Tải bản đầy đủ (.pdf) (22 trang)

NHỮNG VẤN ĐỀ ĐẶT RA ĐỐI VỚI CẢI CÁCH THỂ CHẾ KINH TẾ TRONG QUÁ TRÌNH HỘI NHẬP KINH TẾ QUỐC TẾ

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (440.66 KB, 22 trang )

NHỮNG VẤN ĐỀ ĐẶT RA ĐỐI VỚI CẢI CÁCH THỂ CHẾ
KINH TẾ TRONG QUÁ TRÌNH HỘI NHẬP
KINH TẾ QUỐC TẾ
Vụ Tổng hợp Kinh tế - Bộ Ngoại giao

Cải cách thể chế và hội nhập quốc tế là những vấn đề lớn, bao trùm
các lĩnh vực chính trị, kinh tế, văn hóa và xã hội. Với chủ đề “Những
vấn đề đặt ra đối với cải cách thể chế kinh tế trong quá trình hội nhập
kinh tế quốc tế”, tham luận xin chỉ tập trung vào thể chế kinh tế trong
tiến trình hội nhập kinh tế quốc tế, chứ không đề cập thể chế và hội nhập
quốc tế trong các lĩnh vực khác. Trên cơ sở khái quát các xu hướng cải
cách thể chế kinh tế trên thế giới, một số cam kết hội nhập kinh tế quốc
tế liên quan đến thể chế kinh tế của Việt Nam trong thời gian tới, tham
luận nêu một số vấn đề dưới góc độ đối ngoại đối với cải cách thể chế
kinh tế ở nước ta trong giai đoạn hội nhập quốc tế sắp tới.
1. KHÁI QUÁT THỂ CHẾ KINH TẾ VÀ CÁC MÔ HÌNH
THỂ CHỂ KINH TẾ TRÊN THẾ GIỚI.
1.1. Thể chế kinh tế.
Theo Douglass North101 (1990), thể chế là những quy tắc vạch ra
giới hạn cho hành vi của con người trong các mối quan hệ xã hội. Thể
chế kinh tế là quy tắc, quy luật, tập quán và thông lệ tác động và điều
chỉnh hành vi của các chủ thể trong quan hệ kinh tế. Nhiều nhà nghiên
cứu kinh tế học (Douglass North, Wolfgang Kasper…) phân biệt rõ thể
chế kinh tế (institution) với tổ chức kinh tế (organization), theo đó thể
chế kinh tế là luật chơi và các tổ chức kinh tế (như nhà nước, doanh
nghiệp, công đoàn…) là đối tượng tham gia cuộc chơi và tuân thủ luật
101Nhà kinh tế học người Mỹ đoạt giải Nobel kinh tế năm 1993 về nghiên cứu lịch sử kinh tế
thông qua áp dụng các lý thuyết kinh tế và phương pháp định lượng để giải thích sự thay đổi
thể chế và hoạt động kinh tế.

477




chơi. Tuy không đồng nhất với nhau, nhưng thể chế kinh tế luôn gắn
liền với tổ chức kinh tế và tác động qua lại với tổ chức kinh tế. Các
tổ chức kinh tế đều nằm trong một khuôn khổ thể chế kinh tế nào đó,
nhưng các tổ chức kinh tế cũng có thể làm thay đổi thể chế kinh tế.
Thể chế kinh tế được đề cập và nghiên cứu trong nhiều lý thuyết
kinh tế ở khía cạnh và mức độ khác nhau. Kinh tế học cổ điển và tân
cổ điển mặc dù nghiên cứu sâu về thị trường (bàn tay vô hình), song
tuyệt đối hóa vai trò của các yếu tố sản xuất vật chất (như tài nguyên,
lao động, vốn), nên xem nhẹ và chỉ coi thể chế là một yếu tố ngoại sinh.
Kinh tế học Mác-xít là một trong những học thuyết tiên phong nghiên
cứu sâu vấn đề thể chế với phát kiến về vai trò và mối quan hệ giữa quan
hệ sản xuất (như chế độ sở hữu, phân phối vốn là những thể chế kinh tế
rất cơ bản) với tính chất, trình độ phát triển của lực lượng sản xuất; sự
tương tác giữa kiến trúc thượng tầng xã hội (tức là các thể chế chính trị,
tư tưởng, văn hóa) với cơ sở hạ tầng xã hội.
Kinh tế học thể chế bắt đầu xuất hiện ở Mỹ đầu thế kỷ 20, nhưng
chỉ thực sự phát triển mạnh mẽ từ thập niên 1970 khi toàn cầu hóa kinh
tế phát triển mạnh và xuất hiện các nước công nghiệp hóa mới (NIC).
Với nghiên cứu sâu về thể chế và vai trò của thế chế (như sở hữu, chi
phí giao dịch, chế độ hợp đồng, tổ chức Nhà nước, thị trường, cộng
đồng xã hội…), các lý thuyết kinh tế học thể chế đã tạo cơ sở lý luận
để chỉ ra thể chế kinh tế là một động lực tạo nên sự khác biệt về tăng
trưởng giữa các nền kinh tế. Quả thực, nếu chỉ dựa vào các yếu tố sản
xuất vật chất theo kinh tế học cổ điển và tân cổ điển thì không thể lý
giải thấu đáo thành công của các nước NIC ở Đông Á (như Nhật Bản,
Hàn Quốc, Đài Loan, Singapore) bởi các nước này khan hiếm vốn và tài
nguyên vào thời điểm tiến hành công nghiệp hóa. Thể chế kinh tế hiệu
quả ở các nước NIC đã khuyến khích tiết kiệm, đầu tư, sử dụng hiệu quả

tài nguyên, thôi thúc người dân học tập và nghiên cứu để có thể tiếp thu
và sáng tạo công nghệ.

478


1.2. Cải cách thể chế kinh tế trên thế giới.
a. Mô hình Đông Á và Đông Nam Á102.
Mô hình phát triển của các nước Đông Á và Đông Nam Á có nhiều
điểm tương đồng (như CNH hướng xuất khẩu, đầu tư cơ sở hạ tầng, giáo
dục…), song mô hình Đông Á tỏ ra thành công hơn. Dưới góc độ thể
chế kinh tế, David Dapice103 (2008) cho rằng các nước Đông Á đã thành
công trong việc xây dựng nhà nước hiệu quả với một số điểm chung: (i)
Chính phủ các nước Đông Á tạo được “sự tự chủ” và không bị chi phối
bởi các tập đoàn và nhóm lợi ích kinh tế. (ii) Nhà nước đầu tư lớn cho
cơ sở hạ tầng, giáo dục, y tế. (iii) Có quyết tâm chính trị mạnh mẽ để
thay đổi khi cần thiết. Hàn Quốc đã phản ứng một cách mạnh mẽ trước
những yếu kém trong cấu trúc nền kinh tế mà họ nhận ra được từ cuộc
khủng hoảng 1997 và sau đó đã trỗi dậy vững vàng hơn. (iv) Thượng
tôn pháp luật để tạo ra một môi trường thuận lợi, khuyến khích đầu tư
và chống tham nhũng (như Singapore, Đài Loan).
Thể chế kinh tế ở các nước Đông Á và Đông Nam Á đã bộc lộ
nhiều điểm yếu trong khủng hoảng tài chính-tiền tệ châu Á 1997-1998:
(i) Tự do hóa tài khoản vốn nhưng không kiểm soát hữu hiệu các dòng
vốn; trong khi nhà nước can thiệp mạnh vào thị trường tiền tệ với chế
độ tỷ giá cố định để khuyến khích xuất khẩu; (ii) Sự liên kết chặt chẽ
và thiếu minh bạch giữa nhà nước với các tập đoàn và ngân hàng lớn
(như Hàn Quốc, Indonesia, Thái Lan…), trong đó nhà nước hậu thuẫn
và bảo lãnh cho các tập đoàn vay nợ, đầu tư rủi ro104. Thức tỉnh sau
khủng hoảng tài chính châu Á, các nước Đông Á và Đông Nam Á đã

tiến hành nhiều biện pháp cải cách cơ cấu và thể chế kinh tế như đổi
102Trong bài nghiên cứu “Lựa chọn thành công: Bài học từ Đông Á và Đông Nam Á cho tương
lai của Việt Nam” (2008), Chương trình Châu Á-Trường Harvard Kennedy và Trường Fulbrigh
đã quan niệm mô hình Đông Á gồm Nhật Bản, Hàn Quốc, Đài Loan, Singapore và Trung Quốc;
mô hình Đông Nam Á gồm Indonesia, Malaysia, Thái Lan và Philippines.
103Chuyên gia kinh tế thuộc Chương trình Châu Á-Trường Harvard Kennedy
104Mô hình tập đoàn lớn (keiretsu) của Nhật Bản trong đó ngân hàng giữ vị trí trung tâm và
xoay quanh nó là các công ty sở hữu chéo đã để lại nhiều hệ lụy kinh tế-tài chính trong suốt
hơn 2 thập kỷ qua. Chaebol (tập đoàn lớn) của Hàn Quốc được nhà nước bảo lãnh vay ngân
hàng đã sa lầy vào đầu tư rủi ro, kém hiệu quả, dẫn đến một số tập đoàn bị phá sản khi nổ ra
khủng hoảng.

479


mới quản lý kinh tế vĩ mô (Hàn Quốc, Thái Lan và Indonesia áp dụng
chế độ tỷ giá hối đoái linh hoạt, cơ chế ổn định giá cả), cải cách khu vực
tài chính (tăng cường giám sát, áp dụng tiêu chuẩn quản trị mới đối với
ngân hàng và doanh nghiệp), cải cách thị trường lao động, v.v… Các
cải cách này đã giúp các nước Đông Á và Đông Nam Á phục hồi nhanh
sau khủng hoảng tài chính châu Á, đồng thời tạo được nền tảng tốt để
trụ vững trong khủng hoảng kinh tế toàn cầu 2008-2009.
b. “Đồng thuận Washington” và “Đồng thuận Bắc Kinh”105.
Đồng thuận Washington do John Williamson đưa ra năm 1990 để
mô tả chương trình cải cách kinh tế được IMF, WB và Mỹ đề nghị áp
dụng cho các nước chịu khủng hoảng. Nội dung chính của cải cách này
gồm tự do hóa thương mại, mở cửa cho đầu tư nước ngoài, tư nhân hóa,
giải điều tiết (deregulation), kỷ luật tài khóa, v.v… Sau này, ý nghĩa và
phạm vi sử dụng “Đồng thuận Washington” được mở rộng để chỉ các
chính sách kinh tế của “chủ nghĩa tự do mới”. Nhiều nước trên thế giới

đã áp dụng “Đồng thuận Washington”, trong đó một số nước có kết quả
tích cực (như Chilê, Panama), song một số nước khác không thành công
(như Aghentina).
Từ khủng hoảng kinh tế toàn cầu năm 2008 đến nay, nhiều ý kiến
chỉ trích “Đồng thuận Washington”, đồng thời đề cao “Đồng thuận Bắc
Kinh”, trong đó nhấn mạnh vai trò chủ động của nhà nước và sở hữu
nhà nước, nhưng không phủ nhận vai trò tích cực của thị trường và sở
hữu tư nhân. Hiện có rất nhiều tranh luận về hai mô hình thể chế kinh tế
này, có cả ý kiến ủng hộ và phản đối cả hai mô hình (ví dụ, nếu sở hữu
nhà nước thúc đẩy tăng trưởng thì sao phải tư nhân hoá? nếu kiểm soát
tài chính có thể huy động hiệu quả nguồn vốn thì sao phải tự do hoá tài
chính?, v.v…).
Thành công của Trung Quốc thời gian qua đều bắt nguồn từ cải
cách thể chế kinh tế theo phương thức tiệm tiến, nới dần vai trò của thể
105Thuật

ngữ do chuyên gia Joshua Ramo thuộc Trung tâm Chính sách đối ngoại Anh đưa ra
năm 2004 để chỉ mô hình kinh tế thị trường của Trung Quốc.

480


chế thị trường như thí điểm các đặc khu kinh tế, doanh nghiệp hương
trấn, chế độ hai giá, gia nhập WTO… Sau hơn 35 năm cải cách, mô
hình tăng trưởng của Trung Quốc đã bộc lộ hạn chế. Trung Quốc đang
đẩy mạnh cải cách toàn diện thể chế kinh tế, trong đó định hướng cải
cách sắp tới sẽ đặt trọng tâm vào106:
- Đề cao vai trò thị trường: Đẩy nhanh hoàn thiện hệ thống thị
trường“để thị trường giữ vai trò quyết định trong phân phối tài nguyên”;
xây dựng hệ thống thị trường mở thống nhất, cạnh tranh có trật tự, công

bằng, minh bạch; hoàn thiện cơ chế giá do thị trường quyết định; xây
dựng thị trường đất đai thống nhất giữa thành thị và nông thôn; hoàn
thiện hệ thống thị trường tài chính.
- Xác định sở hữu nhà nước là một chủ thể, phát triển đồng thời
nhiều hình thức sở hữu; kinh tế thuộc sở hữu nhà nước và không thuộc
sở hữu nhà nước đều là bộ phận cấu thành quan trọng của kinh tế thị
trường XHCN; coi trọng vai trò chủ thể của chế độ sở hữu nhà nước,
phát huy vai trò chủ đạo của kinh tế quốc hữu; thúc đẩy DNNN hoàn
thiện chế độ doanh nghiệp hiện đại. Thể chế hóa thuế và tài chính một
cách khoa học để tối ưu hóa phân phối nguồn lực.
- Kiện toàn thể chế xây dựng hệ thống thành thị-nông thôn kiểu
mới lấy công nghiệp thúc đẩy nông nghiệp, lấy thành thị vực nông thôn,
trao nông dân nhiều quyền hơn về tài sản để nông dân bình đẳng tham
gia vào hiện đại hóa.
- Đẩy mạnh mở cửa kết hợp tốt giữa thu hút đầu tư và đầu tư ra
nước ngoài; mở rộng đầu tư, đẩy nhanh phát triển khu thương mại tự do,
mở cửa biên giới phía Tây; thúc đẩy lưu thông tự do có trật tự các yếu
tố sản xuất quốc tế và trong nước; tạo ưu thế cạnh tranh mới để dẫn dắt
hợp tác kinh tế thế giới.
- Điều hành vĩ mô khoa học, quản lý chính phủ hiệu quả; điều
chỉnh chức năng chính phủ, cải cách sâu thể chế hành chính, tối ưu hóa
tổ chức chính phủ.
106Thông

cáo báo chí của Hội nghị TW 3 khóa 18 ĐCS Trung Quốc, 12/11/2013.

481


c. Kinh tế thị trường xã hội.

Các nguyên tắc của thị trường tự do và công bằng xã hội được
thống nhất trong mô hình kinh tế thị trường xã hội ở Đức và một số
nước Bắc Âu, theo đó: (i) Tuân thủ nguyên tắc thị trường để kích thích
mạnh cá nhân sáng tạo vì lợi ích cá nhân và lợi ích toàn xã hội; (ii)
Nhà nước khắc phục các “thất bại” của thị trường, bảo vệ và trợ giúp
xã hộibằng hệ thống chính sách phúc lợi xã hội. Kinh nghiệm các nước
có thể chế kinh tế thị trường xã hội cho thấy có thể dung hợp được thị
trường tự do với công bằng xã hội, mặc dù trên thực tế rất phức tạp và
khó khăn.
Sự ưu việt của thể chế kinh tế thị trường xã hội đã được chứng
minh qua thành công kinh tế ở các nước áp dụng mô hình này. Dù vậy,
các nền kinh tế phúc lợi với can thiệp mạnh của chính phủ đã trải qua
thời kỳ tăng trưởng trì trệdo xói mòncác thể chế thị trường làm suy
yếu động lực tăng trưởng107. Từ đầu thập niên 1990, các nền kinh tế thị
trường xã hội đã tiến hành nhiều cải cách theo hướng giảm can thiệp
của nhà nước để nền kinh tế trở nên linh hoạt hơn và có khả năng thích
ứng tốt hơn. Từ 1993-2010, Thụy Điển đã giảm chi tiêu công từ 67%
GDP còn 47% GDP, giảm thuế xuất thuế thu nhập từ 72% còn 50%, tư
nhân hóa một số lĩnh vực dịch vụ. Đức cải cách thị trường lao động và
phúc lợi, nhờ đó chi phí lao động giảm bình quân 1,4%/năm trong giai
đoạn 2000-2008 (trong khi Pháp, Anh tăng gần 1%/năm)108, vì thế duy
trì được sức cạnh tranh kinh tế và xuất khẩu.
d. Các nền kinh tế chuyển đổi ở Đông Âu.
Sau thất bại của mô hình kinh tế kế hoạch tập trung, các nước Đông
Âu đã cải cách thể chế kinh tế sang thể chế thị trường. Có thể khái quát
cải cách thể chế kinh tế ở Đông Âu trong bảng dưới đây:

107Wolfgang

Kasper, Manfred Streit (1998).


108 />
482


Lĩnh vực cải cách
Doanh nghiệp

Chính phủ

Mục tiêu thể chế

Hỗ trợ về tổ chức
Công ty hóa, tư nhân hóa; luật thương mại, tiêu
Hoàn toàn tự chủ quyết định;
chuẩn kế toán, luật ngân hàng; thị trường vốn,
tự do giao kết; phá sản…
lao động.
Thu hẹp quy mô chính phủ; bỏ trợ cấp; cải cách
Bảo vệ pháp quyền
ngân sách; cải tổ hệ thống thuế; luật hành chính;
ngân hàng TW độc lập; hỗ trợ hạ tầng…
Tái phân phối
Giảm an sinh xã hội; tiếp cận dịch vụ công
Cân bằng ngân sách; hạch toán nợ và tài sản
Kinh tế vĩ mô
công…
Tự do hóa thương mại và vốn; chuyển đổi tiền
Hội nhập kinh tế
tệ; tỷ giá linh hoạt…

Nguồn: Wolfgang Kasper, Manfred Streit (2012).

Các nước Đông Âu đã gia nhập EU như Czech, Hungary, Ba Lan
nhìn chung đã chuyển đổi tương đối thành công và đạttrình độ phát triển
gần với các nước phát triển. Một trong những lý do chính là sức ép gia
nhập EU đã buộc các nước này tiến hành cải cách mạnh mẽ theo hướng
xây dựng các thể chế thị trường và pháp quyền theo tiêu chuẩn của EU.
Trong khi đó, cải cách thể chế kinh tế ở một số nước Đông Âu khác
(như Ucraina, Belarus…) không được như kỳ vọng, thể chế thị trường
đưa vào quá nhanh trong khi pháp quyền yếu kém, tài sản nhà nước bị
thâu tóm bởi một số ít nhóm lợi ích, khoảng cách giàu - nghèo và bất
bình đẳng xã hội gia tăng. Đây có thể là một nguyên nhân sâu xa dẫn
đến bất ổn chính trị - xã hội gần đây ở các nước này.
e. Cải cách thể chế kinh tế sau khủng hoảng kinh tế toàn cầu.
Khủng hoảng kinh tế toàn cầu vừa qua làm bộc lộ khiếm khuyết
trong thể chế kinh tế và mô hình tăng trưởng ở nhiều nước, do đó phải
điều chỉnh để đáp ứng yêu cầu phát triển sau khủng hoảng. Hầu hết các
nước, từ Mỹ, châu Âu đến các nền kinh tế đang nổi đều đang tái cơ cấu
kinh tế gắn với cải cách thể chế kinh tế để hướng tới nền kinh tế cân
bằng và bền vững hơn.
- Tái cân bằng: Khủng hoảng cho thấy các thị trường, nhất là thị
trường tài chính, không hoàn hảo và không thể “tự hiệu chỉnh” (self483


correcting) các khuyết tật cố hữu mà cần có bàn tay điều tiết của nhà
nước, nhưng can thiệp quá mức ẩn chứa “sai lầm chính sách” của nhà
nước có thể làm trầm trọng hơn khó khăn và khủng hoảng kinh tế. Xu
hướng chung các nước đều cố gắng lập lại cân bằng nhà nước và thị
trường, tài chính với sản xuất, tiết kiệm - đầu tư với tiêu dùng. Mặc dù
các nước đều nhận thức được yêu cầu tái cân bằng thị trường - nhà nước,

song đâu là điểm “cân bằng thể chế” nhà nước - thị trường thì vẫn chưa
có lời giải đáp, và chắc chắn sẽ tùy thuộc điều kiện đặc thù mỗi nước.
- Thể chế kinh tế dung nạp (inclusive): Trong bối cảnh nhiều nước
đang tìm hướng phát triển kinh tế bền vững và bao trùm (inclusive), hài
hòa về xã hội và môi trường, việc tìm kiếm và xây dựng các thể chế
kinh tế dung nạp là một xu hướng đang nổi lên trong cải cách thể chế
kinh tế sau khủng hoảng. Thế chế kinh tế dung nạp khuyến khích sự
tham gia đông đảo của người dân trong các hoạt động kinh tế, phát huy
tối đa năng lực của con người. Thể chế kinh tế này được đặc trưng bởi
sự bảo đảm quyền tài sản cá nhân, thượng tôn pháp luật và bình đẳng
trong tiếp cận các dịch vụ công.
2. MỘT SỐ CAM KẾT HỘI NHẬP KINH TẾ QUỐC TẾ
(HNKTQT) LIÊN QUAN ĐẾN CẢI CÁCH THỂ CHẾ KINH TẾ
Ở VIỆT NAM TRONG THỜI GIAN TỚI.
HNKTQT của Việt Nam đang tiến vào giai đoạn mới với cấp độ
cao hơn và sâu hơn việc gia nhập WTO. Bên cạnh triển khai và tiến tới
hoàn tất các cam kết đã ký (WTO và 8 FTA), Việt Nam đang đàm phán
6 FTA với các đối tác then chốt, trong đó nổi lên là TPP, RCEP, FTA với
EU. Do đó, chủ động, tích cực HNQT sẽ là động lực quan trọng thúc
đẩy cải cách thể chế kinh tế lên một bước mới. Các thỏa thuận Việt Nam
đang đàm phán đều có điểm chung: (i) Phạm vi cam kết rộng hơn, có
nhiều đối tác tham gia hơn; (ii) Mức độ cam kết sâu hơn, cắt giảm bảo
hộ mạnh hơn và nhấn sâu hơn vào các chính sách bên trong (như TPP,
FTA với EU); (iii) Cam kết trong nhiều lĩnh vực mới mà Việt Nam chưa
từng xử lý trong đàm phán và triển khai cam kết thương mại (như mua
484


sắm chính phủ, lao động…); (iv) Thời gian cho chuẩn bị hoàn tất cam
kết ngắn hơn (xem Phụ lục).

Cam kết trong các thỏa thuận Việt Nam đang đàm phán hiện các
bên chưa thống nhất và chưa được công khai, do đó chưa thể đánh giá
chính xác tác động của các cam kết này đối với cải cách thể chế kinh tế.
Vì vậy, tham luận đề cập một số vấn đề nổi lên liên quan đến cải cách
thể chế kinh tế trong các cam kết hội nhập sắp tới.
1.1. Doanh nghiệp nhà nước (DNNN)
Theo cam kết WTO, các DNNN ở Việt Nam thực hiện các hoạt
động thương mại theo tiêu chí thị trường, mua sắm/thương mại của
DNNN không phải là mua sắm Chính phủ. Nhà nước không can thiệp
trực tiếp hoặc gián tiếp vào hoạt động của DNNN, nhưng vẫn được can
thiệp với tư cách một cổ đông của doanh nghiệp. Việt Nam chỉ bảo lưu
đặc quyền thương mại của DNNN trong một số ít lĩnh vực (dầu thô,
xăng dầu, băng - đĩa hình, thuốc lá…). Về cơ bản, Việt Nam đã đáp ứng
và đang thực hiện nghiêm túc các cam kết này.
Một số FTA Việt Nam đang đàm phán có cam kết về DNNN cao
hơn cam kết WTO, đặc biệt là TPP, theo hướng: (i) Yêu cầu DNNN
cạnh tranh bình đẳng với doanh nghiệp tư nhân (bao gồm tất cả DNNN,
chứ không chỉ DNNN thương mại như cam kết WTO); (ii) Nhà nước
không trợ cấp cho DNNN; (iii) Minh bạch hóa quản lý DNNN.
Nội dung cam kết nói trên đặt ra thách thức về thể chế kinh tế:
(i) Cơ chế “xin - cho” thời gian qua đã thúc đẩy hình thành “khu vực
kinh tế địa tô” (rent-seeking) thu lợi nhờcác đặc quyền/độc quyền kinh
doanh. Việc xóa bỏ cơ chế này đang gặp nhiều trở lực do sức ỳ lớn của
nhiều DNNN và các nhóm lợi ích hưởng lợi từ cơ chế này. (ii) Chế độ
quản trị của DNNN ở nước ta nhìn chung còn chịu ảnh hưởng của tàn
dư cơ chế quan liêu, chưa quan tâm đến các tiêu chuẩn, thông lệ quốc tế
trong quản trị doanh nghiệp109; do đó minh bạch hóa quản lý DNNN đặt
109Theo báo cáo của Bộ KHĐT về đánh giá 5 năm thực hiện Nghị quyết TW 6 khóa X, các
tập đoàn, tổng công ty của ta mới áp dụng ở mức độ thấp một số ít trong 30 nguyên tắc trong
khung quản trị DNNN của OECD.


485


ra yêu cầu cấp bách về đổi mới căn bản quản trị của DNNN. (iii) Việc
đặt các DNNN vào môi trường cạnh tranh “sòng phẳng” trong khi sức
cạnh tranh còn hạn chế, nếu không có các thể chế hỗ trợ (như bảo vệ
cạnh tranh lành mạnh, chống độc quyền, hỗ trợ không vi phạm cam kết,
v.v…), không loại trừ khả năng bị thâu tóm, chi phối bởi độc quyền tư
nhân và/hoặc độc quyền nước ngoài, nhất là trong những lĩnh vực cần
có điều tiết của Nhà nước.
Tuy có những thách thức, nhưng các nội dung cam kết về cạnh
tranh bình đẳng, minh bạch hóa quản lý DNNN cơ bản phù hợp với
chủ trương, định hướng cải cách DNNN của Việt Nam. Cho dù không
có cam kết này, Việt Nam vẫn phải đẩy mạnh cải cách DNNN nếu như
muốn nâng cao hiệu quả của DNNN và tạo sân chơi cạnh tranh bình
đẳng. Do đó, việc thực hiện các cam kết về DNNN có thể là một động
lực tốt đẩy nhanh hơn tiến trình cải cách DNNN ở nước ta. Cả lý thuyết
và thực tiễn cho thấy không nhất thiết các DNNN kém hiệu quả hơn
doanh nghiệp tư nhân. Kinh nghiệm của Singapore và Trung Quốc gần
đây minh chứng các DNNN hoàn toàn có thể cạnh tranh toàn cầu. Hàn
Quốc sau khủng hoảng tài chính châu Á 1997-1998 đẩy rất mạnh cải
cách các tập đoàn lớn (chaebol) với trọng tâm đổi mới quản trị doanh
nghiệp (như quản lý minh bạch, tập trung vào lĩnh vực kinh doanh
cốt lõi, tăng cường trách nhiệm giải trình của lãnh đạo tập đoàn, cấm
chuyển đầu tư công nghiệp sang tài chính, hạn chế đầu tư chéo nội bộ,
v.v…), ban đầu gặp nhiều khó khăn và trở lực, nhưng về lâu dài đã giúp
các chaebol của Hàn Quốc mạnh hơn sau khủng hoảng.
1.2. Mua sắm chính phủ.
Mặc dù là thành viên WTO, nhưng Việt Nam chưa tham gia, mới chỉ

là quan sát viên của Hiệp định mua sắm chính phủ của WTO (GPA)110.
Do đó, sau khi hoàn tất ký TPP và FTA với EU, lần đầu tiên Việt Nam
mở cửa thị trường mua sắm chính phủ. Cam kết mua sắm chính phủ
trong đàm phán TPP và FTA Việt Nam - EU hiện có nội dung chính: (i)
110Đến

486

nay, mới có khoảng 40 thành viên WTO tham gia Hiệp định GPA.


Đấu thầu quốc tế rộng rãi ở cấp trung ương và địa phương (như EU yêu
cầu mở cửa thị trường mua sắm chính phủ đến cấp quận/huyện); (ii) Áp
dụng nguyên tắc không phân biệt đối xử sau khi hết giai đoạn chuyển
đổi (không phân biệt nhà thầu trong nước và nước ngoài); (iii) Áp dụng
nguyên tắc không bù trừ, tức là không được ưu đãi cho các nhà thầusử
dụng nhiều hoặc có hàm lượng nội địa cao; (iv) Quy trình, thông tin
minh bạc; khuyến khích sử dụng phương tiện điện tử trong đấu thầu.
Thách thức đối với Việt Nam: (i) Mở cửa thị trường mua sắm chính
phủ là vấn đề không mới với các nước có thể chế thị trường hoàn thiện,
song với Việt Nam là vấn đề mới khi hội nhập quốc tế. Ngay với WTO,
ta cũng mới chỉ tham gia là quan sát viên, chứ chưa có cam kết; do đó
gặp nhiều khó khăn cả về thể chế, năng lực và kinh nghiệm trong mở
cửa lĩnh vực này. (ii) Mua sắm chính phủ ở Việt Nam có nhiều điểm
khác biệt với các nước, không chỉ gồm mua sắm phục vụ các cơ quan
công quyền, mà còn có mua sắm phục vụ đầu tư phát triển và mua sắm
của DNNN có nguồn gốc từ ngân sách nhà nước. Do đó, diện mua sắm
chính phủ ở Việt Nam rất rộng với quy mô tương đối lớn. (iii) Đấu
thầu rộng rãi đồng nghĩa với hạn chế tối thiểu chỉ định thầu (các cam
kết thường loại trừ trong trường hợp cấp bách, an ninh, quốc phòng),

trong khi chỉ định thầu ở nước ta vẫn tương đối nhiều do dấu ấn cơ chế
“xin-cho”. Do đó, khi mở cửa cho cạnh tranh tự do, chưa nói đến cam
kết TPP hay FTA với EU, các doanh nghiệp Việt Nam khó có khả năng
cạnh tranh với các doanh nghiệp nước ngoài. (iv) Bên cạnh sửa đổi
pháp luật đấu thầu, xây dựng luật đầu tư công, cần có quy định, cơ chế
theo dõi, giám sát chặt chẽ hơn sau đấu thầu (“hậu kiểm”).
1.3. Lao động.
Lao động là vấn đề mới được đưa vào các đàm phán FTA thế hệ
mới. Tuy là một vấn đề “phi thương mại”, nhưng lao động có liên quan
chặt chẽ với thương mại và có tác động đến thể chế kinh tế - lao động
(như tự do giao kết lao động, thỏa ước lao động, giải quyết tranh chấp
lao động, tổ chức công đoàn…). Mỹ nhấn mạnh vấn đề lao động trong
487


các FTA của Mỹ với các đối tác, trong đó TPP. Tổ chức Công đoàn thế
giới (ITUC) gần đây đã đưa ra một bản dự thảo chương Lao động và
cơ chế giải quyết tranh chấp liên quan đến lao động cho đàm phán TPP
dựa trên Hiệp định FTA Mỹ - Peru. Dự thảo này được một số thành viên
TPP ủng hộ như Mỹ, Úc, New Zealand… Do đó, có thể suy đoán là bản
dự thảo này sẽ có tác động nhất định đến nội dung cam kết về lao động
trong TPP. Nội dung dự thảo chương Lao động chủ yếu hướng các nước
vào các ràng buộc: (i) Tuân thủ các công ước về lao động của Tổ chức
Lao động thế giới (ILO); (ii) Bảo đảm các điều kiện lao động “có thể
chấp nhận được”; (iii) Cấm xuất, nhập khẩu hàng hóa được sản xuất từ
lao động cưỡng bức, lao động trẻ em; (iv) Bảo đảm quyền khởi kiện và
giải quyết tranh chấp lao động; (v) Bảo đảm quyền tự do lập hội trong
lĩnh vực lao động, v.v…
Những yêu cầu về bảo đảm quyền lao động trong TPP dựa trên các
công ước của ILO cơ bản phù hợp với chính sách, pháp luật của Việt

Nam về lao động và bảo vệ quyền lợi người lao động. Việt Nam đã phê
chuẩn 18 công ước của ILO, trong đó có 5 trong 8 công ước liên quan
đến các vấn đề lao động cơ bản. Như vậy, Việt Nam có thể đáp ứng
được phần lớn các yêu cầu liên quan đến công ước ILO trong TPP.
Thách thức đối với Việt Nam: (i) Trong WTO và các FTA đã ký,
Việt Nam chưa đề cập đến vấn đề lao động, do đó không thể tránh khỏi
khó khăn trong việc tiếp cận vấn đề này. (ii) Về thể chế, chúng ta có luật
lao động khá tiến bộ theo tiêu chuẩn của ILO, nhưng cơ chế thực hiện
lại rất yếu. (iii) Cam kết quyền lập hội nếu được triển khai sau này, sẽ
tạo sức ép lớn đến tổ chức công đoàn. Nếu công đoàn không phát huy tốt
vai trò, có thể thúc đẩy người lao động dùng các quyền này để lập các
tổ chức khác của người lao động. Đây là vấn đề rất nhạy cảm về chính
trị - xã hội. (iv) Với một số nội dung về “điều kiện lao động chấp nhận
được”, cấm XNK hàng hóa, dịch vụ sử dụng lao động cưỡng bức, v.v…,
nếu không có quy định và tiêu chuẩn chặt chẽ, các đối tác có thể lợi dụng
làm “rào cản kỹ thuật” đối với hàng xuất khẩu của Việt Nam, nhất là các
hàng sử dụng nhiều lao động (dệt may, giày - da, thủy sản…).
488


1.4. Một số vấn đề khác.
Về đầu tư, các đề xuất của một số nước, nhất là Mỹ, trong đàm
phán đầu tư trong TPP chủ yếu hướng đến tạo thêm nhiều quyền hơn
cho các nhà đầu tư nước ngoài, nhất là cơ chế giải quyết tranh chấp giữa
nhà nước-nhà đầu tư. Cơ chế này cho phép các tập toàn nước ngoài có
quyền kiện lên các tòa án quốc tế về vấn đề môi trường, sử dụng đất, y
tế và các quy định khác của nước nhận đầu tư làm ảnh hưởng đến “lợi
nhuận dự kiến” của nhà đầu tư. Kinh nghiệm thực thi Hiệp định thương
mại tự do Bắc Mỹ (NAFTA) cho thấy hầu hết các tranh chấp nhà nước
- nhà đầu tư liên quan đến chính sách môi trường (như quy định môi

trường trong khai khoáng, dầu khí), y tế, bảo đảm sức khỏe cộng đồng,
v.v… Đây là một thách thức lớn với Việt Nam, bởi thực tế là nhiều nhà
đầu tư nước ngoài đánh giá môi trường chính sách và quy định đầu tư
của Việt Nam hay thay đổi và thiếu nhất quán. Do đó, vấn đề đặt ra đòi
hỏi ta cần nỗ lực rất lớn nâng cao năng lực xây dựng và thực thi chính
sách, quy định đầu tư, cũng như am hiểu sâu quy định, thông lệ quốc tế
về xử lý tranh chấp với nhà đầu tư để có thể bảo vệ lợi ích chính đáng.
Về sở hữu trí tuệ, sau khi gia nhập WTO, Việt Nam đã sửa Luật Sở
hữu trí tuệ (SHTT) để tuân thủ các quy định của Hiệp định về các khía
cạnh liên quan đến quyền sở hữu trí tuệ (TRIPS). Trong vòng đàm phán
Urugoay, TRIPS đã phản ánh nhiều lợi ích của các nước xuất khẩu sản
phẩm SHTT, do đó TRIPS thực chất đã là ngưỡng cao đối với các nước
đang phát triển.
Trong các FTA song phương và khu vực, một số nước phát triển
luôn yêu cầu các nước áp dụng các quy định sở hữu trí tuệ cao hơn hiệp
định TRIPS (TRIPS +). Vì vậy, trong các FTA Việt Nam đang đàm phán
như TPP và FTA với EU, vấn đề SHTT cũng được đưa ra theo hướng
TRIPS+. Cụ thể :(i) Tăng quyền của chủ sở hữu, kéo dài thời gian bảo
hộ độc quyền sáng chế (như duy trì các đặc quyền dữ liệu thử nghiệm
của dược phẩm, nông hóa phẩm); (ii) Tăng cường bảo hộ nhãn hiệu hàng
hóa, quyền tác giả và sáng chế. (iii) Giảm các điều kiện đăng ký bảo hộ,
489


tăng cường các biện pháp thực thi. (iv) Mở rộng bảo hộ chỉ dẫn địa lý
cho nhiều sản phẩm tương tự như bảo hộ nhãn hiệu thương mại, v.v…
Nhiều nghiên cứu đến nay111 cho rằng các quy định về SHTT trong
đàm phán TPP sẽ tác động bất lợi cho Việt Nam, nhất là trong lĩnh vực
dược phẩm. Ví dụ, Luật SHTT của Việt Nam phù hợp với TRIPS giới
hạn loại hình sáng chế được cấp bằng, trong khi đề xuất đàm phán TPP

mở rộng phạm vi cấp bằng sáng chế cho cả các sản phẩm có cải tiến
nhỏ. Nhờ đó, các tập đoàn đa quốc gia kéo dài thời hạn bảo hộ độc
quyền sáng chế hơn 20 năm, thu được nhiều lợi nhuận hơn từ một dòng
sản phẩm. Việc kéo dài thời hạn độc quyền sáng chế của nước ngoài
trong lĩnh vực dược phẩm sẽ khiến các doanh nghiệp dược Việt Nam
gặp nhiều khó khăn và gánh nặng hơn khi phải cạnh tranh trong môi
trường độc quyền bị kéo dài hơn. Với nhà nước và cộng đồng, các quy
định này cũng kéo dài thời gian giá thuốc nhập khẩu bị định giá độc
quyền, do đó làm tăng chi ngân sách và chi trả của cộng đồng cho nhập
khẩu thuốc. Vì vậy, vấn đề đặt ra không chỉ sửa Luật SHTT theo các
cam kết về SHTT, mà cần có các thể chế, quy định bảo vệ lợi ích chính
đáng của xã hội, cộng đồng, đặc biệt là hỗ trợ các đối tượng dễ bị tổn
thương trước tác động của các cam kết SHTT (ví dụ, chế độ bảo hiểm y
tế, y tế cộng đồng, đối tượng chính sách…).
3. NHỮNG VẤN ĐỀ ĐẶT RA ĐỐI VỚI CẢI CÁCH THỂ CHẾ
KINH TẾ TRONG HỘI NHẬP KINH TẾ QUỐC TẾ.
Thực tiễn Đổi mới gần 30 năm qua ở nước ta đã chứng minh cải
cách thể chế kinh tế gắn với đẩy mạnh hội nhập quốc tế là lựa chọn
đúng đắn. Để tạo “sức bật” mới cho Việt Nam trong thời gian tới, Việt
Nam cần có thêm các động lực mới như thông điệp đầu năm 2014 của
Thủ tướng Chính phủ Nguyễn Tấn Dũng đã khẳng định “nguồn động
lực đó phải đến từ đổi mới thể chế”. Vì vậy, cải cách và hoàn thiện thể
chế kinh tế thị trường định hướng XHCN là yêu cầu cấp thiết hơn bao
giờ hết.
111Oxfarm

490

(3/2013).



Các diễn giả tại Diễn đàn đã phân tích và đánh giá sâu về cải cách
thể chế kinh tế trong các lĩnh vực DNNN, môi trường kinh doanh, phân
bổ nguồn lực, v.v… Do vậy, tham luận chỉ xin trao đổi một số vấn đề
dưới góc độ đối ngoại đối với cải cách thể chế kinh tế ở nước ta gắn với
hội nhập kinh tế quốc tế trong thời gian tới.
3.1. Về nhận thức.
Đổi mới và cải cách thể chế kinh tế là yêu cầu khách quan và hết
sức cấp bách đối với sự phát triển của Việt Nam trong giai đoạn hiện
nay bởi 2 lý do:
- Xuất phát từ nhu cầu phát triển của đất nước. Theo đánh giá
của World Bank (2012), trong 50 năm qua, chỉ có 13 nước trong 101
nước thu nhập trung bình thoát khỏi bẫy thu nhập trung bình. Có nhiều
nguyên nhân, trong đó một nguyên nhân chính là sự khác biệt về thể chế
kinh tế. Các thể chế đóng vai trò quan trọng cấu thành nên nguồn vốn
xã hội, là “phần mềm” (software) dẫn dắt phát triển xã hội, giúp phân
bổ và sử dụng hiệu quả các nguồn lực xã hội.
Bẫy thu nhập trung bình là thách thức chung của tất cả các nước
thu nhập trung bình. Việt Nam vừa đạt được mức thu nhập trung bình,
nên không phải là ngoại lệ. Từ kinh nghiệm của các nước đã thành công
và không thành công trong vượt qua bẫy thu nhập trung bình, không
có sự lựa chọn nào khác Việt Nam cần đẩy mạnh cải cách, trong đó cải
cách thể chế kinh tế là then chốt, để tạo động lực cho chuyển đổi mô
hình tăng trưởng, bứt phá vươn lên khỏi bẫy thu nhập trung bình.
- Xuất phát từ yêu cầu chủ động, tích cực hội nhập quốc tế. Chủ
động, tích cực hội nhập quốc tế thực chất là chấp nhận thực hiện và
tham gia kiến tạo các “luật chơi” quốc tế. Hội nhập quốc tế sâu rộng
làm thay đổi sâu sắc các mối quan hệ sản xuất - kinh tế, đòi hỏi phải
điều chỉnh về thể chế kinh tế trong nước để tương thích với các luật chơi
mới. Cải cách thể chế kinh tế ở trong nước trước hết là để phù hợp với

các cam kết đã ký, nhưng quan trọng hơn là để khai thác tốt nhất các lợi
ích của hội nhập quốc tế phục vụ phát triển đất nước. Từ kinh nghiệm
491


gia nhập WTO, việc chủ động, tích cực chuẩn bị trong nước, trong đó
có chuẩn bị về thể chế kinh tế, có vai trò quyết định đối với hiệu quả hội
nhập quốc tế. Nếu cam kết không đi đôi với chuẩn bị và cải cách trong
nước cũng như nâng cao năng lực hội nhập, thì khó tránh bất lợi và thua
thiệt. Thời hạn chuyển đổi trong thực hiện các cam kết hội nhập mà ta
sắp hoàn tất đàm phán như TPP, RCEP, FTA với EU… chỉ khoảng 5-10
năm tới. Vì vậy, 5-10 năm tới là giai đoạn rất then chốt, hội nhập quốc
tế có hiệu quả hay không phụ thuộc nhiều vào cải cách thể chế kinh tế
trong 5-10 năm tới.
Cải cách thể chế kinh tế trong điều kiện chủ động, tích cực hội
nhập quốc tế không đơn giản là điều chỉnh quy định, pháp luật phù hợp
với cam kết hội nhập, mà quan trọng hơn đó là một tiến trình cải cách
đồng bộ các thể chế kinh tế nhằm khai thác tốt nhất các lợi ích của hội
nhập quốc tế. Thể chế kinh tế chúng ta cần đạt tới trong cải cách, đổi
mới là thể chế kinh tế hội nhập với 3 cấu thành:
- Các thể chế kinh tế tương thích và tuân thủ các cam kết hội nhập
quốc tế (như điều chỉnh, hoàn thiện pháp luật kinh tế phù hợp với các
cam kết hội nhập).
- Các thể chế phòng vệ nhằm bảo vệ lợi ích chính đáng, giảm thiểu
các tác động không thuận khi thực hiện các cam kết hội nhập (ví dụ, các
thể chế chống độc quyền, bảo vệ cạnh tranh lành mạnh; các tiêu chuẩn
công nghệ - môi trường; hỗ trợ các đối tượng dễ tổn thương…).
- Các thể chế hỗ trợ để tranh thủ cơ hội, lợi ích của hội nhập quốc
tế (ví dụ, các thể chế khuyến khích cạnh tranh, sáng tạo, đổi mới công
nghệ…).

3.2. Định vị vai trò thị trường và nhà nước để xây dựng một kết
cấu thể chế kinh tế hiệu quả.
Nhìn vào kinh nghiệm cải cách thể chế kinh tế của các nước cho
đến nay xét cho cùng là đi tìm và xác lập một quan hệ hài hòa giữa thị
trường và nhà nước. Không thể phủ nhận kinh tế thị trường là phương
thức quan trọng nhất cho các nước có được phát triển thịnh vượng.
492


Nhưng thực tế, các nước có nền kinh tế phát triển không chỉ nhờ tuân
thủ các quy luật thị trường mà còn hạn chế được những mặt trái của nó,
sửa chữa và khắc phục được các “thất bại” của thị trường. Trong khi
đó, nhiều nước phát triển chậm và bất ổn thường do không xử lý được
những thất bại hay khuyết tật của thị trường.
Thể chế kinh tế nước ta đang xây dựng là “thể chế kinh tế thị
trường định hướng XHCN”. Cần xác định rõ đâu là yếu tố “thị trường”,
đâu là “định hướng XHCN”. Thể chế kinh tế của Việt Nam có đặc thù,
nhưng trước hết cần theo dòng chảy chung của nhân loại. “Kinh tế thị
trường” là phương thức phát triển kinh tế chung của thế giới hiện nay,
phải chăng “định hướng XHCN” là nói đến bản chất và vai trò của Nhà
nước ta. Với cách tiếp cận như vậy và trên cơ sở kinh nghiệm của các
nước, có thể phân định rõ vai trò của thị trường và nhà nước trong kết
cấu thể chế kinh tế ở nước ta như sau:
Thứ nhất, “thể chế thị trường”: tôn trọng quy luật của thị trường,
để thị trường giữ vai trò quyết định phân bổ hiệu quả các nguồn lực.
Trong hội nhập quốc tế, Nhà nước có vai trò quan trọng, nhưng doanh
nghiệp và xã hội giữ vai trò quyết định thành công và hiệu quả của hội
nhập. Vì vậy, cần tạo dựng được các thể chế thị trường hiện đại để khơi
dậy và giải phóng tối đa tiềm năng, sáng tạo và sức sản xuất của toàn xã
hội. Trong điều kiện hội nhập quốc tế, việc xây dựng thể chế kinh tế thị

trường được thể hiện đồng thời dưới 2 góc độ:
(i) Đẩy mạnh hội nhập quốc tế: các cam kết hội nhập quốc tế, xét
cho cùng, sẽ dẫn lái kinh tế Việt Nam theo quỹ đạo kinh tế thị trường
hiện đại, do đó sẽ tạo động lực lớn để đẩy mạnh cải cách thể chế kinh
tế thị trường định hướng XHCN và nâng cao năng lực cạnh tranh trong
hầu hết các lĩnh vực kinh tế.
(ii) Cần có các thể chế củng cố các nền tảng cơ bản của kinh tế
thị trường như quyền tài sản, quyền tự do kinh doanh, cạnh tranh bình
đẳng, lành mạnh. Việc đẩy mạnh cải cách DNNN đi đôi với phát triển
dân doanh là một trong những trọng tâm. Với DNNN, thực tiễn phát
493


triển của các nước cho thấy không nhất thiết cứ DNNN là kém hiệu quả.
Hiệu quả hay không là do doanh nghiệp đó được tổ chức như thế nào và
hoạt động trong môi trường nào. Do đó, bên cạnh cổ phần hóa (thay đổi
cơ cấu sở hữu), cần chú trọng hơn đến “công ty hóa” (corporatization)
DNNN, tức là tái tổ chức và quản trị DNNN như một công ty độc lập
trong môi trường cạnh tranh bình đẳng, lãnh đạo DNNN chịu trách
nhiệm giải trình rõ ràng trước nhà nước với tư cách cổ đông. Vì vậy,
việc đổi mới và kiện toàn thể chế, đặc biệt là đổi mới quản trị, cho
DNNN là hết sức quan trọng và cấp bách để tạo dựng môi trường cạnh
tranh lành mạnh, thúc đẩy phát triển các thể chế thị trường.
Thứ hai, “kinh tế nhà nước”: Kinh tế nhà nước giữ một vai trò
quan trọng ở hầu hết các nước, nhà nước là chủ thể sử dụng nguồn lực
xã hội nhiều nhất (ví dụ, năm 2012, Đan Mạch 56%, Thụy Điển 51,3%,
Mỹ 41,7%, Trung Quốc 23,6%, Thái Lan 23,3%)112. Chi tiêu của nhà
nước chủ yếu cho an ninh, quốc phòng, cơ sở hạ tầng công, giáo dục, y
tế và phúc lợi xã hội (ví dụ, 70% ngân sách của Đức hàng năm dành cho
chi phúc lợi xã hội). Đây là những việc nhà nước phải làm do tư nhân

không có động cơ hoặc làm không hiệu quả. Như vậy, nhà nước chỉ tập
trung đúng chức năng của mình, sửa chữa các khuyết tật của thị trường
và chức năng xã hội.
Với Việt Nam, nhà nước ta mang bản chất nhà nước của nhân dân
lao động. Để phát huy bản chất của nhà nước trong lĩnh vực kinh tế
trong điều kiện hiện nay, nhà nước nên tập trung làm tốt các chức năng
cốt lõi: (i) Ổn định kinh tế vĩ mô, bảo vệ các nền tảng tích cực của kinh
tế thị trường; (ii) Khắc phục, sửa chữa các khiếm khuyết và thất bại
của thị trường nhằm bảo đảm phân bổ hiệu quả hơn các nguồn lực; (iii)
Thực hiện tốt các chức năng xã hội nhằm bảo đảm công bằng và tiến
bộ xã hội.
3.3. Cải cách và thực thi thể chế kinh tế.
Thể chế kinh tế của Việt Nam thực chất vẫn là một thể chế kinh tế
112Huỳnh

494

Thế Du (2013).


đang chuyển đổi, đang trong quá trình xây dựng và hoàn thiện, do đó
không tránh khỏi bất cập. Không phải chúng ta không nhận thức được
những bất cập đó, mà dường như Việt Nam đang thiếu một động lực
đủ mạnh để thúc đẩy cải cách thể chế kinh tế. Hội nhập quốc tế là một
động lực quan trọng thúc đẩy từ bên ngoài, nhưng chưa đủ, bởi quan
trọng hơn là động lực từ bên trong. Nhiều nước, nhất là các nước NIC
ở Đông Á, cũng từng trải qua giai đoạn phát triển với những thách thức
tương đồng với Việt Nam như hiện nay, nhưng họ vẫn vượt qua để tạo
dựng được thể chế kinh tế? Trong số nhiều yếu tố, có lẽ có một trong
những yếu tố then chốt là bộ máy nhà nước vững mạnh và hiệu quả dựa

trên nền tảng:
- Kỷ cương pháp luật và kỷ cương cải cách: Kinh nghiệm thành
công của các nước NIC Đông Á hiện nay cũng như ở thời kỳ cùng trình
độ phát triển như Việt Nam hiện nay cho thấy tinh thần thượng tôn pháp
luật, thậm chí có lúc còn mang tính kỷ luật “thép” (như Hàn Quốc,
Singapore, Đài Loan…), quy định chặt chẽ tiêu chuẩn và trách nhiệm
của công chức, đánh giá đúng năng lực công chức, v.v… Kinh nghiệm
của Trung Quốc cho thấy kỷ cương cải cách rất quyết liệt, thống nhất từ
trung ương đến địa phương.
- Hệ thống đãi ngộ, khuyến khích (incentives) hiệu quả: Singapore
có được một nền kinh tế mạnh với môi trường đầu tư hấp dẫn và nền
hành chính trong sạch là do có chế độ đãi ngộ công chức khôn ngoan
và sáng suốt khi chọn vấn đề lương công chức là chìa khóa cho mọi cải
cách. Nhìn vào mô hình phát triển của Singapore, có thể thấy động lực
làm việc và sự tuân thủ luật pháp của công chức là yếu tố mấu chốt cho
một nền hành chính công để mọi chính sách và luật pháp đi vào cuộc
sống. Khi so sánh Hàn Quốc và Thái Lan ở cùng giai đoạn tiến hành
công nghiệp hóa, có nghiên cứu (Yoshihara Kunio113, 1996) cho thấy sự
chênh lệch về trả lương giữa khu vực nhà nước và tư nhân ở Hàn Quốc
không lớn như ở Thái Lan, nhờ đó Hàn Quốc xây dựng được đội ngũ
113GS

Kinh tế học phát triển, Trung tâm nghiên cứu Đông Nam Á- Đại học Kyoto.

495


công chức hiệu quả hơn Thái Lan. Rõ ràng, hệ thống đãi ngộ - khuyến
khích là động lực quan trọng nhất của cải cách, bởi nó trực tiếp giải
quyết vấn đề lợi ích, phát huy đúng mặt tích cực của thể chế kinh tế thị

trường. Ngay chính ở Việt Nam trong giai đoạn đầu đổi mới, việc giải
quyết đúng vấn đề lợi ích (như khoán 10 trong nông nghiệp) đã tạo nên
động lực mạnh mẽ cho cải cách thể chế kinh tế.
Kỷ cương và hệ thống đãi ngộ - khuyến khích chỉ phát huy hiệu
quả cao nhất khi chúng gắn liền với nhau, bổ sung và tương hỗ lẫn
nhau. Bởi kỷ cương nếu không có đãi ngộ dễ rơi vào kìm kẹp, triệt tiêu
sáng tạo và động lực cải cách; ngược lại đãi ngộ không đi đôi với kỷ
cương dễ dẫn đến lãng phí, thiếu hiệu quả và trì trệ. Vì vậy, chỉ có đột
phá trong chế độ đãi ngộ - khuyến khích đi đôi với kỷ cương, đánh giá
công chức mới tạo được chuyển biến thực chất trong cải cách thể chế
kinh tế ở nước ta.
Tài liệu tham khảo
1. Yoshihara Kunio (1996), Văn hóa, thể chế và tương trưởng kinh
tế: Nghiên cứu so sánh Hàn Quốc với Thái Lan, NXB Chính trị quốc
gia.
2. Joseph Stiglitz (1996), Some lessons from the East Asian
miracle.
3. Doughlass C. North (1998), Các thể chế, sự thay đổi và hoạt
động kinh tế, Trung tâm Nghiên cứu Bắc Mỹ.
4. Đặng Kim Sơn (2004), Ba cơ chế Thị trường, Nhà nước và
Cộngđồng, ứng dụng cho Việt Nam.
5. Chung H. Lee (2005), The Political Economy of Institutional
Reform in Korea, Journal of the Asia Pacific Economy, 8/2005.
6. Chươngtrình Châu Á - Trường Harvard Kennedy và Trường
Fulbrigh (2008), Lựa chọn thành công: Bài học từ Đông Á và Đông
Nam Á cho tương lai của Việt Nam.
496


7. Chươngtrình Châu Á - Trường Harvard Kennedy và Trường

Fulbrigh (2008), Vượt qua khủng hoảng và tiếp tục đẩy mạnh cải
cách.
8. Wolfgang Kasper, Manfred Streit, Peter Boettke (2012),
Institutional Economics: Property, Competition, Policies.
9. Huỳnh Thế Du (2013), Luận giải về kinh tế thị trường định
hướng xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam.
10.
Oxfarm (2013), Putting public health at risk, Oxfarm
Media Briefing, 4/3/2013.

497


498

PHỤ LỤC: Thời hạn hoàn tất các cam kết của Việt Nam trong WTO và các FTA



×