản tốt và được trùng tu nhiều lần, lần mới nhất vào năm 2001 được xem
là lần trùng tu hoàn chỉnh nhất. Cụm từ Hiển Lâm Các, Thế Miếu và Cửu Đỉnh là 3 cụm từ mà mọi
người luôn nhắc liền nhau để cho thấy sự liên kết về mặt kiến trúc cũng như về công dụng, chức năng
của các công trình này và là một tổng thể không thể tách rời, chính sự phối hợp với bố cục xung
quanh cùng cảnh quan khiến cho giá trị của Hiển Lâm Các rất quan trọng.
- Nhà cổ Hội An: Cùng với các di tích kiến trúc trong khu phố cổ như Chùa Cầu và hệ thống
lăng, miếu, đền, đình... thì hơn 1000 ngôi nhà cổ trong đô thị cổ Hội An làm gia tăng giá trị của di sản
văn hoá thế giới này.
- Trải qua thời gian, những ngôi nhà cổ Hội An vẫn trầm mặc chứng kiến bao thăng trầm của
lịch sử và chịu sự tàn phá của thiên nhiên... Chính điều đó càng làm cho Nhà cổ Hội An thêm giá
trị.Những ngôi nhà cổ ấy đều mang một lối kiến trúc độc đáo,đó là sự hoà trộn khá hài hoà giữa kiến
trúc Việt - Hoa - Nhật, nhưng nổi bật nhất vẫn là đặc trưng cơ bản của kiến trúc truyền thống Việt
16


Nam,mái nhà được lợp ngói âm dương, không quá thấp như nhà của người Nhật, không quá rộng và
phô trương như nhà của người Hoa và có quy mô khiêm tốn, phong cách giản dị phù hợp với khí hậu
nhiệt đới đảm bảo mùa đông ấm, mùa hè mát. Nhà cổ Hội An thường quay ra mặt phố nên ngôi nhà
thường là nơi kết hợp giữa nơi cư trú - nơi sản xuất - dịch vụ kinh doanh... Dẫu vậy ngôi nhà lại tiếp
thu được những tiện ích trong kiến trúc Hoa - Nhật như có sân trời, có nhà cầu (tức là nhà nối giữa
nhà chính và nhà bếp qua sân trời); có gian gác dùng làm phòng ở và phòng đọc sách... Bà Lê
Thương kể: Ông cố của bà là Tấn Ký - Một thư lại giàu có ở Hội An đã làm nên ngôi nhà này, giờ để
lại cho ông bà trông giữ. “Tôi rất tự hào được thừa kế căn nhà vô giá này”. Trải qua bao thăng trầm
của thời gian và thời cuộc nhiều ngôi nhà cổ ở Hội An không chỉ giữ được nguyên vẹn kiến trúc mà
chủ nhân của nó còn giữ được những vật quý hoá nhất trang điểm cho ngôi nhà đó là những bức
hoành phi, câu đối sơn son mạ vàng rất điệu nghệ; là bộ đồ thờ bằng đồng, bằng bạc tinh xảo; là bộ
sập gụ, tủ chè bằng gỗ tốt cẩn khảm trai ốc tỷ mỉ đã có từ khi những ông cố xây dựng ngôi nhà này...
Người Hội An, dù giàu có hay chỉ bậc trung trung cũng bầy biện trong căn nhà của mình hết sức nhã
nhặn và giản dị nhưng lại toát lên vẻ cao sang. Chính điều này làm nên sức hút của nhà cổ Hội An

trước du khách gần xa. Anh Christal - một du khách người Đức đã thực sự ngỡ ngàng trước vẻ đẹp
độc đáo của nhà cổ Hội An. “Những căn nhà rất xinh xắn, tiện lợi, thoáng mát. Nhưng tôi thực sự ấn
tượng bởi nghệ thuật kiến trúc và bài trí của ngôi nhà này. Tôi đã đi nhiều cả Nhật bản, Trung Hoa,
Hàn Quốc... nhưng thấy nhà cổ ở Hội An có những nét riêng độc đáo, rất Việt Nam”... Hiện ở Hội
An còn khoảng hơn 1.000 ngôi nhà cổ. Đó chính là điểm nhấn tạo nên nét đẹp của đô thị cổ Hội An.
Có một nhà nghiên cứu đã viết: “Những bức tường so le, trầm mặc; những mái ngói nhấp nhô xanh
mượt mầu rêu, những bò nóc, bờ hồi uốn cong mềm mại, những đôi mắt cửa thâm nghiêm, huyền bí,
những đường nét văn hoá tuyệt vời làm cho hồn phố có sức hấp dẫn kỳ lạ Đây là một quần thể mang
dáng dấp điển hình cho kiến trúc của một cảng thị phồn thịnh xa xưa.
- Không ít du khách trong một lần ghé thăm Hội An, chiêm ngưỡng và tìm hiểu vẻ đẹp của
những ngôi nhà cổ hằng trăm năm tuổi đã từng thắc mắc những hình về mắt cửa và sân trời
có ý nghĩa gì?
- "Nét đặc trưng của Hội An mà hiếm nơi nào có được đó là mắt cửa. Ban đầu mắt cửa chỉ là
chi tiết kiến trúc liên kết các cánh cửa với nhau, sau chuyển sang chức năng tín ngưỡng. Nhiều nhà
quan niệm mắt cửa là vị thần giữ cửa, nhiều người khác cho rằng đó là chi tiết linh thiêng bảo trợ cho
gia chủ tránh điều xấu và đạt được điều tốt lành, hình thức giống bùa linh thiêng".
- Mắt cửa thường được đặt trước cổng nhà, ở vị trí trang trọng. Sau này, một số mắt cửa được
lùi vào phía trong, ở nếp nhà thứ hai. Theo cách gọi của người dân Hội An thì mắt cửa là từ chung,
nhưng thực tế thì mỗi nhà gần như có một cách thể hiện và trang trí riêng. Với nhiều hình dáng khác
nhau như: tròn, vuông, lục giác, bát giác... những đôi mắt cửa được chủ nhà trang trí thêm với nhiều
chi tiết gắn với tín ngưỡng như hình bát quái để trừ tà, hình con dơi biểu trưng cho phúc lộc.
17


- Hằng năm vào ngày lễ tết, gia chủ thường lau chùi đôi mắt cửa bằng nước sạch và phủ lên
tấm vải đỏ như là vật linh thiêng thờ tự. Cho đến nay, vẫn chưa có câu trả lời xác đáng lý giải vì sao
chỉ Hội An mới có mắt cửa nhưng có thể thấy rằng trong tiến trình tiếp biến văn hoá của Trung
Quốc, người dân sống ở Hội An đã tìm kiếm được mắt cửa cho riêng mình và điều này đã tạo nên
hình tượng đặc thù của phố cổ Hội An.
Một hạng mục độc đáo và tiêu biểu khác của nhà cổ Hội An là sân trời - không gian thường thấy của

những ngôi nhà cổ dài từ 50m - 60m của người dân phố Hội của những thế kỷ trước. Ngoài chức
năng kiến trúc là tạo sự thông thóang về gió, không khí và nhiệt độ, sân trời còn được bố trí tiểu cảnh
để các gia đình thưởng thức trăng thanh, gió mát và cũng là nơi để thờ tự những vị thần bảo hộ cho
gia đình.
- "Sau một ngày buôn bán, làm việc vất vả, chủ nhà đóng cửa lại thì giếng trời chính là không
gian sinh hoạt của gia đình, để các thành viên trong gia đình kiểm điểm những việc đã làm, ông bà
răng dạy con cháu và tổ chức những sinh hoạt âm nhạc tại đây. Nhờ có sinh hoạt âm nhạc như vậy
mà Hội An đã hình thành những nhóm nhạc gia đình như tộc La, tiêu biểu có nhạc sỹ La Hối, tộc
Trương, tộc Huỳnh...".
- Chỉ qua chi tiết kiến trúc mắt cửa và sân trời trong những ngôi nhà cổ tại Hội An cũng đã
phần nào cho thấy tính cách của người Hội An xưa: không xô bồ và luôn hướng về điều thiện. Với
Hội An, nhịp sống và nhịp thời gian dường như dừng lại khi chạm vào đến từng ngôi nhà cổ. Thời
gian đã khắc lên những mái nhà, thân cột, những bức phù điêu, những câu chuyện về lịch sử. Và
người Hội An hôm nay vẫn đang kể lại những câu chuyện lịch sử ấy bằng những việc làm và qua nếp
sống sinh hoạt hằng ngày.

18



Tài liệu bạn tìm kiếm đã sẵn sàng tải về

Tải bản đầy đủ ngay
×