Tải bản đầy đủ (.pdf) (43 trang)

Đảng bộ tỉnh hà tây lãnh đạo thực hiện xóa đói, giảm nghèo từ năm 1996 đến năm 2006

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (470.2 KB, 43 trang )

ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
TRUNG TÂM ĐÀO TẠO, BỒI DƢỠNG GIẢNG VIÊN LÝ LUẬN CHÍNH
TRỊ

——————————————

HOÀNG TRƢỜNG GIANG

ĐẢNG BỘ TỈNH HÀ TÂY LÃNH ĐẠO THỰC HIỆN
XÓA ĐÓI, GIẢM NGHÈO TỪ NĂM 1996 ĐẾN NĂM 2006

LUẬN VĂN THẠC SĨ LỊCH SỬ

Chuyên ngành: Lịch sử Đảng Cộng sản Việt Nam
Mã số:

60 22 56

Ngƣời hƣớng dẫn khoa học: PGS, TS. ĐOÀN NGỌC HẢI

HÀ NỘI - 2009

1


LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan đây là công trình nghiên cứu của riêng tôi dưới sự hướng dẫn
khoa học của PGS, TS. Đoàn Ngọc Hải.

Các số liệu, tài liệu tham khảo trong luận văn
đều trung thực và có nguồn gốc xuất xứ rõ ràng.


Hà Nội, ngày

tháng

năm 2009.

Tác giả luận văn

Hoàng Trường Giang

2


MỤC LỤC
..................
................................
1
................................................................

Mở đầu

Chƣơng 1. Yêu cầu khách quan và chủ trƣơng của Đảng bộ tỉnh Hà
Tây lãnh đạo thực hiện xoá đói, giảm nghèo từ năm 1996 đến
................................
...
8 ................................................................
năm 2006
1.1. Yêu cầu khách quan thực hiện xóa đói, giảm nghèo ở Tỉnh Hà Tây
................................
........

8
................................
từ năm 1996 đến năm 2006
1.1.1. Điều kiện tự nhiên, kinh tế - xã hội của tỉnh Hà Tây tác động đến
........................
................................
8
thực hiện xoá đói, giảm nghèo ở Tỉnh
......................
13

1.1.2. Thực trạng đói, nghèo ở Hà Tây trước năm 1996 và yêu cầu của
thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước

1.2. Chủ trương của Đảng bộ tỉnh Hà Tây lãnh đạo thực hiện xóa đói,
..................
................................
21
giảm nghèo từ năm 1996 đến năm 2006
........
21

1.2.1. Chủ trương của Đảng Cộng sản Việt Nam về xóa đói, giảm nghèo

1.2.2. Đảng bộ tỉnh Hà Tây vận dụng chủ trương của Đảng vào việc lãnh
đạo thực hiện xoá đói, giảm nghèo trên địa bàn tỉnh từ năm 1996
đến năm 2006 ................................................................................................... 26
Chƣơng 2. Đảng bộ tỉnh Hà Tây chỉ đạo thực hiện xoá đói, giảm
........................
................................

34
nghèo từ năm 1996 đến năm 2006
2.1. Ưu tiên đầu tư phát triển cơ sở hạ tầng đối với các xã có tỷ lệ hộ
......................
................................
34
nghèo cao và vùng đồng bào thiểu số
2.2. Dạy nghề gắn với tạo việc làm cho người lao động, đào tạo cán bộ
............................
42
................................
làm công tác xóa đói, giảm nghèo

...............................
49

2.3. Thực hiện các chính sách hỗ trợ đối với người nghèo

2.4. Phát huy vai trò của các đoàn thể nhân dân trong công tác xoá đói,
...............................
61................................................................
giảm nghèo

Chƣơng 3. Kết quả và một số kinh nghiệm rút ra từ quá trình Đảng
bộ tỉnh Hà Tây lãnh đạo xoá đói, giảm nghèo từ năm 1996 đến
................................
67. ................................................................
năm 2006

3



3.1. Thành tựu, hạn chế và nguyên nhân

............................
67
................................

3.1.1. Thành tựu và nguyên nhân

................................
.......
67
................................

3.1.2. Hạn chế và nguyên nhân

................................
..........
79
................................

3.2. Một số kinh nghiệm chủ yếu rút ra từ quá trình Đảng bộ Tỉnh Hà
................................
.............
83
Tây lãnh đạo công tác xoá đói, giảm nghèo
3.2.1. Tăng cường công tác giáo dục chính trị - tư tưởng, không ngừng
nâng cao nhận thức của cán bộ, đảng viên và quần chúng nhân
................................

......
83
................................
dân về xoá đói, giảm nghèo
3.2.2. Kinh nghiệm về lồng ghép các dự án, chương trình, chính sách
..............................
84................................
cùng lúc giải quyết nhiều vấn đề
3.2.3. Kinh nghiệm về phát huy sức mạnh tổng hợp thực hiện xóa đói, giảm
...........................
................................
86
................................................................
nghèo
3.2.4. Kinh nghiệm về nâng cao chất lượng đội ngũ cán bộ làm công tác
.................
................................
87
................................
xóa đói, giảm nghèo
.............................
89

3.2.5. Kinh nghiệm về tăng cường vai trò và hiệu lực lãnh đạo của Đảng
bộ tỉnh Hà Tây đối với công tác xoá đói, giảm nghèo

................................
.............
91
................................................................


Kết luận

Danh mục tài liệu tham khảo

................................
..........
93
................................

................................
...............
99
................................................................

4

Phụ lục


MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài
Đói nghèo hiện đang là vấn đề xã hội bức xúc của tất cả các quốc gia
trên thế giới và cũng là vấn đề đang được các chính phủ, các nhà lãnh đạo,
các tổ chức quốc tế quan tâm. Năm 1995, Đại hội đồng Liên hợp quốc tuyên
bố 10 năm 1997- 2006 là Thập niên chống đói nghèo. Tháng 9 năm 2000,
trong buổi bình minh của thiên niên kỷ mới, tại trụ sở Liên hợp quốc, 190 vị
đứng đầu các quốc gia trên thế giới đã long trọng cam kết thực hiện Tuyên bố
Thiên niên kỷ của Liên hợp quốc mà mục tiêu số 1 trong tổng số 12 mục tiêu là:
Xoá bỏ tình trạng nghèo cùng cực của loài người, giảm một nửa tỉ lệ người dân

thiếu đói, có mức thu nhập dưới 1 USD/1 ngày trong giai đoạn từ 1990 đến 2015.
Chính phủ Việt Nam coi vấn đề xoá đói, giảm nghèo là một trong
những mục tiêu xuyên xuốt trong quá trình phát triển kinh tế - xã hội của đất
nước. Ngay từ những ngày đầu khi Việt Nam vừa giành được độc lập, tại
phiên họp đầu tiên của Chính phủ lâm thời (3-9-1945), Chủ tịch Hồ Chí Minh
đã xác định đất nước phải đối phó với 3 loại "giặc"- giặc đói, giặc dốt và giặc
ngoại xâm, trong đó Người đặt lên hàng đầu là "giặc đói". Hiện nay, khi đất
nước đang bước vào giai đoạn đẩy mạnh CNH, HĐH thì quan điểm nhất quán
của Đảng và Nhà nước ta là song song với tăng trưởng kinh tế phải tập trung
chú trọng cho giảm nghèo, coi xoá đói, giảm nghèo là nhân tố có ý nghĩa
chính trị - kinh tế - xã hội hàng đầu để đi đến mục tiêu dân giàu, nước mạnh,
xã hội công bằng, dân chủ, văn minh, là một trong những yếu tố cơ bản để
bảo đảm tăng trưởng kinh tế bền vững. Do vậy, năm 1998 Chính phủ đã phê
chuẩn một Chương trình xoá đói, giảm nghèo với tư cách là "Chương trình
mục tiêu Quốc gia".
Trong quá trình thực hiện Chương trình xóa đói, giảm nghèo toàn
Đảng, toàn dân Việt Nam ở khắp mọi miền của đất nước đã và đang ra sức

5


phấn đấu để đạt những mục tiêu đặt ra trong từng giai đoạn. Xoá đói, giảm
nghèo đã trở thành phong trào cách mạng ở các tỉnh, thành phố trong cả nước
- một Chương trình mục tiêu Quốc gia. Trong cuộc đấu tranh đó, quần chúng
đã, đang tạo ra nhiều mô hình xoá đói, giảm nghèo, cũng như các điển hình
xoá đói, giảm nghèo thành công, có hiệu quả và được nhân rộng.
Hà Tây là một tỉnh thuộc khu vực đồng bằng Bắc bộ với dân số khoảng
2,5 triệu người, có địa bàn khá phức tạp, có nhiều thuận lợi, song cũng có
nhiều khó khăn trong phát triển kinh tế - xã hội. Trong những năm qua, Đảng
bộ tỉnh Hà Tây đã lãnh đạo thực hiện xóa đói, giảm nghèo đạt nhiều thành tựu,

song bên cạnh đó cũng còn tồn tại nhiều khuyết điểm, yếu kém cần tiếp tục khắc
phục để công tác xóa đói, giảm nghèo đạt hiệu quả cao và bền vững hơn.
Nghiên cứu quá trình Đảng bộ tỉnh Hà Tây lãnh đạo thực hiện xóa đói,
giảm nghèo giai đoạn 1996 - 2006, ngoài việc khẳng định sự lãnh đạo đúng đắn,
sáng tạo của Đảng bộ tỉnh Hà Tây, đề tài còn đánh giá những thành tựu, hạn chế,
nguyên nhân, tổng kết những kinh nghiệm để vận dụng vào giai đoạn mới.
Với ý nghĩa đó, tôi lựa chọn đề tài "Đảng bộ Tỉnh Hà Tây lãnh đạo
thực hiện xoá đói, giảm nghèo từ năm 1996 đến năm 2006" làm luận văn
thạc sĩ lịch sử, chuyên ngành Lịch sử Đảng Cộng sản Việt Nam.
2. Tình hình nghiên cứu liên quan đến đề tài
Đói nghèo và xoá đói, giảm nghèo ở nước ta là vấn đề được nhiều cơ
quan, các nhà khoa học trong và ngoài nước quan tâm nghiên cứu. Tiêu biểu
là các nhóm công trình sau.
Nhóm 1, Các chuyên luận, chuyên khảo đã in thành sách viết về vấn đề
xoá đói, giảm nghèo ở nước ta được phát hành như: Các tác giả Trần Đình
Hoan, Nguyễn Thị Hằng, Bùi Trọng Thanh, "Vấn đề xoá đói, giảm nghèo ở
nông thôn nước ta hiện nay", Nxb Bộ LĐTB&XH, Hà Nội 1997, trình bày
thực trạng đói nghèo ở nông thôn Việt Nam và những vấn đề cần được giải
quyết; Nguyễn Thị Hằng, Nguyễn Xuân Triều, "Đói nghèo ở Việt Nam", Nxb

6


Bộ LĐTB&XH, Hà Nội 1993, khái quát thực trạng đói nghèo ở nước ta và
những nguyên nhân của thực trạng đó; Nguyễn Văn Tiêm, "Giàu nghèo ở
nông thôn hiện nay", Nxb Nông nghiệp, 1993, nhìn nhận khái quát tình trạng
phân hoá giàu nghèo trong nông thôn Việt Nam…
Nhóm 2, Các bài báo khoa học viết về công tác xoá đói, giảm nghèo
đăng trên các báo, tạp chí như: Tác giả Nhật Tân với bài "Việc xoá đói, giảm
nghèo ở Hưng Hà", Tạp chí Cộng sản số 12 năm 1993; Bạch Đình Ninh với

bài viết "Đói nghèo ở Miền núi Nghệ An- Nguyên nhân và biện pháp khắc
phục" đăng trên Tạp chí Cộng sản số 10 năm 1999; Nguyễn Thị Hằng, "Tiếp
tục đổi mới và thực hiện tốt công tác đền ơn đáp nghĩa trong thời kỳ đổi mới",
Tạp chí Cộng sản số 597, tháng 8 năm 2000; Bùi Minh Đạo, "Giảm nghèo ở
vùng dân tộc thiểu số nước ta hiện nay", Tạp chí Cộng sản số 677, tháng 5
năm 2003; Tạ Trung, "Xoá đói, giảm nghèo và việc làm - vấn đề có giá trị
nhân văn sâu sắc"…
Nhóm 3, Những luận văn, luận án của học viên cao học, nghiên cứu
sinh lấy xoá đói, giảm nghèo làm đề tài nghiên cứu dưới các góc độ, phương
diện khác nhau như: Trần Đình Đàn - Học viện Chính trị quốc gia Hồ Chí
Minh, Luận án tiến sĩ kinh tế năm 2001, "Những giải pháp kinh tế xã hội chủ
yếu nhằm xoá đói, giảm nghèo ở Hà Tĩnh"; Nguyễn Trọng Xuân - Học viện
chính trị quân sự, Luận án tiến sĩ kinh tế năm 2004, "Quân đội tham gia xoá
đói, giảm nghèo ở Việt Nam trong giai đoạn hiện nay"; Đào Tấn Nguyên Học viện Ngân hàng, Luận án tiến sĩ kinh tế năm 2004, "Giải pháp tín dụng
góp phần thực hiện xoá đói, giảm nghèo của ngân hàng chính sách xã hội
Việt Nam"; Nguyễn Thị Thuận - Đại học Kinh tế quốc dân, Luận án tiến sĩ
kinh tế năm 2004, "Vận dụng lý thuyết giới trong xoá đói, giảm nghèo ở một
số tỉnh Miền Trung"; Đỗ Thị Diệu - Đại học Lâm nghiệp, Luận văn Thạc sỹ
lịch sử năm 2007, “Đảng bộ Thái Bình lãnh đạo thực hiện công tác xoá đói,
giảm nghèo trong những năm 1991-2005”…

7


Nhóm 4, các đề tài, hội thảo khoa học đề cập đến vấn đề đói nghèo và
công tác xoá đói, giảm nghèo cũng được tiến hành trên cả nước: Năm 1999,
Bộ LĐTB&XH tiến hành Hội thảo với chủ đề "Những giải pháp tăng cường
nguồn lực thực hiện mục tiêu xoá đói, giảm nghèo"; Tại Hà Nội, ngày 1516/2/2000, Bộ LĐTB&XH tổ chức cuộc Toạ đàm về Chuẩn nghèo đói ở Việt
Nam; Năm 1998, Hội thảo khoa học đề tài KHXH.03.08, "Công nghiệp hoá,
Hiện đại hoá và những biến đổi xã hội nông thôn- những định hướng chính

sách"; Chu Hữu Quý, Bùi Ngọc Thanh, Chương trình khoa học cấp Nhà nước
KX.08.04, "Các chính sách xã hội nông thôn (1991- 1995)"; Đỗ Nguyên
Phương, đề tài KX.07.05 cấp Nhà nước "Về sự phân tầng xã hội ở nước ta
trong giai đoạn hiện nay"…
Trên địa bàn Hà Tây, các cơ quan như: Ban chỉ đạo xoá đói giảm nghèo
tỉnh và các huyện thị, Sở Lao động Thương binh và Xã hội, Cục thống kê
tỉnh, Hội đồng nhân dân, Hội liên hiệp phụ nữ tỉnh, Mặt trận Tổ quốc tỉnh…
đã tiến hành tổng kết, đánh giá kết quả xóa đói, giảm nghèo ở địa phương.
Có thể khẳng định, các nghiên cứu về nghèo đói và xoá đói, giảm
nghèo ở nước ta rất phong phú, đa dạng, đề cập đến nhiều góc độ, nhiều lĩnh
vực khác nhau. Tuy vậy, hiện nay chưa có một công trình khoa học nào
nghiên cứu sâu, toàn diện về xoá đói giảm nghèo ở Hà Tây, nhất là dưới góc
độ của khoa học Lịch sử Đảng. Nhưng các công trình nghiên cứu kể trên là
những tài liệu quý, tác giả có thể khai thác, vận dụng trong quá trình thực hiện
luận văn của mình.
3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu
* Mục đích nghiên cứu:
Làm sáng tỏ quá trình Đảng bộ tỉnh Hà Tây lãnh đạo thực hiện xoá đói,
giảm nghèo từ năm 1996 đến năm 2006; Góp phần tổng kết sự lãnh đạo của
Đảng bộ tỉnh Hà Tây trong lĩnh vực xoá đói, giảm nghèo, một bộ phận chính

8


sách xã hội của Đảng, qua đó rút ra những kinh nghiệm để vận dụng vào giai
đoạn cách mạng mới.
* Nhiệm vụ nghiên cứu:
+ Làm rõ yêu cầu khách quan để Đảng bộ tỉnh Hà Tây lãnh đạo thực
hiện xoá đói, giảm nghèo.
+ Làm rõ quá trình Đảng bộ tỉnh Hà Tây vận dụng chủ trương của

Đảng, Nhà nước về xoá đói, giảm nghèo, định ra chủ trương và chỉ đạo thực
hiện xoá đói giảm nghèo trên địa bàn của tỉnh.
+ Đánh giá những thành tựu, hạn chế và nguyên nhân; rút ra những
kinh nghiệm từ quá trình lãnh đạo thực hiện xoá đói, giảm nghèo của Đảng bộ
tỉnh Hà Tây để vận dụng vào giai đoạn mới đạt kết quả cao hơn.
4. Đối tƣợng và phạm vi nghiên cứu
* Đối tượng nghiên cứu:
Luận văn nghiên cứu về chủ trương và sự chỉ đạo của Đảng bộ tỉnh Hà
Tây thực hiện xóa đói, giảm nghèo.
* Phạm vi nghiên cứu:
+ Về nội dung: Luận văn tập trung nghiên cứu sự lãnh đạo, chỉ đạo của
Đảng bộ tỉnh Hà Tây về xoá đói, giảm nghèo.
+ Về thời gian: Nghiên cứu quá trình lãnh đạo của Đảng bộ tỉnh Hà Tây
về xóa đói, giảm nghèo từ năm 1996 đến năm 2006.
+ Về không gian: Nghiên cứu về công tác xoá đói, giảm nghèo trên địa
bàn tỉnh Hà Tây cũ.
5. Nguồn tài liệu và phƣơng pháp nghiên cứu
* Nguồn tài liệu:
Để hoàn thành luận văn này tôi đã sử dụng nguồn tư liệu chủ yếu là các
tác phẩm kinh điển, Hồ Chí Minh toàn tập, các Văn kiện, Nghị quyết Đảng
Cộng sản Việt Nam liên quan đến đói nghèo và thực hiện xoá đói, giảm

9


nghèo. Các Văn kiện, Nghị quyết, Báo cáo của Đảng bộ Hà Tây trong thời kỳ
1996 - 2006; các báo cáo tổng kết chương trình xoá đói, giảm nghèo qua các
năm của các ban, ngành và Sở Lao động Thương binh - Xã hội tỉnh Hà Tây và
một số tác phẩm bài viết về Hà Tây. Đây là nguồn tư liệu cơ bản để thực hiện
đề tài này và những tư liệu đó được khai thác từ nhiều nguồn khác nhau

nhưng chủ yếu là tại Trung tâm Lưu trữ của Tỉnh uỷ Hà Tây, UBND tỉnh Hà
Tây và các huyện, thị, Sở Văn hoá Thông tin, Sở Lao động Thương binh - xã
hội tỉnh Hà Tây, Thư viện tỉnh Hà Tây…
Ngoài ra luận văn còn sử dụng các công trình khoa học, các chuyên
luận, chuyên khảo, các luận văn, luận án, các bài viết của các nhà khoa học
liên quan đến vấn đề đói nghèo và xoá đói, giảm nghèo…
* Phương pháp nghiên cứu:
Luận văn sử dụng nhiều phương pháp nghiên, nhưng phương pháp chủ
yếu là: phương pháp lịch sử, phương pháp lôgic,và sự kết hợp hai phương
pháp đó. Ngoài ra, luận văn còn sử dụng các phương pháp khác như phương
pháp thống kê, so sánh, đối chiếu…
6. Đóng góp của luận văn
- Việc nghiên cứu đề tài trước hết nhằm hệ thống hoá chủ trương, chính
sách, biện pháp của Đảng bộ tỉnh Hà Tây lãnh đạo thực hiện xoá đói, giảm
nghèo, bộ phận của chính sách xã hội của Đảng.
- Khẳng định sự lãnh đạo tập trung, có hiệu quả của Đảng bộ tỉnh Hà
Tây trong lĩnh vực xoá đói, giảm nghèo.
- Tổng kết, đúc rút những kinh nghiệm, từ quá trình Đảng bộ tỉnh Hà
Tây lãnh đạo thực hiện xoá đói, giảm nghèo từ 1996 đến năm 2006. Vận dụng
những kinh nghiệm đó vào giai đoạn mới.
- Luận văn là nguồn tài liệu phục vụ cho việc nghiên cứu, giảng dạy,
học tập Lịch sử Đảng trong các học viện, các trường đại học, cao đẳng.

10


7. Kết cấu của luận văn
Ngoài phần mở đầu, kết luận và danh mục tài liệu tham khảo, phụ lục,
luận văn gồm có 3 chương, 8 tiết:
Chƣơng 1. Yêu cầu khách quan và chủ trương của Đảng bộ tỉnh Hà

Tây lãnh đạo thực hiện xoá đói, giảm nghèo từ năm 1996 đến năm 2006.
Chƣơng 2. Đảng bộ tỉnh Hà Tây chỉ đạo thực hiện xoá đói, giảm nghèo
từ năm 1996 đến năm 2006.
Chƣơng 3. Kết quả và một số kinh nghiệm rút ra từ quá trình Đảng bộ
tỉnh Hà Tây lãnh đạo xoá đói, giảm nghèo từ năm 1996 đến năm 2006.

11


Chƣơng 1
YÊU CẦU KHÁCH QUAN VÀ CHỦ TRƢƠNG CỦA ĐẢNG BỘ
TỈNH HÀ TÂY LÃNH ĐẠO THỰC HIỆN XOÁ ĐÓI, GIẢM NGHÈO
TỪ NĂM 1996 ĐẾN NĂM 2006

1.1. Yêu cầu khách quan thực hiện xóa đói, giảm nghèo ở Tỉnh Hà
Tây từ năm 1996 đến năm 2006
1.1.1. Điều kiện tự nhiên, kinh tế - xã hội của tỉnh Hà Tây tác động
đến thực hiện xoá đói, giảm nghèo ở Tỉnh
* Điều kiện tự nhiên
Về vị trí địa lý, Hà Tây có tọa độ địa lý 20,31o - 21,17o vĩ độ Bắc và
105,17o - 106o kinh độ Đông, bao quanh Thành phố Hà Nội về phía Tây Nam
qua các quốc lộ 1, 6, 32. Diện tích chung là 2147 km2, phía Đông giáp Hà
Nội, Hải Dương, Hưng Yên, phía Tây giáp Hòa Bình, phía Bắc giáp Phú Thọ,
phía Nam giáp Hà Nam. Với vị trí địa lý này, Hà Tây có được một số thuận
lợi cơ bản: Nằm sát Thành phố Hà Nội, trung tâm kinh tế - chính trị, văn hóa
của cả nước; Có điều kiện trao đổi, lưu thông hàng hóa với các tỉnh trung du,
miền núi phía Bắc, các tỉnh đồng bằng sông Hồng và các tỉnh phía Nam…
Về khí hậu, trong nền chung của khí hậu miền Bắc Việt Nam là khí
hậu nhiệt đới gió mùa ẩm. Tuy nhiên, do đặc điểm địa mạo, khí hậu của Hà
Tây được chia thành 3 vùng khá rõ rệt: Vùng đồng bằng, có khí hậu nóng ẩm;

Vùng đồi, có nhiệt độ trung bình năm vào khoảng 23,5oC; Vùng núi Ba Vì, có
khí hậu mát mẻ, nhiệt độ trung bình khoảng 18 oC. Khí hậu của Hà Tây cũng
được xem là một nguồn tài nguyên khi nó tạo điều kiện thuận lợi cho người
dân có thể nuôi trồng được nhiều loài động - thực vật. Tuy nhiên, khí hậu Hà
Tây cũng chứa đựng những yếu tố hạn chế như: Vào mùa khô cây trồng thiếu

12


nước; Vào mùa mưa thường bị bão gây úng nội đồng và uy hiếp hệ thống đê
sông chống lụt…
Về địa hình, Hà Tây có các kiểu địa hình cơ bản: Địa hình đồi núi, địa
hình núi và địa hình đồng bằng. Do đó, Hà Tây có điều kiện thuận lợi thực
hiện đa dạng hóa cây trồng, vật nuôi, luân canh được nhiều vụ trong năm.
Song cũng có những khó khăn nhất định, đặc biệt là phải có các công trình
chống úng, kết hợp với việc lựa chọn chế độ canh tác thích hợp với chế độ
mưa, ngập ở những vùng úng trong đê.
Về tài nguyên đất, nhìn chung đất Hà Tây có độ phì nhiêu cao, với
nhiều loại địa hình nên có thể bố trí được nhiều loại cây trồng ngắn ngày, dài
ngày, cây lương thực, cây công nghiệp, đồng cỏ chăn nuôi, cây rừng đa tác
dụng với các hệ thống canh tác khác nhau. Song, tài nguyên đất của Hà Tây
vẫn có những yếu tố hạn chế nhất định: Tầng dày của đất vùng đồi phần lớn là
mỏng, có nơi còn bị đá ong hóa; mặt nước nuôi trồng thủy sản và cây dài
ngày còn thấp...
Về tài nguyên nước, được sông Hồng bao bọc ở phía Đông, sông Đà ở
phía Bắc, sông Đáy và các sông nội địa khác phân bố đều trong lãnh thổ với
mật độ khá cao 60km/km2, với lượng nước hằng năm khoảng 180 - 200 tỷ m3,
bên cạnh đó còn có hệ thống nước ngầm dồi dào và nằm khá nông. Đây được
xem là nguồn tài nguyên khá dồi dào cho nông nghiệp, công nghiệp và sinh
hoạt, nếu xây dựng được hệ thống cấp nước hoàn chỉnh để lấy nước sông và

giữ nước mùa mưa, cấp nước mùa khô. Đi theo nguồn tài nguyên này là
nguồn phù sa bồi đắp hàng trăm triệu tấn/năm.
Về nguồn nhân lực, theo số liệu thống kê, năm 1993 dân số Hà Tây là
2,237 triệu người, tốc độ tăng bình quân là 2%/năm, mật độ dân số bình quân
là 992 người/km2. Về mật độ dân số, Hà Tây gấp 5,1 lần bình quân trong toàn
quốc, là tỉnh đông dân thứ 7 trong cả nước. Lực lượng đang ở tuổi lao động
vào khoảng 1,1 triệu người, trong đó gần 80% là lao động nông nghiệp.

13


Nguồn nhân lực Hà Tây có trình độ văn hoá khá (21% có trình độ văn hoá hết
cấp III, 62% hết cấp II và 14% hết cấp I) [47, tr.12]. Tuy nhiên, cũng dễ nhận
thấy với mật độ dân số đông và tốc độ tăng dân số cao, tao ra sức ép không
nhỏ trong giải quyết việc làm cũng như các vấn đề xã hội khác.
Như vậy, với điều kiện tự nhiên, vị trí địa lý và những nguồn tài
nguyên trên địa bàn, Hà Tây có những nguồn lực quan trọng để phát triển
kinh tế - xã hội, cải thiện và nâng cao đời sống nhân dân, góp phần tạo những
thuận lợi nhất định trong công tác xoá đói, giảm nghèo của tỉnh. Song điều
kiện tự nhiên của Hà Tây cũng mang lại những khó khăn nhất định trong công
tác xoá đói, giảm nghèo, đặc biệt là ở các xã miền núi, vùng đồi gò và vùng
trũng trong khu vực đồng bằng.
* Điều kiện kinh tế - xã hội
Về cơ sở vật chất và kết cấu hạ tầng phục vụ cho phát triển kinh tế- xã
hội của Hà Tây.
Hệ thống thuỷ lợi, trên địa bàn tỉnh đã đảm bảo tưới cho khoảng 85%
diện tích đất trồng lúa và 74% diện tích cây trồng hằng năm. Tuy nhiên, về cơ
bản Hà Tây vẫn thiếu các công trình lấy nước phù sa để cải tạo đồng ruộng,
diện tích được tiêu cũng chưa bảo đảm cho diện tích lúa và cây trồng cạn, hệ
thống trạm bơm, kênh mương do xây dựng quá lâu, thiếu vốn để duy tu, bảo

dưỡng nên hiện chỉ sử dụng được khoảng 70% công suất. Toàn tỉnh có 605
km đê, nhưng chưa thật vững chắc, chỉ đảm bảo an toàn ở cấp độ báo động 3.
Mạng thông tin liên lạc của Hà Tây khá phát triển, đã có những tổng
đài kỹ thuật số, hầu hết các xã đã có điện thắp sáng và điện thoại, đã hình
thành các dịch vụ phi điện thoại như fax, internet… Tuy nhiên, mạng lưới
thông tin bưu chính của tỉnh chưa đáp ứng được nhu cầu, thiết bị còn lạc hậu;
Mạng thông tin ở nông thôn còn thiếu, nhất là những vùng trọng điểm về kinh
tế, văn hoá, du lịch, phòng chống thiên tai. Đặc biệt là hệ thống điện chưa

14


theo quy hoạch phát triển chiến lược của tỉnh, chưa đáp ứng được yêu cầu
phát triển của các khu công nghiệp mới xuất hiện.
Về giao thông vận tải, Hà Tây có mạng lưới giao thông khá phát triển
bao gồm cả đường sắt, đường thuỷ và đường bộ. Có 42,5 km đường sắt đi qua
địa phận, hơn 200 km đường thuỷ được khai thác vận tải, mạng lưới đường bộ
có khoảng 3.000 km, là một trong những tỉnh có mật độ đường bộ cao nhất cả
nước. Tuy nhiên, vẫn còn lượng lớn của các sông nội địa chưa khai thác vận
tải mà chỉ phục vụ tưới tiêu trong sản xuất, đặc biệt là hệ thống đường bộ
cũng không đồng đều, là một cản trở lớn đối với phát triển kinh tế - xã hội
trong nền kinh tế thị trường.
Xuất phát từ điều kiện tự nhiên, Hà Tây có nhiều thuận lợi nhất định
trong phát triển kinh tế - xã hội với cơ cấu ngành nghề đa dạng.
Về nông - lâm nghiệp và thuỷ sản, là tỉnh nằm trong khu vực đồng bằng
sông Hồng, Hà Tây chủ yếu là một tỉnh nông nghiệp. Cây lương thực chiếm
tỷ trọng cao về diện tích 90%. Cây công nghiệp, cây thực phẩm, cây ăn quả
chiếm tỷ trọng nhỏ cả về diện tích và giá trị sản lượng. Bên cạnh ngành trồng
trọt, Hà Tây còn thuận lợi trong việc phát triển chăn nuôi với nhiều loại vật
nuôi như: trâu, bò, ngựa, đặc biệt, chăn nuôi lợn và vịt còn được xem là một

yếu tố thâm canh và sản xuất hàng hoá, chăn nuôi các loại động vật có giá trị
cao như hươu sao, dê cũng được chú ý và phát triển. Về nuôi trồng thuỷ sản,
Hà Tây có diện tích mặt nước khá lớn, song mới sử dụng ở mức thấp và nuôi
tự nhiên là phổ biến.
Về công nghiệp và tiểu thủ công nghiệp, theo số liệu thống kê năm
1993 trên địa bàn Hà Tây có 15 doanh nghiệp công nghệp TW với tổng số
vốn kinh doanh là 127 tỷ đồng và 6.120 lao động (chưa kể xí nghiệp quốc
phòng), 32 doanh nghiệp công nghiệp địa phương với tổng số vốn 33,4 tỷ
đồng và 4.703 lao động, 32 hợp tác xã tiểu thủ công nghiệp đang hoạt động
với 2.150 lao động, 31 doanh nghiệp công nghiệp tư nhân với tổng số vốn

15


đăng ký là 7 tỷ đồng và hơn 4.000 lao động, 6 vạn hộ gia đình cá thể sản xuất
tiểu thủ công nghiệp với 162.000 lao động, trong đó có 88 làng nghề với 54
vạn hộ và 11,3 vạn lao động. Đây là một trong những lợi thế của Hà Tây
trong việc thực hiện xóa đói, giảm nghèo, đặc biệt là vấn đề giải quyết việc
làm cho người lao động để vươn lên thoát nghèo.
Kinh tế du lịch, đây được xem là một thế mạnh của Hà Tây trong phát
triển kinh tế - xã hội. Theo thống kê của Bộ Văn hoá - Thông tin, Hà Tây là
tỉnh đứng thứ ba trong cả nước (sau Hà Nội và Thành phố Hồ Chí Minh) về
số lượng di tích lịch sử (2.000 di tích) với mật độ cao, 14 di tích/100 km 2 (cả
nước là 2,2 di tích/100 km2) . Trong 2000 di tích lịch sử, co gần 400 di tích
được nhà nước xếp hạng, trong đó 12 di tích đặc biệt quan trọng. Tuy nhiên,
hạn chế trong lĩnh vực du lịch của Hà Tây là cơ sở vật chất kỹ thuật và kết cấu
hạ tầng còn kém, mạng lưới giao thông chưa đáp ứng được yêu cầu phát triển du
lịch, hệ thống khách sạn, nhà nghỉ phục vụ cho du lịch chưa tương xứng…
Về phát triển xã hội, với vị trí địa lý và những thuận lợi về điều kiện tự
nhiên, mức thu nhập và đời sống vật chất của nhân dân Hà Tây tương đối khá,

nhất là ở các thành phố, thị xã, thị trấn, thị tứ. Mức hưởng thụ văn hoá của
nhân dân khá cao, trên địa bàn tỉnh có 2 trường đại học, 8 trường cao đẳng,
trung học chuyên nghiệp có 6 trường; hệ thống trường học các cấp có 760
trường, 20% dân số đang đi học các cấp. Toàn tỉnh có 17 bệnh viện, trong đó
bệnh viện tuyến tỉnh có 5, bệnh viện tuyến huyện có 11, 1 bệnh viện tư nhân.
Hằng năm đã khám bệnh cho khoảng hơn 3.000.000 lượt người [47, tr.31].
Với điều kiện kinh tế - xã hội nêu trên, Hà Tây là một tỉnh có những
thuận lợi nhất định trong việc thực hiện công tác xoá đói, giảm nghèo. Song
bên cạnh đó Hà Tây vẫn còn có những khó khăn nhất định, đặc biệt là sự
chênh lệch trong mức sống của các bộ phận dân cư, giữa các địa bàn dân cư
trong các thành phố, thị xã với dân cư sống trong 9 xã miền núi, vùng đồi gò,
bãi giữa sông Hồng… cũng còn rất lớn (Phụ lục 12). Đây là vấn đề đang đặt

16


ra cho sự lãnh đạo, chỉ đạo của Đảng bộ tỉnh cũng như các cấp, các ngành có
liên quan để thực hiện có hiệu quả công tác xóa đói, giảm nghèo.
1.1.2. Thực trạng đói, nghèo ở Hà Tây trước năm 1996 và yêu cầu
của thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước
* Thực trạng đói, nghèo ở Hà Tây trước năm 1996
Tại kỳ họp Quốc hội lần thứ 9 (khoá VIII) từ ngày 27 - 7 đến ngày 12 8 - 1991 đã quyết định tách tỉnh Hà Sơn Bình thành hai tỉnh: Hà Tây và Hoà
Bình. 5 huyện: Ba Vì, Phúc Thọ, Thạch Thất, Đan Phượng, Hoài Đức và thị
xã Sơn Tây được tách khỏi Thành phố Hà Nội trở về Hà Tây. Tỉnh Hà Tây
được tái lập và chính thức đi vào hoạt động từ ngày 1-10-1991.
Sau ngày tái lập Hà Tây cũng có rất nhiều khó khăn, nhưng Đảng bộ và
nhân dân toàn tỉnh đã đoàn kết phấn đấu, vượt qua khó khăn, từng bước giành
được những thắng lợi bước đầu quan trọng trong phát triển kinh tế - xã hội
cũng như trong công tác xóa đói, giảm nghèo. Thời kỳ này công tác xóa đói,
giảm nghèo của Hà Tây tuy chưa được xây dựng thành chương trình cụ thể,

mà nằm trong sự chỉ đạo chung của Tỉnh ủy về phát triển kinh tế - xã hội.
Trong Báo cáo Chính trị của Đại hội Đảng bộ lần thứ XI (3- 1992), đã
xác định, số hộ nghèo của tỉnh còn 15%. Để thực hiện thắng lợi đường lối đổi
mới do Đảng lãnh đạo, phấn đấu vì sự nghiệp “dân giàu, nước mạnh, xã hội
công bằng, văn minh”, Đại hội Đảng bộ Tỉnh lần thứ XI đã đề ra 5 mục tiêu:
Một là, giải quyết tốt vấn đề lương thực… đến năm 1995 đạt 80 vạn
tấn, khắc phục tình trạng đói giáp hạt. Hai là, giảm tỷ lệ sinh mỗi năm xuống
một phần nghìn (1‰). Ba là, xây dựng một số cơ sở hạ tầng bức thiết. Bốn là,
giữ vững ổn định chính trị, chống mọi biểu hiện tiêu cực. Năm là, kiện toàn
và làm trong sạch bộ máy, đổi mới, nâng cao năng lực lãnh đạo của các tổ chức
đảng, hiệu lực quản lý nhà nước, phát huy vài trò của các đoàn thể nhân dân.
Căn cứ vào Nghị quyết Đại hội Đảng bộ lần thứ XI, Tỉnh ủy, UBND
tỉnh đã đề ra những biện pháp:

17


Thứ nhất, khuyến khích các thành phần kinh tế phát triển sản xuất, kinh
doanh. Thứ hai, tăng cường đầu tư vốn để xây dựng cơ sở hạ tầng phục vụ
cho sản xuất và đời sống. Thứ ba, gắn việc phát triển kinh tế với giải quyết
các vấn đề xã hội, thực hiện mục tiêu xóa đói, giảm nghèo. Thứ tư, phát huy
vai trò và trách nhiệm của các cấp, các ngành, các đoàn thể đối với việc thực
hiện phong trào xóa đói, giảm nghèo.
Nhờ những việc làm tích cực trên, đến năm 1994, qua điều tra điểm của
29 xã thuộc 14 huyện, thị xã thì số hộ giàu chiếm 4,33%, số hộ khá là
41,18%, số hộ trung bình 41,96%, số hộ nghèo là 12,53% (trong đó số hộ đói
là 5,06%), thống kê 30.858 hộ là đảng viên, có 7,5% số hộ nghèo (Phụ lục
02). Trong 3 năm (1991 - 1994), ngân hàng đã cho 19 vạn lượt hộ nông dân
vay 240 tỷ đồng để đẩy mạnh thâm canh, tăng năng suất, áp dụng các tiến bộ
kỹ thuật, mở mang ngành nghề, dịch vụ… các đoàn thể cũng đã vận động

tương trợ, giúp đỡ nhau bằng vay vốn, vật tư không lấy lãi trị giá hàng chục tỷ
đồng. Số hộ nghèo đói từ 15% năm 1992, năm 1993 còn 12,53% [47, tr.37].
Tại Đại hội đại biểu Đảng bộ tỉnh Hà Tây lần thứ XII (4- 1996), Đảng
bộ tỉnh đã tổng kết, đánh giá kết quả thực hiện Nghị quyết đại hội nhiệm kỳ
1992 - 1995: Đã hoàn thành vượt mức các chỉ tiêu kế hoạch 5 năm 1991 1995, kinh tế địa phương dần dần ổn định và có bước phát triển. Trong 5 năm
1991- 1995, tổng sản phẩm trong toàn tỉnh (GDP) tăng bình quân hàng năm là
9,5%. Nhịp độ tăng bình quân hàng năm về sản xuất nông nghiệp là 6%.
Lương thực đạt 83 vạn tấn (vượt mức đề ra là 80 vạn tấn), căn bản giải quyết
được nạn thiếu ăn giáp hạt. Các loại rau đậu, cây thực phẩm, cây công nghiệp
đều tăng. Chăn nuôi tăng bình quân hằng năm 14,8%, tỷ trọng chăn nuôi
trong nông nghiệp tăng từ 16% năm 1990 lên 34% năm 1995. Khai thác hơn
3.000 ha đất trống, đồi trọc để trồng chè, cây ăn quả và trồng rừng…[1,
tr.373-374]. Sản xuất công nghiệp, tiểu thủ công nghiệp có nhịp độ tăng bình
quân hằng năm là 14,5% (mức đề ra là từ 8 - 10%). Cơ cấu kinh tế địa

18


phương có bước chuyển dịch tích cực hơn; tỷ trọng công nghiệp và xây dựng
từ 22% năm 1990 tăng lên 25% năm 1995; dịch vụ từ 21% lên 25%; nông
nghiệp từ 57% xuống còn 50%. Những thành quả phát triển kinh tế này có tác
động trực tiếp đến vấn đề xã hội nói chung và xóa đói nghèo nói riêng.
Đại hội khẳng định: Việc xóa đói, giảm nghèo được các đoàn thể, các
tổ chức xã hội động viên đông đảo nhân dân tham gia bằng nhiều việc làm
thiết thực. Toàn tỉnh có 38 vạn lượt hộ được vay hơn 1.700 tỷ đồng vốn của
Nhà nước để sản xuất, tạo thêm việc làm cho hơn 10 vạn người. Số hộ nghèo
đói giảm từ 22% năm 1990 xuống 9,12% năm 1995. Đời sống đại đa số nhân
dân ổn định, nhiều mặt được cải thiện, thu nhập bình quân đầu người năm
1995 đạt 1,4 triệu đồng, tăng 43% so với năm 1990. Phong trào Đền ơn, đáp
nghĩa với người có công được các cấp ủy đảng, chính quyền, đoàn thể và

nhân dân quan tâm; toàn tỉnh đã xây dựng 1.000 ngôi nhà tình nghĩa, góp 2 tỷ
đồng vào sổ tiết kiệm tặng các gia đình liệt sỹ, thương binh. Các đoàn thể và
nhân dân coi trọng đẩy mạnh các hoạt động từ thiện, giúp đỡ những người tàn
tật, rủi ro giảm bớt khó khăn, đặc biệt là một số trẻ em nghèo được giúp đỡ
học tập tốt [1, tr.376]. Công tác y tế có tiến bộ, mạng lưới y tế cơ sở được
chăm lo củng cố; toàn tỉnh có 81% số trạm y tế xã được trang bị dụng cụ y tế,
72% số trạm y tế có y sỹ sản nhi, 20,8% số trạm có bác sỹ. Việc tiêm chủng
cho trẻ em hàng năm đạt 95%. Tỷ lệ trẻ em suy dinh dưỡng từ 50% năm 1990
giảm xuống còn 42% năm 1995… [1, tr.378]
Bên cạnh những thành tựu đã đạt được, Đảng bộ tỉnh cũng chỉ rõ những
tồn tại, yếu kém. Sự chuyển dịch cơ cấu kinh tế còn chậm. Kinh tế nông thôn
ở nhiều xã còn thuần nông, chưa có nông sản hàng hóa, công nghiệp còn nhỏ
bé, chiếm tỷ trọng thấp, công nghệ lạc hậu, chưa có loại sản phẩm có khối
lượng đáng kể. Dịch vụ, du lịch phát triển chưa tương xứng với tiềm năng,
kim ngạch xuất khẩu rất thấp. Chưa tự cân đối được thu chi ngân sách. Tổng
số thu trên điạ bàn mới chiếm 7% GDP và mới bảo đảm 66% nhu cầu chi.

19


Việc huy động và sử dụng các nguồn vốn cho sản xuất còn nhiều hạn chế. Cơ
sở hạ tầng yếu kém và xuống cấp. Chưa phát huy tốt mọi nguồn lực và lợi thế
của một tỉnh có đất đai và ngành nghề tương đối phong phú…
Những thành quả nêu trên của Hà Tây sau 5 năm tái lập đã đạt và vượt
mức so với chỉ tiêu đặt ra, tuy nhiên so với mặt bằng chung của cả nước và
đặc biệt do xuất phát điểm thấp nên trên thực tế những thành quả đó còn rất
hạn chế, nó ảnh hưởng trực tiếp đến đời sống nhân dân và công tác xóa đói,
giảm nghèo của tỉnh.
* Thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa đặt ra những yêu
cầu mới về xoá đói, giảm nghèo

Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VIII (6- 1996) của Đảng, kiểm điểm
10 năm thực hiện đường lối đổi mới toàn diện đất nước, đã đưa nước ta ra
khỏi khủng hoảng kinh tế - xã hội, tạo những tiền đề cho sự nghiệp Công
nghiệp hóa Xã hội chủ nghĩa cho phép chuyển sang thời kỳ mới, thời kỳ đẩy
mạnh CNH, HĐH đất nước. Nằm trong bối cảnh chung này, sự nghiệp phát
triển kinh tế - xã hội nói chung, đặc biệt là công tác xóa đói, giảm nghèo của
Hà Tây đang đứng trước những yêu cầu, những thách thức mới.
Thứ nhất, so với mặt bằng chung của cả nước, nhiều lĩnh vực Hà Tây
còn có những yếu kém. Theo Cục thống kê, GDP năm 1991, Hà Tây đạt
605,8 tỷ đồng, năm 1992 đạt 716,8 tỷ đồng, năm 1993 đạt 807,5 tỷ đồng, nhịp
độ tăng trưởng bình quân là 10%, cả nước là 7,49%. Tỷ lệ huy động ngân
sách từ GDP năm 1992 là 132,9 tỷ và 151,8 tỷ năm 1993, trong khi đó chi
ngân sách năm 1992 là 170,3 tỷ, năm 1993 là 258,4 tỷ. Ngân sách Trung ương
trợ cấp thêm phần thiếu hụt là 78 tỷ năm 1992 và 106,6 tỷ năm 1993. GDP
bình quân đầu người năm 1991 là 149 USD, năm 1992 là 172 USD/230 USD
của cả nước, năm 1993 là 189 USD/242 USD của cả nước…[47, tr.30]. Tuy
kinh tế có tăng trưởng với tốc độ cao, nhưng so với bình quân của cả nước,

20


Hà Tây thấp hơn trên một số mặt chủ yếu: GDP bình quân đầu người, tỷ lệ
huy động ngân sách và đặc biệt là chưa cân bằng được ngân sách.
Trong khi đó, các lĩnh vực chủ yếu của một nền kinh tế, Hà Tây vẫn
còn nhiều hạn chế.
Trong sản xuất nông nghiệp, Hà Tây vẫn còn mang nặng tính độc canh
cây lúa, đã hạn chế tốc độ tăng trưởng của nông nghiệp và thu nhập của nông
dân. Tiềm năng của vùng đồi, vùng bãi, vụ đông trong nội đồng chưa được
khai thác để tạo ra những hướng tăng trưởng mới theo hướng đa dạng hoá cây
trồng, vật nuôi phục vụ cho nhu cầu của khách du lịch và cho xuất khẩu, cải

thiện đời sống dân cư trong khu vực này. Bên cạnh đó, còn tồn tại tình trạng
lãng phí tài nguyên; đất 1 vụ còn lớn (10.000 ha), diện tích mặt nước của 5
con sông và 6.000 ha ao hồ chưa được sử dụng, đất chưa có rừng và đất trống,
đồi, núi trọc có khả năng sử dụng cho nông - lâm nghiệp còn 20.000 ha…
Trong lĩnh vực công nghiệp, công nghiệp Trung ương và địa phương
trên địa bàn tỉnh còn quá nhỏ bé, chiếm tỷ trọng thấp trong GDP; công nghệ
và thiết bị còn lạc hậu (90% xí nghiệp có trình độ công nghệ trung bình và lạc
hậu), phần lớn thiết bị đã sử dụng trên 10 năm. Tiểu thủ công nghiệp có tiềm
năng nhưng phát triển chưa mạnh, chưa ổn định, kỹ thuật còn lạc hậu, chưa có
thị trường, vốn ít, chưa có định hướng, còn mang nặng tính tự phát… chậm
hình thành các sản phẩm chủ lực theo tài nguyên và lợi thế của địa phương,
ngành công nghiệp khai thác và sản xuất vật liệu xây dựng thiếu vốn đầu tư,
công nghệ và thị trường…
Thứ hai, để thực hiện phát triển kinh tế - xã hội theo hướng CNH,
HĐH, làm cho cơ cấu kinh tế chuyển dịch theo hướng tỷ trọng công nghiệp
trong GDP ngày càng tăng... tất yếu phải chú trọng phát triển các ngành công
nghiệp, thu hút các dự án công nghiệp, xây dựng các khu, cụm công nghiệp
trên địa bàn tỉnh. Điều đó dẫn tới một thực trạng là diện tích đất sản xuất
trong nông nghiệp dần bị thu hẹp (Phụ lục 13), đất canh tác có xu hướng giảm

21


do quá trình đô thị hoá và mở rộng thổ cư (bình quân diện tích đất giảm sút
mỗi năm khoảng 4%), số lao động trong nông nghiệp không có việc làm ngày
một tăng. Đây là một trong những nguyên nhân làm gia tăng tỷ lệ đói nghèo
trong nhân dân trên địa bàn tỉnh.
Thứ ba, địa bàn phức tạp, trong điều kiện mới dẫn đến sự không đồng
đều trong phát triển. Hà Tây có địa hình bao quanh thành phố Hà Nội về phía
Tây Nam qua các quốc lộ 1, quốc lộ 6, quốc lộ 32. Toàn tỉnh hiện có 4.503,4

km đường giao thông, trong đó: Ðường do Trung ương quản lý dài 216km,
chiếm 4,79%; đường do tỉnh quản lý dài 374 km, chiếm 8,3%; đường do
huyện quản lý dài 755,1km, chiếm 16,77% và đường do xã quản lý dài
3.158,3km, chiếm 86,74%.
Tỉnh có 12 huyện và 2 thị xã (sau này nâng cấp thành 2 thành phố là Hà
Đông và Sơn Tây), 324 xã, phường, thị trấn. Trong đó có một số huyện rất
thuận tiện giao thông hoặc trực tiếp giáp gianh với Hà Nội như Hà Đông, Sơn
Tây, Hoài Đức, Chương Mỹ… nhưng có 9 xã miền núi và các xã đồi gò, ở
những nơi này tỷ lệ nghèo là rất cao, bình quân tỷ lệ nghèo ở các xã miền núi
là 38,42%, cao gấp 3,8 lần so với các xã đồng bằng; vùng đồi gò là 41,68%,
gấp 4 lần xã đồng bằng) [24, tr.39].
Trong nền kinh tế hàng hóa, nền kinh tế thị trường, việc thuận tiện giao
thông, gần các trung tâm kinh tế là yếu tố rất quan trọng trong phát triển kinh
tế - xã hội. Với địa bàn phân bố khá phức tạp, có 2 thị xã, có các địa bàn giáp
gianh với Thủ đô Hà Nội như Thanh Oai, Chương Mỹ, Hoài Đức… đời sống
nhân dân ở những địa bàn này khá cao về vật chất, tinh thần. Song cũng có
các địa bàn rất xa trung tâm như Mỹ Đức, Ba Vì… thậm chí còn có những xã
miền núi có đồng bào dân tộc sinh sống, các xã vùng trũng, đồi gò và bãi giữa
sông Hồng… đời sống nhân dân ở những địa bàn này lại rất khó khăn bởi
nhiều yếu tố đặc biệt là hạn chế về tư duy, nhận thức, trình độ trong phát triển
kinh tế - xã hội. Do đó, khoảng cách giàu nghèo của Tỉnh là khá cao so với

22


các tỉnh trong khu vực đồng bằng sông Hồng (Phụ lục 12). Đây là một khó
khăn lớn trong việc thực hiện xóa đói, giảm nghèo trên địa bàn Tỉnh.
Thứ tư, đặc điểm dân số, là tỉnh liền kề với Thủ đô Hà Nội, có nhiều lợi
thế để phát triển, yêu cầu xây dựng Hà Tây thành tỉnh giầu mạnh trong thời
kỳ đẩy mạnh CNH, HĐH và bối cảnh hội nhập cao đang đặt ra những thách

thức to lớn cho công tác dân số, với nhiệm vụ điều chỉnh tốc độ gia tăng dân
số, đảm bảo quy mô dân số hợp lý; nâng cao chất lượng dân số đáp ứng
nguồn nhân lực chất lượng cao; hiện đại hóa quản lý dân cư làm căn cứ hoạch
định chính sách phát triển kinh tế - xã hội nói chung, xây dựng kế hoạch cung
cầu hàng hóa và dịch vụ nói riêng.
Hà Tây là tỉnh có mật độ dân số cao, gấp 26 lần mức bình quân chung
của thế giới; gấp 5,1 lần bình quân chung của cả nước và gấp 1,24 lần bình
quân các tỉnh đồng bằng sông Hồng và khoảng cách này còn tiếp tục xa hơn
với tốc độ tăng dân số hằng năm là 2%. Tốc độ tăng lao động của tỉnh cũng là
2%, lực lượng lao động là 1,1 triệu người (khoảng 50% dân số) có thể nói đây
là một thế mạnh. Tuy nhiên, với tốc độ tăng dân số và lao động cao trong điều
kiện quỹ đất không tăng, thậm chí diện tích đất sản xuất còn bị thu hẹp trong
quá trình tiến hành CNH, HĐH thì đây cũng là những thách thức không nhỏ
đối với công tác xóa đói, giảm nghèo và giải quyết việc làm của tỉnh.
Thứ năm, trong quá trình thực hiện công tác xóa đói, giảm nghèo,
chuẩn nghèo chung của cả nước luôn thay đổi cũng đặt ra cho Hà Tây những
yêu cầu mới.
Năm 1993, ngưỡng nghèo và đói được tính theo 2 vùng: Ở nông thôn
ngưỡng nghèo là 15 kg thóc/người/tháng, ngưỡng đói là 8 kg thóc/người/
tháng. Ở thành thị ngưỡng nghèo là 20 kg thóc/người/tháng, ngưỡng đói là 13
kg thóc/người/tháng.
Năm 1997, Chính phủ thông qua chuẩn nghèo mới áp dụng cho giai
đoạn 1996 - 2000 với 3 khu vực: Ở nông thôn miền núi và hải đảo là 55.000

23


đồng/người/tháng. Ở nông thôn đồng bằng và trung du là 70.000 đồng/người/
tháng. Ở thành thị là 90.000 đồng/người/tháng.
Năm 2001, mức chuẩn nghèo được Việt Nam áp dụng trong giai đoạn

2001-2005 là: Vùng nông thôn miền núi và hải đảo là 80.000 đồng/người/
tháng. Vùng nông thôn đồng bằng là 100.000 đồng/người/tháng. Vùng thành
thị là 150.000 đồng/người/tháng.
Giai đoạn 2006- 2010, Chính phủ áp dụng chuẩn nghèo chỉ với 2 khu
vực là thành thị và nông thôn, cụ thể là: Những hộ gia đình ở nông thôn có
mức thu nhập bình quân dưới 200.000 đồng/người/tháng được coi là hộ
nghèo. Ở khu vực thành thị, những hộ có mức thu nhập bình quân dưới
260.000 đồng/người/tháng được coi là hộ nghèo.
Như vậy, tính đến năm 2006, Chính phủ đã 4 lần thay đổi chuẩn nghèo,
theo đó, tỷ lệ hộ nghèo đói ở Hà Tây cũng luôn có sự biến đổi:
Theo số liệu điều tra đầu năm 1996 của Cục thống kê tỉnh Hà Tây, tính
theo chuẩn nghèo của Chính phủ áp dụng cho giai đoạn 1996 - 2000 thì tỷ lệ
nghèo đói ở Hà Tây là 9,15%. Sau 5 năm thực hiện công tác xóa đói, giảm
nghèo, đến năm 2000 tỷ lệ nghèo đói ở Hà Tây là 5,8%. Nhưng theo chuẩn
nghèo mới của Chính phủ áp dụng cho giai đoạn (2001- 2005) thì tỷ lệ nghèo
đói của Hà Tây là 10,42%. Tương tự như vậy, đến năm 2005, tỷ lệ nghèo đói
của Hà Tây giảm xuống còn 5%. Nhưng khi áp dụng chuẩn nghèo mới của giai
đoạn 2006 - 2010 của Chính phủ thì tỷ lệ đói nghèo của Hà Tây lên tới 13,85%.
Sự thay đổi liên tục chuẩn nghèo của Chính phủ dẫn tới một thực trạng
là các hộ cận nghèo theo chuẩn cũ sẽ trở thành các hộ nghèo theo chuẩn mới,
đồng thời còn có tình trạng các hộ đã thoát nghèo lại rơi vào tình trạng tái
nghèo. Vì vậy, đòi hỏi Đảng bộ tỉnh và các Ban, Ngành liên quan phải luôn
chú ý quan tâm, rà soát để có chủ trương, chính sách xóa đói, giảm nghèo phù
hợp với từng thời kỳ, từng giai đoạn.

24


1.2. Chủ trƣơng của Đảng bộ tỉnh Hà Tây lãnh đạo thực hiện xóa
đói, giảm nghèo từ năm 1996 đến năm 2006

1.2.1. Chủ trương của Đảng Cộng sản Việt Nam về xóa đói, giảm nghèo

Ngay từ khi ra đời, nhờ vận dụng sáng tạo lý luận của chủ nghĩa Mác Lênin, tiếp thu có chọn lọc kinh nghiệm của cách mạng thế giới, hiểu rõ thực
tiễn đất nước, Đảng ta xác định rõ con đường phát triển của cách mạng Việt
Nam là hoàn thành độc lập dân tộc rồi tiến thẳng lên CNXH, bỏ qua chế độ
TBCN. Thực tiễn lịch sử gần 8 thập kỷ qua đã kiểm nghiệm đường lối đúng
đắn đó. Sau khi hoàn thành Độc lập dân tộc, bước sang thời kỳ xây dựng
CNXH, một trong những mục tiêu hàng đầu của Đảng là mang lại ấm no,
hạnh phúc cho nhân dân. Sau 5 năm thực hiện đường lối Đại hội IV (121976), đất nước lâm vào khủng hoảng kinh tế - xã hội, đời sống nhân dân hết
sức khó khăn, thiếu thốn; Đại hội V của Đảng (3 - 1982) tập trung vào phát
triển nông nghiệp, coi nông nghiệp là mặt trận hàng đầu, song trên thực tế vấn
đề đói, nghèo trong nhân dân vẫn chưa được giải quyết; đến Đại hội VI (12 1986), Đảng tiếp tục đưa ra 3 chương trình kinh tế lớn là lương thực - thực
phẩm, hàng tiêu dùng và hàng xuất khẩu nhằm bảo đảm an toàn lương thực
trong nước; Đại hội VII của Đảng (6-1991) đề ra phương hướng giải quyết
đời sống nhân dân 5 năm là: Đáp ứng tốt hơn các nhu cầu thiết yếu và ngày
càng đa dạng của các tầng lớp dân cư; bảo đảm vững chắc nhu cầu lương
thực, khắc phục tình trạng thiếu đói giáp hạt ở một số vùng...
Bước vào thập niên 1990, vấn đề Xoá đói, giảm nghèo đã đề ra trong
các diễn đàn, các nghiên cứu nhưng mới được triển khai thành phong trào xoá
đói, giảm nghèo. Năm 1993, Nghị quyết của Quốc hội Việt Nam đã đánh giá
cao tinh thần cộng đồng, tương thân tương ái "trong nhân dân đã phát triển
nhiều hoạt động từ thiện giúp đỡ nhau và phong trào xoá đói, giảm nghèo, đền
ơn đáp nghĩa...". Sáng kiến của Thủ tướng Chính phủ được Mặt trận Tổ quốc

25


×