Tải bản đầy đủ (.doc) (18 trang)

Định nghĩa và lý thuyết về lãnh đạo nào là phù hợp nhất với những lãnh đạo doanh nghiệp việt nam ngày nay

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (290.61 KB, 18 trang )

Phát triển khả năng lãnh đạo

BÀI TẬP CÁ NHÂN
MÔN PHÁT TRIỂN KHẢ NĂNG LÃNH ĐẠO
Chủ đề 1 :
Bạn nghĩ gì về câu nói: “Có bao nhiêu người định nghĩa về lãnh đạo thì có từng
ấy định nghĩa khác nhau về hành vi này” ? Đánh giá xem các định nghĩa và lý thuyết
về lãnh đạo nào là phù hợp nhất với những lãnh đạo doanh nghiệp Việt Nam ngày nay
và bài học thực tiễn có thể rút ra ?
BÀI LÀM
Lãnh đạo từ lâu đã trở thành đối tượng nghiên cứu của khoa học xã hội nói
chung và khoa học kinh tế trong lĩnh vực quản trị doanh nghiệp nói riêng. Bản thân
cụm từ lãnh đạo đã xuất hiện trong mọi hệ thống ngôn ngữ, mọi quốc gia, mọi dân tộc
kể từ khi xuất hiện các giao tiếp xã hội giữa các nhóm người.
Tuy nhiên cho đến nay chưa có một quan niệm thống nhất và nhận thức chung
về lãnh đạo. Nhiều học thuyết, nhiều nghiên cứu và nhiều luận điểm đã đưa ra rất
nhiều khái niệm về lãnh đạo nhưng các khái niệm này thường có sự khác nhau về nội
dung, đặc điểm, loại hình, thậm chí khác nhau về bản chất. Sự khác nhau diễn ra
không chỉ giữa những lĩnh vực nghiên cứu riêng biệt mà còn trong cùng một phạm vi,
một lĩnh vực, thể hiện nhiều cách nhìn nhận khác nhau về Lãnh đạo.
I. CÁC ĐỊNH NGHĨA VỀ LÃNH ĐẠO
Chủ đề Lãnh đạo trở thành đối tượng đặc biệt quan tâm của nhiều lý thuyết và
các nhà nghiên cứu từ đầu thế kỷ 20, nhất là các nhà xã hội học. Trọng tâm của hầu hết
các nghiên cứu đó là xác định các yếu tố quyết định tính hiệu quả của lãnh đạo. Các
nhà khoa học xã hội cũng nỗ lực tìm kiếm những tố chất, hành vi, nguồn lực và những
đặc điểm hoàn cảnh quyết định đến đến phương thức và biện pháp gây ảnh hưởng của
người lãnh đạo đến cấp dưới nhằm đạt được mục tiêu chung của tổ chức.
Kết quả của các nghiên cứu trong hơn 100 năm qua là sự ra đời của các các học
thuyết khác nhau về phong cách lãnh đạo, hành vi lãnh đạo, hiệu quả của lãnh đạo
trong mọi cấp độ, từ lãnh đạo xã hội cho tới lãnh đạo tổ chức, lãnh đạo nhóm, thậm chí
lãnh đạo bản thân. Theo giáo trình môn phát triển khả năng lãnh đạo (Chương trình




GaMBA01.M05

Phát triển khả năng lãnh đạo

đào tạo thạc sỹ quản trị kinh doanh quốc tế Griggs-ĐHQGHN), có một số định nghĩa
về lãnh đạo sau đây:
1.Lãnh đạo là “hành vi của một cá nhân chỉ đạo các hoạt động của một nhóm
người thực hiện một mục tiêu chung (Hemphilll & Coons, trang 7)
2.Lãnh đạo là “ sự vượt trội về quyền lực áp đặt nhằm đảm bảo sự tuân thủ về
cơ học những chỉ đạo mang tính thủ tục của một tổ chức (D. Katz & Kahn, 1978 trang
528).
3.”Lãnh đạo được thực hiện khi một người huy động các nguồn lực về thể chế,
chính trị, tâm lý và các nguồn lực khác để đánh thọc, lôi kéo sự tham gia và làm hài
lòng động cơ của những người cấp dưới “ (Burns, 1978 trang 46).
4.”Lãnh đạo là một quá trình gây ảnh hưởng đối với các hoạt động của một
nhóm người có tổ chức để thực hiện một mục tiêu chung (Rauch & Behling, 1984
trang 46).
5.”Lãnh đạo là một quá trình chỉ đạo có ý nghĩa đối với nỗ lực của tập thể và
huy động nỗ lực sẵn sàng để đạt được mục đích “(Jacobs & Jaques, 1990 trang 281).
6.Lãnh đạo là “khả năng bước ra khỏi nền văn hóa để bắt đầu những quy trình
thay đối mang tính cách mạng để được chấp nhận hơn (E.H.Schein, 1992 trang 2).
7.”Lãnh đạo là một quá trình làm cho những gì mà mọi người chung sức làm
cùng nhau trở nên có ý nghĩa nhờ đó mọi người có thể hiểu và quyết tâm” (Drath &
Palus, 1994, trang4).
8.”Lãnh đạo là việc truyền đạt các tầm nhìn, thể hiện các giá trị và tạo ra môi
trường trong đó các mục tiêu có thể đạt được” (Richard & Engle, 1986, trang 206).
9.Lãnh đạo “là khả năng của một cá nhân gây ảnh hưởng, thúc đẩy và khuyến
khích người khác cống hiến vì hiệu quả và thành công chung của tổ chức (House et

al.1999, trang 184).
10.Lãnh đạo dường như là thứ nghệ thuật khiến người khác có mong muốn làm
được những điều thực sự nên làm (Hiệp hội lãnh đạo Quốc tế - International
Leadership Associates)

2
Phạm Duy Cường


GaMBA01.M05

Phát triển khả năng lãnh đạo

11.Nếu những hành động của bạn truyền cảm hứng cho người khác mơ ước
nhiều hơn, học tập nhiều hơn, thành đạt nhiều hơn; bạn là một nhà lãnh đạo (Tổng
thống thứ sáu của Hợp chủng quốc Hoa kỳ - John Quincy Adams).
12.Lãnh đạo là quá trình mà tại đó một cá nhân có ảnh hưởng lên những người
khác để họ hoàn thành một mục tiêu và một hướng dẫn nào đó theo phương cách nối
kết với nhau sao cho có hiệu quả nhất” (Donald Clark)
13.Nhà lãnh đạo thành công nhất là người nhìn thấy một bức tranh khác khi nó
còn chưa thành hình (Mary Parker Follet), v.v.
Ngoài ra còn có rất nhiều các định nghĩa khác cũng như các tranh luận khác
trong quá trình định nghĩa lãnh đạo là gì. Mỗi định nghĩa đều cố gắng phản ánh được
bản chất của lãnh đạo, cũng như mối quan hệ hoặc ảnh hưởng giữa chủ thể lãnh đạo
với đối tượng bị lãnh đạo (cấp dưới), chúng khác nhau về nội dung cũng như cách thức
và biện pháp ảnh hưởng của chủ thể lãnh đạo tới đối tượng bị lãnh đạo. Ngoài ra,
dường như các định nghĩa này chỉ phản ánh một khía cạnh nào đó của lãnh đạo; trong
khi một số định nghĩa đề cập tới lãnh đạo như những mối quan hệ giữa các chủ thể
khác nhau thì một số định nghĩa khác lại tiếp cận theo hướng lãnh đạo như một quá
trình hoạt động; một định nghĩa thể hiện cách thức gây ảnh hưởng của lãnh đạo tới cấp

dưới, một định nghĩa khác lại quan tâm khía cạnh năng lực của người lãnh đạo.
Tóm lại, cùng với một một khái niệm về lãnh đạo, mỗi định nghĩa đều phản ảnh
theo quan điểm cá nhân theo khía cạnh được quan tâm nhất của lãnh đạo. Tác giả
Campbell (1977) khẳng định rằng, trong nghiên cứu, định nghĩa về lãnh đạo phụ thuộc
nhiều mục đích của nhà nghiên cứu và mục đích có thể là xác định người lãnh đạo, xác
định cách thức lựa chọn người lãnh đạo, phát hiện những người lãnh đạo làm gì và tại
sao họ lại hiệu quả như vậy, hoặc xác định sự tồn tại của người lãnh đạo có cần thiết
hay không. Cùng quan điểm đó, học giả Karmel (1978) ghi nhận rằng: “Khó có thể
dựa vào một định nghĩa lãnh đạo nào duy nhất đủ bao quát để chứa đựng các ý nghĩa
này và đủ cụ thể để trở thành một phạm trù của các biến thể”. Nếu có thể, nghiên cứu
về lãnh đạo cần phải cung cấp thông tin liên quan đến toàn bộ các định nghĩa qua đó
có thể so sánh tính hữu dụng của từng quan điểm khác nhau theo thời gian và đi đến
thống nhất quan điểm về vấn đề.
3
Phạm Duy Cường


GaMBA01.M05

Phát triển khả năng lãnh đạo

Bản chất của lãnh đạo là quá trình tạo ra một tầm nhìn về tương lai và truyền
cảm hứng để mọi người có thể biến tầm nhìn thành hiện thực. Và nhà lãnh đạo của
một tổ chức hay một nhóm phải có khả năng tạo tầm nhìn; khả năng truyền cảm hứng
và khả năng gây ảnh hưởng để tổ chức hay nhóm thực hiện tầm nhìn đó.
Câu nói “Có bao nhiêu người định nghĩa về lãnh đạo thì cũng có từng ấy định
nghĩa khác nhau về khái niệm này” phản ảnh một khái quát chung về các khái niệm về
lãnh đạo. Nguyên nhân của sự khác biệt giữa các định nghĩa chủ yếu do các tác giả
tiếp cận với khái niệm “lãnh đạo” theo các hướng khác nhau, trong khi đó, bản thân
“lãnh đạo” cũng ẩn chứa nhiều vấn đề phức tạp đến mức có thể tạo nhiều cách hiểu

khác nhau .
II. ĐÁNH GIÁ ĐỊNH NGHĨA VÀ LÝ THUYẾT VỀ LÃNH ĐẠO PHÙ
HỢP VỚI LÃNH ĐẠO DOANH NGHIỆP VIỆT NAM
Để có thể lựa chọn định nghĩa và lý thuyết lãnh đạo phù hợp với lãnh đạo
doanh nghiệp Việt Nam, cần phải xem xét toàn diện từng định nghĩa và lý thuyết về
lãnh đạo vận dụng vào từng hoàn cảnh cụ thể của doanh nghiệp Việt Nam.
1. Hướng tiếp cận của các định nghĩa và lý thuyết về lãnh đạo :
Có khá nhiều mô hình thuyết khác nhau nghiên cứu về lãnh đạo - cả với khía
cạnh hành vi lãnh đạo lẫn khía cạnh đối tượng (con người) lãnh đạo. Mỗi mô hình có
các cách tiếp cận khác nhau với đối tượng nghiên cứu, tuy nhiên, hầu hết các lý thuyết
đều chọn ba nhân tố sau đây để đánh giá hiệu quả của lãnh đạo:
1. Đặc điểm của chủ thể lãnh đạo;
2. Đặc điểm của cấp dưới;
3. Đặc điểm của hoàn cảnh .
Sơ đồ 1: Mô hình nghiên cứu đặc điểm của lãnh đạo
Đặc điểm hoàn cảnh


Loại hình đơn vị tổ chức



Quy mô đơn vị



Quyền lực và thẩm quyền của vị
trí




Tính chất phức tạp của nhiệm vụ
4
Phạm Duy Cường


GaMBA01.M05

Phát triển khả năng lãnh đạo



Tính độc lập của nhiệm vụ



Những biến động về môi trường



Sự phụ thuộc vào các yếu tố bên
ngoài
Tác

động

Người lãnh đạo


Cấp dưới



Tố chất (động cơ, cá
tính, các giá trị);



Lạc quan, tự tin



Kĩ năng và chuyên

tính, các giá trị); tự tin, lạc
quan

môn


Hành vi,



Tính trung thực và đạo

Tố chất (động cơ, cá



Kĩ năng, chuyên môn




Đánh giá về người lãnh
đạo

Gây ảnh hưởng



Lòng tin vào người
lãnh đạo

đức


Chiến thuật tác động



Đánh giá đối với cấp



Quyết tâm và nỗ lực
cho công việc



dưới


Sự hài lòng với người
lãnh đạo và công việc

Trích Giáo trình “Phát triển khả năng lãnh đạo”, Chương trình Đào tạo thạc
sỹ quản trị kinh doanh quốc tế (GRIGGS-ĐHQGHN)
Với riêng người lãnh đạo, mỗi mô hình lý thuyết tập trung vào nghiên cứu 3 đặc
trưng cơ bản của họ là: Tố chất, hành vi và quyền lực lãnh đạo. Từ các cơ sở lý luận
nêu trên, đã hình thành nên các phương pháp tiếp cận về người lãnh đạo là:
1. Phương pháp tiếp cận tố chất,
2. Phương pháp tiếp cận hành vi,
3. Phương pháp tiếp cận quyền lực - ảnh hưởng,
4. Phương pháp tiếp cận tình huống,
5. phương pháp tiếp cận tổng hợp.
5
Phạm Duy Cường


GaMBA01.M05

Phát triển khả năng lãnh đạo

a. Định nghĩa theo yếu tố cấu thành nên hoạt động lãnh đạo
Tổng hợp nhiều định nghĩa của các tác giả và nghiên cứu khác nhau, chúng ta
có thể hiểu lãnh đạo như một quá trình ảnh hưởng có chủ đích của một đối tượng này
đến đối tượng khác nhằm định hướng, tổ chức và hỗ trợ các hoạt động, các mối quan
hệ trong một nhóm người hoặc một tổ chức. Ngoài ra, trước đây nhiều quan điểm cho
rằng lãnh đạo chỉ diễn ra khi có từ hai người trở lên, nhưng gần đây quan điểm đó đã
thay đổi bởi sự xuất hiện của các khái niệm như “lãnh đạo bản thân”, “tự lãnh đạo”...
Vậy tại sao lại có sự khác nhau giữa các định nghĩa và các mô hình lý thuyết về

lãnh đạo? Câu trả lời nằm là các định nghĩa chỉ đề cập đến một khía cạnh của “lãnh
đạo” với bản chất đã nêu trên. Tuỳ theo mức độ quan tâm, các lý thuyết có thể nghiên
cứu sâu về đối tượng gây ảnh hưởng (người lãnh đạo), mục đích của ảnh hưởng, tố
chất tạo ảnh hưởng, kết quả của nỗ lực gây ảnh hưởng, đối tượng bị ảnh hưởng..., hay
tổng hợp một số khía cạnh đó . Khi mà phản ánh các khía cạnh khác nhau đó, đương
nhiên dẫn tới các định nghĩa khác nhau.
b. Định nghĩa theo chủ thể lãnh đạo
Theo hướng này có hai luồng quan điểm chủ yếu:
- Luồng quan điểm thứ nhất cho rằng, trong bất kỳ một nhóm, một tổ chức hay
một xã hội, đều có sự phân định rõ vai trò lãnh đạo gắn liền với một số trách nhiệm và
chức năng không thể chia sẻ rộng rãi cho người khác mà không làm nguy hại đến hiệu
quả chung của nhóm, cả tổ chức hay xã hội. Cá nhân được kì vọng chuyên trách thực
hiện vai trò lãnh đạo được gọi là “lãnh đạo”. Các thành viên khác được coi là “cấp
dưới”.
- Luồng quan điểm thứ hai nhìn nhận lãnh đạo là quá trình ảnh hưởng diễn ra tự
nhiên trong một nhóm, tổ chức hay xã hội. Nói cách khác, bất kể thành viên nào của
nhóm, tổ chức hay xã hội đều có thể biểu lộ khả năng lãnh đạo ở bất kể thời điểm nào
và không có ranh giới rõ ràng giữa người lãnh đạo và cấp dưới. Chức năng lãnh đạo có
thể được nhiều người đảm nhiệm để đạt mục tiêu chung. Các quyết định quan trọng về
việc làm gì, làm như thế nào được đưa ra thông qua việc áp dụng quy trình giao tác có
sự tham gia của nhiều người gây ảnh hưởng lẫn nhau. Các nhà nghiên cứu nhìn nhận
lãnh đạo như một quá trình chung thường quan tâm nhiều hơn đến các quy trình ảnh
6
Phạm Duy Cường


GaMBA01.M05

Phát triển khả năng lãnh đạo


hưởng phức tạp diễn ra giữa các thành viên, điều kiện quyết định khi nào diễn ra và
diễn ra như thế nào và kết quả đối với nhóm hoặc tổ chức.
c. Định nghĩa theo phương thức gây ảnh hưởng từ chủ thể lãnh đạo tới đối
tượng bị lãnh đạo
Một số nhà nghiên cứu giới hạn định nghĩa lãnh đạo là việc gây ảnh hưởng
khiến cấp dưới trở nên nhiệt tình, quyết tâm trái với việc tuân thủ thờ ơ hoặc tuân lệnh
miễn cưỡng. Các nhà nghiên cứu này cho rằng một cá nhân sử dụng biện pháp kiểm
soát là khen thưởng hoặc trừng phạt để khống chế hoặc cưỡng ép cấp dưới sẽ không
thực sự “lãnh đạo” họ và được coi là lạm dụng quyền lực.
Một quan điểm khác cho rằng định nghĩa này quá hẹp vì chưa có các quy trình
ảnh hưởng quan trọng để hiểu rõ tại sao một cán bộ quản lý lại hiệu quả hoặc không
hiệu quả trong một hoàn cảnh nhất định. Việc định nghĩa thế nào là lãnh đạo không
diễn giải câu trả lời cho câu hỏi: những yếu tố nào tạo nên một người lãnh đạo hiệu
quả ? Cùng với cách gây ảnh hưởng nhưng có thể dẫn đến các kết quả khác nhau phụ
thuộc vào bản chất của tình hình và nhiều phương pháp gây ảnh hưởng khác nhau có
thể mang lại kết quả giống nhau. Thậm chí đối với những người bị ép buộc phải làm
một điều gì đó cũng có thể trở nên quyết tâm nếu sau đó họ nhận ra rằng đó chính là
phuong án tốt nhất cho họ và cho tổ chức. Việc sử dụng quyền lực hợp lý là một vấn
đề lớn mà các học giả đã nghiên cứu. Tuy nhiên, các nghiên cứu không chỉ giới hạn
định nghĩa lãnh đạo hoặc loại quá trình ảnh hưởng.
d. Định nghĩa theo mục đích của lãnh đạo
Mục đích của lãnh đạo là nỗ lực ảnh hưởng cũng như kết quả của những nỗ lực
đó. Một số quan điểm cho rằng lãnh đạo xuất hiện chỉ khi mọi người bị tác động phải
làm gì là đúng và có lợi cho chính họ và cho tổ chức. Định nghĩa này về lãnh đạo
không bao gồm các nỗ lực gây ảnh hưởng không thích hợp hoặc có hại cho cấp dưới,
ví dụ như nỗ lực của người lãnh đạo nhằm mưu lợi cá nhân trên sự mất mát, hy sinh
của cấp dưới.
Các lý thuyết khác các tiếp cận theo hướng nghiên cứu toàn bộ các nỗ lực gây
ảnh hưởng về thái độ và hành vi cho cấp dưới trong bối cảnh của tổ chức mà không
tính đến mục đích hoặc lợi ích thực tế. Hành động của người lãnh đạo thường có nhiều

7
Phạm Duy Cường


GaMBA01.M05

Phát triển khả năng lãnh đạo

động cơ khác nhau và khó có thể xác định mức độ mà hành động đó được coi là tư lợi
hoặc ích kỷ. Kết quả của những hành động mà người lãnh đạo thực hiện thường bao
gồm một tổng thể các chi phí và lợi ích, một vài trong số đó là không có chủ đích
khiến việc suy đoán mục đích Mặc dù có mục đích tốt đẹp nhung trong một số trường
hợp hành động của người lãnh đạo lại có hại hơn là có lợi cho cấp dưới. Ngược lại,
một số hành động ban đầu chỉ phục vụ nhu cầu cá nhân của người lãnh đạo nhung sau
đó lại mang lại kết quả tốt đẹp ngoài dự kiến cho cấp dưới và tổ chức Vì vậy, phạm trù
các quá trình lãnh đạo không nên chỉ giới hạn bởi mục đích dự kiến.
e. Định nghĩa theo cách tiếp cận với động cơ lãnh đạo
Hầu hết các định nghĩa về lãnh đạo chú trọng nhiều đến các quy trình duy lý và
nhận thức, thường nhìn nhận lãnh đạo như là một quá trình trong đó người lãnh đạo
gây ảnh hưởng đối với cấp dưới để cấp dưới tin rằng lợi ích tốt nhất của họ là hợp tác
và cùng nhau thực hiện mục tiêu chung. Mãi cho đến những năm 1980, nhiều cách
hiểu mới về lãnh đạo đã công nhận tầm quan trọng của yếu tố tình cảm làm cơ sở cho
ảnh hưởng.
Nhiều quan điểm về lãnh đạo gần đây chú trọng đến khía cạnh tình cảm của ảnh
hưởng hơn là khía cạnh lý trí. Theo quan điểm này, chỉ có các khía cạnh tình cảm, dựa
trên giá trị của ảnh hưởng lãnh đạo có thể mang lại các thành công to lớn của nhóm
hoặc tổ chức Người lãnh đạo truyền nhiệt huyết cho cấp dưới để họ sẵn sàng hy sinh
lợi ích cá nhân của mình cho một số nghiệp cao cả hơn. Ví dụ, những người lính sẵn
sàng hy sinh mạng sống của mình để thực hiện nhiệm vụ quan trọng hoặc bảo vệ
những người đồng chí của mình. Tầm quan trọng giữa các quá trình lý trí và tình cảm

và cách thức các quá trình nào phối hợp với nhau cần được làm rõ bằng nghiên cứu
thựcc nghiệm và việc khái niệm hóa lãnh đạo phải bao gồm hai loại quy trình này.
f. Định nghĩa theo chức năng của người lãnh đạo
Một trong những nguyên nhân làm cho có nhiều định nghĩa khác nhau về lãnh
đạo chính là sự chưa rõ ràng và thiếu tách bạch giữa chức năng lãnh đạo với các chức
năng khác của con người, ví dụ chức năng quản lý. Hiện vẫn còn những quan điểm
khác nhau trong nhận thức nêu lên sự cần thiết của việc tách bạch giữa quản lý và lãnh
đạo.
8
Phạm Duy Cường


GaMBA01.M05

Phát triển khả năng lãnh đạo

Luồng quan điểm thứ nhất (Bennis & Nanus, 1985; Zaleznik, 1977) khẳng định
lãnh đạo và quản lý là khác nhau về bản chất và đôi khi có tính loại trừ nhau, vì vậy,
quản lý và lãnh đạo không thể xuất hiện trong cùng một con người. Định nghĩa người
lãnh đạo và người quản lý cho rằng hai đối tượng có những tố chất khác nhau và cá
tính khác nhau. Người quản lý đề cao tính ổn định, trật tự và hiệu quả trong khi đó
người lãnh đạo đề cao tính linh hoạt, sáng tạo và thích nghi. Người quản lý thường
quan tâm làm thế nào để làm được việc và cố gắng huy động mọi người làm việc tốt
hơn. Người lãnh đạo lại quan tâm đến điều gì có ý nghĩa với mọi người và cố gắng
thuyết phục mọi người đồng ý về những việc quan trọng sẽ làm. “Người quản lý là
người làm mọi việc đúng cách và người lãnh đạo là người làm đúng việc cần làm”
(Bennis và Nanus năm 1985).
Luồng quan điểm thứ hai (Bass năm 1990; Hickman năm 1990; Kotter năm
1988; Mintzberg năm 1973; Rost năm 1991) coi lãnh đạo và quản lý là hai quá trình
hoàn toàn khác biệt tuy nhiên họ không cho rằng người lãnh đạo và người quản lý là

hai loại người khác nhau. Bản thân trong phạm vi quan điểm này cũng có nhiều định
nghĩa khác nhau, ví dụ:
- Mintzberg (1973) đã miêu tả quản lý có 10 vai trò (truyền đạt, theo dõi, phát
ngôn, kinh doanh, giải quyết rắc rối, phân bổ nguồn lực, đàm phán, liên lạc, tiên phong
và lãnh đạo), trong đó, lãnh đạo chỉ là một trong những vai trò của quản lý.
- Kotter (1990) phân biệt sự khác biệt giữa lãnh đạo và quản lý trên phương
diện các quá trình lõi và kết quả dự kiến. Quản lý nhằm tạo ra tính ổn định và trật tự
bằng cách: Đề ra các mục tiêu hoạt động, thiết lập kế hoạch hành động theo thời gian
và và phân bổ các nguồn lực; tổ chức và bố trí nhân sự; theo dõi kết quả và giải quyết
vấn đề. Trong khi đó, lãnh đạo lại có xu hướng tạo ra sự thay đối trong tổ chức bằng
cách: Xây dựng tầm nhìn dài hạn và các chiến lược để thực hiện những thay đối cần
thiết, phổ biến và giải thích tầm nhìn và thúc đẩy, tạo động lực cho mọi người thực
hiện được tầm nhìn. Quản lý và lãnh đạo đều liên quan đến việc đưa ra quyết định cần
làm những gì, xây dựng mạng lưới các mối quan hệ để làm việc và cố gắng thực hiện
được công việc. Tuy nhiên, hai quá trình có một số yếu tố không tương thích: Vai trò
lãnh đạo mạnh mẽ có thể làm rối loạn trật tự và giảm tính hiệu quả, trong khi đó vai
9
Phạm Duy Cường


GaMBA01.M05

Phát triển khả năng lãnh đạo

trò quản lý mạnh lại kìm hãm việc chấp nhận rủi ro và sáng tạo. Cả hai quá trình đều
cần cho sự thành công của tổ chức Nếu chỉ có sự lãnh đạo mạnh, thì chỉ tạo ra được
một cơ chế làm việc có mục đích nhưng không rõ nét về phương pháp, nhưng nếu chỉ
có sự quản lý chặt, rất dễ dẫn đến việc tạo ra sự thay đối đôi khi chưa phù hợp mục
đích. Điều đó đặt ra sự cần thiết của việc kết hợp giữa quản lý và lãnh đạo theo từng
hoàn cảnh và điều kiện thuận lợi.

- Rost (1991) định nghĩa quản lý là mối quan hệ quyền lực tồn tại giữa người
quản lý và các nhân viên cấp dưới để sản xuất ra và bán hàng hóa, dịch vụ. Lãnh đạo
là một mối quan hệ ảnh hưởng đa chiều giữa người lãnh đạo và cấp dưới với mục đích
chung là thực hiện thay đối thực sự. Người lãnh đạo và cấp dưới gây ảnh hưởng lẫn
nhau và hai bên tương tác không có sự cưỡng ép để quyết định những thay đối nào họ
muốn thực hiện. Người quản lý có thể là người lãnh đạo nhưng chỉ khi họ có mối quan
hệ ảnh hưởng thuộc loại này. Rost cho rằng lãnh đạo không cần thiết để một người
quản lý trở nên hiệu quả trong sản xuất và bán hàng hóa, dịch vụ. Tuy nhiên, ngay cả
khi thẩm quyền là một cơ sở vững chắc để gây ảnh hưởng đối với cấp dưới thì mối
quan hệ lãnh đạo có vẻ là cần thiết để gây ảnh hưởng đối với người mà vị lãnh đạo
không có thẩm quyền đối với họ (những người lãnh đạo ngang cấp). Trong các tổ chức
mà việc thay đối là không thể tránh khỏi ,phổ biến trong các tổ chức hiện nay, thì mối
quan hệ lãnh đạo với cấp dưới là cần thiết.
Theo đánh giá chung, các lý thuyết dựa trên cơ sở tách bạch giữa lãnh đạo và
quản lý có vẻ như đã lạc hậu, gây khó khăn cho mục tiêu sáng tỏ bản chất của lãnh đạo
và ít có giá trị áp dụng với các trường hợp thực tiễn, nhất là ở các tổ chức, các doanh
nghiệp.
g. Các phương thức tiếp cận khác để định nghĩa về lãnh đạo
Ngoài các phương thức tiếp cận cơ bản nêu trên, các lý thuyết, các nghiên cứu
và các tác giả khác nhau đều có cơ sở riêng để để định nghĩa về lãnh đạo và dẫn tới sự
xuất hiện của hàng loạt các khái niệm có liên quan đến lãnh đạo, ví dụ:
- Về cách thức trở thành nhà lãnh đạo: Học thuyết về năng lực lãnh đạo của
Bass (1989 & 1990) chỉ ra rằng có ba con đường để chúng ta trở thành nhà lãnh đạo,

10
Phạm Duy Cường


GaMBA01.M05


Phát triển khả năng lãnh đạo

trong đó hai con đường đầu tiên tìm cách giải thích tại sao chỉ có một số ít người thành
công mà thôi:
* Thuyết Tính Cách (Trait Theory): Một vài đặc điểm tính cách cá nhân có thể
dẫn chúng ta đến vai trò lãnh đạo một cách tự nhiên.
* Thuyết Sự Kiện Lớn (Great Events Theory): Một sự kiện quan trọng hay tình
huống khủng hoảng có thể khiến một cá nhân phải vượt lên chính mình, nhờ đó hình
thành nên các phẩm chất lãnh đạo khác thường từ một con người bình thường.
* Thuyết Lãnh đạo chuyển biến (Transformational

Leadership

Theory): Mọi

người đều có thể trở thành nhà lãnh đạo, nếu muốn. Bất cứ ai trong chúng ta đều có
thể học hỏi các kỹ năng lãnh đạo.
- Mô hình lý thuyết về các phong cách lãnh đạo trong tổ chức: Phong cách
độc đoán; phong cách dân chủ; phong cách tự do với các đặc điểm như sau:
Phong

Đặc điểm

Ưu điểm

cách
Độc




đoán

Quan hệ trong tổ •
vấn

chiều từ trên xuống.

chóng

Dựa

vào

Đối

điểm

tượng áp

Giải quyết Triệt

chức được thực hiện một


Nhược

kinh •

đề


nhanh sáng
của

dụng
tiêu Những
tạo người có
cấp thái

thiết dưới

Cần

độ

chống

nghiệm, uy tín, quyền lực

khi tổ chức mới

đối;

để đưa ra các quyết định

thành lập

không tự

không thảo luận, không •
bàn bạc.


Hiệu

chủ

quả

khi tổ chức có
nhiều mâu thuẫn
không

thống

nhất
Dân chủ •



Thu

hút

nhiều •

Cấp

dưới •

người tham gia quyết


phấn khởi, nỗ

định

lực làm việc
Ủy quyền rộng rãi



Khai

Tốn •
thời gian


thác

đề


tinh

Vấn

thần

trách

hợp tác;


11
Phạm Duy Cường


GaMBA01.M05

Phát triển khả năng lãnh đạo



Thông tin hai chiều

sáng kiến của

nhiệm tập

thích



Quyết định qua tập

mọi người

thể

sống tập

thể
Tự do




Ít tham gia vào các Phát huy cao sáng Phát
hoạt động của tập thể



kiến

Tất cả được tham người

của

thể
sinh Những

mọi hiện tượng người có
hoảng

đầu óc cá

loạn, vô tổ nhân;

gia hoạt động

chức

• Thành viên của tổ chức


hướng
nội

tự thực hiện công việc
theo cách tốt nhất mà họ
có thể
• Giao tiếp: Theo chiều
ngang


Quyền quyết định
thuộc về lãnh đạo

- Sự khác biệt giữa các quan niệm về lãnh đạo chủ yếu nằm ở cách tiếp cận về
đối tượng gây ảnh hưởng, mục đích của ảnh hưởng, tố chất tạo nên ảnh hưởng và kết
quả của nỗ lực gây ảnh hưởng. Có các loại hình lãnh đạo như: Lãnh đạo uy tín
(Charismatic Leadership), Lãnh đạo tham gia – chia sẻ (Participative Leadership),
Lãnh đạo tình huống (Situational Leadership), Lãnh đạo hành vi (Transactional
Leadership), Lãnh đạo cải cách (Transformational Leadership), … Theo cách tiếp cận
theo các tính chất quan hệ cấp trên-cấp dưới để hình thành các quan hệ lãnh đạo trực
tiếp (hay lãnh đạo chỉ đạo), phong cách lãnh đạo dựa trên trao đổi thảo luận, phong
cách lãnh đạo ủy quyền giao phó; theo cách thức tiếp cận với cấp dưới gồm Lãnh đạo
tích cực và lãnh đạo tiêu cực; theo định hướng mục tiêu lãnh đạo gồm Lãnh đạo quan
tâm (hướng đến nhân viên) và Lãnh đạo cấu trúc (hướng đến nhiệm vụ).
Các lý thuyết nghiên cứu về lãnh đạo mang đầy đủ các yếu tố điển hình của
khoa học xã hội, hình thành từ đúc kết thực tiễn và suy luận theo cách nhìn nhận riêng.
Trong khi đó, bản thân lãnh đạo là đối tượng nghiên cứu hết sức phức tạp liên quan tới
12
Phạm Duy Cường



GaMBA01.M05

Phát triển khả năng lãnh đạo

nhiều mặt của đời sống, hành vi và quan hệ xã hội của con người. Không dễ dàng để đi
đến một nhận thức thống nhất về lãnh đạo nói chung và các phong cách, loại hình lãnh
đạo nói riêng. Mỗi loại hình lãnh đạo có những những điểm chung, điểm khác biệt,
phạm vi cũng như điều kiện áp dụng đặc thù so với loại hình lãnh đạo khác.
2. Vận dụng định nghĩa và lý thuyết về lãnh đạo cho doanh nghiệp Việt
Nam :
Để hình thành một định nghĩa và lý thuyết lãnh đạo duy nhất cho các doanh
nghiệp Việt Nam thì phải xem xét rất nhiều các yếu tố cấu thành và tác động đến khái
niệm lãnh đạo bao gồm cả chủ quan và khách quan .
- Các yếu tố cấu thành quá trình lãnh đạo (hoàn cảnh, người lãnh đạo, cấp dưới)
của mỗi một doanh nghiệp Việt Nam có rất nhiều điểm khác nhau.
- Các mô hình lý thuyết và định nghĩa về lãnh đạo đều có những đặc thù, ưu
điểm và nhược điểm, phạm vi và điều kiện áp dụng khác nhau. Một loại hình lãnh đạo,
phong cách lãnh đạo hay thậm chi một hành vi lãnh đạo là phù hợp trong doanh
nghiệp này, nhưng sẽ không phù hợp với một doanh nghiệp khác. Ngay trong một
doanh nghiệp, có những thời điểm kiểu lãnh đạo này phát huy tác động tích cực,
nhưng trong một tình thế khác rất có thể không phát huy được tác dụng, thậm chí có
thể tác động tiêu cực.
Khi xác định một phong cách lãnh đạo tại một doanh nghiệp, thì mỗi phong
cách lãnh đạo có mặt ưu, nhược điểm khác nhau. Trong mỗi giai đoạn phát triển của
doanh nghiệp cần thể hiện phong cách lãnh đạo tương ứng cho phù hợp. Trong giai
đoạn đầu thành lập doanh nghiệp cần một người lãnh đạo quyết đoán, dám chịu trách
nhiệm, thì phong cách lãnh đạo độc đoán là phù hợp. Khi doanh nghiệp bước sang giai
đoạn ổn định, cần một không khí tự do, dân chủ hơn, phong cách lãnh đạo dân chủ sẽ
phát huy được tính tích cực hoạt động của mỗi nhân viên. Khi doanh nghiệp đạt đến sự

ổn định cao, mọi người đã nắm rõ vai trò, trách nhiệm của mình thì phong cách lãnh
đạo tự do, dân chủ sẽ phát huy được hết tính sáng tạo của người lao động. Trong thực
tiễn hoạt động kinh doanh cần phối hợp các phong cách lãnh đạo khác nhau. Sự nhạy
bén của người lãnh đạo là sự vận dụng khéo léo các nguyên tắc, thái độ, cách ứng xử

13
Phạm Duy Cường


GaMBA01.M05

Phát triển khả năng lãnh đạo

của mình sao cho phù hợp với từng đối tượng trong những hoàn cảnh khác nhau như
thế mới phát huy được hiệu quả của lãnh đạo.
Để có thể vận dụng các định nghĩa và lý thuyết về lãnh đạo, cần xem xét những
yếu tố ảnh hưởng xuất phát từ đặc thù có liên quan đến lãnh đạo của Doanh nghiệp
Việt Nam hiện nay trên ba góc độ đặc điểm hoàn cảnh, người lãnh đạo và cấp dưới:
- Đặc điểm hoàn cảnh:
+ Việt Nam hiện có hơn 400.000 doanh nghiệp đăng ký kinh doanh dưới các
hình thức các công ty cổ phần, công ty trách nhiệm hữu hạn một hoặc hai thành viên
trở lên, công ty hợp danh, doanh nghiệp tư nhân, công ty nhà nước bao gồm tổng công
ty, công ty nhà nước độc lập, đơn vị sự nghiệp, công ty thành viên.... Về cơ cấu vốn
chủ sở hữu, có doanh nghiệp nhà nước, doanh nghiệp tư nhân trong nước và doanh
nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài (FDI)... Mặc dù bình đẳng với nhau trước Pháp luật
về lĩnh vực kinh doanh, chịu trách nhiệm về khuôn khổ hoạt động và cơ chế vận hành
nhưng mỗi doanh nghiệp có có cơ chế về lãnh đạo khác nhau thể hiện ở sự khác nhau
về cách thức quản lý doanh nghiệp, tầm nhìn chiến lược, phương pháp triển khai công
việc, quan hệ với cấp dưới .
+ Quy mô doanh nghiệp Việt Nam chủ yếu là các doanh nghiệp vừa và nhỏ.

Một số Tổng công ty, Tập đoàn kinh tế Nhà nước, doanh nghiệp có vốn đầu tư nước
ngoài có quy mô về tài sản và nguồn lực vượt trội so với doanh nghiệp khác trong
nước, nhưng nhìn chung vẫn có quy mô nhỏ so với quốc tế và khu vực.
+ Môi trường hoạt động của các doanh nghiệp bị đánh giá là không ổn định
chịu tác động rất nhiều từ việc thay đổi các chính sách và quy định về lĩnh vực kinh tế
mặc dù Việt Nam được coi là ổn định về thể chế chính trị.
+ Quyền lực, thẩm quyền lãnh đạo doanh nghiệp cũng như tính chất phức tạp
của nhiệm vụ lãnh đạo doanh nghiệp có sự khác nhau theo loại hình doanh nghiệp.
Nhìn chung lãnh đạo của các công ty nhà nước chịu nhiều ràng buộc từ bên ngoài hơn
các doanh nghiệp khu vực tư nhân....
- Đặc điểm của người lãnh đạo và cấp dưới trong các doanh nghiệp Việt
Nam

14
Phạm Duy Cường


GaMBA01.M05

Phát triển khả năng lãnh đạo

+ Lãnh đạo và cấp dưới trong các doanh nghiệp Việt Nam thường đề cao việc
tạo dựng các mối quan hệ trong quá trình làm việc, đề cao việc hỗ trợ, tôn trọng các
tình cảm và nhu cầu, giao tiếp và động viên, tin tưởng. Phần lớn các doanh nghiệp Việt
nam, mô hình lãnh đạo định hướng nhân viên sẽ nổi trội hơn mô hình lãnh đạo dựa
trên định hướng công việc. Trong thực tế những người lãnh đạo không tạo được quan
hệ tốt sẽ bị cô lập, mâu thuẫn và dẫn đến xung đột, không phát huy được vai trò của
mình và làm việc không hiệu quả.
+ Mức độ chuyên nghiệp của đội ngũ lãnh đạo cũng như cấp dưới còn thấp.
Quy mô doanh nghiệp vừa và nhỏ nên hầu hết lãnh đạo điều hành doanh nghiệp được

lồng ghép chức năng quản lý. Tại các doanh nghiệp có quy mô lớn hơn, mặc dù đã
hình thành đội ngũ lãnh đạo định hướng chiến lược, tầm nhìn phát triển doanh nghiệp,
nhưng vẫn đảm đương các công việc quản lý. Tại các doanh nghiệp Việt Nam không
thể hiện rõ nét sự tách bạch giữa lãnh đạo và quản lý .
- Khả năng lãnh đạo, quản lý:
- Khả năng tập hợp và sử dụng thông tin tư vấn quản lý của các doanh nghiệp
Việt Nam nói chung chưa cao, một số lãnh đạo doanh nghiệp chưa mạnh dạn chấp
nhận những quan điểm của người khác .
- Các nhà quản lý doanh nghiệp Việt Nam nói chung còn có hạn chế về trình độ
và khả năng nắm bắt thông tin về sự thay đổi của môi trường thể chế, của thị trường,
của khách hàng...để từ đó đưa ra các quyết sách thích hợp như điều chỉnh công nghệ,
qui trình sản xuất, mặt hàng, sản phẩm cho phù hợp. Đối với các nhà quản lý công ty
nhà nước còn ảnh hưởng của một hệ thống cơ chế quản lý từ Chính phủ, cơ quan quản
lý nhà nước đối với doanh nghiệp.
- Cơ chế tạo động lực đối với nhà quản lý và người lao động trong doanh
nghiệp Việt Nam có những điểm đặc thù. Tiền lương chỉ phản ánh một phần thu nhập,
đặc biệt đối với công ty nhà nước, dẫn đến mức chênh lệch giữa tiền lương và thu
nhập quá lớn. Trên thực tế, hiệu quả của nhiều công ty nhà nước không phải do năng
suất lao động tạo ra mà do lợi thế về ngành, hàng hoặc do độc quyền mang lại. Tiền
lương trong doanh nghiệp khu vực tư nhân không thấp hơn khu vực công ty nhà nước,
nhưng động lực ổn định thu nhập và việc làm đối với cán bộ quản lý và người lao động
15
Phạm Duy Cường


GaMBA01.M05

Phát triển khả năng lãnh đạo

tại các doanh nghiệp nhà nước vẫn cao hơn. Vẫn còn cơ chế hợp đồng không thời hạn

các cán bộ quản lý chủ chốt (Giám đốc, Phó Giám đốc, Kế toán trưởng. Việc chấp
hành các chế độ chính sách nhất là chính sách phúc lợi xã hội quan tâm hơn.
- Người lãnh đạo doanh nghiệp Việt Nam chưa có các tố chất hành vi và năng
lực vượt trội để tạo ra phong cách lãnh đạo dựa trên uy tín; trình độ chuyên môn và
tầm nhìn.
- Chất lượng, trình độ lao động tại các doanh nghiệp Việt Nam còn chưa cao, kỹ
năng chuyên môn còn hạn chế, tính chuyên nghiệp trong cong việc chưa cao. Nếu áp
dụng mô hình lãnh đạo theo định hướng công việc, tức là tập trung vào việc lập kế
hoạch, đặt thời hạn, đôn đốc kiểm tra thường xuyên công việc thì mới chỉ có hiệu quả
với các vị trí công việc đã được mô tả chi tiết, chính xác, người lao động có kỹ năng, ý
thức và thái độ tốt, chuyên nghiệp. còn lại thì chưa đạt hiệu quả như mong muốn.
- Về đặc điểm tư duy và phương thức làm việc, có thể nói cán bộ cũng như
người lao động trong các doanh nghiệp chưa có tư duy logic và tư duy định lượng hiện
đại, còn bị chi phối rất nhiều bởi tình cảm và quan hệ con người, kể cả trong quan hệ
lãnh đạo - cấp dưới. Điều này có vẻ như sẽ tạo điều kiện thuận lợi cho phương thức
lãnh đạo tham gia, chia sẻ, tuy nhiên, người lao động trong các doanh nghiệp Việt
Nam thường không có nhiều khả năng cũng như năng lực, động lực để tham gia vào
các quyết định lớn của doanh nghiệp.
III. BÀI HỌC THỰC TIỄN
Có rất nhiều luận điểm và lý thuyết khác nhau đưa ra các định nghĩa về lãnh
đạo. Mỗi lý thuyết đều có cách nhìn nhận và tiếp cận riêng theo từng góc độ và phản
ảnh từng khía cạnh được quan tâm, không có định nghĩa nào là phù hợp nhất và chính
xác nhất. Mỗi quan điểm và định nghĩa riêng đó đều được áp dụng để nhận biết về đặc
điểm, bản chất của lãnh đạo và áp dụng trong từng trường hợp cụ thể.
Để có thể áp dụng một định nghĩa và lý thuyết phù hợp với lãnh đạo doanh
nghiệp Việt Nam phụ thuộc rất nhiều vào từng hoàn cảnh và đặc thù cụ thể của doanh
nghiệp. Mặc dù có nhiều định nghĩa khác nhau về lãnh đạo, nhưng đều khẳng định
lãnh đạo doanh nghiệp như một tổng thể các nỗ lực gây ảnh hưởng và thúc đẩy công

16

Phạm Duy Cường


GaMBA01.M05

Phát triển khả năng lãnh đạo

việc hiện tại của doanh nghiệp cũng như sẵn sàng đối phó với những thách thức trong
tương lai.
Hiểu được các mô hình lý thuyết và định nghĩa về lãnh đạo giúp chúng ta nhận
thức được bản chất, đặc điểm, lợi thế và hạn chế của các hành vi, các phong cách và
các loại hình lãnh đạo khác nhau. Qua đó tại mỗi điều kiện, hoàn cảnh và thời điểm cụ
thể có thể vận dụng các phong cách lãnh đạo phù hợp, có sự thích nghi linh hoạt để
phát huy được hiệu quả cao nhất của doanh nghiệp.

Tài liệu tham khảo
1. “10 tố chất của một nhà lãnh đạo thành công”. http: www.saga.vn
2. “Bảy bước trở thành lãnh đạo giỏi”. http: www. saga.vn
3. Các định nghĩa mới về quản lý và lãnh đạo. http:www.lanhdao.net
4.Chương trình đào tạo thạc sỹ quản trị kinh doanh quốc tế Griggs-ĐHQG, “Lãnh đạo
trong tổ chức”, tài liệu giảng dạy lưu hành nội bộ, Hà Nội, 2/2009.
5.Donald Clark, “Khoa học và nghệ thuật lãnh đạo công ty”, tài liệu dịch tiếng Việt trên
Bussines World Portal, />6. InvestVietnam & Saga, “Các phong cách lãnh đạo” . http: www.saga.vn
7.Các website:

/>





17
Phạm Duy Cường


GaMBA01.M05

Phát triển khả năng lãnh đạo

18
Phạm Duy Cường



×