Tải bản đầy đủ (.docx) (123 trang)

Luận văn địa vị pháp lý của nhà đầu tư nước ngoài trong lĩnh vực chứng khoán theo pháp luật việt nam và pháp luật nước ngoài

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.28 MB, 123 trang )

I HC QUC GIA H NI
KHOA LUT

HONG TH CM ANH

địa vị pháp lý của nhà đầu t- n-ớc ngoài
Trong lĩnh vực chứng khoán theo pháp luật việt nam
và pháp luật n-ớc ngoài

LUN VN THC S LUT
HC

H NI - 2015


I HC QUC GIA H NI
KHOA LUT

HONG TH CM ANH

địa vị pháp lý của nhà đầu t- n-ớc ngoài
Trong lĩnh vực chứng khoán theo pháp luật việt nam
và pháp luật n-ớc ngoài
Chuyờn ngnh: Lut Quc t
Mó s: 60 38 01 08

LUN VN THC S LUT
HC

Cỏn b hng dn khoa hc: TS. Lấ VN BNH


H NI - 2015


LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan Luận văn là công trình nghiên cứu của riêng
tôi. Các kết quả nêu trong Luận văn chưa được công bố trong bất kỳ công
trình nào khác. Các số liệu, ví dụ và trích dẫn trong Luận văn đảm bảo tính
chính xác, tin cậy và trung thực. Tôi đã hoàn thành tất cả các môn học và
đã thanh toán tất cả các nghĩa vụ tài chính theo quy định của Khoa Luật
Đại học Quốc gia Hà Nội.
Vậy tôi viết Lời cam đoan này đề nghị Khoa Luật xem xét để tôi có
thể bảo vệ Luận văn.
Tôi xin chân thành cảm ơn!
NGƯỜI CAM ĐOAN

HOÀNG THỊ CẨM ANH


MỤC
LỤC
Trang phụ bìa
Lời cam đoan
Mục lục
Danh mục các chữ viết tắt
Danh mục các bảng, biểu đồ

Trang
MỞ
ĐẦU
..........

..........
..........
..........
..........
..........
..........
..........
..........
..........
..........
......1
C
h
ư
ơ
n
g
1
:
T

N
G
Q
U
A
N
V



Ề ĐỊA VỊ PHÁP LÝ

K

CỦA NHÀ ĐẦU TƯ

Chươ
ng 2:
PHÁP
LUẬT
VỀ
ĐỊA
VỊ
PHÁP

CỦA
NHÀ
ĐẦU


NƯỚC NGOÀI
TRÊN THỊ TRƯỜNG
CHỨNG
KHOÁN ....................8
1
.
1
.

.2.2.


đ c ....
n
C ......
t
Q ......
k ......
Đ
t ......
......
......
......
......
......


......

1

ỚC NGOÀI

......

.

TRONG

...6


1

LĨNH VỰC

7

.

CHỨNG

1

KHOÁN ....

.

.................1

1

9

.
1

2 Theo
2
Pháp luật

.


2

Việt Nam

2

................

.

................

1
.
2
.

2

................
................

2 .........19
2 Các

1

quy


.

định

2

của

.

pháp

1

luật

.

hiện

1

hành



Chương 3: THỰC TIỄN VÀ CÁC GIẢI PHÁP HOÀN THIỆN PHÁP
LUẬT VỀ ĐỊA VỊ PHÁP LÝ CỦA NHÀ ĐẦU TƯ NƯỚC NGOÀI
TRONG LĨNH VỰC CHỨNG KHOÁN TẠI VIỆT NAM .......................85
3.1.


Thực tiễn về vấn đề địa vị pháp lý của nhà đầu tư nước ngoài
trong lĩnh vực chứng khoán tại Việt Nam...............................................85

3.2.

Đề xuất các giải pháp nhằm hoàn thiện pháp luật về vấn đề địa vị
pháp lý của nhà đầu tư nước ngoài trong lĩnh vực chứng khoán
tại Việt Nam ...............................................................................................96

3.2.1.

Các giải pháp thu hút nhà đầu tư nước ngoài tham gia vào thị trường
chứng khoán Việt Nam................................................................................99

3.2.2.

Các giải pháp cụ thể nhằm hoàn thiện pháp luật Việt Nam về vấn đề
địa vị pháp lý của nhà đầu tư nước ngoài trong lĩnh vực chứng khoán ....101

KẾT LUẬN ............................................................................................................109
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO.............................................................111


DANH MỤC CÁC CHỮ VIẾT TẮT
HNX

Sở giao dịch chứng khoán Hà Nội

HOSE


Sở giao dịch chứng khoán thành phố Hồ Chí Minh

NĐTNN

Nhà đầu tư nước ngoài

SGDCK

Sở giao dịch chứng khoán Thị

TTCK

trường chứng khoán

TTLKCK

Trung tâm lưu ký chứng khoán Việt Nam

UBCKNN

Ủy ban chứng khoán Nhà nước


DANH MỤC CÁC BẢNG, ĐỒ THỊ

Số hiệu
bảng/biểu đồ

Tên bảng/biểu đồ


Trang
B

á



n

n

h

g

g
i

3

á

.

k

1

h


:



B

n



ă

n

n

g

g

t

t



i

n


ế

g

p

h

c





p

n

k

t

ế

h

t




q

t

u

rườ



ng

đ

của


V
i

t
N
a
m

Bản
g 3.2:
Cổ
phiếu

có tỷ lệ
sở hữu
nước
ngoài
khoảng
49%
tính
đến
n
g
à
y
6
/
1
/
2
0
1

tính đến

4

n
B

n
g
3

.
3
:
C

p
hi
ế
u
c
ó
tỷ
lệ
s

h

u
n
ư

c
n
g
o
ài
k
h
o


n
g
3
0
4
9
%

g

8
6

à
y
6

9
2

/
1
/

9
3

2
0
1

4

Biểu đồ 3.1: Biểu đồ về tình
hình cấp mã số giao dịch cho
NĐTNN

8
6


MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài nghiên cứu
Quá trình hình thành và phát triển của thị trường chứng khoán thế giới đã trải
qua nhiều thời kỳ thăng trầm. Đến nay, thị trường chứng khoán của các quốc gia đang
phát triển mạnh mẽ cả về số lượng và chất lượng, theo đó số lượng lên đến hơn 160 sở
giao dịch, chất lượng hoạt động của thị trường ngày càng đáp ứng cho số đông những
nhà đầu tư trong và ngoài nước.
Có thể thấy, thị trường chứng khoán là bộ phận cấu thành không thể thiếu của
nền kinh tế, đó là bức tranh phản ánh sâu sắc và rõ ràng sự phát triển nền kinh tế của
quốc gia. Trong việc đánh giá tầm quan trọng của các yếu tố ảnh hưởng đến sự phát triển
của thị trường chứng khoán thì yếu tố đầu tiên phải kể đến là môi trường pháp lý, thứ
hai là hàng hoá trên thị trường và thứ ba là tình hình chính trị, sự hiểu biết của công
chúng về thị trường chứng khoán. Bởi vậy, thị trường chứng khoán không thể vận hành
và phát triển mạnh nếu không có một khuôn khổ pháp lý cần thiết cho tổ chức và hoạt
động của thị trường.
Tại thị trường chứng khoán của mỗi quốc gia đều có sự tham gia của một chủ
thể quan trọng có tác động rõ rệt đến thị trường - đó là Nhà đầu tư nước ngoài. Các quốc
gia trên thế giới đều có những chính sách ưu đãi và khuôn khổ pháp lý để bảo vệ quyền lợi
của nhóm chủ thể này nhằm thu hút vốn đầu tư.
Dựa trên kinh nghiệm quốc tế, tại Việt Nam, gần đây vấn đề mở rộng đầu tư của

nhà đầu tư nước ngoài vào thị trường chứng khoán đang ngày được chú trọng và trở
thành một trong những vấn đề tâm điểm được công chúng chào đón. Theo ông Vũ Bằng
- chủ tịch Ủy ban Chứng khoán Nhà nước, Việt Nam đang thể hiện quyết tâm nâng hạng
TTCK từ thị trường cận biên hiện nay lên mức thị trường mới nổi sẽ tăng sức hấp dẫn với
các nhà đầu tư quốc tế. Đặc biệt, Chính phủ vừa ban hành Nghị định 60/2015/NĐ-CP
sửa đổi, bổ sung một số điều của Nghị định số 58/2012/NĐ-CP quy định chi tiết và
hướng dẫn thi hành một số điều của Luật chứng khoán và Luật sửa đổi, bổ sung một số
điều của Luật chứng khoán có hiệu

1


lực vào ngày 01/9/2015, trong đó có nội dung quan trọng là tăng tỷ lệ sở hữu của
NĐTNN lên đến 100%.
Đây là một tín hiệu rất đáng mừng vì việc tăng độ mở của TTCK thông qua việc
tăng tỷ lệ sở hữu của NĐTNN là biện pháp tăng cường các hoạt động đầu tư nước ngoài
vào TTCK Việt Nam, cũng như là động lực quan trọng để đẩy nhanh lộ trình nâng hạng
thị trường.
Tuy nhiên, để quy định về tăng tỷ lệ sở hữu của NĐTNN (nới room) nói riêng
và thu hút vốn đầu tư nước ngoài vào TTCK Việt Nam nói chung được thực hiện trên
thực tế, Việt Nam cần sớm hoàn thiện quy định pháp luật về địa vị pháp lý của nhà đầu tư
nước ngoài trong lĩnh vực chứng khoán. Đồng thời, xây dựng cơ chế thu hút NĐTNN phù
hợp với khả năng hấp thụ vốn của nền kinh tế thông qua chính sách tài chính ưu đãi và đơn
giản hóa thủ tục đầu tư.
Thị trường chứng khoán Việt Nam còn non trẻ, mới mẻ, chính bởi lẽ đó, Pháp
luật về chứng khoán của nước ta còn một số tồn tại nhất định cần sớm hoàn thiện để
phù hợp với sự vận động và phát triển của thị trường chứng khoán nói riêng và hội nhập
kinh tế quốc tế nói chung. Bởi vậy, chúng ta cần sàng lọc để loại bỏ những nhược
điểm, phát huy những ưu điểm trên cơ sở kinh nghiệm của các quốc gia trên thế giới.
Hiện nay, quy định về địa vị pháp lý của nhà đầu tư nước ngoài trong lĩnh vực chứng

khoán tại Việt Nam vẫn còn nhiều tồn tại ảnh hưởng đến việc thu hút vốn đầu tư nước
ngoài thông qua thị trường chứng khoán. Bởi vậy, cần thiết phải có một/một số nghiên
cứu có tính hệ thống về địa vị pháp lý của nhà đầu tư nước ngoài trong lĩnh vực chứng
khoán tại Việt Nam và so sánh với một số nước điển hình trên thế giới, từ đó vận dụng
những kinh nghiệm quốc tế vào thị trường chứng khoán Việt Nam để bảo đảm quyền và
lợi ích cho nhà đầu tư, mở rộng sự tham gia của các nhà đầu tư nước ngoài, thu hút vốn
cho thị trường.
Do đó, học viên quyết định chọn đề tài: "Địa vị pháp lý của nhà đầu tư
nước ngoài trong lĩnh vực chứng khoán theo pháp luật Việt Nam và pháp luật
nước ngoài" làm luận văn Thạc sỹ luật học.
Khi chủ trương tăng tỷ lệ sở hữu của khối ngoại đã được pháp điển hóa như

2


hiện nay, vấn đề cấp bách đặt ra là cần phải xây dựng hành lang pháp lý để (i) triển
khai thực hiện trên thực tế; (ii) bảo đảm quyền lợi của NĐTNN nhằm thu hút vốn đầu tư
nước ngoài và (iii) quy định rõ nghĩa vụ pháp lý khi NĐTNN tham gia vào TTCK Việt
Nam để phòng ngừa thâu tóm, rút vốn ồ ạt hoặc các hệ quả khác ảnh hưởng đến thị
trường. Vì vậy, theo ý kiến chủ quan của tác giả luận văn, vấn đề địa vị pháp lý của
NĐTNN trong lĩnh vực chứng khoán vẫn tiếp tục là vấn đề được các cơ quan có thẩm
quyền cũng như thị trường dành nhiều sự quan tâm.
2. Mục tiêu nghiên cứu
Mục tiêu tổng quát
Mục tiêu tổng quát của đề tài là dựa trên cơ sở lý luận để nghiên cứu các quy
định của pháp luật hiện hành và thực tiễn về vấn đề địa vị pháp lý của NĐTNN trong
lĩnh vực chứng khoán tại Việt Nam và một số nước trên thế giới. Từ đó, phân tích những
kinh nghiệm quốc tế để vận dụng vào thị trường chứng khoán Việt Nam, đưa ra những đề
xuất hoàn thiện quy định pháp luật của Việt Nam về địa vị pháp lý NĐTNN trong lĩnh
vực chứng khoán.

Mục tiêu cụ thể
- Hệ thống hóa các quy định pháp luật về địa vị pháp lý của nhà đầu tư nước
ngoài trong lĩnh vực chứng khoán tại một số nước trong phạm vi nghiên cứu như Việt
Nam, Brazil, Philippines, Thái Lan, Malaysia, Hàn Quốc.
- Phân tích những hạn chế, thiếu sót của các chính sách, quy định pháp luật Việt
Nam về địa vị pháp lý NĐTNN trong lĩnh vực chứng khoán trên cơ sở kinh nghiệm
quốc tế và thực tiễn áp dụng của Việt Nam.
- Đề xuất phương án nhằm hoàn thiện các quy định pháp luật về vấn đề địa vị
pháp lý NĐTNN trong lĩnh vực chứng khoán tại Việt Nam.
3. Tính mới và những đóng góp của đề tài
Địa vị pháp lý của nhà đầu tư nước ngoài trong lĩnh vực chứng khoán là vấn
đề khá mới mẻ trong pháp luật Việt Nam. Hiện nay, vấn đề này đang được quy định rải rác
trong một số văn bản pháp luật như Luật Chứng khoán, Luật Đầu tư và một số văn bản
dưới luật.

3


Đến nay, chỉ có một số ít công trình nghiên cứu khoa học pháp lý đề cập đến
vấn đề này như:
- Hoàng Văn Thứ (2009), Địa vị pháp lý của nhà đầu tư trên thị trường chứng
khoán Việt Nam, luận văn thạc sỹ luật học. Nghd: PGS.TS Phạm Duy Nghĩa.
- Lê Anh Tuấn (2010), Địa vị pháp lý của nhà đầu tư nước ngoài trong lĩnh vực
chứng khoán, kinh nghiệm quốc tế và hướng hoàn thiện, luận văn thạc sỹ luật học.
Nghd: TS. Lê Văn Bính.
- Bộ Kế hoạch và Đầu tư (2014), Báo cáo nghiên cứu về pháp luật đầu tư của
một số nước, báo cáo nghiên cứu.
- Và một số công trình nghiên cứu về Nhà đầu tư nước ngoài trong lĩnh vực
chứng khoán của các tác giả công tác trong lĩnh vực chứng khoán hoặc học tập, công
tác trong các trường về kinh tế, tài chính. Tuy nhiên, những công trình nghiên cứu này

đề cập sâu về khía cạnh tài chính, chứng khoán chứ không đi sâu vào khía cạnh pháp lý.
Có thể thấy, các công trình nghiên cứu nêu trên đều đề cập đến vấn đề đầu tư nước
ngoài vào thị trường Việt Nam. Tuy nhiên, luận văn thạc sỹ của tác giả Hoàng Văn Thứ có
phạm vi nghiên cứu bao phủ toàn bộ chủ thể "nhà đầu tư", tức là gồm cả nhà đầu tư
trong và ngoài nước trên thị trường chứng khoán Việt Nam. Luận văn thạc sỹ của tác giả
Lê Anh Tuấn nghiên cứu về riêng đối tượng "nhà đầu tư nước ngoài", nhưng thị trường
nghiên cứu chỉ gói gọn trong thị trường chứng khoán Việt Nam, chỉ có một phần rất nhỏ
về chính sách thu hút đầu tư của thị trường chứng khoán Ấn Độ. Còn Báo cáo nghiên
cứu về pháp luật đầu tư của một số nước của Bộ Kế hoạch và Đầu tư có phân tích về
pháp luật đầu tư của các nước Trung Quốc, Indonesia, Thái Lan, Malaysia, Philippines
nhưng trong lĩnh vực đầu tư trực tiếp chứ không nghiên cứu trong lĩnh vực chứng
khoán.
Chính bởi lẽ đó, luận văn có mục tiêu đi sâu nghiên cứu về địa vị pháp lý của "nhà
đầu tư nước ngoài" trong lĩnh vực chứng khoán tại "thị trường chứng khoán Việt Nam
và thị trường chứng khoán của một số nước trên thế giới như Brazil, Philippines, Thái
Lan, Malaysia, Hàn Quốc nhằm so sánh, đánh giá, cụ thể hóa các

4


kinh nghiệm của thị trường chứng khoán nước ngoài để vận dụng linh hoạt vào thị
trường chứng khoán Việt Nam.
Hiện nay, theo tìm hiểu của học viên, chưa có công trình nghiên cứu nào hệ
thống hóa các quy định pháp luật và thực tiễn về địa vị pháp lý của nhà đầu tư nước ngoài
trên thị trường chứng khoán của các nước Brazil, Philippines, Thái Lan, Malaysia, Hàn
Quốc. Do đó, luận văn sẽ nghiên cứu về thị trường chứng khoán của các nước nêu trên
để người đọc thấy được tính đa dạng cũng như những kinh nghiệm quốc tế mà Việt
Nam cần học hỏi, đồng thời đóng góp những nghiên cứu, tìm hiểu mới mẻ, cập nhật
của mình cho bạn đọc. Luận văn cũng phân tích chi tiết các yếu tố mà luận văn thạc sỹ
của tác giả Hoàng Văn Thứ và Lê Anh Tuấn chưa đề cập hoặc chưa đề cập cụ thể.

Bên cạnh đó, gần đây vấn đề đầu tư của nhà đầu tư nước ngoài vào thị trường
chứng khoán Việt Nam là vấn đề được quan tâm sát sao, được nhà đầu tư mong đợi và
ảnh hưởng lớn đến thị trường chứng khoán. Một số văn bản pháp luật điều chỉnh vấn đề này
vừa được ban hành như: Nghị định 60/2015/NĐ-CP ngày 26/6/2015 sửa đổi, bổ sung một
số điều của Nghị định 58/2012/NĐ-CP quy định chi tiết và hướng dẫn thi hành một số điều
của Luật Chứng khoán và Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật Chứng khoán, có
hiệu lực kể từ ngày 1/9/2015, Nghị định này đã bổ sung Điều 2a quy định về tỷ lệ sở hữu
nước ngoài trên thị trường chứng khoán Việt Nam; Thông tư số 123/2015/TT-BTC ngày
19/8/2015 hướng dẫn hoạt động đầu tư nước ngoài trên TTCK Việt Nam, có hiệu lực kể từ
ngày 1/10/2015.
Ngoài ra, các cơ quan có thẩm quyền cũng đang trong quá trình lấy ý kiến của
các chủ thể liên quan để chính thức ban hành các văn bản pháp luật sửa đổi, bổ sung,
thay thế những quy định về Địa vị pháp lý của Nhà đầu tư nước ngoài trong lĩnh vực
chứng khoán.
Bởi vậy, từ quy định pháp luật cho đến thực tiễn, đều đã có các điểm mới rất cập
nhật hứa hẹn những điểm sáng cho thị trường mà từ thời điểm năm 2009, 2010 khi luận
văn thạc sỹ của tác giả Hoàng Văn Thứ và Lê Anh Tuấn ra đời, chưa có một công trình
nghiên cứu nào cập nhật. Luận văn sẽ cập nhật một cách đầy đủ, rõ ràng nhất những
điểm mới đó để người đọc có cái nhìn khái quát cũng như sâu sắc hơn.

5


Luận văn sẽ phân tích các quy định pháp luật của một số nước, có thể vận
dụng kết quả nghiên cứu vào thị trường Việt Nam mà các công trình tương tự chưa đề
cập đến. Đồng thời, đưa ra một số kiến nghị nhằm hoàn thiện pháp luật Việt Nam để
phù hợp với các cam kết của Việt Nam về vấn đề này khi gia nhập WTO, cũng như phù
hợp với thị trường chứng khoán thế giới. Luận văn có giá trị tham khảo trong việc xây
dựng và hoàn thiện khung pháp lý liên quan đến địa vị pháp lý của nhà đầu tư nước ngoài
trên thị trường chứng khoán Việt Nam.

4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
Đối tượng nghiên cứu
Cơ sở lý luận, các quy định hiện hành của pháp luật Việt Nam liên quan đến
địa vị pháp lý của nhà đầu tư nước ngoài trên thị trường chứng khoán, thực tiễn tham
gia của nhà đầu tư nước ngoài. Những nội dung chính về địa vị pháp lý của nhà đầu tư
nước ngoài trên thị trường chứng khoán của một số nước trên thế giới như Brazil,
Philippines, Thái Lan, Malaysia, Hàn Quốc.
Phạm vi nghiên cứu
Do điều kiện tiếp cận hạn chế, luận văn sẽ tập trung nghiên cứu chuyên sâu
về thị trường chứng khoán Việt Nam và thị trường chứng khoán nước ngoài, giới hạn
trong năm nước điển hình là Brazil, Philippines, Thái Lan, Malaysia, Hàn Quốc, tiếp
cận trên phương diện pháp lý.
5. Phương pháp nghiên cứu
Trong luận văn này, học viên sử dụng phương pháp luận là chủ nghĩa duy vật
biện chứng và chủ nghĩa duy vật lịch sử. Trên nền tảng phương pháp luận đó, học viên
áp dụng các phương pháp cụ thể như: phương pháp hệ thống, tổng hợp, thống kê, phân
tích, so sánh. Học viên đã tổng hợp, phân tích các quy định pháp luật hiện hành và thông
qua các ví dụ cụ thể liên quan đến nội dung nghiên cứu. Bên cạnh đó, so sánh, đối chiếu
các quy định pháp luật với thực tiễn liên quan đến quyền và nghĩa vụ của nhà đầu tư nước
ngoài trên thị trường chứng khoán để chỉ ra những điểm hạn chế, không phù hợp trong
các quy định pháp luật hiện hành. Từ đó có những kiến nghị, đề xuất nhằm tiếp tục bảo
vệ tốt hơn quyền và lợi ích hợp pháp của nhà đầu tư nước ngoài cũng như thu hút đầu tư
cho thị trường chứng khoán Việt Nam.

6


6. Kết cấu của luận văn
Ngoài Phần mở đầu, Phần kết luận và Danh mục tài liệu tham khảo, nội dung
của luận văn bao gồm ba chương như sau:

Chương 1. Tổng quan về địa vị pháp lý của nhà đầu tư nước ngoài trên thị
trường chứng khoán.
Chương 2. Địa vị pháp lý của nhà đầu tư nước ngoài trong lĩnh vực chứng
khoán theo pháp luật Việt Nam và pháp luật nước ngoài.
Chương 3. Thực trạng và các giải pháp hoàn thiện hệ thống pháp luật Việt
Nam về địa vị pháp lý của nhà đầu tư nước ngoài trong lĩnh vực
chứng khoán.

7


Chương 1
TỔNG QUAN VỀ ĐỊA VỊ PHÁP LÝ CỦA
NHÀ ĐẦU TƯ NƯỚC NGOÀI TRÊN THỊ TRƯỜNG CHỨNG KHOÁN
1.1. Khái niệm, vai trò của nhà đầu tư nước ngoài
1.1.1. Khái niệm nhà đầu tư nước ngoài
Nhà đầu tư nước ngoài bao gồm cá nhân nước ngoài và tổ chức nước ngoài.
Thứ nhất, về cá nhân nước ngoài. Cá nhân nước ngoài, theo pháp luật của đa số
các nước trên thế giới, là những cá nhân không có quốc tịch của nước sở tại [12, tr.119].
Pháp luật Việt Nam hiện hành cũng xác định người nước ngoài theo cách trên.
Cụ thể, tại khoản 5, điều 3, Luật Quốc tịch 2008 quy định "Người nước ngoài cư trú ở
Việt Nam là công dân nước ngoài và người không quốc tịch thường trú hoặc tạm trú ở
Việt Nam" [17]. Khoản 1 Điều 4 Luật Doanh nghiệp 2014 quy định: "Cá nhân nước ngoài
là người không có quốc tịch Việt Nam'' [18].
Thứ hai, về tổ chức nước ngoài. Tổ chức nước ngoài, theo quan niệm của các
nước trên thế giới, là tổ chức được thành lập theo những quy định của pháp luật nước
này nhưng hoạt động tại nước khác nhằm những mục đích đã được xác định trước [12,
tr.137].
Theo pháp luật Việt Nam, khoản 26 Điều 4 Luật doanh nghiệp 2014 quy định,
tổ chức nước ngoài là tổ chức thành lập ở nước ngoài theo pháp luật nước ngoài.

Theo quy định tại Điều 84 Bộ luật dân sự 2005, một tổ chức được công nhận là
pháp nhân khi có đủ các điều kiện sau đây: được thành lập hợp pháp; có cơ cấu tổ chức
chặt chẽ; có tài sản độc lập với cá nhân, tổ chức khác và tự chịu trách nhiệm bằng tài sản
đó; nhân danh mình tham gia các quan hệ pháp luật một cách độc lập.
Thông thường một tổ chức được công nhận có tư cách pháp nhân ở nước nó được
thành lập thì cũng được công nhận có tư cách pháp nhân ở các nước khác. Đối với Việt
Nam, pháp nhân nước ngoài là tổ chức hưởng tư cách pháp nhân theo quy định của pháp
luật nước ngoài và được công nhận là có quốc tịch nước ngoài.
Việc xác định quốc tịch của pháp nhân tạo cơ sở xác định nội dung quy chế

8


pháp lý của pháp nhân, góp phần kiểm soát các hoạt động của pháp nhân, bảo vệ an
ninh, chủ quyền và lợi ích kinh tế xã hội của nhà nước nơi pháp nhân đặt trụ sở hoặc
hoạt động. Vấn đề xác định quốc tịch của pháp nhân đặc biệt có ý nghĩa quan trọng trong
giai đoạn hội nhập quốc tế mạnh mẽ hiện nay. Pháp luật các quốc gia có quy định khác
nhau về vấn đề xác định quốc tịch của pháp nhân.
Pháp luật của Pháp, Đức và của nhiều nước khác, pháp nhân đặt trung tâm quản
lý ở nước nào thì mang quốc tịch nước đó, không phân biệt nơi đăng ký thành lập hay tiến
hành hoạt động của pháp nhân. Pháp luật của Anh, Mỹ xác định quốc tịch của pháp
nhân theo nơi đăng ký điều lệ của pháp nhân khi thành lập. Ở Nga và các nước Đông
Âu, áp dụng cả hai nguyên tắc quốc tịch pháp nhân tuỳ thuộc vào nơi thành lập pháp
nhân và nơi đặt trụ sở chính của pháp nhân [22].
Pháp luật Việt Nam không có quy định nguyên tắc xác định quốc tịch của pháp
nhân. Tuy nhiên, Điều 765 Bộ luật dân sự 2005 đã quy định năng lực pháp luật dân sự
của pháp nhân nước ngoài được xác định theo pháp luật của nước nơi pháp nhân đó
được thành lập. Trong trường hợp pháp nhân nước ngoài xác lập, thực hiện các giao dịch
dân sự tại Việt Nam thì năng lực pháp luật dân sự của pháp nhân được xác định theo pháp
luật Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam.

Khoản 20 Điều 4 Luật Doanh nghiệp 2005 quy định Quốc tịch của doanh nghiệp
là quốc tịch của nước và vùng lãnh thổ nơi doanh nghiệp thành lập, đăng ký kinh doanh.
Tuy nhiên quy định này chỉ bao gồm các doanh nghiệp mà không phải tất cả các pháp
nhân. Song điều khoản này đã không còn được quy định trong Luật doanh nghiệp 2014.
Như vậy, pháp luật Việt Nam đã thừa nhận nguyên tắc xác định quốc tịch của
pháp nhân tuỳ thuộc vào nước, nơi pháp nhân được thành lập. Các doanh nghiệp có
vốn đầu tư nước ngoài được thành lập tại Việt Nam là pháp nhân mang quốc tịch Việt
Nam. Những pháp nhân không mang quốc tịch Việt Nam đều được coi là pháp nhân nước
ngoài.
Về khái niệm nhà đầu tư nước ngoài, hiện nay Luật đầu tư 2014 đã phân biệt rõ khái
niệm nhà đầu tư nước ngoài với tổ chức kinh tế có vốn đầu tư nước ngoài để

9


giải quyết những nhầm lẫn, tranh cãi, mâu thuẫn về định nghĩa nhà đầu tư nước
ngoài của Luật đầu tư 2005 và các văn bản dưới luật khác. Theo đó, Nhà đầu tư nước
ngoài là cá nhân có quốc tịch nước ngoài, tổ chức thành lập theo pháp luật nước ngoài
thực hiện hoạt động đầu tư kinh doanh tại Việt Nam. Còn tổ chức kinh tế có vốn đầu tư
nước ngoài là tổ chức kinh tế có nhà đầu tư nước ngoài là thành viên hoặc cổ đông.
Bên cạnh cách phân loại này, theo tư cách chủ thể, nhà đầu tư nước ngoài có thể
được phân loại thành nhà đầu tư tổ chức và nhà đầu tư cá nhân. Nhà đầu tư tổ chức có
số lượng ít hơn nhưng do tiềm lực tài chính, kinh nghiệm quản lý, vị thế kinh doanh nên
họ là lực lượng có vị thế và đóng góp nhiều hơn cho Việt Nam.
Theo thông lệ phổ biến trên thế giới thì nhà đầu tư nước ngoài thành lập doanh
nghiệp theo pháp luật nước sở tại thì coi là nhà đầu tư trong nước, đương nhiên họ có
nghĩa vụ và quyền lợi như doanh nghiệp trong nước, đồng thời được khuyến khích đầu
tư với tỷ lệ cổ phần không hạn chế vào doanh nghiệp trong nước. Tuy nhiên, một số
doanh nghiệp kinh doanh thuộc lĩnh vực hạn chế thì có thể hạn chế tỷ lệ cổ phần của
nhà đầu tư nước ngoài. Quy định như vậy giúp khuyến khích đầu tư nước ngoài, nhất là

trong lĩnh vực tài chính chứng khoán, nhằm thành lập các công ty quản lý quỹ, ngân
hàng đầu tư, quỹ đầu tư để thúc đẩy thị trường chứng khoán phát triển. Bên cạnh đó, để
bơm vốn nhiều hơn cho nền kinh tế, đồng thời khuyến khích thu hút dòng vốn đầu tư dài
hạn để làm cho thị trường vốn phát triển ổn định, thể hiện chủ trương thúc đẩy đầu tư ở
khía cạnh không phân biệt đối xử
giữa nhà đầu tư trong nước và nhà đầu tư nước ngoài;
Khi Luật đầu tư 2014 chưa ra đời, theo điểm b khoản 1 Điều 2 Quyết định
88/2009/QĐ-TTg về việc ban hành Quy chế góp vốn, mua cổ phần của nhà đầu tư nước
ngoài trong các doanh nghiệp Việt Nam quy định tổ chức thành lập và hoạt động ở Việt
Nam có tỷ lệ tham gia góp vốn của bên nước ngoài trên 49% là nhà đầu tư nước ngoài.
Điều này là bất hợp lý, không phù hợp với thông lệ thế giới cũng như cản trở việc thu
hút dòng vốn đầu tư nước ngoài vào các doanh nghiệp Việt Nam bởi doanh nghiệp sinh
ra tại Việt Nam mà bị coi là doanh nghiệp nước ngoài

10


là không hợp lý. Họ phải chịu rất nhiều nghĩa vụ và thủ tục hành chính như doanh
nghiệp trong nước nhưng quyền lợi lại không được như doanh nghiệp trong nước.
Luật chứng khoán 2006 không có quy định cụ thể về khái niệm nhà đầu tư nước
ngoài, nhưng tại Điều 2 lại quy định về đối tượng áp dụng của Luật là tổ chức, cá nhân
Việt Nam và tổ chức, cá nhân nước ngoài tham gia đầu tư chứng khoán và hoạt động
trên thị trường chứng khoán Việt Nam.
Như vậy, từ các quy định nêu trên, có thể hiểu nhà đầu tư nước ngoài trên thị trường
chứng khoán Việt Nam là cá nhân có quốc tịch nước ngoài, tổ chức thành lập theo
pháp luật nước ngoài tham gia đầu tư chứng khoán và hoạt động trên thị trường chứng
khoán Việt Nam.
1.1.2. Vai trò của nhà đầu tư nước ngoài
Ngày nay, vai trò của các nhà đầu tư nước ngoài ngày càng trở nên quan
trọng, họ là lực lượng tổ chức phân công lao động trên phạm vi thế giới, là lực lượng

phát huy có hiệu quả lợi thế so sánh của các quốc gia, thúc đẩy dòng vốn vận động trên
toàn cầu và đóng góp quan trọng cho sự phát triển của một số quốc gia.
Đối với quốc gia đang rất cần thu hút nguồn vốn đầu tư nước ngoài như Việt Nam thì
vai trò của nhà đầu tư nước ngoài càng trở lên quan trọng.
Từ năm 2005 trở về trước, vai trò của nhà đầu tư nước ngoài không nổi bật trên
thị trường chứng khoán Việt Nam. Điều này có thể giải thích do hoạt động chưa đạt
mức độ tăng trưởng mạnh của thị trường chứng khoán, cũng như giai đoạn nằm ngang
kéo dài quá lâu của chỉ số chứng khoán đã khiến cho không chỉ nhà đầu tư trong nước mà
cả các nhà đầu tư nước ngoài cũng không đánh giá cao về tiềm năng hồi phục và phát
triển của giá cả cổ phiếu.
Từ năm 2006 trở đi, nhà đầu tư nước ngoài đã tham gia khá tích cực vào thị trường.
Năm 2006 là một năm bản lề đối với nhà đầu tư nước ngoài. Chỉ riêng trong năm này, đã có
3,050 cá nhân và 239 tổ chức nước ngoài được cấp mã giao dịch, giá trị cổ phiếu do các
nhà đầu tư nước ngoài nắm giữ đạt khoảng 4 tỷ USD, chiếm 16.4% mức vốn hóa của
toàn thị trường. Tính đến tháng 30/04/2013, nhà đầu tư nước ngoài vẫn là những nhà
đầu tư mạnh nhất trên thị trường niêm yết, với những

11


quỹ đầu tư VinaCapital, Indochina Capital, Dragon Capital, IDG Vietnam, PXP
Vietnam, City Group, HSBC, JP Morgan, Deutsch AG,… các quỹ này được đánh giá là
hoạt động thành công trên thị trường Việt Nam [11].
Có thể thấy, khối ngoại có động thái đặc biệt và khác biệt với nhà đầu tư trong
nước, trong đa số trường hợp biến động về giá cổ phiếu, dường như nhà đầu tư nước
ngoài luôn giữ một tư thế độc lập và tách rời hẳn tâm lý đám đông của các nhà đầu tư
Việt Nam. Vì vậy, có những lúc nhà đầu tư Việt Nam đổ xô ra bán thì nhà đầu tư nước
ngoài lại mua vào.
Như vậy, nhà đầu tư nước ngoài không chỉ có vai trò đem lại nguồn vốn đầu tư
nước ngoài cho quốc gia, thúc đẩy dòng vốn vận động trên toàn cầu mà những quyết

định đầu tư của họ còn mang tính chất tham khảo, học hỏi cho nhà đầu tư trong nước.
Đặc biệt là như thực tế hiện nay, nhà đầu tư nước ngoài vẫn là những nhà đầu tư mạnh
nhất trên thị trường chứng khoán Việt Nam, chủ yếu là các nhà đầu tư tổ chức chuyên
nghiệp.
Bên cạnh những tác động tích cực thì đầu tư nước ngoài, nhất là đầu tư gián tiếp
có thể tạo ra bong bong tài chính ảnh hưởng đến chính sách tiền tệ và tỷ giá hối đoái của
các quốc gia.
1.2. Địa vị pháp lý của nhà đầu tư nước ngoài
1.2.1. Khái niệm và nguyên tắc xác định
1.2.1.1. Khái niệm
Địa vị pháp lý của người nước ngoài là những quyền cụ thể mà người nước
ngoài được hưởng và những nghĩa vụ mà họ phải gánh vác khi cư trú ở nước sở tại cũng
như các cơ chế pháp luật của nước sở tại bảo đảm cho người nước ngoài thực thi các
quyền và nghĩa vụ nói trên.
Chế độ pháp lý dành cho người nước ngoài được xác định bởi pháp luật nước sở tại
và các quy phạm điều ước quốc tế, tập quán quốc tế. Người nước ngoài sống trên lãnh thổ
của nước khác cùng một lúc chịu sự ràng buộc của hai chế độ pháp lý: chế độ pháp lý theo
nước mà họ là công dân và chế độ pháp lý của nước sở tại nơi người đó cư trú [12,
tr.122].

12


P h á p l u ậ t củ a mỗ i q u ốc g i a q u y đ ị n h đ ị a v ị p h á p l ý c ủ a n g ư ời n ư ớ c n g o à i
phù hợp với nguyên tắc chung của luật quốc tế và các điều ước quốc tế mà nước đó
tham gia .
Khi đề cập đến vấn đề địa vị pháp lý của người nước ngoài, trước hết phải tìm
hiểu việc giải quyết xung đột pháp luật về năng lực pháp luật và năng lực hành vi của
người nước ngoài.
Với cá nhân, năng lực pháp luật của cá nhân là khả năng của người đó được

hưởng các quyền và gánh vác các nghĩa vụ mà theo pháp luật quy định. Năng lực hành
vi của cá nhân là khả năng của chính người đó bằng hành vi của mình thực hiện các
quyền và gánh vác các nghĩa vụ theo pháp luật quy định. Thông thường các quốc gia
quy định năng lực pháp luật của người nước ngoài ngang hoặc tương đương công dân
nước sở tại. Đại đa số các quốc gia xác định năng lực hành vi theo nguyên tắc luật quốc
tịch. Một số nước như Anh, Mỹ xác định năng lực hành vi theo nguyên tắc luật nơi cư
trú.
Bộ luật dân sự 2005 quy định năng lực pháp luật dân sự của cá nhân là người
nước ngoài được xác định theo pháp luật của nước mà người đó có quốc tịch. Người
nước ngoài có năng lực pháp luật dân sự tại Việt Nam như công dân Việt Nam, trừ
trường hợp pháp luật Việt Nam có quy định khác (Điều 761). Còn năng lực hành vi dân
sự của cá nhân là người nước ngoài được xác định theo pháp luật của nước mà người đó
là công dân, trừ trường hợp pháp luật Việt Nam có quy định khác. Trong trường hợp
người nước ngoài xác lập, thực hiện các giao dịch dân sự tại Việt Na m thì năng lự c
hành vi dâ n sự của ngư ời nư ớc n goài đư ợc xác định theo pháp luật Việt Nam (Điều
762).
Dự thảo Bộ luật Dân sự (sửa đổi) 2015 quy định, năng lực pháp luật dân sự của
cá nhân được xác định theo pháp luật của nước mà người đó có quốc tịch. Năng lực hành vi
dân sự của cá nhân được xác định theo pháp luật của nước mà người đó có quốc tịch.
Trường hợp người nước ngoài xác lập, thực hiện các giao dịch dân sự tại Việt Nam, năng
lực hành vi dân sự của người nước ngoài đó được xác định theo
pháp luật Việt Nam. Viêc xác
c ất hoặc bị hạn chế năng lực hành vi
c điṇ h cá nhân bi m
dân sự taị Viêṭ Nam theo pháp luật Việt Nam.

13


Với pháp nhân, khi hoạt động với tư cách là pháp nhân nước ngoài ở một

nước nào đó, năng lực pháp luật của pháp nhân tại nước sở tại tuỳ thuộc vào quy định ở
nước sở tại.
Như vậy, bên cạnh các quy định pháp luật để đảm bảo quyền lợi của công dân,
từng quốc gia đều phải đối diện với nghĩa vụ quốc tế là tạo cơ sở và điều kiện để người
nước ngoài được hưởng chế độ pháp lý phù hợp với sự tồn tại hợp pháp của họ trên lãnh
thổ quốc gia đó. Một đặc thù quan trọng liên quan đến địa vị pháp lý của người nước
ngoài trên lãnh thổ nước sở tại là người nước ngoài không chỉ chịu sự điều chỉnh của
pháp luật nước sở tại mà còn chịu sự điều chỉnh của pháp luật của nước người đó là công
dân và luật quốc tế. Vì vậy, một quốc gia không thể đơn phương áp dụng các quy định
đối với người nước ngoài nếu các quy định đó không phù hợp với các thỏa thuận quốc
tế và ảnh hưởng đến lợi ích của các quốc gia khác [26, tr.119].
Bộ luật dân sự 2005 quy định năng lực pháp luật dân sự của pháp nhân nước
ngoài được xác định theo pháp luật của nước nơi pháp nhân đó được thành lập. Trường
hợp pháp nhân nước ngoài xác lập, thực hiện các giao dịch dân sự tại Việt Nam thì năng
lực pháp luật dân sự của pháp nhân được xác định theo pháp luật Việt Nam (Điều 765).
Dự thảo Bộ luật Dân sự (sửa đổi) 2015 quy định quốc tịch của pháp nhân được
xác định theo pháp luật của nước nơi pháp nhân thành lập. Năng lực pháp luật dân sự
của pháp nhân; tên gọi của pháp nhân; việc tổ chức, tổ chức lại, giải thể pháp nhân; quan
hệ giữa pháp nhân với thành viên của pháp nhân; trách nhiệm của pháp
nhân và thành viên của pháp nhân đối với các nghĩa vụ của pháp nhân được xác
định theo pháp luật của nước mà pháp nhân có quốc tic hc

. Trường hợp pháp nhân

nước ngoài xác lập, thực hiện giao dịch dân sự tại Việt Nam, năng lực pháp luật dân
sự của pháp nhân nước ngoài đó được xác định theo pháp luật Việt Nam.
Như vậy, khi xác định năng lực pháp luật dân sự của cá nhân, pháp nhân; năng
lực hành vi dân sự của cá nhân người nước ngoài, pháp luật Việt Nam quy định dựa
trên sự kết hợp hệ thuộc Luật quốc tịch, Luật nơi cư trú và Luật nơi thực hiện hành vi.


14


1.2.1.2. Nguyên tắc xác định
Theo quy định của pháp luật và phụ thuộc vào mức độ quan hệ giữa các quốc
gia và tuỳ thuộc vào từng lĩnh vực cụ thể, các quy định về địa vị pháp lý của người nước
ngoài (thể nhân và pháp nhân) có thể được xây dựng trên nguyên tắc hay các
chế độ pháp lý sau:
Một là, chế độ đãi ngộ quốc gia, là chế độ cho phép người nước ngoài có quyền
và nghĩa vụ tương ứng như công dân nước sở tại trong các quan hệ xã hội nhất định.
Nội dung cơ bản của chế độ đãi ngộ quốc gia là người nước ngoài được hưởng
các quyền dân sự và lao động, cũng như thực hiện các quyền và nghĩa vụ khác tương
đương hoặc bằng với những quyền và nghĩa vụ mà công dân nước sở tại đang được hưởng
và sẽ được hưởng trong tương lai. Ví dụ: trong giao kết hợp đồng.
Tuy nhiên, người nước ngoài được hưởng quyền và nghĩa vụ như công dân nước
sở tại không phải ở tất cả mọi mặt, người nước ngoài bị hạn chế ở một số quyền nhất
định. Ví dụ: quyền bầu cử, quyền ứng cử, đề cử, quyền hành nghề, học
tập trong lĩnh vực an ninh quốc phòng…
Hai là, chế độ tối huệ quốc. Nội dung cơ bản của chế độ tối huệ quốc là người
nước ngoài và pháp nhân nước ngoài được hưởng một chế độ mà nước sở tại dành cho
người nước ngoài và pháp nhân nước ngoài của bất kỳ nước thứ ba nào đang hưởng và
sẽ được hưởng trong tương lai.
Đây là một chế độ pháp lý có tầm quan trọng đặc biệt trong lĩnh vực quan hệ kinh
tế, thương mại và hàng hải. Chế độ tối huệ quốc dành riêng cho công dân và pháp nhân
nước này hay nước kia cần phải được quy định rõ ràng và cụ thể trong các Hiệp định quốc tế
(thường trong các Hiệp định thương mại và hàng hải; Hiệp định về
thuế quan và mậu dịch; Hiệp định về thị trường chung hay thị trường tự do…)
Theo chế độ tối huệ quốc thì người nước ngoài và pháp nhân nước ngoài được
hưởng đầy đủ và hoàn toàn các quyền hợp pháp mà một quốc gia đã dành cho và sẽ
dành cho bất kỳ một nhóm người nước ngoài và pháp nhân nước ngoài nào đang sinh

sống hay hoạt động trên lãnh thổ của quốc gia đó. Đây chính là sự thể hiện rõ nhất của
thuật ngữ "tối huệ quốc" được hiểu trong khoa học pháp lý

15


×