Tải bản đầy đủ (.docx) (77 trang)

Đánh Giá Hiện Trạng Quản Lý Môi Trường Tại Xã Mai Lâm, Huyện Tĩnh Gia, Tỉnh Thanh Hóa

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (2.75 MB, 77 trang )

MỤC LỤC

DANH MỤC VIẾT TẮT
BVMT

: Bảo vệ môi trường

BVTV

: Bảo vệ thực vật

CCN

: Cụm công nghiệp

CTNH

: Chất thải nguy hại

CTR

: Chất thải rắn

ĐBSH

: Đồng bằng sông Hồng

ĐBSCL

: Đồng bằng sông Cửu Long


KCN

: Khu công nghiệp

KT-XH

: Kinh tế-xã hội

QCVN

: Quy chuẩn Việt Nam

RTSH

: Rác thải sinh hoạt

TCTK

: Tổng cục thống kê

TCMT

: Tổng cục môi trường

UBND

: Ủy ban nhân dân

VSMT


: Vệ sinh môi trường

1


DANH MỤC BẢNG

2


DANH MỤC HÌNH

3


MỞ ĐẦU
Tính cấp thiết của đề tài
Cùng với quá trình đổi mới của đất nước, phát triển nông thôn là một
quá trình tất yếu nhằm phát triển kinh tế - xã hội và nâng cao chất lượng sống
của dân cư nông thôn. Sự phát triển này mang đến nhiều lợi ích to lớn nhưng
cũng đem lại không ít những hệ lụy đến môi trường.
Xã Mai Lâm-huyện Tĩnh Gia-tỉnh Thanh Hóa trước đây là một xã
thuần nông, người dân trong xã chủ yếu sống dựa vào nông nghiệp, điều kiện
kinh tế còn nghèo nàn, lạc hậu. Sau khi khu kinh tế Nghi Sơn - tỉnh Thanh
Hóa được thành lập năm 2006, xã Mai Lâm là một trong 12 xã thuộc khu kinh
tế, điều kiện kinh tế- xã hội dần được nâng lên. Tuy nhiên bên cạnh đó đã nảy
sinh nhiều vấn đề về môi trường. Nhiều diện tích đất canh tác dần chuyển
sang đất dành cho phát triển khu kinh tế. Các cánh đồng lúa trước đây giờ trở
thành các nhà máy, cơ sở sản xuất kinh doanh, các khu nhà ở công nhân và
thậm chí là các bãi rác tự phát. Bên cạnh những vấn đề môi trường nông thôn

như những địa phương khác như vấn đề về rác thải sinh hoạt tràn lan, rác thải
nông nghiệp không được thu gom và xử lý triệt để, vấn đề về vệ sinh nước
sạch không đảm bảo,... thì thêm vào đó xã Mai Lâm còn chịu sự ảnh hưởng
trực tiếp từ các hoạt động công nghiệp. Trên địa bàn xã đã từng xảy ra nhiều
sự kiện môi trường gây ảnh hưởng rất lớn đến đời sống của người dân và hệ
sinh thái. Song những sự kiện môi trường này vẫn chưa được giải quyết hợp
lòng dân. Vấn đề môi trường tại đây rất nghiêm trọng tuy nhiên cơ sở hạ tầng
và nguồn lực cho công tác quản lý môi trường lại chưa được đầu tư và quan
tâm đúng mức, trong bộ máy hành chính của xã chưa có cán bộ môi trường
chuyên trách mà việc giải quyết các vấn đề môi trường đều do cán bộ Địa
chính-Xây dựng- Nông nghiệp cấp xã kiêm nhiệm, dẫn đến các sự kiện môi
trường chưa được giải quyết hiệu quả. Với những vấn đề còn tồn tại như vậy,
4


nếu công tác quản lý môi trường vẫn không được quan tâm đúng mức thì môi
trường tại xã Mai Lâm sẽ ngày càng xấu hơn, ảnh hưởng đến sức khỏe, cuộc
sống của người dân và tác động xấu lên hệ sinh thái. Xuất phát từ yêu cầu
thực tiễn đó, sinh viên tiến hành thực hiện đề tài: “Đánh giá hiện trạng quản
lý môi trường tại xã Mai Lâm, huyện Tĩnh Gia, tỉnh Thanh Hóa”.
Mục đích nghiên cứu
- Tìm hiểu được hiện trạng môi trường tại xã Mai Lâm (hiện trạng rác
thải sinh hoạt, chất thải chăn nuôi và phế phụ phẩm nông nghiệp).
- Tìm hiểu được hiện trạng công tác quản lý môi trường tại xã Mai Lâm
- Đánh giá được công tác quản lý môi trường tại xã Mai Lâm.
- Đề xuất được các biện pháp nhằm nâng cao công tác quản lý môi
trường tại xã Mai Lâm.
Yêu cầu nghiên cứu
Xác định được những thuận lợi và khó khăn đối với công tác quản lý
môi trường tại xã Mai Lâm.

Đề xuất được những biện pháp nhằm quản lý môi trường hiệu quả tại
xã Mai Lâm.

Chương 1: TỔNG QUAN TÀI LIỆU

1.1.
1.1.1.

Cơ sở khoa học của đề tài
Một số khái niệm liên quan
Môi trường là tập hợp các yếu tố tự nhiên và xã hội bao quanh con

người, có ảnh hưởng tới con người và tác động qua lại với các hoạt động sống

5


của con người như: không khí, nước, đất, sinh vật, xã hội loài người v.v..
(Lưu Đức Hải, 1999).
Quản lý môi trường là sự tác động liên tục, có tổ chức và hướng đích
của chủ thể quản lý môi trường lên cá nhân hoặc cộng đồng người tiến hành
các hoạt động phát triển trong hệ thống môi trường và khách thể quản lý môi
trường, sử dụng một cách tốt nhất mọi tiềm năng và cơ hội nhằm đạt được
mục tiêu quản lý môi trường đã đề ra, phù hợp với pháp luật và thông lệ hiện
hành (Trần Thanh Lâm, 2006).
Theo Lưu Đức Hải, Nguyễn Ngọc Sinh ( 2008), Quản lý môi trường là
một hoạt động trong lĩnh vực quản lý xã hội; có tác động điều chỉnh các hoạt
động của con người dựa trên sự tiếp cận có hệ thống và các kỹ năng điều phối
thông tin, đối với các vấn đề môi trường có liên quan đến con người; xuất
phát từ quan điểm định lượng, hướng tới phát triển bền vững và sử dụng hợp

lý tài nguyên.
Công tác quản lý môi trường là nhiệm vụ của mỗi quốc gia và toàn
nhân loại, là chức năng của cơ quan quản lý nhà nước, các cơ quan sự nghiệp
liên quan, là trách nhiệm của các tổ chức kinh tế, xã hội cũng như cộng đồng
và mỗi cá nhân.
Nông thôn là phần lãnh thổ không thuộc nội thành, nội thị các thành phố,
thị xã, thị trấn được quản lý bởi cấp hành chính cơ sở là Ủy ban nhân dân xã. Đây
là vùng sinh sống của cộng đồng dân cư, trong đó cộng đồng này tham gia
vào các hoạt động kinh tế, văn hóa, xã hội và môi trường nông thôn (Báo cáo
Môi trường quốc gia 2014-Môi trường nông thôn).
1.1.2.
1.

Các nguyên tắc quản lý môi trường
Hướng tới sự phát triển bền vững

Nguyên tắc này quyết định mục đích của việc quản lý môi trường. Để giải
quyết nguyên tắc này, công tác quản lý môi trường phải tuân thủ những
nguyên tắc của việc xây dựng một xã hội bền vững. Nguyên tắc này cần được
6


thể hiện trong quá trình xây dựng và thực hiện đường lối , chủ trương, luật
pháp và chính sách nhà nước, ngành và địa phương.
Kết hợp các mục tiêu quốc tế - quốc gia - vùng lãnh thổ và cộng đồng dân cư

2.

trong việc quản lý môi trường
Môi trường không có ranh giới không gian, do vậy sự ô nhiễm hay suy

thoái thành phần môi trường ở quốc gia, vùng lãnh thổ này sẽ có ảnh hưởng
trực tiếp tới quốc gia khác và các vùng lãnh thổ khác. Để thực hiện được
nguyên tắc này, các quốc gia cần tích cực tham gia và tuân thủ các công ước,
hiệp định quốc tế về môi trường, đồng thời với việc ban hành các văn bản
quốc gia về luật pháp, tiêu chuẩn, quy định. Việc kết hợp các mục tiêu này
được thực hiện thông qua các quy định luật pháp, các chương trình hành
động, các đề tài hợp tác quốc tế và khu vực.
Quản lý môi trường xuất phát từ quan điểm tiếp cận hệ thống và cần được

3.

thực hiện bằng nhiều biện pháp và công cụ tổng hợp đa dạng và thích hợp
Các biện pháp và công cụ quản lý môi trường rất đa dạng: luật pháp,
chiến lược, quy hoạch, kế hoạch, chính sách, khoa học, kinh tế, công nghệ,
v.v.. Mỗi loại biện pháp và công cụ trên có phạm vi và hiệu quả khác nhau
trong từng trường hợp cụ thể. Ví dụ, để BVMT trong nền kinh tế thị trường,
công cụ kinh tế có hiệu quả tốt hơn. Trong khi đó, trong nền kinh tế kế hoạch
hóa thì công cụ luật pháp và chính sách có các thế mạnh riêng. Thành phần
môi trường ở các khu vực cần bảo vệ thường rất đa dạng, do vậy các biện
pháp và công cụ BVMT cần đa dạng và thích hợp với từng đối tượng.
Phòng ngừa tai biến, suy thoái môi trường cần được ưu tiên hơn việc phải xử

4.

lý phục hồi môi trường nếu để xảy ra ô nhiễm môi trường
-

Phòng ngừa là biện pháp ít tốt kém hơn xử lý, nếu để xảy ra ô nhiễm. Ví dụ:
phòng ngừa bướu cổ bằng biện pháp sử dụng muối iốt ít tốn kém hơn giải
pháp chữa bệnh bướu cổ khi nó xảy ra với dân cư.


7


-

Ngoài ra, khi chất ô nhiễm tràn ra môi trường, chúng có thể xâm nhập vào tất
cả các thành phần môi trường và lan truyền theo các chuỗi thức ăn và không
gian xung quanh. Để loại trừ khỏi các ảnh hưởng của chất ô nhiễm đối với
con người và sinh vật, cần phải có nhiều công sức và tiền của hơn so với việc
thực hiện các biện pháp phòng tránh.

5.

Người gây ô nhiễm phải trả tiền (Pulluter Pays Principle – PPP)
Đây là nguyên tắc quản lý môi trường do các nước OECD đưa ra.
Nguyên tắc được dùng làm cơ sở để xây dựng các quy định về thuế, phí, lệ
phí môi trường và các quy định xử phạt hành chính đối với các vi phạm về
quản lý môi trường. Dựa trên nguyên tắc này, các nước đưa ra các loại thuế
như thuế năng lượng, thuế cacbon, thuế SO2, ... Nguyên tắc trên cần thực hiện
phối hợp với nguyên tắc người sử dụng trả tiền, với nội dung là người nào sử
dụng các thành phần môi trường thì phải trả tiền cho việc sử dụng các tác
động tiêu cực đến môi trường do việc sử dụng đó gây ra. Phí rác thải, phí
nước thải và các loại phí khác là các ví dụ về nguyên tắc người sử dụng phải
trả tiền (Lê Văn Khoa và cộng sự, 2007).
1.1.3. Tình hình quản lý môi trường tại Việt nam
Theo nhiệm vụ và quyền hạn của mình, Chính phủ thống nhất quản lý
Nhà nước về bảo vệ môi trường trong cả nước. Bộ Tài nguyên và Môi trường
chịu trách nhiệm trước Chính phủ thực hiện chức năng quản lý Nhà nước về
bảo vệ môi trường. Các Bộ, cơ quan ngang bộ, cơ quan trực thuộc Chính phủ

theo chức năng, nhiệm vụ và quyền hạn của mình phối hợp với Bộ Tài
nguyên và Môi trường thực hiện bảo vệ môi trường trong ngành và các cơ sở
trực thuộc quản lý trực tiếp. Uỷ ban nhân dân tỉnh, thành phố trực thuộc trung
ường thực hiện chức năng quản lý Nhà nước về bảo vệ môi trường tại địa
phương. Sở Tài nguyên và Môi trường chịu trách nhiệm trước Uỷ ban nhân
dân tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương trong việc bảo vệ môi trường ở địa
phương.
8


Hệ thống cơ quan quản lý môi trường từ trung ương đến địa
phương gồm:
- Bộ Tài nguyên và Môi trường
- Tổng cục Môi trường
- Cơ quan quản lý môi trường của các Bộ
- Các Sở Tài nguyên và Môi trường các tỉnh
- Các Chi cục Bảo vệ Môi trường các tỉnh, thành phố
- Các Phòng Tài nguyên và Môi trường của các quận, huyện, thị xã

9


Chính phủ

Bộ TN và
MT

UBND
Tỉnh


Các
sở
khác

Sở
TN

MT

Chi cục
BVMT

Các
tổng
cục
thuộc
Bộ
TN

MT

Các
vụ
thuộc
Bộ
TN

MT

Các

đơn vị
sự
nghiệp

Các bộ
khác

Các
doanh
nghiệp

Vụ
KH
CN

MT

Các
vụ
khác

Phòng
TN và
MT cấp
huyện

VP
ĐK
QSD
đất


Cán bộ
MT xã,
thị trấn

Hình 1.1: Sơ đồ bộ máy tổ chức công tác quản lý môi trường ở Việt Nam
(Nguồn: Nguyễn Thị Thanh Hoài, 2014)

10
10


Nội dung của công tác quản lý nhà nước về môi trường gồm các điểm:
1. Xây dựng, ban hành theo thẩm quyền và tổ chức thực hiện các văn bản
quy phạm pháp luật về bảo vệ môi trường, ban hành hệ thống tiêu chuẩn,
quy chuẩn kỹ thuật môi trường.
2. Xây dựng, chỉ đạo thực hiện chiến lược, chính sách, chương trình, đề
án, quy hoạch, kế hoạch về bảo vệ môi trường.
3. Tổ chức, xây dựng, quản lý hệ thống quan trắc; định kỳ đánh giá hiện
trạng môi trường, dự báo diễn biến môi trường.
4. Xây dựng, thẩm định và phê duyệt quy hoạch bảo vệ môi trường; thẩm
định báo cáo đánh giá môi trường chiến lược; thẩm định, phê duyệt báo cáo
đánh giá tác động môi trường và kiểm tra, xác nhận các công trình bảo vệ môi
trường; tổ chức xác nhận kế hoạch bảo vệ môi trường.
5. Chỉ đạo, hướng dẫn và tổ chức thực hiện các hoạt động bảo tồn đa
dạng sinh học; quản lý chất thải; kiểm soát ô nhiễm; cải thiện và phục hồi môi
trường.
6. Cấp, gia hạn, thu hồi giấy phép, giấy chứng nhận về môi trường.
7. Thanh tra, kiểm tra việc chấp hành pháp luật về bảo vệ môi trường;
thanh tra trách nhiệm quảnlý nhà nước về bảo vệ môi trường; giải quyết khiếu

nại, tố cáo về bảo vệ môi trường; xử lý vi phạm pháp luật về bảo vệ môi
trường.
8. Đào tạo nhân lực khoa học và quản lý môi trường; giáo dục, tuyên
truyền, phổ biến kiến thức, pháp luật về bảo vệ môi trường.

11
11


9. Tổ chức nghiên cứu, áp dụng tiến bộ khoa học, công nghệ trong lĩnh
vực bảo vệ môi trường.
10. Chỉ đạo, hướng dẫn, kiểm tra và đánh giá việc thực hiện ngân sách
nhà nước cho các hoạt động bảo vệ môi trường.
11. Hợp tác quốc tế trong lĩnh vực bảo vệ môi trường.
(Theo Điều 139, Luật Bảo vệ Môi trường 2014)
1.2.

Thực trạng môi trường nông thôn Việt Nam
Theo thống kê, mỗi năm ở khu vực nông thôn phát sinh hàng chục triệu

tấn rác thải sinh hoạt, trong đó có khoảng 80% khối lượng rác thải, nước thải
sinh hoạt và vỏ bao bì thuốc bảo vệ thực vật, thuốc trừ sâu - loại rác thải nguy
hại chưa được thu gom xử lý hợp vệ sinh mà xả trực tiếp ra môi trường… làm
cho nguồn nước, không khí nông thôn bị ô nhiễm trầm trọng. Việc lạm dụng
phân bón hóa học, thuốc kích thích tăng trưởng, thuốc bảo vệ thực vật, thuốc
trừ sâu tùy tiện không tuân thủ quy trình kỹ thuật, không bảo đảm thời gian
cách ly; việc nuôi trồng thủy sản ồ ạt, thiếu quy hoạch, không tuân theo quy
trình kỹ thuật… chính là nguồn chất thải độc hại lớn gây nguy hại cho môi
trường. Theo đó, nhiều bệnh dịch đã lây lan nhanh chóng, gây thiệt hại lớn về
kinh tế và đe dọa nghiêm trọng đến sức khỏe nhân dân. Ngoài ra, môi trường

ở các làng nghề nông thôn nước ta hiện nay cũng đang đối mặt với nạn ô
nhiễm nghiêm trọng. Với gần 4.600 làng nghề, hoạt động sản xuất nghề nông
thôn, bên cạnh những tác động tích cực là tạo việc làm cho hơn chục triệu lao
động thì mức độ ô nhiễm và tỷ lệ người mắc bệnh ở đây có xu hướng ngày
càng tăng, tuổi thọ của người dân cũng giảm và thấp hơn 10 năm so với tuổi
thọ trung bình toàn quốc. Nhiều làng nghề chưa xử lý được vấn đề rác và
nước thải, gây mất mỹ quan và gây ô nhiễm môi trường sinh thái nông thôn.
Công tác quản lý chất thải nông thôn hiện nay tại các địa phương hầu như đều
12
12


đang trong tình trạng bị bỏ ngỏ. Thậm chí, nhiều địa phương xảy ra hiện
tượng tận dụng các ao, hồ, vùng trũng để đổ rác thải, hình thành các hố chôn
lấp rác tự phát, không bảo đảm quy trình kỹ thuật, làm ô nhiễm nguồn nước
mặt và nước ngầm. Bên cạnh đó, hiện tượng khai thác tài nguyên thiên nhiên
bừa bãi, không quy hoạch, thậm chí đến mức tận diệt đã có những tác động
tiêu cực đến môi trường, là nguyên nhân của những biến đổi bất thường của
thời tiết, gây thiệt hại lớn cho sản xuất nông nghiệp và tài sản, tính mạng của
người dân (Tạp chí cộng sản, 2016).
1.3.
1.3.1.

Một số sức ép đối với môi trường nông thôn Việt Nam
Sức ép từ hoạt động dân sinh
Song song với tốc độ phát triển kinh tế - xã hội, chất thải từ hoạt động

dân sinh ngày càng tăng, đa dạng về chủng loại và thành phần, đặc biệt là chất
thải rắn và nước thải. Ước tính, hiện nay mỗi người phát sinh khoảng
0,3kg/ngày chất thải rắn tương đương đương với 6,6 triệu tấn/năm, tập trung

chủ yếu tại các vùng đồng bằng. Nếu giả thiết, đến năm 2020, số lượng người
dân tại khu vực nông thôn không thay đổi, các phế phẩm, rác thải không thay
đổi nhưng đa dạng hơn về thành phần và chủng loại, đặc biệt là các thành
phần khó phân hủy thì áp lực lên môi trường khi không được xử lý là rất nặng
nề, ảnh hưởng rất lớn đến sức khỏe của người dân, ảnh hưởng xấu tới tất cả
các hoạt động phát triển kinh tế và đời sống cộng đồng (Báo đại đoàn
kết,2016 )
1.3.2.

Sức ép từ hoạt động trồng trọt
Mô hình nông thôn truyền thống từ nền kinh tế thuần nông đã có sự

dịch chuyển về cơ cấu. Với sự phát triển này, tỷ lệ ngành trồng trọt đã giảm
mạnh, tuy nhiên vẫn chiếm tỷ trọng lớn. Trong tổng giá trị sản lượng ngành
nông nghiệp năm 2013, lĩnh vực trồng trọt chiếm đến 71,5% (TCTK). Trong
trồng trọt, việc sử dụng ngày càng tăng thuốc BVTV và phân bón hóa học
đang ảnh hưởng không nhỏ tới môi trường. Theo kết quả nghiên cứu về hấp
13
13


thụ phân bón trong hoạt động trồng trọt, cây trồng hấp thụ trung bình khoảng
40- 50% lượng phân bón, 50-60% lượng phân bón còn lại vẫn tồn lưu trong
đất. Lượng sử dụng phân lân và phân kali trên cây lúa là khá cao, gấp trên 6
lần so với mức khuyến cáo. Dư lượng phân hóa học làm ô nhiễm nguồn nước,
gây phú dưỡng hoá, gây tác hại tới thủy sinh, nguồn lợi thủy sản và làm thoái
hóa đất. Hóa chất BVTV gây ô nhiễm môi trường thông qua nhiều con đường
khác nhau như nước thải từ kho chứa thuốc khi có sự cố đổ vỡ, nước mưa
chảy tràn qua các kho chứa đã bị xuống cấp, lượng thuốc còn dư đọng lại
trong chai bị quăng xuống ao, hồ, sông hay lượng thuốc dư thừa trong quá

trình sử dụng quá liều lượng ngấm vào đất cũng như mạch nước ngầm...
Ngoài ra, việc không tuân thủ thời gian cách ly sau khi phun thuốc, tình trạng
vứt bao bì hóa chất BVTV bừa bãi sau sử dụng diễn ra khá phổ biến. Thói
quen rửa bình bơm và dụng cụ pha chế hóa chất không đúng nơi quy định gây
ô nhiễm nước mặt, nước ngầm, ô nhiễm không khí và ảnh hưởng tiêu cực đến
hệ sinh thái. Cùng với hóa chất BVTV tồn lưu, các loại thuốc và bao bì, đồ
đựng hóa chất BVTV sử dụng trong nông nghiệp đang là nguy cơ đe dọa sức
khỏe cộng đồng và gây ô nhiễm môi trường. Vấn đề vỏ bao bì phát sinh cũng
đang là nguyên nhân gây ô nhiễm môi trường ở nhiều nơi. Mặc dù nhiều địa
phương đã thực hiện chương trình thu gom bao bì phân bón và thuốc BVTV,
nhưng vẫn không hiếm gặp những vỏ bao bì bị vứt bỏ bừa bãi trên đồng
ruộng canh tác (Báo cáo Môi trường quốc gia 2014-Môi trường nông thôn).
Bảng 1.1: Tổng hợp lượng CTR nông nghiệp phát sinh năm 2012
Chất thải
Bao bì thuốc BVTV
Bao bì phân bón
Rơm rạ

Khối lượng (tấn/năm)
10.000
102.180
76.000.000
(Nguồn TCMT, 2014)

Bên cạnh đó, việc thâm canh mùa vụ đã làm gia tăng phế phụ phẩm sau
thu hoạch (rơm, rạ, trấu, cám, lõi ngô, thân ngô...). Một phần phế phụ phẩm
14
14



được sử dụng làm chất đốt, chất độn trong chăn nuôi, trồng nấm, làm đồ thủ
công mỹ nghệ; phần khác được sử dụng cho chăn nuôi gia súc (Báo cáo Môi
trường quốc gia 2014-Môi trường nông thôn).
Sức ép từ hoạt động chăn nuôi
Hoạt động chăn nuôi đã và đang tạo nguồn thu nhập chính cho nhiều hộ
nông dân. Tuy nhiên, cùng với sự gia tăng đàn vật nuôi thì tình trạng ô nhiễm
môi trường do chất thải chăn nuôi cũng đang gia tăng. Chất thải rắn chăn nuôi
bao gồm phân và các chất độn chuồng, thức ăn thừa, xác gia súc, gia cầm
chết, chất thải lò mổ... được phân thành 3 loại: chất thải rắn (phân, thức ăn,
xác gia súc, gia cầm chết); chất thải lỏng (nước tiểu, nước rửa chuồng, nước
dùng để tắm gia súc); chất thải khí (CO 2, NH3 ,...). Trong tổng số 23.500 trang
trại chăn nuôi, mới chỉ có khoảng 1.700 cơ sở có hệ thống xử lý chất thải. Mặt
khác, các trang trại chăn nuôi chưa được đầu tư ở quy mô lớn mà đa phần
nằm xen kẽ trong các khu dân cư, có quỹ đất nhỏ, hẹp, không đủ diện tích để
xây dựng các công trình bảo vệ môi trường đảm bảo xử lý đạt tiêu chuẩn cho
phép; các trang trại này cũng không đảm bảo khoảng cách vệ sinh đến khu
dân cư. Theo ước tính, có khoảng 40 - 50% lượng CTR chăn nuôi được xử lý,
số còn lại thải trực tiếp thẳng ra ao, hồ, kênh, rạch,...
Các khí thải gây mùi hôi cũng là một trong những nguồn gây ô nhiễm
môi trường từ hoạt động chăn nuôi đáng quan tâm. Các chất khí này là sản
phẩm của quá trình phân giải kỵ khí các hợp chất hữu cơ có nguồn gốc từ
protein, lipid và carbonhydrat.
1.3.3. Sức ép từ các hoạt động phát triển công nghiệp
Theo Bộ Tài nguyên và Môi trường, môi trường nông thôn quanh các
CCN hiện đang chịu nhiều sức ép. Cụ thể, công tác quy hoạch và phát triển cơ
sở hạ tầng cho hoạt động sản xuất công nghiệp không được đầu tư kịp thời
với quá trình phát triển công nghiệp. Nhiều cơ sở sản xuất có khả năng gây ô
nhiễm môi trường trước đây nằm ở vị trí xa các khu dân cư, nhưng nay đã
15
15



nằm xen kẽ và rất gần khu dân cư nông thôn. Việc xử lý rác thải, nước thải,
khí thải tại các CCN cũng chưa được thực hiện theo quy định, đặc biệt là các
CCN ở các tỉnh vùng sâu, vùng xa. Nhiều CCN chưa rõ đầu mối quản lý nên
công tác quản lý, giám sát nguồn thải, đôn đốc thu gom, vận chuyển, xử lý
chất thải rắn tại nhiều khu vực còn nhiều bất cập. Đây là nguồn gây ô nhiễm
chủ yếu, gây sức ép lên môi trường nông thôn.
Cùng với đó, hoạt động sản xuất công nghiệp địa phương như sản xuất
gạch ngói cũng là nguyên nhân gây ô nhiễm môi trường nông thôn. Khí thải
phát sinh từ các lò gạch thải ra môi trường rất nhiều loại khí độc hại, trong đó
khí SO2 có ảnh hưởng rất xấu tới sức khỏe người dân, môi trường và sản xuất
hoa màu xung quanh. Các chất thải rắn như: tro, gạch ngói vụn,... phát tán ra
môi trường trong quá trình vận chuyển cũng gây ô nhiễm môi trường.
Hoạt động phát triển khu công nghiệp mặc dù không nằm trong khu vực
nông thôn, tuy nhiên đã lấy đi nhiều diện tích đất canh tác nông nghiệp. Nhiều
nơi, diện tích đất nông nghiệp có năng suất cao bị chuyển mục đích sử dụng đã
góp phần làm suy giảm chất lượng đất nông nghiệp ở nông thôn. Bên cạnh đó
là kết cấu hạ tầng như đường xá, cống rãnh thoát nước không đáp ứng yêu cầu
phát triển sản xuất, không có đủ diện tích dành cho các công trình xử lý ô
nhiễm và các khu tập kết chất thải (Báo điện tử Đảng cộng sản việt Nam,
2016)
1.4. Vấn đề nước sạch và vệ sinh môi trường nông thôn
Hiện nay mức độ ô nhiễm và khan hiếm nguồn nước ở khu vực nông
thôn của nước ta đang trong tình trạng báo động. Những hệ lụy về thiếu nước
sạch đã ảnh hưởng trực tiếp đến đời sống người dân, tác động xấu đến phát
triển kinh tế - xã hội ở khu vực này. Theo thống kê của Viện Y học lao động
và Vệ sinh môi trường, hiện có khoảng 17,2 triệu người Việt Nam, tương
đương 21,5% dân số đang phải sử dụng nguồn nước sinh hoạt từ giếng khoan
chưa được kiểm nghiệm hay qua xử lý. Do đó bình quân mỗi năm có tới

16
16


9.000 người tử vong vì nguồn nước và điều kiện vệ sinh kém. Đồng thời hàng
năm cũng có tới gần 200.000 người mắc bệnh ung thư mới phát hiện, mà một
trong những nguyên nhân chính bắt nguồn từ ô nhiễm môi trường nước. Mặt
khác, so với chỉ tiêu 4.000m3/người/năm của Hội Tài nguyên nước quốc tế
(IWRA), lượng nước mặt bình quân đầu người mỗi năm của Việt Nam chỉ đạt
3.840m3.
Đánh giá của Tổng cục Môi trường nêu rõ, có 30% người dân chưa
nhận thức được tầm quan trọng của nguồn nước sạch, ý thức bảo vệ nguồn tài
nguyên nước của người dân cũng chưa cao. Mỗi ngày cả nước khai thác hàng
triệu m3 nước ngầm cung cấp cho hơn 300 nhà máy nước chuyển thành nước
sinh hoạt. Nhưng điều đáng lo ngại là nguồn nước ngầm đang đối mặt với vấn
đề ô nhiễm, từ việc bị xâm nhập mặn trên diện rộng đến ô nhiễm vi sinh, ô
nhiễm kim loại nặng nghiêm trọng do việc khai thác tràn lan, thiếu quy hoạch
và không có kế hoạch bảo vệ nguồn nước. Ngoài ra tại khu vực Đồng bằng
sông Hồng, Đồng bằng sông Cửu Long nguồn nước bị nhiễm asen rất lớn và
khá phố biến, nhưng 21% dân số trong tại những nơi này vẫn phải sử dụng
nguồn nước nhiễm chất này. Theo báo cáo của của các Bộ, ngành, địa phương
và đoàn thể tham gia thực hiện Chương trình mục tiêu quốc gia về nước sạch
và vệ sinh môi trường nông thôn, đến hết năm 2011 số dân ở nông thôn được
sử dụng nước hợp vệ sinh đạt khoản 78%, trong đó số dân được sử dụng nước
sinh hoạt QCVN 02/2009/BYT chỉ đạt 37%. Khoảng 78% số hộ có nhà tiêu
và 52% trong số đó đạt tiêu chuẩn hợp vệ sinh; tỷ lệ hộ chăn nuôi có chuồng
trại hợp vệ sinh đạt 39%... Như vậy, mặc dù đã có nhiều cố gắng thực hiện
Chương trình nước sạch và vệ sinh môi trường, nhưng số hộ ở nông thôn chưa
được sử dụng nước sạch đạt chất lượng vẫn còn thấp, vấn đề vệ sinh môi
trường vẫn còn rất nhiều nan giải (Vụ khoa học công nghệ và môi

trường,2016).

17
17


1.5.

Thực trạng quản lý môi trường nông thôn ở Việt Nam và những khó
khăn, tồn tại
Ô nhiễm môi trường nông thôn đã và đang trở thành vấn đề cấp bách.
Nhận thức được vấn đề đó, công tác BVMT nông thôn đã được chú trọng nhiều
hơn. Tuy nhiên, quản lý môi trường nông thôn vẫn còn có nhiều tồn tại, bất cập
chưa được giải quyết ở các mức độ và cấp độ khác nhau. Đây chính là một trong
những nguyên nhân quan trọng khiến cho vấn đề ô nhiễm môi trường tại nhiều
vùng nông thôn chưa được cải thiện, thậm chí có xu hướng xấu hơn.
1.5.1. Các chính sách và văn bản quy phạm pháp luật.
1.5.1.1. Các chính sách và văn bản quy phạm pháp luật tạo hành lang pháp
lý cho công tác BVMT nông thôn
Trong những năm qua, vấn đề quản lý và BVMT nông thôn đã nhận
được sự quan tâm của Đảng và Nhà nước. Các nội dung về quản lý môi
trường nông thôn được điều chỉnh bằng nhiều văn bản quy phạm pháp luật,
thông qua việc lồng ghép vào các văn bản quản lý môi trường nói chung hoặc
lồng ghép vào các văn bản quản lý sản xuất chuyên ngành. Theo đó, Luật Bảo
vệ môi trường; Chiến lược BVMT quốc gia đến năm 2010 và định hướng đến
năm 2020; Chiến lược BVMT quốc gia đến năm 2020, tầm nhìn đến năm
2030; Chương trình mục tiêu quốc gia về xây dựng nông thôn mới giai đoạn
2010 - 2020... đều có các quy định liên quan đến quản lý và BVMT nông
thôn. Luật Bảo vệ môi trường năm 2005 đã đưa ra các điều khoản quy định
việc BVMT trong sản xuất nông nghiệp, làng nghề, nuôi trồng thủy sản, hóa

chất, thuốc BVTV, thuốc thú y; quy định về BVMT khu dân cư, hộ gia đình
hay tổ chức tự quản về BVMT. Luật Bảo vệ môi trường năm 2014 đã bổ sung
sửa đổi các điều khoản này, chi tiết, phù hợp hơn với điều kiện thực tiễn.
Chiến lược BVMT quốc gia đến năm 2010 và định hướng đến năm 2020 đã
đưa ra mục tiêu giải quyết cơ bản tình trạng suy thoái môi trường tại một số
vùng nông thôn; cấp nước sạch cho dân cư khu vực nông thôn; xây dựng
18
18


Chương trình xây dựng và phổ biến nhân rộng các mô hình làng kinh tế sinh
thái. Tiếp theo đó, Chiến lược BVMT quốc gia đến năm 2020, tầm nhìn đến
năm 2030 cũng có nhóm nội dung, biện pháp hướng tới mục tiêu giải quyết
cơ bản các vấn đề môi trường tại các làng nghề và vấn đề VSMT nông thôn.
Đến nay, các chương trình, dự án nhằm thực hiện các mục tiêu đặt ra cũng đã
và đang được triển khai thực hiện theo đúng lộ trình (Báo cáo Môi trường
quốc gia 2014-Môi trường nông thôn).
Chương trình mục tiêu quốc gia về xây dựng nông thôn mới giai đoạn
2010 - 2020 đã đưa ra các nội dung về tiếp tục thực hiện chương trình mục
tiêu quốc gia về nước sạch và VSMT nông thôn; xây dựng các công trình
BVMT nông thôn trên địa bàn xã, thôn theo quy hoạch (xây dựng, cải tạo
nâng cấp hệ thống tiêu thoát nước trong thôn, xóm; xây dựng các điểm thu
gom, xử lý rác thải ở các xã; chỉnh trang, cải tạo nghĩa trang; cải tạo, xây
dựng các ao, hồ sinh thái trong khu dân cư, phát triển cây xanh ở các công
trình công cộng...). Theo kết quả đánh giá của Bộ NN&PTNT đến cuối năm
2014, 97,2% số xã đã được phê duyệt quy hoạch nông thôn mới. Việc triển
khai các tiêu chí về nông thôn mới, trong đó có bộ tiêu chí về môi trường
cũng đã được triển khai và thu được những kết quả nhất định (Báo cáo Môi
trường quốc gia 2014-Môi trường nông thôn).
Chương trình mục tiêu quốc gia khắc phục ô nhiễm và cải thiện môi

trường giai đoạn 2012 - 2015 cũng đã đặt mục tiêu khắc phục ô nhiễm và cải
thiện môi trường đối với 47 làng nghề đang bị ô nhiễm môi trường đặc biệt
nghiêm trọng. Hiện nay, nhiều địa phương đã xây dựng và phê duyệt dự án để
triển khai thực hiện. Bên cạnh các văn bản, chính sách về môi trường, trong
các chính sách, văn bản, chương trình quy định về phát triển ngành nghề nông
thôn như Luật Thủy sản 2003, Luật Bảo vệ và kiểm dịch thực vật 2013, Pháp

19
19


lệnh Giống vật nuôi 2004, Pháp lệnh Thú y 2004,… cũng có các nội dung quy
định về BVMT (Báo cáo Môi trường quốc gia 2014-Môi trường nông thôn).
Để triển khai các chính sách, Luật, Pháp lệnh, rất nhiều các văn bản
dưới luật cũng đã được xây dựng với các nội dung quy định về quản lý chất
thải nông nghiệp bao gồm: kiểm soát ô nhiễm từ hoạt động trồng trọt, chăn
nuôi, nuôi trồng thủy sản, giết mổ, hoạt động chế biến nông lâm thủy sản, các
cơ sở sản xuất kinh doanh dịch vụ tại khu vực nông thôn hay quy định việc
kiểm soát ô nhiễm, quản lý chất thải làng nghề,… Cùng với đó, các quy chuẩn
kỹ thuật quốc gia cho các lĩnh vực thú y, vệ sinh an toàn thực phẩm, bảo vệ và
kiểm dịch thực vật, quy định về ngưỡng chất thải nguy hại (trong đó bao gồm
chất thải nguy hại từ hoạt động sản xuất nông nghiệp, làng nghề,…) cũng đã
được ban hành.
Ở cấp địa phương cũng đã chú ý đến việc ban hành các văn bản liên quan
nhằm cụ thể hóa các đường lối, chính sách của Đảng và Chính phủ ở địa
phương mình. Một số địa phương đã xây dựng Đề án bảo vệ và cải thiện môi
trường nông thôn. Căn cứ theo tình hình thực tế và định hướng phát triển
nông thôn của từng địa phương, các mục tiêu và chương trình, dự án ưu tiên
được xây dựng. Đối với các hoạt động phát triển nông nghiệp nông thôn, các
địa phương cũng đã xây dựng các văn bản hướng dẫn, yêu cầu triển khai thực

hiện an toàn vệ sinh thực phẩm, kiểm dịch trong hoạt động nuôi trồng thủy
sản, chăn nuôi, giết mổ gia súc gia cầm, vấn đề sử dụng thuốc, hóa chất
BVTV,… Một nội dung cũng đã và đang được hầu hết các địa phương tổ
chức triển khai thực hiện theo đúng lộ trình của Chương trình mục tiêu quốc
gia đó là việc triển khai nhóm tiêu chí về môi trường trong Chương trình nông
thôn mới cho các xã trên địa bàn các tỉnh, thành phố.
1.5.1.2. Những tồn tại và thách thức
Hệ thống chính sách, văn bản về quản lý và BVMT nông nghiệp, nông
thôn đã được ban hành, nhưng vẫn còn một số hạn chế, bất cập khiến cho
20
20


công tác quản lý cũng như triển khai thực hiện BVMT nông thôn gặp nhiều
khó khăn. Chưa đầy đủ và thiếu tính đồng bộ. Trong những năm qua, Luật
Bảo vệ môi trường là văn bản quy phạm pháp luật cao nhất trong lĩnh vực
môi trường. Luật BVMT năm 2014 có những điều khoản riêng (Điều 69, 70)
về BVMT nông thôn và một số điều khoản khác liên quan trực tiếp hoặc gián
tiếp (Điều 71, 78, 80, 82, 83).
Tuy nhiên, cho đến nay, vẫn chưa có một văn bản chuyên biệt quy định
một cách hệ thống vấn đề quản lý và BVMT nông thôn, các quy định còn nằm
phân tán ở nhiều lĩnh vực, thiếu tính gắn kết, nhiều nội dung còn bị bỏ ngỏ.
Trong các văn bản dưới luật cũng vẫn còn thiếu các nội dung hướng dẫn thi
hành đối với vấn đề BVMT nông thôn.
Theo quy định của Luật Bảo vệ môi trường 2005, tiêu chuẩn môi trường
đối với chất thải, đặc biệt là nước thải và khí thải chỉ áp dụng với các cơ sở sản
xuất, kinh doanh với quy mô lớn mà không phù hợp với các cơ sở sản xuất,
kinh doanh với quy mô nhỏ và quy mô hộ gia đình trong các làng nghề hoặc
nằm xen kẽ trong khu dân cư. Chính vì vậy, việc thanh tra, kiểm tra cũng như
xác định mức độ ô nhiễm đối với các đối tượng này hầu như chưa thể triển

khai. Vấn đề này vẫn tiếp tục tồn tại trong quy định của Luật BVMT 2014. Cho
đến nay, vẫn còn thiếu các quy định về việc quản lý, xử lý chất thải (nước thải,
chất thải rắn…) đối với khu vực nông thôn; trách nhiệm và phân cấp trong
quản lý môi trường nông thôn; vấn đề thu phí và lệ phí trong quản lý chất thải
nông nghiệp, làng nghề; thiếu các tiêu chuẩn, quy chuẩn về môi trường áp dụng
cho khu vực nông thôn... Một số quy định pháp luật có liên quan đến BVMT
khu vực nông thôn không thể áp dụng trong thực tế hoặc áp dụng không hiệu
quả. Điển hình như nội dung về quản lý CTR, Nghị định số 59/2007/ NĐ-CP
về quản lý chất thải rắn áp dụng cho cả khu vực đô thị và nông thôn với mục
tiêu phân loại CTR tại nguồn. Tuy nhiên, cho đến nay, việc phân loại CTR tại
nguồn mới chỉ thực hiện được thí điểm ở một số khu vực đô thị lớn. Một minh
21
21


chứng khác là quy định về phí BVMT đối với CTR, trong thực tế, đến nay vẫn
chưa triển khai được, đặc biệt là trên địa bàn nông thôn. Một số các tiêu chuẩn,
quy chuẩn được xây dựng nhưng chưa xem xét đầy đủ tình hình thực tế, dẫn
đến khi ban hành, tính khả thi không cao, gây khó khó khăn trong quá trình
triển khai áp dụng. Một minh chứng điển hình là việc chọn bãi chôn lấp xử lý
chất thải rắn khu vực nông thôn, được áp dụng theo quy chuẩn kỹ thuật quốc
gia QCVN 14:2009/BXD về quy hoạch xây dựng nông thôn. Đây là một quy
chuẩn hướng dẫn khá chi tiết, tuy nhiên, một số chỉ tiêu về bãi rác, nước thải
sinh hoạt là chưa thể áp dụng thực hiện trong điều kiện hạ tầng nông thôn hiện
nay (Báo cáo Môi trường quốc gia 2014-Môi trường nông thôn).
1.5.2. Hệ thống tổ chức quản lý và phân công trách nhiệm
1.5.2.1. Hệ thống tổ chức quản lý và phân công trách nhiệm
Công tác quản lý và phát triển nông nghiệp, nông thôn đã nhận được sự
quan tâm, chỉ đạo sát sao của Đảng thông qua Nghị quyết Tam nông. Theo
đó, những nhiệm vụ quan trọng đã được đặt ra bao gồm củng cố và nâng cao

năng lực bộ máy quản lý nông nghiệp từ Trung ương đến địa phương, nhất là
cấp huyện, xã và các lĩnh vực khác ở nông thôn; tăng cường đào tạo, nâng cao
trình độ đội ngũ cán bộ, công chức xã; tiếp tục đổi mới, nâng cao chất lượng
hoạt động của Mặt trận Tổ quốc và các đoàn thể chính trị - xã hội ở nông
thôn… Cũng từ giai đoạn trước đó, hệ thống tổ chức quản lý nhà nước về
BVMT nông thôn đã được hình thành và dần đi vào hoạt động ổn định theo
chức năng, nhiệm vụ được phân công. Ở cấp Trung ương, Bộ TN&MT được
giao trách nhiệm quản lý thống nhất về môi trường, quản lý môi trường làng
nghề; Bộ NN&PTNT được giao trách nhiệm quản lý các ngành nghề nông
thôn, trong đó có thành lập các đơn vị chuyên trách về môi trường. Ngoài ra,
một số Bộ/ngành khác cũng được phân công trách nhiệm quản lý một số hoạt
động có liên quan như Bộ Xây dựng có trách nhiệm quản lý hoạt động cấp
nước, thoát nước, xử lý CTR và nước thải tại làng nghề và khu dân cư nông
22
22


thôn tập trung; Bộ Công thương có trách nhiệm quản lý hoạt động của các
CCN; Bộ Y tế có trách nhiệm quản lý vấn đề an toàn vệ sinh thực phẩm và xử
lý chất thải từ các cơ sở y tế... Nghị quyết số 26-NQ/TW ngày 05/8/2008 của
Ban chấp hành Trung ương khóa X về nông nghiệp, nông dân, nông thôn. Ở
cấp địa phương, Sở TN&MT là đơn vị được giao trách nhiệm quản lý môi
trường của địa phương, trong đó bao gồm trách nhiệm quản lý hoạt động
BVMT của khu vực nông thôn; Sở NN&PTNT chịu trách nhiệm tổ chức triển
khai các hoạt động phát triển nông nghiệp, nông thôn của địa phương, trách
nhiệm này còn được quy định phân cấp quản lý đến cấp huyện, xã. (Báo cáo
Môi trường quốc gia 2014-Môi trường nông thôn).
1.5.2.2. Một số khó khăn, tồn tại
Công tác quản lý môi trường nông thôn còn đan xen, thiếu đơn vị đầu
mối quản lý, nhiều mảng còn bỏ ngỏ. Trong những năm qua, ngay từ cấp

Trung ương, công tác quản lý môi trường nông thôn chưa có đơn vị đầu mối
quản lý. Mặc dù, theo chức năng nhiệm vụ được giao, Bộ TN&MT là đơn vị
đầu mối quản lý môi trường nói chung nhưng ngay trong quy định về chức
năng nhiệm vụ cũng chưa nêu rõ trách nhiệm về quản lý môi trường nông
thôn. Bộ NN&PTNT và một số bộ ngành khác được phân công trách nhiệm
quản lý môi trường ngành, lĩnh vực mình quản lý. Theo đó, đối với từng lĩnh
vực cụ thể mà công tác quản lý còn có sự đan xen, có những nội dung chồng
chéo nhưng cũng có những nội dung còn đang bỏ ngỏ. Công tác quản lý CTR
ở vùng nông thôn còn chồng chéo và chưa nhận được sự quan tâm đầu tư
thích đáng. Theo phân công trách nhiệm, Bộ Xây dựng được giao thống nhất
quản lý nhà nước về CTR, tuy nhiên, CTR từ hoạt động nông nghiệp lại được
giao cho Bộ NN&PTNT quản lý, chất thải nguy hại (trong đó có chất thải
nguy hại từ hoạt động sản xuất nông nghiệp và làng nghề) do Bộ TN&MT
quản lý. Chính sự đan xen trong phân công trách nhiệm quản lý CTR khiến
cho công tác quản lý hiếu sự thống nhất, không rõ trách nhiệm của đơn vị đầu
23
23


mối. Chưa kể đến, đối với công tác quản lý CTR sinh hoạt nông thôn, gần như
đang bị bỏ ngỏ.
Đối với công tác quản lý nước sạch và VSMT nông thôn: Luật Tài
nguyên nước 2012 giao Bộ TN&MT quản lý tài nguyên nước trên phạm vi cả
nước (Điều 70). Tuy nhiên, việc đầu tư cơ sở hạ tầng và cung cấp nước sạch
tại khu vực đô thị lại được giao cho Bộ Xây dựng chịu trách nhiệm quản lý.
Riêng khu vực nông thôn, các cơ sở hạ tầng cấp nước (bao gồm nước sạch)
được giao cho Bộ NN&PTNT xây dựng và quản lý. Vệ sinh môi trường nông
thôn là khái niệm rất rộng, tuy nhiên ở nước ta, VSMT nông thôn thường
được hiểu là chuồng trại và nhà tiêu hợp vệ sinh. Việc phân công kiểm tra nhà
tiêu hợp vệ sinh thuộc Bộ Y tế, việc xây dựng nhà tiêu và vệ sinh chuồng trại

chăn nuôi lại do Bộ NN&PTNT quản lý. Đối với công tác quản lý hóa chất,
thuốc BVTV: việc sử dụng, thu gom, lưu giữ thuốc BVTV thuộc trách nhiệm
của Bộ NN&PTNT. Tuy nhiên, việc xử lý, tiêu hủy các bao bì thuốc BVTV,
xử lý các kho hóa chất, thuốc BVTV tồn lưu lại thuộc trách nhiệm Bộ
TN&MT theo quy định về quản lý CTNH. Đối với công tác quản lý môi
trường trong sản xuất nông nghiệp: việc quản lý môi trường trong hoạt động
sản xuất nông nghiệp được giao các Tổng cục và Cục quản lý chuyên ngành
thuộc Bộ NN&PTNT quản lý. Theo đó, Tổng cục Thủy lợi phụ trách môi
trường nước trong hệ thống công trình thủy lợi, cấp nước sạch; Tổng cục
Thủy sản phụ trách môi trường trong hoạt động sản xuất thủy sản (khai thác,
chế biến, đóng tàu cá) và bảo tồn nguồn lợi thủy sản; Tổng cục Lâm nghiệp
phụ trách các khu bảo tồn, các vườn quốc gia, bảo tồn ĐDSH; Cục Trồng trọt
phụ trách việc sử dụng phân bón, kiểm soát sinh vật ngoại lai, sinh vật biến
đổi gen làm giống cây trồng; Cục Bảo vệ thực vật quản lý việc sử dụng hóa
chất phòng, trị bệnh cây trồng… Ở cấp địa phương, các Sở NN&PTNT cũng
được giao chủ trì thực hiện công tác BVMT trong nông nghiệp, nông thôn cấp
tỉnh, cấp xã về nông nghiệp và phát triển nông thôn. Tuy nhiên, hiện nay, ở
24
24


hầu hết các địa phương, Sở NN&PTNT chưa có bộ phận chuyên trách về
quản lý môi trường trong lĩnh vực nông nghiệp, nông thôn nên đơn vị này chỉ
tham gia phối hợp với Sở TN&MT trong các vấn đề liên quan đến quản lý
môi trường nông thôn. Đây cũng là vấn đề bất cập khi không có những quy
định thống nhất về hệ thống tổ chức quản lý môi trường nông thôn. Trách
nhiệm, năng lực của đơn vị quản lý và thực thi chưa cao. Việc phân công
trách nhiệm đã được quy định tại các văn bản quy phạm pháp luật. Tuy nhiên,
việc triển khai thực thi theo trách nhiệm của từng ngành, từng cấp còn nhiều
tồn tại. Hiện nay, công tác quản lý môi trường bị lồng ghép vào các chức năng

quản lý ngành sẽ không tránh khỏi nhiệm vụ BVMT bị đưa xuống hàng thứ
yếu so với mục tiêu hoàn thành các chỉ tiêu phát triển KT-XH. Tuy nhiên, mô
hình này không còn phù hợp với định hướng phát triển bền vững đất nước của
Đảng và Nhà nước ta trong giai đoạn công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước.
Ở cấp địa phương, công tác BVMT ở nhiều vùng nông thôn chưa tốt,
môi trường vẫn đang bị ô nhiễm bởi nước thải, chất thải sinh hoạt không được
thu gom, xử lý. Điều này cho thấy, trách nhiệm của các đơn vị quản lý và hiệu
quả thực thi các quy định trong các văn bản quy phạm pháp luật chưa cao.
Đặc biệt là trách nhiệm của đơn vị quản lý trực tiếp ở khu vực nông thôn là
các UBND cấp xã. Một trong những nguyên nhân quan trọng là do những khó
khăn về chỉ đạo, điều hành từ cấp cao hơn, về kinh phí, về quỹ đất để quy
hoạch các công trình BVMT, về nhân lực để thực hiện khâu tổ chức, kiểm tra,
giám sát... hầu như còn thiếu và yếu. Vấn đề nhân lực và năng lực quản lý,
thực thi của các đơn vị, đặc biệt ở cấp địa phương vẫn tiếp tục là vấn đề tồn
tại từ nhiều năm nay. Với số lượng cán bộ hạn chế ở các đơn vị quản lý, ở cấp
xã, cán bộ môi trường hầu hết là kiêm nhiệm, chưa được quan tâm trong đào
tạo, nâng cao kỹ năng chuyên môn nên khó phát huy được hiệu quả công tác.

25
25


×