Tải bản đầy đủ (.doc) (92 trang)

TÀI LIỆU THAM KHẢO ĐẢNG bộ TỈNH bắc GIANG LÃNH đạo THỰC HIỆN CHÍNH SÁCH dân tộc từ năm 2005 đến 2015

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (480.63 KB, 92 trang )

“Đảng bộ tỉnh Bắc Giang lãnh đạo thực hiện chính sách dân tộc từ
năm 2005 đến năm 2015”,
1. Lý do chọn đề tài
Dân tộc và giải quyết vấn đề dân tộc luôn là vấn đề rộng lớn và phức tạp
có quan hệ đến nhiều lĩnh vực khác nhau: Chính trị, kinh tế, lãnh thổ, pháp lý,
tư tưởng và văn hóa giữa các dân tộc, các nhóm dân tộc và bộ tộc. Vì vậy, giải
quyết đúng đắn vấn đề dân tộc luôn có ý nghĩa đặc biệt quan trọng liên quan
đến sự tồn vong của cả quốc gia dân tộc. Việt Nam là một quốc gia đa tộc
người với 54 tộc người cùng sinh sống trên một phạm vi quốc gia dân tộc. Trong
suốt tiến trình hàng ngàn năm lịch sử dựng nước và giữ nước, các dân tộc trong
cộng đồng dân tộc Việt Nam luôn kề vai, sát cánh, đoàn kết, gắn bó keo sơn
trong một kết cấu thống nhất về lãnh thổ, về thể chế hành chính và ý thức hệ
quốc gia - dân tộc.
Nhận thức rõ vị trí, tầm quan trọng đặc biệt của vấn đề dân tộc và chính
sách đại đoàn kết toàn dân tộc, trong quá trình lãnh đạo cách mạng, Đảng
Cộng sản Việt Nam đã luôn trung thành, kế thừa và vận dụng sáng tạo lý
luận Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh về luận điểm “cách mạng là sự
nghiệp của quần chúng” vào thực tiễn lãnh đạo cách mạng; luôn nhận thức
và giải quyết đúng đắn vấn đề dân tộc và đại đoàn kết dân tộc, coi đây là vấn
đề chiến lược cơ bản, lâu dài của cách mạng Việt Nam. Văn kiện Đại hội
Đại biểu toàn quốc lần thứ XI của Đảng khẳng định: “Các dân tộc trong
cộng đồng Việt Nam bình đẳng, đoàn kết, tôn trọng và giúp đỡ nhau cùng
phát triển” [36, tr.70].
Thực hiện đường lối đổi mới toàn diện đất nước, Đảng đã luôn giương
cao ngọn cờ đại đoàn kết toàn dân, coi đây là vấn đề chiến lược, nguồn sức
mạnh và động lực to lớn để xây dựng và bảo vệ Tổ quốc. Đối với CTDT và
thực hiện CSDT, Đảng đã có nhiều chủ trương, chính sách đúng nhằm nâng
cao đời sống vật chất và tinh thần nhân dân vùng đồng bào DTTS, vùng sâu,

1



vùng xa, vùng căn cứ địa cách mạng. Vì vậy, đời sống vật chất và tinh thần
của nhân dân không ngừng được cải thiện, góp phần tích cực vào công cuộc
xây dựng và bảo vệ Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa.
Bắc Giang là tỉnh thuộc khu vực Đông Bắc của Tổ quốc, là địa bàn có vị
trí chiến lược quan trọng cả về kinh tế, quốc phòng, an ninh của khu vực cũng
như cả nước. Là tỉnh nằm trong một khu vực lịch sử - dân tộc học, nơi cư trú của
nhiều DTTS. Các dân tộc anh em trong Tỉnh luôn sống đoàn kết, tương trợ, đùm
bọc giúp đỡ lẫn nhau, một lòng theo Đảng, tích cực tham gia vào sự nghiệp cách
mạng chung của cả nước. Trong sự nghiệp đổi mới đất nước, quán triệt chủ
trương của Đảng về thực hiện CSDT, Đảng bộ tỉnh Bắc Giang đã vận dụng sáng
tạo vào điều kiện cụ thể của địa phương, góp phần quan trọng thúc đẩy KT - XH
phát triển, nâng cao đời sống vật chất và tinh thần đối với đồng bào các DTTS
trên địa bàn Tỉnh.
Tuy nhiên, trong quá trình lãnh đạo, chỉ đạo thực hiện CSDT của Tỉnh
cũng còn có những hạn chế nhất định, đặc biệt là những vấn đề về phát triển
KT - XH, xóa đói giảm nghèo, bảo tồn phát huy bản sắc văn hóa tộc người...
trên địa bàn cư trú của các DTTS. Đời sống vật chất, tinh thần của một bộ phận
nhân dân trong vùng đồng bào DTTS, nhất là các xã vùng sâu, vùng xa còn
nhiều khó khăn, thiếu thốn, đặt ra những yêu cầu đòi hỏi đối với các cấp, các
ngành của Tỉnh sự cần thiết phải xây dựng đồng bộ, vững chắc hệ thống cơ chế,
chính sách hợp lý, nhận diện đúng những tác động tích cực, tiêu cực, xác định
đúng đắn chủ trương, chính sách nhằm thực hiện tốt CSDT trên địa bàn Tỉnh.
2. Tình hình nghiên cứu có liên quan đến đề tài
CSDTcủa Đảng là chính sách chung đối với tất cả các dân tộc sinh sống
trên lãnh thổ Việt Nam. CSDT hàm chứa nhiều nội dung, rất đa dạng, phong
phú như: Chính sách phát triển kinh tế, phát triển văn hoá, chính sách chính
trị - xã hội, chính sách tôn giáo vùng đồng bào DTTS v.v... Bàn về vấn đề dân
tộc, đặc biệt là thực hiện CSDT của Đảng, Nhà nước nói chung, tỉnh Bắc Giang


2


nói riêng đã có nhiều công trình nghiên cứu của các tác giả, tập thể tác giả đề cập
ở những góc độ khác nhau, có thể chia theo các nhóm như sau:
* Nhóm các công trình nghiên cứu chung về dân tộc và chính sách
dân tộc của Đảng và Nhà nước
Bế Viết Đẳng (1996), Luận cứ khoa học cho việc xây dựng các chính
sách đối với các dân tộc thiểu số trong sự phát triển kinh tế - xã hội ở miền
núi, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội; Trịnh Quốc Tuấn (1996), Bình đẳng dân
tộc ở nước ta hiện nay - Vấn đề và giải pháp, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội;
Nguyễn Quốc Phẩm, Trịnh Quốc Tuấn (1999), Mấy vấn đề lý luận và thực tiễn
về dân tộc và quan hệ dân tộc ở Việt Nam, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội;
Ban Tư tưởng - Văn hóa Trung ương (2000), Vấn đề dân tộc và chính sách
dân tộc của Đảng Cộng sản Việt Nam, NXb Chính trị quốc gia, Hà Nội;
Phan Hữu Dật (2001), Mấy vấn đề lý luận và thực tiễn cấp bách liên quan đến
mối quan hệ dân tộc hiện nay, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội; Viện Nghiên
cứu chính sách dân tộc và miền núi (2002), Vấn đề dân tộc và định hướng xây
dựng chính sách dân tộc trong thời kỳ công nghiệp hoá, hiện đại hoá, NXb
Chính trị quốc gia, Hà Nội; Bùi Minh Đạo (2003), Một số vấn đề giảm
nghèo ở các dân tộc thiểu số Việt Nam, NXb Chính trị quốc gia, Hà Nội;
Phan Xuân Sơn, Lưu Văn Quảng (2006), Những vấn đề cơ bản về chính sách
dân tộc ở nước ta hiện nay, NXb Lý luận chính trị, Hà Nội; Hoàng Chí Bảo
(2009), Bảo đảm bình đẳng và tăng cường hợp tác giữa các dân tộc trong
phát triển kinh tế - xã hội ở nước ta hiện nay, NXb Chính trị quốc gia, Hà
Nội; Nguyễn Đăng Thành (2012), Phát triển nguồn nhân lực ở vùng dân tộc
thiểu số Việt Nam đáp ứng yêu cầu đẩy mạnh công nghiệp hoá, hiện đại hoá
đất nước, NXb Chính trị quốc gia - Sự thật, Hà Nội.
Ngoài ra, còn nhiều bài báo, tạp chí đã được công bố đề cập đến vấn đề
dân tộc và thực hiện CSDT của Đảng và Nhà nước, tiêu biểu: Nông Đức Mạnh

(1992), “Mấy vấn đề bức thiết đối với các vùng dân tộc thiểu số hiện nay”, Tạp

3


chí Cộng sản, số 8; Nguyễn Khắc Mai (1998), “Những vấn đề đặt ra đối với chính
sách dân tộc trong tình hình hiện nay”, Tạp chí Quốc phòng toàn dân, số 2; Trần
Văn Thuật (2009), “Một số vấn đề chính sách dân tộc trong thời kỳ đổi mới”,
Tạp chí Mặt trận, số 74; Đoàn Minh Huấn (2010), “Những xu hướng tác động
đến quản lý phát triển xã hội các vùng dân tộc thiểu số nước ta”, Tạp chí Lý luận
chính trị, số 8; Lâm Bá Nam (2011), “Chính sách dân tộc của Đảng trong thời
kỳ đổi mới” Báo điện tử Đảng Cộng sản Việt Nam, ngày 28/12/2011; Giàng Seo
Phử (2013), “Tiếp tục đổi mới công tác dân tộc đáp ứng yêu cầu, nhiệm vụ trong
tình hình hiện nay”, Tạp chí Cộng sản, số 84; Nguyễn Lâm Thành, Lê Ngọc
Thắng (2015), “Vấn đề dân tộc trong bối cảnh toàn cầu hóa hiện nay”, Tạp chí
Cộng sản, số 874.
Những công trình khoa học trên đây với nhiều cách luận giải khác
nhau, song đã khẳng định tính tất yếu khách quan Đảng và Nhà nước phải
lãnh đạo và tổ chức thực hiện có hiệu quả CTDT nói chung, CSDT nói riêng
trong giai đoạn cả nước tiến hành đẩy mạnh sự nghiệp CNH, HĐH đất nước.
Trên cơ sở khảo sát, đánh giá đúng thực trạng tình hình thực hiện CSDT của
Đảng, Nhà nước đối với sự phát triển KT - XH vùng đồng bào dân tộc, nhất là
vùng đồng bào DTTS trên phạm vi cả nước, các công trình khoa học nêu trên
đã đề xuất một số nội dung, biện pháp cần thiết để vận dụng trong quá trình
hoạch định CSDT của Đảng nhằm xây dựng khối đại đoàn kết toàn dân tộc,
đáp ứng yêu cầu nhiệm vụ cách mạng đặt ra trong tình hình mới.
* Nhóm các công trình nghiên cứu quá trình lãnh đạo thực hiện chính
sách dân tộc của Đảng ở các địa phương
Ngô Sáu (1995), Chính sách dân tộc của Đảng Cộng sản Việt Nam
trong thời kỳ cả nước quá độ lên chủ nghĩa xã hội (1976 -1994) qua thực tiễn

ở Tây Nguyên, Luận văn Thạc sĩ Lịch sử, Hà Nội; Nguyễn Thanh Thủy (2001),
Quá trình thực hiện chính sách dân tộc của Đảng Cộng sản Việt Nam đối với
đồng bào Khmer ở Đồng bằng Sông Cửu Long, Luận án Tiến sĩ Lịch sử, Hà

4


Nội; Ngô Xuân Thắng (2002), Đảng bộ tỉnh Ninh Thuận lãnh đạo thực hiện
chính sách dân tộc thời kỳ 1992- 2002, Luận văn Thạc sĩ Lịch sử, Hà Nội; Đinh
Văn Hưng (2004), Đảng bộ tỉnh Lâm Đồng lãnh đạo thực hiện chính sách dân
tộc từ 1986 đến 2003, Luận văn Thạc sĩ Lịch sử, Hà Nội; Nguyễn Anh Tuấn
(2011), Đảng bộ tỉnh Bình Phước lãnh đạo công tác dân tộc từ năm 2000 đến
năm 2010, Luận văn Thạc sĩ Lịch sử, Hà Nội; Nguyễn Văn Nhiên (2012), Đảng
bộ tỉnh Lâm Đồng lãnh đạo vận động đồng bào dân tộc từ năm 1991 đến năm
2000, Luận văn Thạc sĩ Lịch sử, Hà Nội; Nguyễn Thế Thái (2013), Đảng bộ
tỉnh Nghệ An lãnh đạo thực hiện chính sách dân tộc của Đảng từ năm 2000 đến
năm 2010, Luận văn Thạc sĩ Lịch sử, Hà Nội; Hoàng Thu Thủy (2014), Quá
trình thực hiện chính sách dân tộc ở một số tỉnh Đông Bắc Việt Nam từ năm
1996 đến năm 2010, Luận án Tiến sĩ Lịch sử, Hà Nội.
* Nhóm các công trình nghiên cứu về dân tộc và việc thực hiện chính
sách dân tộc của Đảng và Nhà nước ở tỉnh Bắc Giang
Các công trình nghiên cứu về dân tộc và thực hiện CSDT ở tỉnh Bắc
Giang đã được công bố, tiêu biểu có: Dương Văn Trọng (2007), “Bắc Giang
đẩy mạnh phát triển kinh tế”, Tạp chí Cộng sản, số 774; Trần Hậu (2009),
“Bắc Giang thực hiện chính sách dân tộc, hiệu quả kép”, Tạp chí Dân tộc và
phát triển, số 6; Nguyễn Minh Phúc (2012), “Thực hiện chính sách dân tộc ở
tỉnh Bắc Giang: ưu tiên phát triển cơ sở hạ tầng”, Tạp chí Dân tộc và phát
triển, số 3; Hoàng Thị Bích Phương (2014), “Thực hiện chính sách xóa đói,
giảm nghèo ở tỉnh Bắc Giang”, Tạp chí Lịch sử Đảng, số 5; Việt Hùng
(2014), “Bắc Giang thực hiện hiệu quả chính sách dân tộc”, Báo Tin tức, ngày

26/6/2014; Đặng Giang (2015), “Bắc Giang chú trọng giảm nghèo vùng dân
tộc và miền núi”, Báo Nhân dân điện tử, ngày 14/10/2015; Dương Trí (2015),
“Đời sống vùng đồng bào dân tộc thiểu số Bắc Giang chuyển biến tích cực”,
Báo Điện tử Đảng Cộng sản Việt Nam, ngày 08/12/2015...

5


Các công trình khoa học của các tác giả trên đây đã góp phần làm sáng
tỏ một số vấn đề lý luận và thực tiễn về vấn đề dân tộc và thực hiện CSDT
trên địa bàn tỉnh Bắc Giang trong những năm gần đây. Trên cơ sở khảo sát
thực tiễn, đánh giá những thành tựu, hạn chế; các công trình khoa học trên đã
đề xuất một số giải pháp nhằm thực hiện tốt CSDT của Tỉnh trong thời gian
tới. Đây là công trình khoa học có giá trị lý luận và thực tiễn, là những tư liệu
quan trọng trực tiếp giúp cho quá trình nghiên cứu của tác giả.
Như vậy, đã có nhiều công trình khoa học nghiên cứu CSDT của Đảng
và Nhà nước nói chung, sự lãnh đạo của một số Đảng bộ địa phương về thực
hiện CSDT nói riêng qua các thời kỳ cách mạng, đặc biệt trong thời kỳ đổi
mới. Mặt khác, cũng có những công trình đề cập đến vấn đề dân tộc và thực
hiện CSDT ở tỉnh Bắc Giang trong giai đoạn hiện nay.
Chương 1
CHỦ TRƯƠNG VÀ SỰ CHỈ ĐẠO CỦA ĐẢNG BỘ TỈNH BẮC GIANG
VỀ THỰC HIỆN CHÍNH SÁCH DÂN TỘC (2005 - 2010)

1.1. Chủ trương của Đảng bộ tỉnh Bắc Giang về thực hiện chính
sách dân tộc (2005 - 2010)
1.1.1. Những nhân tố tác động đến quá trình lãnh đạo thực hiện
chính sách dân tộc của Đảng bộ tỉnh Bắc Giang (2005 - 2010)
1.1.1.1. Một số khái niệm cơ bản
“Dân tộc” là một khái niệm hết sức phức tạp và rộng lớn, có nhiều

cách hiểu và sử dụng khác nhau. Có thể hiểu phạm trù “Dân tộc” theo hàm
nghĩa là “quốc gia - dân tộc” (như dân tộc Việt Nam, dân tộc Nga, dân tộc
Trung Hoa…) hoặc có thể hiểu theo hàm nghĩa dân tộc - tộc người (như tộc
người Kinh, Thái, Mường, Dao, Êđê, Chăm, H’Mông…). TheoTừ điển Bách
khoa Việt Nam định nghĩa: “Dân tộc (nation) hay quốc gia dân tộc là một
cộng đồng chính trị - xã hội được chỉ đạo bởi một nhà nước, thiết lập trên một
lãnh thổ nhất định, ban đầu được hình thành do sự tập hợp của nhiều bộ lạc

6


hay liên minh bộ lạc, sau này của nhiều cộng đồng tộc người” [41, tr.172].
Tính chất của dân tộc phụ thuộc vào những phương thức sản xuất khác nhau.
Mặt khác,“Dân tộc”còn đồng nghĩa với cộng đồng mang tính tộc người.
Cộng đồng này có thể là một bộ phận chủ thể hay thiểu số của một dân tộc
sinh sống ở nhiều quốc gia dân tộc khác nhau được liên kết với nhau bằng
những đặc điểm ngôn ngữ, văn hoá và ý thức tự giác tộc người. Dân tộc - tộc
người là cộng đồng người thường tự nhận mình bằng một tên tự gọi, có tiếng
nói chung, có phong tục tập quán chung.
“Dân tộc thiểu số” ở nước ta: Là những dân tộc có số dân ít hơn so với
dân tộc đa số trên phạm vi lãnh thổ nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt
Nam. Với cách hiểu này,“dân tộc thiểu số” chỉ có ý nghĩa biểu thị tương
quan về dân số trong một quốc gia đa dân tộc, không xem xét trong phạm vi
một địa phương, không mang ý nghĩa phân biệt địa vị, trình độ phát triển của
các dân tộc. Địa vị, trình độ phát triển của các dân tộc không phụ thuộc ở số
dân nhiều hay ít, mà nó được chi phối bởi những điều kiện kinh tế, chính trị,
xã hội và lịch sử của mỗi dân tộc.
“Vấn đề dân tộc”: Là vấn đề nổi lên cần giải quyết trên các lĩnh vực
kinh tế, chính trị, văn hoá, xã hội giữa các dân tộc nhằm thực hiện bình đẳng,
đoàn kết, tôn trọng và giúp đỡ nhau cùng tiến bộ.

“Chính sách dân tộc”: Từ điển Bách khoa Việt Nam định nghĩa:
“Chính sách dân tộc là bộ phận cấu thành chính sách chung của một chính
đảng hay một nhà nước nhằm vạch ra những nguyên tắc, biện pháp đối xử và
giải quyết vấn đề dân tộc trong một nước” [41, tr.314].
“Chính sách dân tộc” của Đảng: Là hệ thống chủ trương, biện pháp
của Đảng và Nhà nước, trên cơ sở căn cứ vào đường lối chính trị và tình hình
thực tiễn của đất nước, tác động vào tất cả các lĩnh vực của các DTTS, các
vùng dân tộc và có thể đối với từng tộc người nhằm thực hiện quyền bình
bẳng giữa các dân tộc về chính trị, kinh tế, văn hoá, phát huy sức mạnh toàn

7


dân tộc, giữ gìn và phát huy bản sắc văn hoá dân tộc, làm cho các dân tộc
bình đẳng, đoàn kết, tương trợ giúp nhau cùng phát triển giữa các dân tộc;
đảm bảo sự thống nhất của quốc gia và dân tộc; giao lưu, hội nhập quốc tế.
Thực hiện CSDT ở tỉnh Bắc Giang: Là việc quán triệt và tổ chức thực
hiện thắng lợi các quan điểm, đường lối, chủ trương của Đảng, chính sách,
pháp luật Nhà nước, Nghị quyết của Đảng bộ tỉnh Bắc Giang vào thực tiễn
cuộc sống đồng bào các dân tộc nói chung, vùng đồng bào DTTS nói riêng,
nhằm phát triển KT - XH, củng cố và tăng cường quốc phòng - an ninh, đáp
ứng nhu cầu cải thiện và nâng cao đời sống vật chất và tinh thần cho nhân dân
đồng bào các dân tộc trên địa bàn Tỉnh.
Như vậy, thực chất quá trình thực hiện CSDT ở tỉnh Bắc Giang là
nhằm cụ thể hóa việc thực hiện một loại chính sách công của Đảng và Nhà
nước vào thực tiễn địa phương, nói cách khác đây chính là quá trình thực hiện
một loại chính sách tổng hợp, bao quát trên tất cả các lĩnh vực của đời sống
chính trị, kinh tế, văn hóa, xã hội, đối ngoại, quốc phòng, an ninh ở tỉnh Bắc
Giang. Thực hiện CSDT ở Tỉnh đúng đắn không những thúc đẩy KT - XH phát
triển, đáp ứng nhu cầu vật chất, văn hóa tinh thần của đồng bào các DTTS

trong Tỉnh, mà còn là một phương hướng tích cực nhất, chủ động nhất, có
hiệu quả nhất để đối phó với các âm mưu, thủ đoạn, hoạt động chống phá,
chia rẽ khối đại đoàn kết dân tộc của các thế lực thù địch, củng cố thế trận
quốc phòng - an ninh, góp phần xây dựng quê hương Bắc Giang giàu đẹp, bảo
vệ vững chắc chủ quyền và toàn vẹn lãnh thổ của Tổ quốc.
1.1.1.2. Điều kiện tự nhiên, kinh tế - xã hội và đặc điểm tình hình
dân tộc ở tỉnh Bắc Giang
* Đặc điểm điều kiện tự nhiên, kinh tế - xã hội
Về điều kiện tự nhiên: Bắc Giang là tỉnh nằm ở tọa độ từ 21 độ 07 phút
đến 21 độ 37 phút vĩ độ Bắc; từ 105 độ 53 phút đến 107 độ 02 phút kinh độ
Đông. Là tỉnh nằm cách Thủ đô Hà Nội 50 km về phía Bắc, cách cửa khẩu

8


quốc tế Hữu Nghị (Lạng Sơn) 110 km về phía Nam, cách cảng Hải Phòng hơn
100 km về phía Đông. Phía Bắc và Đông Bắc giáp tỉnh Lạng Sơn; phía Tây
và Tây Bắc giáp thành phố Hà Nội, Thái Nguyên; phía Nam và Đông Nam
giáp tỉnh Bắc Ninh, Hải Dương và Quảng Ninh.
Địa hình Bắc Giang gồm 2 tiểu vùng: Miền núi và trung du có đồng bằng
xen kẽ. Đặc điểm chủ yếu về địa hình miền núi (chiếm 72% diện tích toàn tỉnh)
bị chia cắt mạnh, phức tạp, chênh lệch về độ cao lớn. Đây là địa bàn cư trú của
nhiều đồng bào DTTS trong Tỉnh. Địa hình miền trung du (chiếm 28% diện
tích toàn Tỉnh) chủ yếu là đất gò, đồi xen lẫn đồng bằng tùy theo từng khu vực.
Tỉnh Bắc Giang nằm trong vùng khí hậu nhiệt đới gió mùa khu vực
Đông Bắc Việt Nam, một năm có bốn mùa rõ rệt. Độ ẩm trung bình trong
năm là 83%, một số tháng trong năm có độ ẩm trung bình trên 85%, riêng các
tháng mùa khô có độ ẩm không khí dao động khoảng 74% - 80%. Lượng mưa
trung bình hàng năm khoảng 1.533 mm. Chế độ gió cơ bản chịu ảnh hưởng
của gió Đông Nam (mùa Hè) và gió Đông Bắc (mùa Đông). Nắng trung bình

hàng năm từ 1.500 đến 1.700 giờ, thuận lợi cho canh tác, phát triển các cây
trồng nhiệt đới, á nhiệt đới.
Bắc Giang có 9 huyện và 1 thành phố, với 230 xã, phường, thị trấn,
2.495 thôn, bản, trong đó có 188 xã, 2.113 thôn, bản miền núi (540 thôn, bản
có nhiều đông bào DTTS), 36 xã, 94 thôn, bản đặc biệt khó khăn.
Về đặc điểm kinh tế - xã hội chủ yếu: Cư dân Bắc Giang sinh sống bằng
nghề nông nghiệp là chủ yếu, trải qua nhiều đời, họ đã hình thành nên các
làng, bản với hình thức kinh tế và văn hoá riêng biệt. Là tỉnh có nhiều làng
nghề truyền thống được lưu giữ từ bao đời nay, tiêu biểu như: Làng gốm Thổ
Hà, làng rượu Vân Hà (Việt Yên); làng bún Đa Mai (thành phố Bắc Giang);
làng mỳ Chũ (Lục Ngạn); làng mây tre đan Phúc Long, Phúc Tằng (Tăng
Tiến - Việt Yên); làng rèn sắt Đức Thắng (Hiệp Hoà)…

9


Bắc Giang cũng là tỉnh có nhiều tiềm năng, thế mạnh trong phát triển
kinh tế, sản xuất nông, lâm nghiệp, thương mại và du lịch, như: Vải thiều,
cam đường canh, táo lai, na dai, hạt dẻ, gà đồi, chăn nuôi thuỷ sản ... mang lại
nguồn thu nhập cho nhân dân trong Tỉnh; có hệ thống đình, chùa phong phú
và đa dạng; có các danh lam thắng cảnh là tiềm năng du lịch sinh thái như:
Khu du lịch Đồng Thông gắn liền với chùa Đồng đông Yên Tử, khu rừng
nguyên sinh Đồng Cao, Khe Rỗ (Sơn Động); hồ Khuôn Thần, hồ Cấm Sơn
(Lục Ngạn), khu du lịch Suối Mỡ (Lục Nam)... Về trước mắt và lâu dài, đây
sẽ là vùng phát triển sản xuất hàng hoá, mở rộng giao lưu kinh tế, thương mại,
du lịch cửa ngõ Đông Bắc của Tổ quốc.
Trong giai đoạn 2005 - 2010, Đảng bộ, nhân dân các dân tộc trong Tỉnh
đã đoàn kết, nỗ lực thực hiện các nhiệm vụ phát triển KT - XH, đạt được kết
quả khá toàn diện. “Kinh tế của Tỉnh tăng trưởng với tốc độ nhanh hơn, cơ cấu
kinh tế chuyển dịch tích cực, tính chung trong những năm 2005 - 2010 tốc độ

tăng trưởng kinh tế GDP toàn Tỉnh đạt 9%/năm.” [4, tr.32]. Lĩnh vực văn hoá, xã
hội có nhiều chuyển biến tiến bộ. Hạ tầng KT - XH, đời sống của nhân dân, nhất
là đồng bào DTTS được cải thiện. Tình hình an ninh chính trị, trật tự an toàn xã
hội cơ bản ổn định. Năng lực lãnh đạo, sức chiến đấu của tổ chức đảng; quản lý,
điều hành của chính quyền, hoạt động của Mặt trận Tổ quốc và các đoàn thể nhân
dân được nâng lên, khối đại đoàn kết toàn dân được tăng cường và mở rộng.
* Đặc điểm tình hình dân tộc ở Bắc Giang
Dân số toàn tỉnh Bắc Giang ước là 1.624.456 người, mật độ dân số bình
quân là 420,9 người/km2, là Tỉnh có mật độ dân số bình quân cao hơn so với
mật độ dân số bình quân cả nước. Dân số sống ở khu vực thành thị
khoảng 183.918 người, chiếm tỷ lệ 10,13%; dân số ở khu vực nông thôn là
1.440.538 người, chiếm 90,38%. “Tỷ lệ nam giới chiếm khoảng 49,92% dân
số, nữ giới khoảng 50,08% dân số. Số người trong độ tuổi lao động chiếm
khoảng 62,15% dân số, trong đó lao động được đào tạo nghề chiếm 26%; số

10


hộ nghèo chiếm 8,88%” [19, tr. 5]. Mật độ phân bố dân cư trên địa bàn Tỉnh
không đồng đều, phần lớn tập trung ở các khu vực trung du, các huyện miền
núi dân cư sống thưa thớt hơn.
Bắc Giang là vùng đất tụ cư của 21 dân tộc anh em, trong đó có 20
thành phần DTTS với số dân là 200.538 người, chiếm 12,5% dân số toàn
Tỉnh. Đồng bào các DTTS cư trú tập trung ở 105 xã, thị trấn thuộc 6 huyện
miền núi, vùng cao: Sơn Động, Lục Ngạn, Lục Nam, Yên Thế, Lạng Giang,
Tân Yên. Các DTTS ở Bắc Giang có truyền thống yêu nước, cần cù trong lao
động sản xuất, đoàn kết, gắn bó, yêu thương, đùm bọc, giúp đỡ lẫn nhau, tin
tưởng tuyệt đối vào sự lãnh đạo của Đảng. (xem phụ lục 2)
Bắc Giang cũng là tỉnh có đặc điểm văn hóa phong phú và đa dạng, được
quy tụ và thể hiện thông qua đời sống, phong tục, tập quán truyền thống của

cộng đồng mỗi dân tộc; biểu hiện qua các sinh hoạt tín ngưỡng dân gian, tín
ngưỡng tôn giáo ở lễ hội truyền thống. Mỗi dân tộc có một bản sắc, tập tục, sắc
thái văn hóa truyền thống riêng, cư trú đan xen nhau giữa đồng bào miền xuôi
với đồng bào miền núi, giữa đồng bào kinh với đồng bào các DTTS tạo thành
một cộng đồng các dân tộc thống nhất, đoàn kết, tương trợ, giúp nhau cùng
phát triển, làm phong phú, đa dạng và tạo nên một sắc thái văn hóa riêng vùng
đồng bào dân tộc miền núi tỉnh Bắc Giang.
Từ những đặc điểm về điều kiện tự nhiên, KT- XH và những đặc điểm
tình hình dân tộc ở tỉnh Bắc Giang nêu trên, rút ra những thuận lợi, khó khăn
tác động đến việc triển khai thực hiện CSDT trên địa bàn của Tỉnh là:
Về thuận lợi: Bắc Giang là tỉnh có vị trí địa chính trị hết sức quan trọng
thuộc khu vực Đông Bắc bộ của Tổ quốc, cùng với những thuận lợi về thời tiết,
khí hậu, thổ nhưỡng, thủy văn do thiên nhiên ban tặng, Bắc Giang còn có hệ
thống kết cấu giao thông, kết cấu hạ tầng kinh tế khá phát triển, đây là những
tiềm năng lớn để Đảng bộ Tỉnh triển khai các chương trình phát triển KT - XH
vùng đồng bào DTTS. Mặt khác, là Tỉnh có cơ cấu dân tộc đa dạng, mỗi dân
tộc có những sắc thái riêng trong phương thức sản xuất, sắc thái trong văn hóa

11


tộc người là những cơ sở thuận lợi cho Đảng bộ Tỉnh phát huy sức mạnh tổng
hợp của cả HTCT ở cơ sở, thực hiện có hiệu quả CSDT trên địa bàn Tỉnh.
Về khó khăn: Là Tỉnh có địa hình bị chia cắt mạnh, do đó việc phát triển
KT - XH đối với đồng bào còn gặp nhiều khó khăn. Quy mô và trình độ phát
triển kinh tế, văn hóa xã hội giữa các dân tộc với nhau và giữa đồng bào dân
tộc vùng miền núi so với vùng đồng bằng còn nhiều chênh lệch lớn. Vùng
DTTS của tỉnh Bắc Giang kinh tế chủ yếu là thuần nông, kết cấu hạ tầng kinh
tế mặc dù đã được đầu tư nâng cấp, nhưng chưa đáp ứng yêu cầu phát triển
kinh tế và sinh hoạt nhân dân; kết quả giảm nghèo chưa thực sự bền vững,

nguy cơ tái nghèo cao, gây nên những khó khăn không nhỏ cho việc triển khai
thực hiện các mục tiêu phát triển KT- XH cũng như việc thực hiện CSDT trên
địa bàn Tỉnh.
Trình độ văn hóa của đồng bào còn thấp, một số dân tộc đời sống chủ
yếu dựa vào điều kiện thiên nhiên, chưa thích ứng với khoa học kỹ thuật
hiện đại, số ít các dân tộc còn có xu hướng du canh, du cư làm ảnh hưởng
trực tiếp đến hiệu quả thực hiện CSDT trên địa bàn Tỉnh. Một bộ phận đồng
bào DTTS còn chịu nhiều ảnh hưởng của tập tục lạc hậu, bản sắc văn hóa của
một số dân tộc đang đứng trước tình trạng mai một, gây ảnh hưởng lớn đến
việc bảo tồn và phát huy các giá trị văn hóa tộc người.
1.1.1.3. Chủ trương của Đảng, Nhà nước về chính sách dân tộc
trong thời kỳ mới
Trung thành, vận dụng và phát triển sáng tạo lý luận Mác - Lênin, tư
tưởng Hồ Chí Minh vào thực tiễn cách mạng Việt Nam, Đảng Cộng sản Việt
Nam trong quá trình lãnh đạo cách mạng luôn coi vấn đề dân tộc, đoàn kết
các dân tộc có vị trí chiến lược quan trọng lâu dài trong toàn bộ sự nghiệp
cách mạng nước ta. Với quan điểm: Các dân tộc trong cộng đồng dân tộc
Việt Nam không phân biệt già, trẻ, gái, trai, người định cư trong nước hay
định cư ở nước ngoài đều bình đẳng, đoàn kết, tương trợ, giúp đỡ nhau
cùng phát triển. Nhằm cụ thể hóa Nghị quyết Đại hội IX của Đảng, Hội
nghị Trung ương lần thứ bảy khóa IX của Đảng ngày 12/3/2003 đã ra Nghị

12


quyết chuyên đề số 24-NQ/TW Về công tác dân tộc.
Nghị quyết khẳng định:
Vấn đề đại đoàn kết toàn dân tộc, CTDT và tôn giáo đều là những
vấn đề chính trị lớn, có ý nghĩa chiến lược đối với sự nghiệp cách
mạng của nước ta... tạo động lực phát triển kinh tế - xã hội, đẩy

nhanh sự nghiệp CNH,HĐH, giữ vững độc lập dân tộc và thống
nhất đất nước, bảo vệ và phát triển những thành quả của cách mạng
xã hội chủ nghĩa [34, tr.5].
Nghị quyết đã xác định 5 quan điểm cơ bản chỉ đạo CTDT trong
thời kỳ mới:
- Vấn đề dân tộc và đoàn kết dân tộc là vấn đề chiến lược cơ bản,
lâu dài, đồng thời cũng là vấn đề cấp bách hiện nay của cách mạng
Việt Nam.
- Các dân tộc trong đại gia đình Việt Nam bình đẳng, đoàn kết,
tương trợ, giúp nhau cùng phát triển, cùng nhau phấn đấu thực hiện
thắng lợi sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước, xây
dựng và bảo vệ Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa. Kiên quyết
đấu tranh với mọi âm mưu chia rẽ dân tộc.
- Phát triển toàn diện chính trị, kinh tế, văn hóa, xã hội và an ninh –
quốc phòng trên địa bàn vùng dân tộc và miền núi; gắn tăng trưởng
kinh tế với giải quyết vấn đề xã hội, thực hiện tốt chính sách dân tộc;
quan tâm phát triển, bồi dưỡng nguồn nhân lực; chăm lo xây dựng
đội ngũ cán bộ dân tộc thiểu số; giữ gìn và phát huy những giá trị,
bản sắc văn hóa truyền thống của các dân tộc thiểu số trong sự
nghiệp phát triển chung của cộng đồng dân tộc Việt Nam thống nhất.
- Ưu tiên phát triển kinh tế - xã hội các vùng dân tộc và miền núi,
trước hết, tập trung vào phát triển giao thông và kết cấu hạ tầng,
xóa đói, giảm nghèo; khai thác có hiệu quả tiềm năng, thế mạnh của
từng vùng, đi đôi với bảo vệ bền vững môi trường sinh thái; phát
13


huy nội lực, tinh thần tự lực tự cường của đồng bào các dân tộc,
đồng thời tăng cường sự hỗ trợ của Trung ương và sự giúp đỡ của
các địa phương trong cả nước.

- Công tác dân tộc và thực hiện CSDT là nhiệm vụ của toàn Đảng,
toàn dân, toàn quân, của các cấp, các ngành, của toàn bộ hệ thống
chính trị. [34, tr.34 - 35].
Từ những quan điểm trên, Nghị quyết xác định mục tiêu cụ thể đến
năm 2010, trong đó chỉ rõ: Đến năm 2010, các vùng dân tộc và miền núi cơ
bản không còn hộ đói; giảm hộ nghèo xuống dưới 10%; giảm dần khoảng
cách chênh lệch mức sống giữa các dân tộc, các vùng; trên 90% hộ dân có đủ
điện, nước sinh hoạt; xoá tình trạng nhà tạm, nhà dột nát; 100% số xã có
đường ô tô đến trung tâm xã; cơ bản không còn xã đặc biệt khó khăn… Xây
dựng đội ngũ cán bộ DTTS tại chỗ có phẩm chất và năng lực đáp ứng được yêu
cầu của địa phương; củng cố HTCT cơ sở trong sạch, vững mạnh; nâng cao vị
trí, vai trò của Mặt trận Tổ quốc Việt Nam và các đoàn thể nhân dân trong việc
tham gia thực hiện tốt CSDT. Giữ vững an ninh, quốc phòng ở vùng dân tộc và
miền núi; kết hợp phát triển KT - XH với đảm bảo an ninh, quốc phòng ở các
địa bàn xung yếu vùng sâu, biên giới, ngăn chặn việc lợi dụng vấn đề dân tộc,
tôn giáo để phá hoại khối đoàn kết giữa các dân tộc, làm mất ổn định xã hội.
Nghị quyết xác định những nhiệm vụ chủ yếu và cấp bách:
Thứ nhất, đẩy mạnh công tác xóa đói, giảm nghèo, nâng cao mức sống
của đồng bào DTTS, trọng tâm là đồng bào ở vùng cao, vùng sâu, vùng xa;
trong những năm trước mắt tập trung trợ giúp đồng bào nghèo, các dân tộc
đặc biệt khó khăn, giải quyết ngay những vấn đề bức xúc.
Thứ hai, tiếp tục thực hiện có hiệu quả các chương trình phủ sóng phát
thanh, truyền hình; tăng cường các hoạt động văn hóa thông tin, tuyên truyền
hướng về cơ sở…làm tốt công tác nghiên cứu, sưu tầm, gìn giữ và phát huy
các giá trị, truyền thống tốt đẹp trong văn hóa các dân tộc.

14


Thứ ba, củng cố và nâng cao chất lượng HTCT cơ sở ở các vùng

DTTS. Thực hiện tốt Nghị quyết Trung ương 5 (khóa IX) về kiện toàn, nâng
cao chất lượng đội ngũ cán bộ cơ sở, kiên quyết khắc phục tình trạng xa dân
của một số cán bộ; thực hiện tốt công tác quy hoạch, đào tạo, bồi dưỡng, sử
dụng, đãi ngộ, luân chuyển cán bộ. Đẩy mạnh phát triển đảng viên trong đồng
bào dân tộc.
Thứ tư, xây dựng thế trận quốc phòng toàn dân và thế trận an ninh nhân
dân, phát huy sức mạnh tại chỗ để sẵn sàng đập tan âm mưu phá hoại của các
thế lực thù địch; tăng cường công tác an ninh chính trị và trật tự an toàn xã
hội, không để xảy ra những điểm “nóng” về an ninh trật tự xã hội ở vùng dân
tộc và miền núi.
Thứ năm, đổi mới nội dung, phương thức CTDT phù hợp với nhiệm vụ
trong tình hình mới.
Về một số giải pháp chủ yếu, Nghị quyết chỉ rõ:
Nâng cao nhận thức, trách nhiệm của HTCT, các cấp, các ngành và
toàn thể xã hội về vị trí, nhiệm vụ của CTDT trong tình hình mới. Xem việc
quán triệt và thực hiện tốt CSDT của Đảng là nhiệm vụ thường xuyên và quan
trọng của các cấp ủy, tổ chức đảng, chính quyền, Mặt trận Tổ quốc, đoàn thể
từ Trung ương đến địa phương.
Tiếp tục thực hiện tốt các chính sách phát triển KT - XH vùng dân tộc và
miền núi; rà soát, điều chỉnh, bổ sung để hoàn chỉnh những chính sách đã có
và nghiên cứu ban hành những chính sách mới, để đáp ứng yêu cầu phát triển
các vùng dân tộc và nhiệm vụ CTDT trong giai đoạn mới.
Thực hiện tốt công tác quy hoạch, đào tạo, bồi dưỡng, sử dụng cán bộ
là người DTTS cho từng vùng, từng dân tộc.
Tăng cường công tác vận động quần chúng trong việc bảo đảm thực
hiện tốt CSDT trong giai đoạn cách mạng hiện nay.
Những quan điểm, mục tiêu, nhiệm vụ, giải pháp được xác định trong
Nghị quyết Hội nghị tiếp tục được các kỳ Đại hội Đảng lần thứ X, XI, XII

15



bổ sung, phát triển phù hợp với thực tiễn đặc điểm tình hình nhiệm vụ đất
nước. Đây chính là thể hiện sự vận dụng sáng tạo các quan điểm của chủ
nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh về vấn đề dân tộc và giải quyết
vấn đề dân tộc vào thực tiễn cách mạng Việt Nam của Đảng ta. Đó cũng là
tiền đề, cơ sở để Đảng bộ tỉnh Bắc Giang quán triệt, vận dụng và đề ra những
chủ trương, chính sách đối với đồng bào DTTS một cách đúng đắn, phù hợp
với thực tiễn tình hình nhiệm vụ của Tỉnh.
1.1.1.4. Tình hình thực hiện chính sách dân tộc của Đảng ở tỉnh Bắc
Giang trước năm 2005
* Thành tựu:
Một là, nhận thức của cấp ủy đảng, chính quyền và các đoàn thể nhân
dân ở địa phương về thực hiện CSDT của Đảng được nâng lên một bước.
Tỉnh ủy, HĐND Tỉnh đã không ngừng tổ chức quán triệt và thực hiện nghiêm
túc các nghị quyết, chỉ thị của Đảng và Nhà nước về CSDT. Kịp thời thể chế
hóa thành nghị quyết, chương trình hành động bảo đảm sự lãnh đạo thống
nhất nhằm thực hiện tốt CSDT ở địa phương. Trong từng giai đoạn và nhiệm
vụ cụ thể, UBND Tỉnh đã có kế hoạch, tổ chức chỉ đạo sâu sát, có hiệu quả
đối với các sở, ban, ngành, các tổ chức chính trị - xã hội, đoàn thể địa phương
nhằm tạo mọi điều kiện thuận lợi, tập trung phát triển sản xuất, nâng cao đời
sống vật chất và tinh thần cho nhân dân các dân tộc trong Tỉnh.
Hai là, tình hình KT - XH vùng đồng bào DTTS của Tỉnh có sự phát
triển tương đối toàn diện. Các lĩnh vực kinh tế đều tăng trưởng khá, nhất là
trong nông nghiệp, lâm nghiệp, xây dựng cơ sở hạ tầng và một số ngành nghề
tiểu thủ công nghiệp. “Giá trị tổng sản phẩm toàn vùng năm 2004 đạt 508,2 tỷ
đồng, tăng 41% so với năm 2000” [18, tr.8]. Trong đó: Nông nghiệp bước đầu
đã chuyển dịch theo hướng sản xuất hàng hóa; trong lâm nghiệp đã từng bước
giúp đồng bào các dân tộc vùng núi ổn định cuộc sống và gắn bó hơn với
nghề rừng, xuất hiện nghiều hộ gia đình làm kinh tế trang trại, kinh doanh

vườn rừng đạt hiệu quả cao; một số ngành nghề như sản xuất vật liệu xây
dựng, chế biến nông, lâm sản, cơ khí sửa chữa, khai thác khoáng sản đã được
hình thành và bước đầu phát triển; các hoạt động thương mại dịch vụ được

16


tăng cường đầu tư và phát triển. Công tác xóa đói, giảm nghèo ở vùng đồng
bào các DTTS đạt được nhiều kết quả tích cực.
Ba là, các lĩnh vực giáo dục - đào tạo, y tế, văn hóa vùng miền núi và
DTTS đều có những bước phát triển cả về quy mô và chất lượng. “Đến cuối
năm 2004, 100% các xã vùng cao, miền núi đã hoàn thành xóa mù chữ, đạt
tiêu chuẩn phổ cập tiểu học và trung học cơ sở, huy động được 98% các
cháu trong độ tuổi ra lớp học; 100% các xã có trạm y tế, 72% số trạm y tế có
bác sỹ, 100% thôn bản có nhân viên y tế hoạt động” [18, tr.15]. Đã đầu tư
xây dựng 9 trạm phát lại truyền hình, 43 trạm truyền thanh không dây, nâng
diện tích phát thanh lên 100%, diện tích phủ sóng truyền hình đạt 85%, cấp
hơn 1000 tivi, 5 nghìn radio, 16 loại báo, tạp chí cho đồng bào các xã đặc
biệt khó khăn; đời sống tinh thần đồng bào các DTTS ổn định, từng bước
được cải thiện.
Bốn là, tình hình an ninh chính trị được giữ vững, khối đại đoàn kết các
dân tộc được củng cố; HTCT vùng dân tộc và miền núi nhất là các xã đặc biệt
khó khăn được củng cố, tăng cường; công tác đào tạo cán bộ người DTTS
được quan tâm đúng mức, đã đào tạo được 72 cán bộ có trình độ trung cấp
quản lý kinh tế, bồi dưỡng về lý luận và nghiệp vụ cho gần 1000 cán bộ các
xã, thôn, bản về đường lối của Đảng, chính sách, pháp luật Nhà nước.
* Hạn chế
Một là, kinh tế vùng sâu, vùng xa, vùng đồng bào DTTS của Tỉnh còn
chậm phát triển, năng suất, hiệu quả thấp, cơ cấu kinh tế chuyển dịch chậm, đời
sống vật chất đồng bào DTTS còn nhiều khó khăn. Trong sản xuất nông, lâm

nghiệp gắn với chế biến và tiêu thụ sản phẩm, chính sách hỗ trợ trực tiếp cho
các hộ nghèo về giống cây trồng quá trình triển khai thực hiện chưa đạt hiệu
quả cao. Phát triển kinh tế hàng hóa chưa đáng kể, phổ biến vẫn là sản xuất
nhỏ. Chất lượng xây dựng cơ bản một số công trình chưa bảo đảm, công tác
quản lý, sử dụng, bảo trì các công trình sau đầu tư chưa được quan tâm đúng
mức. Các cơ sở và điều kiện phục vụ cho chuyển hướng sản xuất còn nhiều bất

17


cập, đường giao thông đi lại còn khó khăn, ảnh hưởng trực tiếp đến sự phát
triển kinh tế đồng bào các DTTS của Tỉnh.
Hai là, chất lượng giáo dục - đào tạo, y tế, văn hóa vùng miền núi và
DTTS nhìn chung còn thấp. Tỷ lệ giáo viên người địa phương còn ít, cơ sở
vật chất trang thiết bị dạy học còn thiếu thốn, việc đào tạo nghề cho đồng
bào chưa được quan tâm đúng mức. Công tác chăm sóc sức khỏe nhân dân
còn nhiều khó khăn, còn để bệnh dịch xảy ra. Một số tập tục lạc hậu có xu
hướng phát triển như ma chay, mê tín dị đoan. Một số bản sắc văn hóa, tiếng
nói và chữ viết của đồng bào DTTS đang bị mai một, đời sống tinh thần còn
nhiều khó khăn.
Ba là, tỷ lệ đói nghèo ở vùng đồng bào DTTS của Tỉnh còn ở mức cao,
kết quả xóa đói, giảm nghèo chưa vững chắc. Một bộ phận đồng bào dân tộc
còn tư tưởng ỷ lại vào sự trợ giúp của Nhà nước, chưa chủ động khai thác
những tiềm năng sẵn có và sử dụng hiệu quả sự đầu tư của Nhà nước để vươn
lên xóa đói giảm nghèo. Tỷ lệ hộ nghèo còn cao, hàng năm vẫn còn hộ gia
đình bị đói giáp hạt.
Bốn là, tình hình an ninh chính trị còn diễn biến phức tạp, HTCT ở cơ
sở còn nhiều hạn chế, bất cập; đội ngũ cán bộ cơ sở còn hạn chế về trình độ
năng lực, nhất là trình độ quản lý nhà nước về kinh tế, tài chính, đất đai, tỷ
lệ đảng viên là người DTTS trong các chi bộ đảng còn ít.

1.1.2. Chủ trương của Đảng bộ tỉnh Bắc Giang về thực hiện chính sách
dân tộc (2005 - 2010)
Trên cơ sở quán triệt và tổ chức thực hiện nghiêm túc Nghị quyết Hội nghị
Trung ương lần thứ bảy khóa IX của Đảng ngày 12/3/2003 Về công tác dân
tộc, từ đặc điểm tình hình nhiệm vụ của địa phương, trong những năm
2005 - 2010, Đảng bộ tỉnh Bắc Giang đã ban hành nhiều chủ trương nhằm
thực hiện tốt CSDT của Đảng trên địa bàn Tỉnh. Những chủ trương đó được
thể hiện:
Nghị quyết Đại hội đại biểu Đảng bộ tỉnh Bắc Giang lần thứ XVI (2005),

18


xác định phương hướng, mục tiêu phát triển của Tỉnh giai đoạn 2006 - 2010, chỉ
rõ: “Chủ động và tranh thủ các nguồn lực từ bên ngoài; phát huy hơn nữa
các tiềm năng, lợi thế của địa phương, đẩy nhanh tốc độ tăng trưởng kinh tế
và chuyển dịch cơ cấu kinh tế theo hướng công nghiệp hóa, hiện đại hóa,
nâng cao chất lượng, hiệu quả sức cạnh tranh của nền kinh tế” [3, tr.43]. Mặt
khác, Nghị quyết còn xác định: “Chú trọng phát triển nguồn nhân lực, ứng
dụng mạnh mẽ khoa học - kỹ thuật vào sản xuất và đời sống. Quan tâm
xây dựng và phát triển văn hóa; đẩy mạnh giải quyết việc làm, giảm
nghèo, nâng cao đời sống vật chất, tinh thần cho nhân dân, nhất là đối với
vùng sâu, vùng cao, vùng có nhiều khó khăn” [3, tr.43].
Như vậy, Nghị quyết Đại hội lần thứ XVI của Đảng bộ Tỉnh đã xác
định những yêu cầu khách quan phải phát huy sức mạnh tổng hợp của cả
HTCT ở cơ sở nhằm phát triển KT-XH, cải thiện và nâng cao đời sống vật
chất, tinh thần cho nhân dân, nhất là đối với vùng sâu, vùng cao, vùng
đồng bào DTTS và miền núi. Đây là những quan điểm định hướng lớn, thể
hiện sự nhất quán trong chủ trương lãnh đạo của Đảng bộ Tỉnh nhằm thực
hiện tốt CSDT trên địa bàn Tỉnh. Từ chủ trương này, đòi hỏi các cấp, các

ngành, các cơ quan, đơn vị, cá nhân và tổ chức, các đơn vị kinh tế…tổ
chức quán triệt và thực hiện tốt các nhóm ưu tiên phát triển nhằm thực
hiện thắng lợi các mục tiêu, nhiệm vụ đặt ra, đưa Bắc Giang ra khỏi tình
trạng tỉnh nghèo, cùng với các địa phương trong cả nước thực hiện thắng
lợi sự nghiệp CNH, HĐH đất nước.
Nhằm thực hiện thắng lợi Nghị quyết Đại hội lần thứ XVI của Đảng bộ
Tỉnh, ngày 12/6/2004 Ban Thường vụ Tỉnh ủy đã ra Kế hoạch 37-KH/TU và
Chương trình hành động 40-CTr/TU ngày 19/4/2005 Về thực hiện Nghị quyết
24/NQ-TW ngày 12/3/2003 của Ban Chấp hành Trung ương khóa IX về công
tác dân tộc. Nội dung cụ thể:
* Phương hướng chung:

19


Phát huy thế mạnh, tiềm năng, lợi thế vùng đồng bào dân tộc miền
núi, tận dụng và phát huy hiệu quả CSDT của Đảng và Nhà nước
nhằm phát triển KT - XH vùng DTTS toàn diện, nhanh, bền vững;
đẩy mạnh giảm nghèo vùng DTTS, rút ngắn khoảng cách phát triển
giữa các dân tộc; hình thành các vùng chuyên canh sản xuất hàng
hóa có giá trị; phát triển nguồn nhân lực vùng DTTS; tăng cường số
lượng, nâng cao chất lượng đội ngũ cán bộ là người DTTS; củng cố
HTCT cơ sở; giữ vững khối đại đoàn kết các dân tộc; tăng cường
quốc phòng - an ninh, giữ vững an ninh, chính trị và trật tự an toàn
xã hội. [80, tr.11]
* Mục tiêu cụ thể:
- Giảm tỷ lệ hộ nghèo, cận nghèo các xã vùng DTTS bình quân giảm
từ 4% đến 4,5%/năm; phấn đấu đến năm 2010 trên 65% nhà ở đạt tiêu
chuẩn; giải quyết cơ bản tình trạng thiếu đất, nước phục vụ sản xuất.
- Người DTTS trong độ tuổi lao động được qua bồi dưỡng, tập huấn,

đào tạo đến năm 2010 đạt trên 55%, trong đó có 30% được đào tạo
nghề; 98% trở lên số trường học kiên cố, nhà công vụ cho giáo viên
và nhà bán trú cho học sinh ở những nơi cần thiết; trên 99% trẻ em
trong độ tuổi được đến trường.
- Số cán bộ là người DTTS trong HTCT các cấp phải đảm bảo tỷ lệ,
cơ cấu hợp lý; 100% cán bộ công chức cấp xã được đào tạo, trên 70%
có trình độ từ cao đẳng, đại học trở lên. Xây dựng HTCT vững mạnh,
tăng cường khối đại đoàn kết các dân tộc, giữ vững và tăng cường
quốc phòng, an ninh, ổn định trật tự an toàn xã hội ở vùng DTTS.
- Phấn đấu đạt 100% đường trục liên xã được nhựa hóa, bê tông
hóa; trên 50% đường trục thôn, xóm được cứng hóa đạt chuẩn
theo cấp kỹ thuật. [80, tr.11 - 12]
* Nhiệm vụ, giải pháp
20


Thực hiện phương hướng, mục tiêu cụ thể nêu trên, Đảng bộ Tỉnh xác
định cần tập trung thực hiện đồng thời các nhiệm vụ, giải pháp sau:
Một là, tăng cường công tác lãnh đạo, chỉ đạo của cấp uỷ, chính quyền
các cấp trong việc chăm lo đến đời sống đồng bào DTTS và tổ chức thực hiện
thắng lợi chủ trương, chính sách của Đảng, Nhà nước về CTDT.
Tiến hành tổng kết việc triển khai thực hiện các Nghị quyết, chỉ thị, kết
luận của Ban Chấp hành Trung ương Đảng và Bộ Chính trị về CTDT nhằm
rút ra các bài học kinh nghiệm trong thực hiện CSDT. Cụ thể hóa Nghị quyết,
chỉ thị, quyết định của Chính phủ về CTDT nhằm phù hợp và có tính khả thi
trong thực hiện trên địa bàn Tỉnh. Tiếp tục thực hiện công tác tuyên truyền,
quán triệt nâng cao nhận thức của các cấp ủy, chính quyền, các đoàn thể chính
trị - xã hội và nhân dân, đồng bào dân tộc về các chủ trương, đường lối của
Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước về CTDT; chỉ đạo thực hiện đồng
bộ, lồng ghép có hiệu quả các chương trình, chính sách, đề án đã được Thủ

tướng Chính phủ phê duyệt tại vùng dân tộc và miền núi; trong đó tập trung và
chủ động triển khai tổ chức thực hiện các chính sách: Chương trình 135, Chương
trình 30a tại huyện nghèo Sơn Động, Chương trình phát triển KT - XH ở 13 xã
nghèo huyện Lục Ngạn, Chương trình đào tạo nghề cho lao động nông thôn.
Hai là, phải xác định nhiệm vụ trọng tâm là phát triển kinh tế, xóa đói
giảm nghèo, tăng cường sản xuất, ứng dụng tiến bộ khoa học và công nghệ,
ổn định dân cư và đảm bảo môi trường sống vùng DTTS
Đẩy mạnh chuyển dịch cơ cấu kinh tế, phát triển đa dạng các loại hình
kinh tế gắn với bảo vệ rừng; phát huy thế mạnh sẵn có của địa phương nhằm
quy hoạch, hình thành các vùng chuyên canh sản xuất hàng hóa phù hợp với
điều kiện, lợi thế từng vùng (vải thiều, cam đường canh Lục Ngạn, na dai ở
Lục Nam, gà đồi Yên Thế, phát triển rừng kinh tế tại Yên Thế, Sơn Động...);
phát triển đa dạng các cây trồng có lợi thế, sản phẩm đặc sản của địa phương
(mỳ Chũ, gạo nếp Phì Điền, mật ong Sơn Động...); thực hiện chuyển đổi từ

21


chăn nuôi phân tán, thả rông sang phát triển chăn nuôi trang trại, kết hợp chăn
nuôi và trồng rừng; đầu tư, ứng dụng tiến bộ khoa học kỹ thuật vào sản xuất;
xây dựng chính sách hỗ trợ, thu hút đầu tư phát triển công nghiệp chế biến,
tiêu thụ sản phẩm cho đồng bào DTTS.
Phát triển lâm nghiệp đa chức năng để tăng giá trị kinh tế ngành và tăng
năng lực, hiệu lực bảo vệ môi trường, đa dạng sinh học rừng và góp phần xóa
đói giảm nghèo. Quy hoạch, bảo tồn và phát triển các làng nghề truyền thống với
quy mô, cơ cấu sản phẩm, trình độ công nghệ thích hợp với từng vùng. Tích cực
đưa nhanh khoa học kỹ thuật vào sản xuất, chú trọng những ngành kinh tế mũi
nhọn có sức cạnh tranh cao, thể hiện lợi thế so sánh của địa phương.Tạo cơ hội
bình đẳng để đồng bào tiếp cận các nguồn lực phát triển và thụ hưởng dịch
vụ, phúc lợi xã hội; tạo môi trường thuận lợi để thu hút mọi nguồn lực vào

phát triển KT - XH vùng DTTS; hỗ trợ và khuyến khích các doanh nghiệp sử
dụng, giải quyết việc làm cho lao động là người DTTS.
Ba là, quan tâm phát triển giáo dục - đào tạo, y tế, văn hóa vùng dân
tộc và miền núi.
Tổ chức rà soát, bổ sung, điều chỉnh, tăng cường mạng lưới các trường,
cơ sở giáo dục ở vùng DTTS và miền núi, đặc biệt quan tâm tới hệ thống
trường phổ thông dân tộc nội trú, bán trú dân nuôi; nghiên cứu dạy và học ngôn
ngữ DTTS; tăng cường số lượng, chất lượng đội ngũ giáo viên là người DTTS.
Các ngành, các cấp tranh thủ vận động các nguồn vốn hợp pháp trong và ngoài
nước để tăng cường nguồn lực đầu tư cho giáo dục và đào tạo vùng DTTS.
Nâng cao chất lượng dịch vụ y tế, chăm sóc sức khỏe người dân; đào tạo
nâng cao trình độ đội ngũ y, bác sỹ tuyến huyện, xã và cán bộ y tế thôn, bản,
quan tâm y tế dự phòng; luân chuyển, tăng cường cán bộ y tế giỏi cho tuyến
dưới, nhất là các Trạm y tế cấp xã; thực hiện tốt chính sách bảo hiểm y tế, chính
sách hôn nhân và gia đình, chính sách bình đẳng giới, tiến bộ của phụ nữ; chính
sách hỗ trợ dinh dưỡng cho các cháu mẫu giáo, mầm non và học sinh tiểu học.

22


Quan tâm phát triển toàn diện văn hóa DTTS, giữ gìn, bảo tồn, tôn
vinh và phát huy bản sắc văn hóa, ngôn ngữ, chữ viết, tập quán, tín ngưỡng
truyền thống tốt đẹp của đồng bào DTTS; đầu tư xây dựng trung tâm văn
hóa, thể thao tại các xã, cụm xã; phát triển các dịch vụ phát thanh, truyền
hình, viễn thông và công nghệ thông tin đáp ứng nhu cầu sản xuất, sinh
hoạt của người DTTS.
Bốn là, nâng cao chất lượng và hiệu quả hoạt động của HTCT; xây
dựng và phát triển đội ngũ cán bộ người DTTS; tăng cường công tác thông
tin, tuyên truyền; củng cố quốc phòng - an ninh, trật tự an toàn xã hội vùng
DTTS; nâng cao tinh thần tự lực, tự cường, vươn lên thoát nghèo và phát huy

khối đại đoàn kết của đồng bào các DTTS
Quán triệt, triển khai sâu rộng quan điểm của Đảng và Nhà nước về
CTDT đến các tổ chức đảng, chính quyền, đoàn thể nhân dân vùng dân tộc và
miền núi, nâng cao nhận thức của các cấp ủy, chính quyền các cấp về vị trí,
tầm quan trọng của CTDT; thực hiện tốt chế độ, chính sách, phát huy vai trò
người có uy tín góp phần triển khai thực hiện CSDT và đảm bảo quốc phòng an ninh ở vùng DTTS.
Tăng cường công tác bảo đảm an ninh chính trị, trật tự an toàn xã hội,
xây dựng và củng cố khối đại đoàn kết toàn dân tộc, thực hiện tốt công tác
dân tộc, tôn giáo. Kiện toàn và nâng cao hiệu quả hoạt động của HTCT, đặc
biệt là hệ thống cơ quan làm công tác dân tộc từ Tỉnh đến huyện, xã, thực
hiện tốt công tác rà soát, đánh giá, quy hoạch, luân chuyển, đào tạo, đãi ngộ,
thu hút các cá nhân, nhà quản lý giỏi người DTTS; xây dựng chính sách giải
quyết việc làm cho học sinh, sinh viên là người DTTS sau khi tốt nghiệp;
quan tâm đến công tác phát triển đảng ở vùng núi và đồng bào DTTS.
1.2. Đảng bộ tỉnh Bắc Giang chỉ đạo thực hiện chính sách dân tộc
(2005 - 2010)
1.2.1. Chỉ đạo công tác tuyên truyền giáo dục nâng cao nhận thức

23


cho đồng bào các dân tộc thiểu số
Trên cơ sở nhận thức đúng đắn vị trí, ý nghĩa, tầm quan trọng đặc biệt
của công tác tuyên truyền giáo dục nâng cao nhận thức cho đồng bào các
DTTS, trong những năm 2005 - 2010, Đảng bộ tỉnh Bắc Giang đã tập trung
chỉ đạo quyết liệt, thu được hiệu quả thiết thực. Cụ thể:
Nội dung tuyên truyền giáo dục, tập trung chủ yếu vào các văn bản của
Đảng và Nhà nước và địa phương về CTDT và thực hiện CSDT trên địa bàn
Tỉnh như: Nghị quyết 22-NQ/TW của Bộ Chính trị khóa VII, Về một số chủ
trương, chính sách lớn phát triển kinh tế - xã hội miền núi; Nghị quyết 24/NQTW ngày 12/3/2003 của Ban Chấp hành Trung ương khóa IX Về Công tác dân

tộc; Nghị quyết 37-NQ/TW, ngày 01/7/2004 của Bộ Chính trị khóa IX Về đẩy
mạnh phát triển kinh tế - xã hội và bảo đảm quốc phòng, an ninh vùng trung
du và miền núi Bắc bộ đến năm 2020; Nghị quyết Đại hội Đại biểu Đảng bộ
tỉnh Bắc Giang lần thứ XVI (12/2005), Kế hoạch 37-KH/TU ngày 12/6/2004
và Chương trình hành động 40-CTr/TU ngày 19/4/2005 của Ban Thường vụ
tỉnh ủy Bắc Giang Về thực hiện Nghị quyết 24/NQ-TW ngày 12/3/2003 của
Ban Chấp hành Trung ương khóa IX về công tác dân tộc; các chính sách phát
triển KT- XH vùng đồng bào DTTS: Chương trình 135, Nghị quyết 30a của
Chính phủ; các chính sách về hỗ trợ đất ở, đất sản xuất, nhà ở, nước sinh hoạt
cho hộ DTTS nghèo, đời sống khó khăn, chính sách hỗ trợ trực tiếp cho người
dân; các chính sách ưu đãi về giáo dục, y tế, đào tạo nghề, tín dụng cho hộ
nghèo, hộ cận nghèo, hộ mới thoát nghèo, hộ DTTS; các chính sách về phát
triển kết cấu hạ tầng kinh tế và nhiều chính sách cụ thể khác.
Phương pháp, hình thức tuyên truyền giáo dục, được Tỉnh ủy, HĐND,
UBND Tỉnh quan tâm chỉ đạo các cấp, các ngành tổ chức thực hiện với các
hình thức đa dạng, phong phú và thu được hiệu quả thiết thực. Đặc biệt, đã trực
tiếp chỉ đạo các sở, ban, ngành của Tỉnh tập trung nâng cao chất lượng với các
hình thức tuyên truyền miệng gắn với tuyên truyền phổ biến giáo dục pháp luật.

24


Tổ chức có hiệu quả các phong trào thi đua yêu nước, hướng dẫn đồng bào
các dân tộc sống và làm việc theo Hiến pháp và pháp luật; kịp thời biểu
dương và nhân rộng các tấm gương tiêu biểu, nhân tố mới, những gương điển
hình tiên tiến là người DTTS trên các lĩnh vực, tích cực đưa các chủ trương
của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước vào cuộc sống.
Sử dụng các hình thức tuyên truyền, vận động phù hợp với từng đối
tượng, từng địa bàn và điều kiện cụ thể của cơ quan, đơn vị, địa phương. Đã
tổ chức một số hình thức tuyên truyền miệng pháp luật: Mở các lớp tập huấn

hoặc lồng ghép các cuộc họp để giới thiệu, diễn thuyết, nói chuyện chuyên đề,
lồng ghép nội dung pháp luật vào các buổi giao lưu, sinh hoạt văn hóa, văn
nghệ, xây dựng các tiểu phẩm, thơ, ca...Tuyên truyền, phổ biến pháp luật qua
báo chí, mạng lưới truyền thanh cơ sở và thông tin trên mạng Internet. Sử
dụng tối đa các loại phương tiện truyền thanh, truyền hình của cấp huyện, xã;
đa dạng hóa các tài liệu tuyên truyền bao gồm: sách, băng, đĩa hình, pa nô, áp
phích, các ấn phẩm pháp luật... tiếp tục duy trì và nâng cao hiệu quả quản lý,
khai thác sử dụng tài liệu từ tủ sách pháp luật xã, điểm bưu điện xã.
1.3.2. Chỉ đạo phát triển kinh tế - xã hội nâng cao đời sống vật chất,
tinh thần cho đồng bào dân tộc thiểu số trên địa bàn Tỉnh
* Về chỉ đạo phát triển kinh tế, xóa đói, giảm nghèo
Ngày 26/01/2006 UBND Tỉnh ra Kế hoạch 139/KH-UBND, Về phát
triển kinh tế - xã hội vùng đồng bào dân tộc thiểu số và miền núi tỉnh Bắc
Giang giai đoạn 2006 - 2010. Theo đó, UBND Tỉnh đã tích cực chỉ đạo 43
sở, ban, ngành, doanh nghiệp, đơn vị đóng trên địa bàn tập trung mọi nguồn
lực để phát triển kinh tế, xóa đói giảm nghèo vùng đồng bào DTTS, trọng
tâm là các xã đặc biệt khó khăn và các thôn, bản thuộc khu vực III. Nội dung
chỉ đạo cụ thể:
Chỉ đạo huy động và đầu tư các nguồn lực phát triển kinh tế vùng đồng
bào DTTS: Tập trung các nguồn vốn từ các Chương trình mục tiêu quốc gia về

25


×