1
Mở Đầu
1. Tính cấp thiết của đề tài
Là một quốc gia đa dân tộc, trong quá trình lãnh đạo cách mạng Việt
Nam vấn đề dân tộc và chính sách dân tộc là một trong những nội dung cơ bản
đợc Đảng ta và Chủ tịch Hồ Chí Minh hết sức quan tâm thể hiện trong quan
điểm, chủ trơng, đờng lối của Đảng và Nhà nớc ta. Xuất phát từ tình hình đặc
điểm của một quốc gia có nhiều dân tộc, có truyền thống lịch sử, văn hóa lâu
đời; Đảng Cộng sản Việt Nam lấy những nguyên lý của chủ nghĩa MácLênin, t tởng Hồ Chí Minh làm nền tảng t tởng để xây dựng và giải quyết vấn
đề dân tộc trong từng giai đoạn cách mạng, đã vận dụng sáng tạo và đề ra
hàng loạt chính sách cụ thể phù hợp với yêu cầu thực tiễn của đất nớc, đã và
đang đạt đợc nhiều thành tựu quan trọng.
Trong quá trình lãnh đạo cách mạng, Đảng Cộng sản Việt Nam đã đề ra
và ngày càng hoàn thiện chính sách dân tộc trên cơ sở ba nguyên tắc cơ bản:
Đoàn kết - Bình đẳng - Tơng trợ, tạo mọi điều kiện để các dân tộc từng bớc trởng thành trong sự phát triển chung của cộng đồng các dân tộc Việt Nam.
Trong giai đoạn phát triển mới của đất nớc, dân tộc và công tác thực
hiện chính sách dân tộc đang đặt ra nhiều vấn đề cần đợc quan tâm, đầu t
nghiên cứu, nhằm đáp ứng đòi hỏi tất yếu khách quan của sự nghiệp xây dựng
đất nớc theo hớng công nghiệp hóa, hiện đại hóa. Đặc biệt là trong bối cảnh
quốc tế và trong nớc hiện nay, vấn đề dân tộc đang có những diễn biến phức
tạp vừa có những tác động đến quan hệ quốc tế lại vừa mang tính đặc thù
riêng của từng quốc gia. Dân tộc, sắc tộc, tôn giáo, nhân quyền luôn là những
vấn đề nhạy cảm mà các thế lực thù địch tìm mọi cách lợi dụng, coi đó nh
những đột phá khẩu để chống phá sự nghiệp cách mạng của nớc ta; chia rẽ
khối đại đoàn kết toàn dân mà Chủ tịch Hồ Chí Minh và Đảng ta đã dày công
xây dựng, với nhiều thủ đoạn khác nhau nhằm gây mất ổn định cả về chính trị,
kinh tế, văn hóa, xã hội và an ninh quốc phòng.
Là một trong những dân tộc ít ngời ở Việt Nam thực hiện chính sách
dân tộc của Đảng từ khi đất nớc đổi mới, đời sống kinh tế - xã hội của đồng
bào Khmer từng bớc đợc nâng cao hơn. Tuy nhiên, hiện nay vùng đồng bào
dân tộc Khmer vẫn còn là một trong những vùng chậm phát triển còn nhiều
khó khăn đòi hỏi phải có sự quan tâm nhiều hơn nữa.
2
An Giang là một tỉnh ở đồng bằng sông Cửu Long, có vị trí và vai trò
rất quan trọng đóng góp vào việc giữ vững an ninh - quốc phòng và phát triển
kinh tế - xã hội của đất nớc. Đây là vùng kinh tế nông nghiệp trọng điểm của
phía Nam và cả nớc, có điều kiện thuận lợi về địa lý tự nhiên trong phát triển
nông nghiệp. Đồng bào dân tộc ở An Giang với số lợng không nhiều nhng lại
sống trên một địa bàn chiến lợc quan trọng có đờng biên giới tiếp giáp với nớc
bạn Campuchia. Vì vậy, lãnh đạo thực hiện tốt chính sách dân tộc là một vấn
đề Đảng bộ tỉnh An Giang rất quan tâm, để từng bớc cải thiện và nâng cao đời
sống vật chất, tinh thần cho đồng bào dân tộc góp phần củng cố khối đại đoàn
kết toàn dân, ổn định chính trị - xã hội và phát triển bền vững của khu vực
cũng nh của cả nớc, Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ IX đã xác định: Vấn đề
dân tộc và đoàn kết các dân tộc luôn luôn có vị trí chiến lợc trong sự nghiệp
cách mạng.
Vì vậy, nghiên cứu đề tài Đảng bộ tỉnh An Giang lãnh đạo thực hiện
chính sách dân tộc đối với đồng bào Khmer (1996 - 2004)" là cần thiết và có
ý nghĩa thiết thực, đợc tác giả nghiên cứu dới góc độ của chuyên ngành khoa
học Lịch sử Đảng, nhằm làm sáng tỏ những thành công, hạn chế, rút ra những
kinh nghiệm lãnh đạo thực hiện chính sách dân tộc ở An Giang vừa qua để
tiếp tục thực hiện tốt hơn trong thời gian tới.
2. Tình hình nghiên cứu đề tài
Vấn đề dân tộc Khmer đang thu hút sự quan tâm của giới nghiên cứu
hoạch định chính sách, của các nhà khoa học từ nhiều góc độ tiếp cận khác
nhau. Hiện nay, việc nghiên cứu về chính sách dân tộc Khmer đã có các công
trình sau:
- Đề tài khoa học cấp bộ: Lịch sử đấu tranh cách mạng của đồng bào
các dân tộc ít ngời ở nớc ta của ủy ban Dân tộc và Miền núi do TS. Trình Mu
làm chủ nhiệm trong đó có phần đề cập đến Lịch sử đấu tranh của đồng bào
dân tộc Khmer ở Tây Nam bộ đã nghiệm thu năm 1996.
- Luận án tiến sĩ của Nguyễn Thanh Thủy bảo vệ năm 2001: Quá trình
thực hiện chính sách dân tộc của Đảng Cộng sản Việt Nam đối với đồng bào
Khmer ở đồng bằng sông Cửu Long.
- Báo cáo tổng quan đề tài khoa học cấp bộ năm 2003: Một số giải pháp
nâng cao đời sống cho đồng bào dân tộc Khmer ở miền Tây Nam bộ trong
giai đoạn hiện nay do Th.S Lê Tăng làm chủ nhiệm.
3
- Viện Nghiên cứu chính sách dân tộc và miền núi: Vấn đề dân tộc và
định hớng xây dựng chính sách dân tộc trong thời kỳ công nghiệp hóa, hiện
đại hóa, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2004.
- ủy ban Dân tộc - Viện Dân tộc: Một số vấn đề đổi mới nội dung quản lý
nhà nớc và phơng thức công tác dân tộc, Nxb Văn hóa Dân tộc, Hà Nội, 2004.
- Học viện Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh - Trung tâm Khoa học về tín
ngỡng tôn giáo: Kỷ yếu đề tài khoa học cấp bộ: Vấn đề tôn giáo ở khu vực
đồng bào Khmer Tây Nam bộ hiện nay, Hà Nội, 2003 do TS .Hồ Trọng Hoài
chủ nhiệm.
Ngoài ra còn có một số công trình nghiên cứu về ngời Khmer đợc công
bố trên các tạp chí chuyên ngành, cũng nh trong các công trình chuyên khảo
nh: Các dân tộc ở Việt Nam - các tỉnh phía Nam; vấn đề dân tộc ở đồng bằng
sông Cửu Long; Tìm hiểu vốn văn hóa dân tộc Khmer Nam Bộ...
Các công trình trên đây tuy có nhiều cách tiếp cận khác nhau từ góc độ
sử học, dân tộc học, tôn giáo học, kinh tế học đã trình bày, lý giải nhiều vấn
đề đặt ra đối với nghiên cứu đồng bào Khmer nói chung và bớc đầu trình bày
thực trạng đời sống và các giải pháp để nâng cao đời sống cho đồng bào
Khmer ở miền Tây Nam bộ hoặc giới thiệu tổng quan về dân tộc Khmer. Tuy
nhiên cho đến nay cha có đề tài nào trình bày về Đảng lãnh đạo dân tộc
Khmer ở một tỉnh nói riêng.
An Giang là tỉnh có nhiều đồng bào Khmer sinh tụ, đến nay cha có một
công trình nghiên cứu nào về Đảng bộ lãnh đạo thực hiện chính sách dân tộc
đối với đồng bào dân tộc Khmer.
3. Mục đích nghiên cứu và nhiệm vụ của luận văn
- Mục đích nghiên cứu của luận văn: Là trình bày một cách có hệ thống
chủ trơng chính sách dân tộc của Đảng và Nhà nớc ta và quá trình vận dụng
chủ trơng của Đảng để chỉ đạo tổ chức thực hiện chính sách dân tộc đối với
đồng bào Khmer của Đảng bộ tỉnh An Giang, làm rõ sự tác động của chính
sách dân tộc đối với đồng bào Khmer An Giang từ 1996 - 2004.
- Nhiệm vụ của luận văn: Trên cơ sở nghiên cứu, tổng kết thực tiễn luận
văn đánh giá đúng những thành tựu, chỉ ra những hạn chế và rút ra những kinh
nghiệm trong quá trình thực hiện chính sách dân tộc đối với đồng bào Khmer ở
An Giang; bớc đầu đề xuất những giải pháp cơ bản nhằm phát huy tác dụng của
kinh nghiệm trong quá trình thực hiện chính sách dân tộc ở địa phơng.
4. Cơ sở lý luận, phơng pháp nghiên cứu và nguồn t liệu
4
- Luận văn đợc hoàn thành trên cơ sở thế giới quan và phơng pháp luận
chủ nghĩa Mác-Lênin về vấn đề dân tộc và quyền dân tộc tự quyết; sự vận
dụng sáng tạo của Hồ Chí Minh và Đảng Cộng sản Việt Nam trong việc đề ra
đờng lối, chính sách dân tộc thể hiện thông qua kết quả thực hiện chính sách
dân tộc ở An Giang.
- Nguồn t liệu chính để thực hiện đề tài là các văn bản, chỉ thị, nghị
quyết của Đảng và Nhà nớc về chính sách dân tộc và các văn bản cụ thể hóa
việc tổ chức thực hiện các chính sách trên của Đảng bộ An Giang. Tham khảo
và tiếp thu có chọn lọc các kết quả nghiên cứu khác có liên quan đến đề tài.
- Phơng pháp nghiên cứu chủ yếu là phơng pháp lịch sử, phơng pháp
logic. Ngoài ra còn kết hợp các phơng pháp khác nh: đối chiếu so sánh, phân
tích, thống kê, tổng hợp của khoa học lịch sử.
5. Đối tợng, phạm vi và giới hạn nghiên cứu
Luận văn chỉ nghiên cứu việc thực hiện chính sách đối với đồng bào
dân tộc Khmer ở phạm vi tỉnh An Giang. Giới hạn nghiên cứu thuộc giai đoạn
1996 - 2004.
6. Đóng góp của luận văn
- Khẳng định tính đúng đắn những quan điểm của chủ nghĩa MácLênin, t tởng Hồ Chí Minh và của Đảng ta về vấn đề dân tộc. Tìm ra những u
điểm, hạn chế và rút ra những kinh nghiệm trong việc thực hiện chính sách
dân tộc của Đảng thông qua thực tiễn ở An Giang.
- Trình bày một cách hệ thống chính sách dân tộc của Đảng từ 1996 2004 ở An Giang qua đó góp phần vào nghiên cứu trong việc vạch ra những
giải pháp mới xây dựng khối đoàn kết dân tộc của Đảng ở An Giang trong quá
trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa.
7. Kết cấu của luận văn
Ngoài phần mở đầu, kết luận, phụ lục và danh mục tài liệu tham khảo,
luận văn gồm 2 chơng, 6 tiết.
5
Chơng 1
Đảng bộ An GianG lãnh đạo thực hiện chính sách
dân tộc đối với đồng bào khmer (1996-2000)
1.1. Đặc điểm, tình hình đồng bào Khmer ở An Giang
1.1.1. Vị trí địa lý và đặc điểm của An Giang
An Giang là tỉnh ở miền Tây Nam bộ, thuộc vùng đồng bằng sông Cửu
Long là tỉnh biên giới có nhiều dân tộc và tôn giáo. Phía Đông và phía Bắc
giáp tỉnh Đồng Tháp; phía Tây Bắc giáp Vơng quốc Campuchia với đờng biên
giới gần 100km; phía Nam và Tây Nam giáp tỉnh Kiên Giang; phía Đông Nam
giáp tỉnh Cần Thơ.
Là tỉnh đầu nguồn sông Cửu Long, có hệ thống giao thông đờng thủy,
bộ rất thuận tiện. Giao thông chính của tỉnh là một phần mạng lới giao thông
liên vùng quan trọng của quốc gia và quốc tế. Quốc lộ 91 và các sông Tiền,
sông Hậu là những tuyến giao thông quan trọng nối cả đồng bằng sông Cửu
Long với các nớc Campuchia, Lào, Thái Lan thông qua hai cửa khẩu quốc tế
Tịnh Biên và Vĩnh Xơng. Đó là lợi thế cho quá trình mở cửa, phát triển và hội
nhập nền kinh tế An Giang với các tỉnh trong nớc, ngoài nớc, nhất là khu vực
Đông Nam á. Những điều kiện đó, giúp tỉnh phát triển tơng đối đa dạng về
kinh tế và văn hóa. Đồng thời, cũng là một trọng điểm phòng thủ quốc gia ở
biên giới Tây Nam nớc ta.
Diện tích tự nhiên của tỉnh là 3.406 km 2 bằng 1,05% diện tích toàn
quốc và bằng 8,71% diện tích toàn vùng đồng bằng sông Cửu Long (đứng thứ
4 trong vùng), trong đó 80% là đất nông nghiệp, 20 % là vùng núi. Nằm trong
vùng kinh tế đồng bằng sông Cửu Long, An Giang có thế mạnh về sản xuất
lúa gạo, và thủy sản. Với sản lợng lúa đứng đầu trong khu vực (hơn 3 triệu tấn
năm 2004); sản lợng khai thác thủy sản đứng thứ ba, trong đó sản lợng thủy
sản nuôi trồng theo địa phơng lớn nhất toàn quốc (năm 2003 là 136.825 tấn,
chiếm 14,2% cả nớc - Niên giám thống kê 2003). Là tỉnh có cả đồng bằng,
rừng núi, tài nguyên khoáng sản và những di tích văn hóa, lịch sử, danh lam
thắng cảnh nổi tiếng.
Tỉnh có 11 đơn vị hành chính trực thuộc bao gồm: thành phố Long
Xuyên là tỉnh lỵ, thị xã Châu Đốc và 9 huyện (ủy ban Dân tộc Miền núi của
Chính phủ đã công nhận 21 xã vùng núi thuộc 2 huyện Tri Tôn (9 xã) và Tịnh
Biên (12 xã) theo Quyết định 42/UBQĐ ngày 23 tháng 5 năm 1997 và công
6
nhận khu vực vùng dân tộc đồng bằng gồm: xã Lơng An Trà huyện Tri Tôn và
5 xã: Đa Phớc, Khánh Bình, Quốc Thái, Nhơn Hội, Vĩnh Trờng của huyện An
Phú theo Quyết định 21/1998/UBQĐ ngày 25 tháng 02 năm 1998). Có 17 xã
biên giới thuộc 5 huyện, thị giáp Campuchia. Dân số toàn tỉnh là 2.113.429
ngời.
Là vùng đất quần c của nhiều tộc ngời anh em gắn bó từ thời mở đất,
ngoài ngời Kinh ở An Giang còn có khoảng 100.000 ngời dân tộc ít ngời nh:
Khmer, Chăm, Hoa sống xen kẽ với ngời Kinh là những thành phần cơ bản
trong dân số tỉnh An Giang, tạo nên cộng đồng đa dân tộc, là nhân tố quyết
định tình hình phát triển xã hội, xây dựng kinh tế, văn hóa và bảo vệ quê hơng,
Tổ quốc.
Từ xa xa ngời Khmer c dân bản địa và ngời Kinh đã chung sống trên
mảnh đất An Giang, cùng khai phá, phát triển vùng đất này. Đó là một vùng
đất với thiên nhiên hết sức phong phú, giàu tiềm năng nhng cũng đầy cam go,
vất vả.
Phần lớn các nhà nghiên cứu lịch sử, căn cứ vào các nguồn t liệu có đợc từ trớc đến nay, đều thống nhất ý kiến cho rằng vào đầu thế kỷ XVII đã có
những ngời Việt từ miền Trung vào khai thác đất đai và định c trên vùng đất
mà sau này gọi là Nam bộ. Theo Địa chí An Giang:
Vào thế kỷ XVII, cuộc xung đột Trịnh - Nguyễn diễn ra tàn
khốc, nhân dân đói khổ cùng cực. Họ rời bỏ quê hơng làng mạc vào
phía Nam tìm kế sinh nhai, trong đó chủ yếu là nông dân nghèo ở
miền Trung. Vùng đất định c đầu tiên là Biên Hòa, Gia Định. Về
sau, lu dân đến định c dọc sông Cửu Long, khai phá ruộng đất ven
theo bờ sông hay cù lao. Năm 1679, một số quan lại ngời Hán có t tởng phản Thanh phục Minh đem 3.000 quân cùng gia đình đến
Đàng Trong xin c trú. Chúa Nguyễn cho họ trú ngụ ở Mỹ Tho và
Đồng Nai. Năm 1680, Mạc Cửu cùng 200 ngời đến cửa biển Péam
(còn gọi là Mang Khảm, tức Hà Tiên) lập phố chợ, chiêu mộ lu dân,
lập đợc 7 thôn. Đến năm 1698, Nguyễn Hữu Cảnh vâng lệnh chúa
Nguyễn vào Nam kinh lợc, lập phủ Gia Định với hai huyện Phớc
Long và Tân Bình.
Lúc này, vua Chân Lạp là Nặc Thu dựa vào Xiêm tìm cách
chống phá chúa Nguyễn. Dân buôn bán trên sông Cửu Long thờng
7
bị cớp bóc. Tháng 7 năm 1699, chúa Nguyễn Phúc Chu sai Nguyễn
Hữu Cảnh cùng Phạm Cẩm Long đem binh từ Quảng Nam, Bình
Khang (Khánh Hòa) hiệp cùng quân lu thủ Nguyễn Hữu Khánh ở
Trấn Biên kéo quân vào Tân Châu đánh dẹp.
Từ 1705 đến 1757, quân Xiêm thờng xuyên cớp phá Hà Tiên.
Trớc tình thế đó, năm 1708 Mạc Cửu xin thần phục chúa Nguyễn.
Năm 1714, chúa Nguyễn Phúc Chu chấp thuận và phong cho Mạc
Cửu chức Tổng binh cai quản Hà Tiên. Năm 1755, Nặc Nguyên
quấy phá vùng Gia Định, chúa Nguyễn Phúc Khoát sai Nguyễn C
Trinh điều khiển quan binh đánh dẹp. Nặc Nguyên phải nhờ Mạc
Thiên Tứ xin cầu hòa chúa Nguyễn.
Tình hình Chân Lạp cha yên do cuộc tranh giành quyền lực
trong nội bộ vơng triều. Nặc Tôn đợc chúa Nguyễn giúp đở trở lại
nắm quyền ở Chân Lạp. Để tạ ơn chúa Nguyễn, năm 1757, Nặc Tôn
hiến đất Tầm Phong Long.
Thế là trong vòng hơn nửa thế kỷ (1698 - 1757), về cơ bản
chúa Nguyễn đã thiết lập xong bộ máy hành chính trên vùng đất
Nam bộ [66, 229].
Bấy giờ vùng đất An Giang là điểm dừng chân cuối cùng của lu dân ngời Việt trên đồng bằng sông Cửu Long. Ngời Việt và các dân tộc anh em đoàn
kết, gắn bó trong công cuộc bảo vệ và xây dựng vùng đất mới; nơi đây dân c
còn tha thớt, nhiều chỗ bỏ hoang, đầu đời Gia Long mộ dân đến ở, dần dần
khai thác và tạo dựng thôn ấp.
Đời Minh Mạng, nhiều chủ trơng, chính sách mới của nhà nớc phong
kiến khuyến khích việc khai hoang nh miễn thuế một số năm cho ruộng mới
vỡ, phong thởng cho những thành tích mộ dân, lập làng đã có tác dụng kích
thích mạnh đến sản xuất nông nghiệp, làm tăng nhanh dân số.
Các thôn xóm lúc ban đầu (trong thế kỷ XVII) chỉ là một sự kết hợp tự
phát trên tinh thần tơng thân, tơng trợ, cha có luật lệ gì ràng buộc, cha mang
tính chất những đơn vị hành chính, không có những quy chế chặt chẽ với
những lệ làng, hơng ớc nh các làng xã ở miền Bắc và miền Trung. Dần dần về
sau, khi chúa Nguyễn thiết lập chính quyền, các thôn xóm ấy mới trở thành cơ
cấu chính quyền cơ sở. C dân ở đây có cùng chung một nền chính trị, kinh tế
và bình đẳng với nhau trên mọi lĩnh vực. Khác với ngời Khmer ở vùng nội địa
8
và ven biển, vùng ngời Khmer thuộc vùng đồi núi Tây Nam ở An Giang thờng
tha thớt dân c và các phum, sóc ở cách xa nhau, mật độ dân số thấp hơn các
vùng khác. Cảnh quan vùng này có nhiều nét gần gũi với Campuchia bên kia
biên giới, với những đặc trng chung là những dãy thốt nốt, những đồi núi nhỏ
ít bóng cây, những đàn bò thả rông ở sờn đồi. Họ là những di dân từ đất nớc
Campuchia bên kia biên giới đã đến sống ở vùng này. Tuy chịu ảnh hởng về
nhiều mặt của ngời Kinh nhng ngời Khmer vẫn giữ đợc tính dân tộc của mình,
trong quan hệ sinh sống, dựng vợ gả chồng và có nhiều ngời Khmer có dòng
họ ở bên đất nớc Campuchia. Đây cũng là một đặc thù riêng biệt chỉ có ở vùng
dân tộc Khmer An Giang.
Trong lịch sử đấu tranh, xây dựng và bảo vệ Tổ quốc, quê hơng An
Giang dới sự lãnh đạo của Đảng đồng bào Khmer với ngời Kinh cùng phát
huy truyền thống đoàn kết, gắn bó, không ngại hy sinh gian khổ, đóng góp
nhiều công sức, xơng máu cho công cuộc giải phóng dân tộc thống nhất đất nớc; bảo vệ biên giới Tây Nam của Tổ quốc.
Trong cuộc kháng chiến chống Pháp, nhiều đội du kích đợc hình thành,
nhiều cơ sở bí mật đợc xây dựng trong phum, sócTrong kháng chiến chống
Mỹ đồng bào Khmer sẵn sàng đấu tranh bảo vệ cán bộ cách mạng và là lực lợng quan trọng góp phần mở ra vùng giải phóng Bảy Núi trong cuộc Đồng
khởi năm 1960, hơn 5.000 đồng bào Khmer tay không kéo ra thị trấn Tri Tôn
đấu tranh quyết liệt với bọn địch, bất chấp lỡi lê, họng súng. Trong những giai
đoạn tiếp theo của cuộc kháng chiến chống Mỹ ở An Giang, đồng bào Khmer
đã chịu đựng gian khổ hy sinh, bám phum sóc đấu tranh chính trị, đấu tranh
binh vận với địch và với cả binh tề ngời Khmer trong bộ máy của Ngụy để bảo
vệ căn cứ, nuôi chứa cách mạngCuộc chiến tranh biên giới Tây-Nam, bọn
PônPốt đã kích động trên dới hai vạn đồng bào Khmer đang sinh sống cập
tuyến biên giới dài 36 cây số của hai huyện Tịnh Biên và Tri Tôn. Đồng bào
đã đấu tranh rất quyết liệt, không chịu để chúng lợi dụng, hòng sang chiếm
lãnh thổ Việt Nam. Rất nhiều cán bộ, chiến sĩ ngời Khmer đã chiến đấu kiên cờng trớc kẻ thù, đấu tranh không khoan nhợng với bọn phản động Khmer
Crôm để lại nhiều tấm gơng chiến đấu, hy sinh anh dũng nh gia đình Chau
Pút, Chau Xơng, Néang Nghét(Chau Pút bị bọn Khmer Serey sát hại; Néang
Nghét bị tên trởng đồn ngời Khmer hành hình).
9
Trong suốt những năm gian khổ, hào hùng đó quan hệ đoàn kết giữa
các dân tộc trong tỉnh đã không ngừng đợc bồi đắp và phát huy sức mạnh, hợp
thành cộng đồng dân c An Giang đùm bọc nhau trong thời khó khăn và chia sẻ
với nhau cả nghĩa vụ lẫn quyền lợi trong thời bình, trong sự phát triển chung
của tỉnh.
1.1.2. Nét đặc thù trong đời sống kinh tế - xã hội của ngời Khmer
An Giang
- Địa bàn c trú và dân số: Là tỉnh biên giới có nhiều dân tộc và tôn
giáo với tỷ lệ ngời Khmer tơng đối đông so với các dân tộc khác (ngoài ngời
Kinh), có trên 86.000 ngời (chiếm 4,8% dân số toàn tỉnh), họ là c dân bản địa,
sống quần c tập trung tại 2 huyện Tri Tôn và Tịnh Biên (Bảy Núi). Đây là 2
huyện biên giới-dân tộc, không những là địa bàn chiến lợc quan trọng trong
cuộc đấu tranh chống quân xâm lợc của nhân dân An Giang mà còn là nơi dồi
dào tiềm năng khoáng sản, có nhiều đồi núi, chùa Tháp và các khu du lịch, di
tích lịch sử. Còn lại số ít sống tại 3 huyện Châu Thành, Thoại Sơn, Châu Phú.
Đến năm 1978, do chiến tranh biên giới Tây Nam, theo yêu cầu của nhiệm vụ
bảo vệ an ninh Tổ quốc trong thời điểm đó nên đồng bào phần lớn đồng bào
Khmer đợc đa xuống Sóc Trăng sinh sống, đến năm 1979, sau khi chiến
tranh kết thúc họ đợc trở về quê cũ.
Ngời Khmer sinh sống chính bằng nghề nông. Cũng nh nhiều dân tộc
anh em khác, dân tộc Khmer có kinh nghiệm, tập quán thâm canh lúa nớc lâu
đời, canh tác trên các ruộng bậc thang (thờng gọi là ruộng trên). Ngoài ra còn
làm rẫy, nuôi bò, một số ít làm nghề tiểu thủ công nghiệp truyền thống nh dệt,
gốm, làm đờng thốt nốt hơn 90% dân số Khmer chuyên sống bằng việc sản
xuất lúa gạo và gần nh toàn bộ đất đai của ngời Khmer dành cho việc trồng
lúa và hoa màu. Nền kinh tế của ngời Khmer còn mang nặng tính chất tự
cung, tự cấp, lại phụ thuộc nhiều vào thiên nhiên, tập quán canh tác lạc hậu
nên đời sống kinh tế còn nhiều khó khăn, tỷ lệ hộ nghèo (trên 20 %). Nông
sản và các mặt hàng thủ công chủ yếu là cung cấp cho nhu cầu tiêu dùng của
gia đình và phum, sóc, ít trao đổi hàng hóa trên thị trờng. Do vậy, kinh tế hàng
hóa cha chiếm vị trí thỏa đáng ở vùng nông thôn Khmer.
Đa số ngời Khmer gắn bó với các phum, sóc vùng cao bao bọc các
chân núi, hoặc các chùa Phật giáo tiểu thừa, sinh hoạt tơng đối tách biệt với
ngời Kinh vốn thích sống ở các vùng thị tứ hoặc ven trục lộ giao thông thủy,
10
bộ. Do đó, có một số xã rất đông ngời dân tộc Khmer (trong đó có xã chiếm
đến 90% ngời dân tộc Khmer) nh: Châu Lăng, Núi Tô, An Tức, Ô Lâm, Lơng
Phi, Lê Trì, Ba Chúc, Cô Tô thuộc huyện Tri Tôn và Văn Giáo, Vĩnh Trung,
An C, An Hảo, Tân Lợi thuộc huyện Tịnh Biên.
Trình độ dân trí thấp, bị chi phối bởi tôn giáo, các hoạt động văn hóa,
tín ngỡng vừa chịu ảnh hởng của đồng bào Kinh và các dân tộc khác trong
vùng, vừa chịu ảnh hởng từ phía Campuchia. Do đồng bào Khmer sống tập
trung ở hai huyện miền núi, có đờng biên giới giáp với Campuchia nên việc
qua lại biên giới diễn ra khá dễ dàng, có mối quan hệ huyết thống và kinh tế
với một bộ phận ngời Campuchia, đã tạo ra sự giao thoa độc đáo nhng cũng
rất phức tạp.
- Kết cấu xã hội : Đối với ngời Khmer An Giang phum, sóc (Srốk) là
đơn vị xã hội truyền thống. Sóc bao gồm nhiều phum, phum là đơn vị hành
chính nhỏ nhất mang tính chất dòng họ nhiều hơn tính chất hành chính. Phum
thờng đợc quan niệm nh làng, xóm của ngời Việt, plây của ngời Chăm hay
buôn của Tây Nguyên. Thật ra, về cấu trúc cũng nh về chức năng phum của
ngời Khmer có nhiều đặc thù khác với làng của ngời Việt, các phum thờng ẩn
mình sau hàng cây sao cao vút hoặc đợc bao bọc bởi luỹ tre xanh. Tế bào đầu
tiên của một phum Khmer có thể là một tiểu gia đình có cùng huyết thống,
nhng cũng có những phum do một đại gia đình Khmer tạo lập nên bao gồm
những tiểu gia đình c trú kế cận nhau đợc tách ra từ đại gia đình. Theo thời
gian, cơ cấu phum dần dần đợc nới rộng ra, sự tác động này là yếu tố để các
phum phát triển dần lên thành đơn vị c trú lớn hơn gọi là sóc. Đứng đầu phum,
sóc là Mê phum, Mê sóc thông thờng đó là ngời có kinh nghiệm sống, am
hiểu phong tục, tập quán, có uy tín đợc dân bầu lên. Sóc của ngời Khmer đều
có ít nhất một ngôi chùa, Mê sóc cùng với ban tự quản kết hợp với s sãi trong
chùa có trách nhiệm bảo tồn và phát triển cộng đồng, ổn định trật tự xã hội,
hình thành thiết chế văn hóa - xã hội truyền thống mà tôn giáo có vị trí đặc
biệt.
Ngày nay, tổ chức ấp, xã đã phổ biến trong cộng đồng ngời Khmer Nam
bộ. Tuy vậy, dấu ấn của phum, sóc trong việc tụ c theo dòng họ, trong sinh hoạt
cộng đồng ấp và trong sinh hoạt chùa chiền của c dân Khmer vẫn còn.
- Tín ngỡng, tôn giáo: ngời Khmer đã theo đạo Bàlamôn lâu đời, nhng
có lẽ do những giáo điều gò bó và cách phân chia đẳng cấp quá khắt khe của
11
đạo Bàlamôn không phù hợp với tính phóng khoáng, bình dị và dễ dãi của ngời Khmer nên dần dần vị trí của tôn giáo này đã bị Phật giáo Nam tông (còn
gọi là Phật giáo Tiểu thừa hay Phật giáo nguyên thủy) thay thế. Giáo lý đạo
Phật đã hòa nhập vào cuộc sống của ngời Khmer, lâu dần đã trở thành một thứ
đạo lý, ý thức xã hội gắn liền với cuộc sống của mọi thành viên.
Đạo Phật đợc bà con sùng kính, hầu hết ngời Khmer ở An Giang theo
Phật giáo Tiểu thừa với 2 hệ phái: Thamadút (hoàng tộc) và Malamikai (đại
chúng); nhng 2 hệ phái này vẫn đảm bảo mối đoàn kết gắn bó, có 29 ngời theo
tôn giáo khác (Công giáo 6, Phật giáo 7, Cao đài 9, Tin lành 7, tất cả đều từ
Thái Lan hồi hơng về).
Với Phật giáo Tiểu thừa, ngôi chùa là trung tâm của cả vùng, là niềm tự
hào của ngời Khmer. Và trên thực tế, chùa trở thành trung tâm sinh hoạt văn
hóa - xã hội, là nơi bảo tồn giáo lý tôn giáo, sách báo, tác phẩm văn học nghệ
thuật. Vì vậy, chùa có vai trò quan trọng trong đời sống tinh thần vật chất của
ngời Khmer An Giang, đây là môi trờng giáo dục trẻ em (trớc kia là nơi duy
nhất làm chức năng giáo dục) trong các phum, sóc.
Trong mỗi chùa có nhiều s, do s cả đứng đầu. Thanh niên ngời Khmer
trớc khi trởng thành thờng vào chùa đi tu vì chỉ có đi tu mới đợc xã hội trọng
vọng. Họ đi tu là để trau dồi kiến thức và đức hạnh theo quan niệm của nhà
Phật và những xu hớng tiến bộ của xã hội nhằm để trả hiếu công nuôi dỡng
sinh thành của cha mẹ, cũng nh biết lễ nghĩa trong phong tục. Thời gian tu tại
chùa có thể một năm hay nhiều năm. Sau khi tu xong, các chàng trai mới hoàn
tục và lấy vợ sinh con, khép một vòng tròn truyền thống vô hình. Cứ nh vậy, từ
đời này qua đời khác, toàn bộ ngời dân Khmer gắn mình với ngôi chùa, cho
nên sự phát triển của nền kinh tế - xã hội của ngời Khmer không tránh khỏi
những tác động của Phật giáo. Nhà chùa còn truyền dạy kinh nghiệm sản xuất
(các s sãi không chỉ hoạt động tôn giáo mà trong thực tế họ có vai trò quan
trọng trong tất cả mọi hoạt động ở nông thôn khmer từ sản xuất, học hành, đến
các lễ nghi gia đình và công cộng của toàn dân), dạy chữ Khmer, chùa còn là
nơi hội họp, hòa giải hoặc giải quyết những vấn đề nảy sinh trong nội bộ cộng
đồng, thể hiện sự kết hợp khá tốt giữa đạo và đời. Nó là một nội dung trong
văn hóa Khmer và cùng với những tín điều, giáo lý đợc ngời dân chấp nhận,
cho thấy Phật giáo có u thế nổi trội trong sinh hoạt tinh thần của ngời Khmer.
12
Vì thế, s sãi có địa vị rất cao và đợc nhân dân kính trọng, giới s sãi chính là
linh hồn của nông dân Khmer.
- Phong tục, lễ hội: Đồng bào Khmer An Giang có nhiều phong tục tập
quán và nền văn hóa nghệ thuật phong phú, độc đáo. Những chùa Khmer lớn
thờng có dàn nhạc ngũ âm (nhạc cụ dân tộc), nhiều phum, sóc hợp lại có một
đội văn nghệ quần chúng (sử dụng nhạc cụ hiện đại), có điệu múa Lăm thôn
và múa Cung đình.
Hàng năm, đồng bào Khmer An Giang có nhiều lễ hội tôn giáo và dân
gian (hàng chục lễ hội), nhng quan trọng nhất là hai lễ hội : Chol Chnăm Thmây
(lễ đón năm mới), lễ Dolta (xá tội vong nhân) gắn với lễ đua bò của nhân dân.
Lễ Chol Chnăm Thmây thờng đợc tổ chức vào giữa tháng 4 âm lịch
hàng năm. Đây là lúc giao mùa giữa mùa nắng và mùa ma, và cũng là lúc
mừng mùa vụ mới trong năm. Chol Chnăm Thmây là lễ hội lớn nhất trong
năm và có quan hệ đến đời sống và niềm tin của ngời Khmer (diễn ra trong 3
ngày), đợc tổ chức tại các chùa và trong mỗi gia đình của đồng bào Khmer.
Bởi vì lễ hội này là dịp tống khứ các điều không may trong năm cũ để bớc vào
năm mới nhiều may mắn trong cuộc sống hơn.
Lễ Dolta đợc tổ chức trong khoảng từ 15/8 đến cuối tháng Tám âm lịch,
đây là một trong những lễ hội quan trọng mà ngời Khmer xem nh cái tết thứ
hai trong năm. Lễ Dolta nhằm thực hiện việc xá tội vong nhân theo giáo lý
đạo Phật nh lễ Vu Lan ở chùa Phật ngời Việt. Nhng, lễ Dolta nặng về hoạt
động tôn giáo và thực hiện những nghi lễ cho giới s sãi trong chùa. Vào lễ này,
bà con thuộc phum, sóc nào sẽ chịu trách nhiệm luân phiên nhau phục vụ cơm
nớc cho chùa ở phum, sóc đó trong suốt 15 ngày lễ. Đây là thời kỳ các s sãi
trong thời gian nhập hạ và những ngày này các s không phải khất thực mà đợc
phật tử dâng cơm nớc và mời s sãi tụng kinh cầu siêu cho linh hồn của ngời
thân đã khuất. Riêng đồng bào tín ngỡng mỗi tháng phải đến chùa bốn lần vào
các ngày 08-15-23 và 30 trong tháng, mang cơm đến chùa để cúng bái, tởng
nhớ những ngời đã mất và phù hộ cho con cháu họ làm ăn đợc mùa, đợc giá
hơn; bên cạnh đó họp mặt trao đổi rút kinh nghiệm lẫn nhau trong cuộc sống:
trồng trọt, chăn nuôi, giới thiệu những mô hình sản xuất đạt hiệu quả kinh tế
cao.
Kết hợp với Lễ hội là những trò chơi dân gian truyền thống mang đậm
màu sắc bản địa và tôn giáo. Cũng giống nh c dân Khmer ở Nam bộ, nếu nh ở
Sóc Trăng, Kiên Giang có hội đua ghe ngo nổi tiếng thì đồng bào dân tộc
13
Khmer vùng Bảy núi - An Giang vẫn duy trì một phong tục truyền thống độc
đáo, đó là hội đua bò. Đây là một trò chơi dân gian đầy tính sôi động, hấp dẫn
nhất trong dịp lễ hội Dolta. Ngời Khmer Bảy Núi sống và sản xuất chủ yếu
bằng nghề nông, do vậy con bò, mảnh ruộng là hình ảnh rất gần gũi và thân
quen đối với họ.
Về cới xin vẫn còn mang dấu ấn của chế độ mẫu hệ (nam đi làm rể).
Ma chay của ngời Khmer khá tiến bộ, ngời chết đợc hỏa táng rồi đa tro cốt
đến chùa lu giữ và thờ cúng.
Đời sống văn hóa tâm linh nói chung, tôn giáo và tín ngỡng nói riêng
là những món ăn tinh thần rất quan trọng đối với ngời Khmer. ở đây, Phật
giáo có một vai trò rất lớn gần nh chi phối mọi sinh hoạt của ngời dân. Từ
nhiều thế kỷ qua Phật giáo Tiểu thừa đã đợc xem nh là quốc giáo, là chỗ dựa
tinh thần vững chắc nhất, tồn tại trong ký ức của mỗi ngời dân Khmer từ lâu
đời, vì vậy các phong tục, tập quán, lễ hội dân gian cho đến các sinh hoạt tinh
thần trong đời sống xã hội đều có ít nhiều mang màu sắc Phật giáo.
Nhìn chung, ngời Khmer An Giang thích một cuộc sống hiền lành,
không đua chen để làm giàu lớn. Họ thích thảnh thơi, an nhàn hơn ngời Kinh;
công việc làm ăn của họ đều trông ở số phận. Họ tin rằng có phận, có phớc
mới làm giàu đợc, vì thế họ ít chịu tìm hiểu để làm thế nào cho tăng năng suất
canh tác, thu hoạch có kết quả nhiều nh ngời Kinh, ngời Hoa. Hầu hết là nông
dân nghèo, quan niệm về cách sống của họ thờng thiên về tinh thần hơn là vật
chất, nhiều ngời dành dụm đợc tiền của thờng nghĩ đến việc xây chùa, làm phớc, nuôi s sãiNgời Khmer rất tin ở kiếp sau, kiếp này chỉ là sống tạm. Cho
nên ăn ở cho tốt để kiếp sau đợc sung sớngVới cách nghĩ nh vậy, cùng với
sự hạn chế về trình độ học vấn thấp, số mù chữ cao, nên dù sống ở một vùng
đất có bình quân lơng thực đầu ngời cao nhất nớc nhng phần đông bà con
Khmer lại có mức thu nhập rất thấp, đời sống còn nhiều khó khăn. Làm thế
nào để giúp đồng bào có cuộc sống no đủ, theo kịp với cuộc sống của các dân
tộc anh em trong vùng là vấn đề đặt ra đòi hỏi Đảng, Nhà nớc cũng nh chính
quyền địa phơng phải suy nghĩ, nghiên cứu hoạch định chính sách phát triển
kinh tế, xã hội trong tiến trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nớc.
1.2. Quan điểm của Đảng và sự vận dụng của Đảng bộ An
Giang để đề ra và lãnh đạo thực hiện chính sách dân tộc
1.2.1. Quan điểm và chính sách dân tộc của Đảng Cộng sản Việt Nam
14
Quan điểm của chủ nghĩa Mác-Lênin về vấn đề dân tộc đợc thể hiện
trong cơng lĩnh dân tộc của Lênin gồm ba nội dung chủ yếu: Các dân tộc hoàn
toàn bình đẳng, các dân tộc có quyền tự quyết, đoàn kết nhân dân lao động
trong cuộc đấu tranh xóa bỏ áp bức dân tộc và xây dựng mối quan hệ mới giữa
các dân tộc.
Nh vậy, theo quan điểm của chủ nghĩa Mác-Lênin, thực chất của bình
đẳng dân tộc là xóa bỏ sự nô dịch của dân tộc này đối với dân tộc khác. Từng
bớc xóa bỏ sự chênh lệch về trình độ phát triển giữa các dân tộc, việc thực
hiện bình đẳng dân tộc sẽ góp phần thực hiện bình đẳng xã hội. Sự bình đẳng
này phải đợc thực hiện trên tất cả các lĩnh vực kinh tế, chính trị, văn hóa, xã
hộiĐể thực hiện đợc điều ấy chỉ có đứng vững trên lập trờng của giai cấp
công nhân mới thực hiện đợc quyền bình đẳng và tự quyết đúng đắn, khắc
phục đợc thái độ kỳ thị và mới đoàn kết đợc nhân dân lao động các dân tộc
trong cuộc đấu tranh vì sự nghiệp giải phóng xã hội, giải phóng con ngời, đa
các dân tộc tiến tới bình đẳng, công bằng, dân chủ, văn minh.
Trong quá trình tìm đờng cứu nớc, giải phóng dân tộc, Chủ tịch Hồ
Chí Minh đã bắt gặp t tởng Lênin về cách mạng vô sản và vấn đề dân tộc
thuộc địa. Trên cơ sở lý luận của chủ nghĩa Mác-Lênin, căn cứ vào thực tiễn
Việt Nam là một quốc gia đa dân tộc, Bác đã nhiều lần căn dặn chúng ta về
việc quan tâm đến đời sống của đồng bào các dân tộc. Ngời nói:
Chủ nghĩa Mác-Lênin đã giúp Đảng ta thấy rõ rằng trong điều
kiện một nớc nông nghiệp lạc hậu nh nớc ta thì vấn đề dân tộc thực
chất là vấn đề nông dân. Cách mạng dân tộc thực chất là cách mạng
của nông dân do giai cấp công nhân lãnh đạo và chính quyền nhân
dân thực chất là chính quyền của công nông [34, tr.17-18].
Ngời luôn kêu gọi đoàn kết các dân tộc, bởi đoàn kết là một yếu tố
cực kỳ quan trọng tạo nên sức mạnh tổng hợp của cách mạng Việt Nam. Ngời
chỉ rõ:
Nhờ sức đoàn kết đấu tranh chung của tất cả các dân tộc, nớc
Việt Nam ngày nay đợc độc lập, các dân tộc thiểu số đợc bình đẳng
cùng dân tộc Việt Nam, tất cả đều nh anh chị em trong một nhà,
không còn sự phân chia nòi giống, tiếng nói làm gì nữa. Trớc kia
các dân tộc để giành độc lập phải đoàn kết, bây giờ để giữ lấy nền
độc lập càng cần đoàn kết hơn nữa [36, tr. 110].
15
Trong quá trình lãnh đạo cách mạng nớc ta Hồ Chí Minh rất quan tâm
đến việc hoạch định và thực hiện đờng lối, chính sách chung của cả nớc. Ngời
nhắc nhở phải tìm cách vận dụng đờng lối chính sách chung ấy sao cho phù
hợp với điều kiện các dân tộc, đồng thời Ngời cũng quan tâm đến việc hoạch
định và thực hiện những chính sách cho riêng đồng bào các dân tộc thiểu số,
cho riêng miền núi.
Đặc biệt trong Di chúc Bác Hồ đã căn dặn:
Nhân dân lao động ta ở miền xuôi cũng nh ở miền núi, đã bao
đời chịu đựng gian khổ bị chế độ phong kiến và thực dân áp bức bóc
lột, lại kinh qua nhiều năm chiến tranh. Tuy vậy, nhân dân ta rất anh
hùng, dũng cảm, hăng hái, cần cù. Từ ngày có Đảng nhân dân ta
luôn luôn đi theo Đảng, rất trung thành với Đảng. Đảng cần phải có
kế hoạch thật tốt để phát triển kinh tế và văn hóa, nhằm không
ngừng nâng cao đời sống của nhân dân [37, tr.511].
Đặc điểm nổi bật trong quan hệ dân tộc - tộc ngời ở Việt Nam là có
truyền thống đoàn kết gắn bó từ lâu đời trong cộng đồng các dân tộc Việt
Nam. Do đặc điểm lịch sử của cuộc đấu tranh chinh phục thiên nhiên khắc
nghiệt và chống giặc ngoại xâm, các dân tộc ở Việt Nam, thiểu số cũng nh đa
số tuy trình độ kinh tế, văn hóa, xã hội, phong tục, tập quán khác nhau, nhng đều có chung truyền thống đoàn kết thống nhất, tơng thân, tơng ái, đồng
cam cộng khổ trong công cuộc dựng nớc và giữ nớc. Truyền thống đó đã đợc
phát huy cao độ trong các cuộc đấu tranh nhằm giải phóng dân tộc, thống nhất
Tổ quốc và đang đợc phát huy trong công cuộc xây dựng đất nớc theo định hớng xã hội chủ nghĩa, mà nhiệm vụ trọng tâm hiện nay là công nghiệp hóa,
hiện đại hóa đất nớc.
Dựa trên những nguyên lý của chủ nghĩa Mác- Lênin, t tởng Hồ Chí
Minh về vấn đề dân tộc và giải quyết các mối quan hệ dân tộc; xuất phát từ
đặc điểm tình hình các dân tộc ở nớc ta. Đảng ta, luôn luôn đề ra chính sách
dân tộc đúng đắn ngay từ cơng lĩnh đầu tiên của Đảng Cộng sản Đông Dơng,
tiếp tục hoàn thiện và thể hiện cụ thể trong các Nghị quyết của các Đại hội đại
biểu toàn quốc, trong các Chỉ thị, Nghị quyết của Đảng và đợc khẳng định
trong Hiến pháp.
Chính sách dân tộc đợc thể hiện trong các giai đoạn, trên cơ sở cụ thể
hóa những nhiệm vụ của từng thời kỳ cách mạng:
16
Trong thời kỳ kháng chiến chống Pháp, tháng 8 -1952, Nghị quyết của
Bộ Chính trị về công tác dân tộc của Đảng đã chỉ rõ: Các dân tộc sống trên
đất nớc Việt Nam đều đợc bình đẳng về quyền lợi và nghĩa vụ, phải đoàn kết
giúp đỡ lẫn nhau để kháng chiến và kiến quốc [20, tr.38].
Sau khi miền Bắc đợc giải phóng, đất nớc thực hiện hai nhiệm vụ
chiến lợc cách mạng, miền Bắc trở thành hậu phơng lớn của cả nớc. Nghị
quyết Đại hội Đảng lần thứ III đã đề ra chủ trơng:
Đảng và Nhà nớc cần có kế hoạch toàn diện và lâu dài phát triển
kinh tế và văn hóa ở miền núi, làm cho miền núi tiến kịp miền xuôi,
các dân tộc thiểu số tiến kịp dân tộc đa số, giúp các dân tộc phát huy
tinh thần cách mạng và khả năng to lớn của mình [20, tr.46].
Sau khi miền Nam đợc giải phóng, cả nớc thống nhất đi lên chủ nghĩa
xã hội, Đảng ta chủ trơng tiếp tục phát huy truyền thống đoàn kết, yêu nớc của
toàn dân, đồng thời, coi việc giải quyết đúng đắn vấn đề dân tộc là một trong
những nhiệm vụ có tính chất chiến lợc của cách mạng Việt Nam.
Báo cáo Chính trị tại Đại hội lần thứ IV của Đảng đã chỉ ra một cách
cụ thể hơn về chính sách dân tộc của Đảng:
Chính sách dân tộc của Đảng là thực hiện triệt để quyền bình
đẳng về mọi mặt giữa các dân tộc, tạo ra những điều kiện cần thiết
để xóa bỏ tận gốc sự chênh lệch về trình độ kinh tế, văn hóa giữa
các dân tộc ít ngời và dân tộc đông ngời, đa miền núi tiến kịp miền
xuôi, vùng cao tiến kịp vùng thấp, làm cho tất cả các dân tộc đều có
cuộc sống ấm no, văn minh và hạnh phúc phát triển về mọi mặt,
đoàn kết giúp đỡ lẫn nhau cùng tiến bộ [19, tr.46 ].
Đại hội Đảng lần thứ VI của Đảng cũng đã chỉ rõ con đờng phát triển
các dân tộc và mối quan hệ giữa các dân tộc:
Sự phát triển mọi mặt của từng dân tộc đi liền với sự củng cố
phát triển của cộng đồng các dân tộc trên đất nớc ta. Sự tăng cờng
tính cộng đồng, tính thống nhất là một quá trình hợp quy luật, nhng
tính cộng đồng, tính thống nhất không mâu thuẫn, không bài trừ
tính đa dạng, tính độc đáo của mỗi dân tộc [ 22, tr.16 ].
Báo cáo chính trị Đại hội lần thứ VII của Đảng đã chỉ rõ:
Thực hiện chính sách bình đẳng đoàn kết tơng trợ giữa các dân
tộc, tạo mọi điều kiện để các dân tộc phát triển đi lên con đờng văn
17
minh, tiến bộ, gắn bó mật thiết với sự phát triển chung của cộng
đồng dân tộc Việt Nam [ 23, tr.16].
Xuất phát từ tình hình phát triển không đồng đều giữa các dân tộc
trong lịch sử và sự chênh lệch lớn về đời sống kinh tế - xã hội giữa các dân
tộc, giữa các vùng, miền, Đảng và Chính phủ Việt Nam trong lãnh đạo công
cuộc đổi mới ngày càng nhận rõ việc xóa bỏ sự chênh lệch giữa các vùng
miền, đẩy mạnh xóa đói giảm nghèo thực hiện công bằng xã hội, bình đẳng
dân tộc.
Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VIII của Đảng đã chỉ rõ:
Vấn đề dân tộc có vị trí chiến lợc lớn. Thực hiện bình đẳng,
đoàn kết, tơng trợ giữa các dân tộc trong sự nghiệp đổi mới, công
nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nớc. Xây dựng Luật dân tộc. Từ nay đến
năm 2000, bằng nhiều biện pháp tích cực và vững chắc, thực hiện cho
đợc 3 mục tiêu chủ yếu: xóa đợc đói, giảm đợc nghèo, ổn định và cải
thiện đợc đời sống, sức khỏe của đồng bào các dân tộc, đồng bào vùng
cao, vùng biên giới; xóa đợc mù chữ, nâng cao dân trí, tôn trọng và
phát huy bản sắc văn hóa tốt đẹp của các dân tộc; xây dựng đợc cơ sở
chính trị, đội ngũ cán bộ và đảng viên của các dân tộc ở các vùng, các
cấp trong sạch và vững mạnh [ 24, tr.125 - 126 ].
Để cụ thể hóa các Nghị quyết đổi mới của Đảng từ Đại hội VI, Bộ
Chính trị đã ban hành Nghị quyết 22 (ngày 27/11/1989) về một số chủ trơng,
chính sách lớn về phát triển kinh tế - xã hội miền núi.
Nghị quyết 22 của Bộ Chính trị đã nêu quan điểm chỉ đạo rất quan
trọng là: Phát triển kinh tế - xã hội miền núi là một bộ phận hữu cơ của chiến
lợc phát triển nền kinh tế quốc dân. Một mặt, các địa phơng miền núi có trách
nhiệm góp phần thực hiện chủ trơng chiến lợc phát triển kinh tế, xã hội chung
của cả nớc. Mặt khác, việc cụ thể hóa và tổ chức thực hiện những chủ trơng,
chính sách chung ở miền núi phải tính đầy đủ những đặc điểm về tự nhiên,
lịch sử, kinh tế, xã hội, văn hóa, phong tục, tập quán của miền núi nói chung
và của riêng từng vùng, từng dân tộc; trong việc này cần đặc biệt nhấn mạnh
vai trò năng động, sáng tạo của địa phơng và cơ sở.
Ngày 18/3/1990 Chủ tịch Hội đồng Bộ trởng (nay là Chính phủ) ra
quyết định số 72 về chủ trơng chính sách cụ thể nhằm phát triển kinh tế - xã
hội miền núi, nâng cao mức đầu t, xây dựng cơ sở hạ tầng, tạo đà phát triển
18
mới cho các vùng đồng bào bằng các chơng trình dự án cụ thể, phù hợp với
từng vùng, từng địa bàn c trú của các dân tộc ít ngời.
Chỉ thị 68 - CT/TW ngày 18/4/1991 của Ban Bí th Trung ơng Đảng
(khoá VI) về công tác ở vùng đồng bào dân tộc Khmer. Chỉ thị đã phân tích
những nguyên nhân chủ yếu của một số sai lầm tồn tại trong việc thực hiện
chính sách dân tộc của Đảng đối với đồng bào Khmer trong thời gian qua;
đồng thời vạch ra kế hoạch phát triển toàn diện về kinh tế, đời sống, văn hóa,
xã hội, an ninh chính trị, công tác quần chúng, xây dựng Đảng và đào tạo cán
bộ ngời Khmer.
Với mục tiêu huy động mọi nguồn lực tại chỗ, phối hợp lồng ghép các
chơng trình trên địa bàn để xây dựng cơ sở hạ tầng chủ yếu ở mỗi trung tâm
cụm xã, nhằm tạo động lực đẩy quá trình phát triển kinh tế - xã hội vùng dân
tộc và miền núi, góp phần bảo đảm an ninh, quốc phòng. Thúc đẩy các hoạt
động văn hóa - xã hội trong tiểu vùng, tạo sự giao lu giữa các bản, làng và
giữa các cụm xã với đô thị để phát huy sức mạnh cộng đồng, quản lý mọi mặt
hoạt động kinh tế - xã hội, giữ gìn và phát huy bản sắc dân tộc, góp phần xây
dựng nông thôn mới vùng dân tộc và miền núi.
Thủ tớng Chính phủ ban hành Quyết dịnh số: 35/TTg, ngày 13/1/1997
phê duyệt Chơng trình xây dựng trung tâm cụm xã miền núi, vùng cao.
- Chỉ thị số 15/1998/CT-TTg ngày 28-03-1998 của Thủ tớng Chính phủ
về tăng cờng chỉ đạo xây dựng và phát triển kinh tế - xã hội củng cố quốc
phòng an ninh ở các xã, phờng biên giới, hải đảo. Để tiếp tục thực hiện Chỉ thị
23 -CT/TW ngày 29-11-1997 của Bộ Chính trị và triển khai thực hiện tinh thần
Nghị quyết Ban Chấp hành Trung ơng lần thứ IV (khoá VIII) về nhiệm vụ
Tăng cờng và nâng cao hiệu quả hỗ trợ các vùng nghèo, xã nghèo trong đó
có các xã, phờng biên giới, hải đảo.
Gần đây, Thủ tớng Chính phủ đã ra Quyết định số 133/1998/QĐ-TTg
ngày 23-7-1998 về việc phê duyệt chơng trình mục tiêu quốc gia xóa đói giảm
nghèo trong giai đoạn 1998 - 2000. Đây là một chơng trình tổng hợp có tính
chất liên ngành nằm trong chiến lợc phát triển kinh tế - xã hội của đất nớc với
mục tiêu: giảm tỷ lệ hộ đói nghèo trong tổng số hộ của cả nớc xuống còn 10%
năm 2000.
Tiếp theo là Quyết định số 135/1998/QĐ-TTg ngày 31-7-1998 của Thủ
tớng Chính phủ, phê duyệt chơng trình phát triển kinh tế - xã hội các xã đặc
19
biệt khó khăn miền núi và vùng sâu, vùng xa. Mục tiêu của chơng trình nhằm
nâng cao nhanh đời sống vật chất, tinh thần cho đồng bào các dân tộc ở các xã
đặc biệt khó khăn miền núi và vùng sâu, vùng xa; tạo điều kiện để đa nông
thôn các vùng này thoát khỏi tình trạng nghèo nàn, lạc hậu, chậm phát triển,
hòa nhập vào sự phát triển chung của cả nớc, góp phần đảm bảo trật tự an toàn
xã hội, an ninh quốc phòng.
Thông qua các hệ thống văn bản, từ văn kiện của Đảng, Chính phủ,
pháp luật của Nhà nớc cũng nh các văn bản dới luật, chính sách dân tộc của
Đảng và Nhà nớc ta ngày càng đợc quan tâm cả trong phơng diện hoạch định
chính sách đến việc thể hóa và thực hiện trong đời sống.
Chính sách dân tộc không chỉ nêu lên những nội dung xuyên suốt, bao
trùm cả một thời kỳ dài (thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất
nớc) mà còn đợc xác định rõ những nhiệm vụ cụ thể, những mục tiêu cụ thể
trong từng thời kỳ, thời đoạn. Để làm đợc điều đó, cần phải thực hiện đầy đủ
các nội dung cụ thể trên các lĩnh vực: chính trị, kinh tế, văn hóa, xã hội, an
ninh, quốc phòng.
Về kinh tế: Nhiệm vụ kinh tế trong chính sách dân tộc chính là các chủ
trơng, chính sách phát triển kinh tế - xã hội miền núi và các vùng dân tộc thiểu
số nhằm tạo điều kiện để các dân tộc thiểu số phát huy tiềm năng và các
nguồn lực, đẩy mạnh sản xuất, kinh doanh, phát triển kinh tế hàng hóa, từng
bớc khắc phục sự chênh lệch về tốc độ phát triển kinh tế giữa các vùng, miền,
giữa dân tộc thiểu số với dân tộc đa số.
Nội dung kinh tế trong chính sách dân tộc bao gồm nhiều nhiệm vụ,
nhiều chơng trình cụ thể liên quan đến các cấp, các ngành, từ Trung ơng đến
các địa phơng và cơ sở. Đó là việc xây dựng cơ cấu kinh tế ở miền núi và các
vùng dân tộc thiểu số trên tất cả các lĩnh vực nông nghiệp, lâm nghiệp, công
nghiệp, dịch vụ đến việc đẩy nhanh ứng dụng khoa học - kỹ thuật vào sản xuất
và đời sống. Phát triển kinh tế miền núi, các vùng dân tộc thiểu số cũng gắn
liền với những nhiệm vụ cụ thể trong điều chỉnh quan hệ sản xuất, đổi mới
quản lý, giải phóng nguồn nhân lực sản xuất ở miền núi và vùng dân tộc thiểu
số. Các chính sách, chủ trơng phù hợp với các địa bàn, địa phơng và những
đặc điểm canh tác, sản xuất của các tộc ngời.
20
Nội dung kinh tế của chính sách dân tộc cũng đòi hỏi phải xây dựng kết
cấu hạ tầng, tạo điều kiện phát triển giao thông, thủy lợi, thông tin liên lạc để
phát triển sản xuất, ổn định và nâng cao đời sống cho đồng bào dân tộc thiểu số.
Về chính trị: Nội dung bao trùm, xuyên suốt của chính sách dân tộc là
thực hiện sự bình đẳng, đoàn kết, tơng trợ giúp đỡ lẫn nhau giữa các dân tộc.
Đồng bào các dân tộc thiểu số cũng nh đa số đều có quyền làm chủ, có đầy đủ
các quyền lợi và nghĩa vụ công dân, có quyền lợi và trách nhiệm xây dựng thể
chế chính trị mới, phát huy vai trò của hệ thống chính trị, dân chủ hóa đời
sống chính trị ở các vùng dân tộc thiểu số. ý thức chính trị, văn hóa chính trị
(mà trớc hết là những thông tin, tri thức về đờng lối, chủ trơng, chính sách của
Đảng và Nhà nớc về quyền lợi, nghĩa vụ công dân) đợc chú ý quan tâm
trong chính sách dân tộc.
Về văn hóa: Nội dung nhiệm vụ văn hóa cũng đợc phản ánh rất phong
phú trong chính sách dân tộc của Đảng và Nhà nớc ta. Xây dựng nền văn hóa
Việt Nam tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc, bao hàm các nội dung bảo tồn,
phát huy những giá trị, bản sắc văn hóa, phát triển văn hóa, giáo dục, xây
dựng đời sống văn hóa mới của các dân tộc thiểu số, bài trừ hủ tục, mê tín dị
đoan, chống các tệ nạn xã hội, tạo nên sự thống nhất trong sự đa dạng của
nền văn hóa Việt Nam.
Về xã hội: Chính sách xã hội bao hàm nội dung giải quyết các vấn đề
xã hội. Có rất nhiều nội dung, nhiệm vụ cụ thể thuộc chính sách xã hội đợc
triển khai đan lồng trong nhiều chủ trơng chính sách: Chính sách xóa đói,
giảm nghèo đối với các vùng nông thôn miền núi, vùng dân tộc thiểu số, vùng
xa, vùng sâu; chính sách tạo việc làm, chính sách đền ơn đáp nghĩa; chính
sách bảo trợ xã hội; các chính sách về kế hoạch hóa dân sốNhững chính
sách đó đều phản ánh nội dung xã hội, trong việc thực hiện chính sách dân tộc
của Đảng và Nhà nớc ta.
Về an ninh, quốc phòng: Chính sách dân tộc đợc hoạch định và thực
hiện cũng chính là tạo điều kiện củng cố, xây dựng an ninh, quốc phòng ngày
càng vững chắc. Bởi vậy, xây dựng, phát triển kinh tế văn hóa, xã hội cũng
chính là thực hiện và đáp ứng những yêu cầu về ổn định chính trị, bảo đảm an
ninh quốc gia, trật tự an toàn xã hội.
21
Quán triệt đầy đủ các yêu cầu, nội dung nhiệm vụ của chính sách dân
tộc đòi hỏi chúng ta phải nhận thức sâu sắc rằng, thực hiện đúng đắn chính
sách dân tộc của Đảng và Nhà nớc là trách nhiệm chung của tất cả mọi ngời,
của các tổ chức trong hệ thống chính trị các cấp của nớc ta chứ không chỉ
riêng đồng bào các dân tộc thiểu số.
Lĩnh vực dân tộc, chính sách dân tộc có nội dung rộng lớn đòi hỏi việc
hoạch định chính sách, chủ trơng của Đảng và Nhà nớc phải luôn luôn đợc
hoàn thiện, bổ sung, chi tiết hóa, pháp luật hóa.
1.2.2. Chủ trơng của Đảng bộ An Giang về chính sách dân tộc
Trong thời kỳ kháng chiến chống Pháp và chống Mỹ vùng núi luôn là
căn cứ địa quan trọng của cách mạng, do đó đã bị bom đạn địch không ngừng
cày, xới. Sau khi giải phóng không lâu nơi đây cũng bị Khmer đỏ tấn công
thực hiện chủ trơng giết sạch, đốt sạch. Vì vậy, vùng nghèo, khó khăn lại
càng nghèo và khó khăn thêm.
Trong sự nghiệp xây dựng Tổ quốc, thực hiện đờng lối đổi mới của
Đảng, Đại hội Đảng bộ An Giang lần thứ IV (10/1986) đã đánh dấu mở đầu
cho thời kỳ đổi mới ở An Giang bằng chính sách Tam nông, trong đó
nông nghiệp đợc xác định là nền tảng - là mặt trận hàng đầu, nông dân là
chủ thể của quá trình đổi mới và nông thôn là địa bàn chiến lợc, nhất là từ
khi có Nghị quyết 22 ngày 27/11/1989 của Bộ Chính trị về một số chủ tr ơng, chính sách lớn phát triển kinh tế - xã hội miền núi, xem phát triển kinh tế
- xã hội miền núi là một bộ phận hữu cơ của chiến lợc phát triển nền kinh tế
quốc dân.
Đặc biệt, là Chỉ thị số 68-CT/TƯ ngày 18/4/1991 của Ban Bí th Trung ơng Đảng (khóa VI) về công tác ở vùng đồng bào dân tộc Khmer. Chỉ thị đã
phân tích những nguyên nhân chủ yếu của một số sai lầm, tồn tại trong việc
thực hiện chính sách dân tộc của Đảng đối với đồng bào Khmer trong thời
gian qua; đồng thời vạch ra kế hoạch phát triển toàn diện về kinh tế đời sống,
văn hóa, xã hội, an ninh chính trị, công tác quần chúng, xây dựng Đảng và đào
tạo cán bộ ngời Khmer. Chỉ thị nêu rõ:
Về kinh tế, đời sống: Phát triển kinh tế - xã hội làm cơ sở để thực hiện
chính sách dân tộc, thực hiện bình đẳng giữa các dân tộc. Kế hoạch phát triển
kinh tế - xã hội vùng đồng bào dân tộc Khmer cần đợc xây dựng trong kế
hoạch chung phát triển kinh tế, xã hội của mỗi tỉnh có đồng bào Khmer và của
22
cả nớc. Kế hoạch đó cần chú ý đến đặc điểm kinh tế và tập quán của từng
vùng để bố trí cơ cấu kinh tế cho phù hợp, xác định cụ thể cơ cấu cây trồng,
vật nuôi hớng theo mục tiêu phát triển kinh tế hàng hóa nhiều thành phần làm
cho sản xuất, đời sống của đồng bào Khmer có bớc tiến rõ rệt.
Phơng châm phát triển kinh tế ở vùng đồng bào dân tộc Khmer là tiếp
tục phát huy tinh thần tự lực, tự cờng, khai thác đến mức cao nhất mọi tiềm
năng trong nhân dân kết hợp với sự đầu t thích đáng của tỉnh và sự hỗ trợ của
Trung ơng.
Coi trọng đẩy mạnh sản xuất nông nghiệp toàn diện, trọng tâm là sản
xuất lơng thực, với biện pháp hàng đầu là phát triển thủy lợi, gắn với công
nghiệp chế biến, phát triển ngành nghề chăn nuôi, tiểu thủ công nghiệp nhất là
các ngành nghề truyền thống của đồng bào dân tộc Khmer. Giải quyết tốt
khâu phân phối lu thông, xây dựng kết cấu hạ tầng, áp dụng tiến bộ khoa học
kỹ thuật, xây dựng nông thôn mới. Giải quyết hợp tình hợp lý vấn đề đất đai,
tạo quỹ đất đai để khắc phục tình trạng đồng bào Khmer thiếu đất canh tác,
phá thế độc canh cây lúa. ở nơi còn đất đai thì thực hiện các chính sách
khuyến khích để giãn dân, xây dựng vùng kinh tế mới. Có chính sách đầu t
thích đáng cho thủy lợi giao thông, làm cây nớc và vật liệu xây dựng, trớc hết
ở những vùng có nhiều khó khăn. Thành lập hợp tác xã tín dụng nông thôn để
phục vụ sản xuất, đời sống. Mở rộng hoạt động của các chi nhánh ngân hàng
cổ phần, ngân hàng phát triển nông nghiệp ở các tỉnh, huyện có đồng bào
Khmer, tạo điều kiện để đồng bào đợc vay vốn sản xuất với lãi suất thấp, từng
bớc thu hẹp dần và tới xóa bỏ tình trạng đồng bào Khmer phải vay nặng lãi,
bán lúa non, cầm cố ruộng đất. Đối với vùng sản xuất còn nhiều khó khăn, cần
có chính sách miễn hoặc giảm thuế, xóa nợ, u đãi về giá bán những mặt hàng
thiết yếu nh dầu thắp sáng, vải mặc, thuốc chữa bệnh. Đối với một số vùng ở
biên giới Tây Nam, cần có kế hoạch khắc phục hậu quả nặng nề của chiến
tranh và đầu t phát triển kinh tế - xã hội.
Về văn hóa - xã hội: Đi đôi với củng cố và phát triển các ngành học phổ
thông, mẫu giáo, bổ túc văn hóa, cần củng cố và phát triển các loại trờng phổ
thông dân tộc nội trú, trờng thanh niên dân tộc ở các huyện, tỉnh có đông đồng
bào Khmer. Mở trờng đào tạo nguồn cán bộ Khmer và các dân tộc thiểu số
khác ở Nam bộ. Mở trờng s phạm ở khu vực đồng bằng sông Cửu Long, đào
tạo và bồi dỡng giáo viên là ngời dân tộc Khmer kể cả s sãi có khả năng để
dạy song ngữ ở cấp I, II, III. Quan tâm đào tạo cán bộ Khmer tại trờng Đại
23
học Cần Thơ. Học sinh Khmer đợc miễn học phí ở các cấp học, ngành học. Có
kế hoạch xóa nạn mù chữ và tái mù.
Xây dựng kế hoạch bảo tồn, khai thác và phát huy vốn văn hóa dân tộc
Khmer, xây dựng nhà truyền thống và một số trung tâm văn hóa tiêu biểu của
đồng bào Khmer. Có chính sách củng cố và duy trì các đội văn nghệ dân tộc
Khmer chuyên nghiệp; khuyến khích phong trào văn nghệ quần chúng. Sử
dụng tốt tiếng nói, chữ viết dân tộc Khmer trên các phơng tiện thông tin đại
chúng của địa phơng. Đài truyền hình và phát thanh của các tỉnh có đông
đồng bào Khmer cần tăng thêm thời gian phát sóng bằng tiếng Khmer.
Đẩy mạnh phong trào vệ sinh phòng bệnh và xây dựng nếp sống mới,
bài trừ mê tín dị đoan và những phong tục tập quán lạc hậu. Củng cố các tuyến
y tế cơ sở ở phum, sóc, liên xã, củng cố phòng khám đa khoa khu vực, trung
tâm y tế huyện để làm tốt nhiệm vụ chăm sóc sức khỏe ban đầu cho nhân dân.
Cung ứng kịp thời thuốc chống dịch bệnh, các loại thuốc thiết yếu, nhất là
thuốc chữa bệnh sốt rét. Miễn viện phí cho đồng bào dân tộc Khmer nghèo.
Cần đặc biệt quan tâm giải quyết bệnh phụ khoa cho phụ nữ và bệnh suy dinh
dỡng cho trẻ em. Có chính sách và biện pháp tích cực thực hiện kế hoạch hóa
gia đình. Khuyến khích sử dụng các loại thuốc gia truyền dân tộc.
Đối với chùa chiền và s sãi Khmer: Chùa chiền và s sãi có vai trò rất
quan trọng trong đời sống của đồng bào dân tộc Khmer. Phật giáo Nam Tông
mang tính quần chúng. Tôn giáo và bản sắc dân tộc đồng bào Khmer gắn chặt,
hòa nhập vào nhau. Do vậy, vận động s sãi Khmer là một bộ phận quan trọng
trong công tác dân vận của Đảng. Trên cơ sở thực hiện chính sách dân tộc và
chính sách tôn giáo của Đảng và Nhà nớc tốt, tuỳ theo hoàn cảnh cụ thể của
mỗi tỉnh có đồng bào Khmer, lập Hội đoàn kết s sãi yêu nớc hoặc các hình
thức tổ chức thích hợp để động viên và phát huy truyền thống yêu nớc của s
sãi góp phần vào sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc. Nghiên cứu mở trờng
Pali cấp cao khi có điều kiện để dạy giáo lý cho s sãi Khmer.
Tôn trọng, bảo vệ và phát huy di sản văn hóa chùa chiền Khmer kết hợp
với nội dung văn hóa mới. ở những nơi có điều kiện, xây dựng chùa thành
những trung tâm văn hóa - thông tin, hớng dẫn thực hiện nếp sống mới của
đồng bào Khmer ở các phum, sóc thành nơi thực nghiệm và ứng dụng khoa
học - kỹ thuật, chuyển giao tiến bộ kỹ thuật cho nông dân. Nghiên cứu để đa
một số chùa Khmer có ý nghĩa tiêu biểu về lịch sử và văn hóa vào danh mục
xếp hạng của Nhà nớc.
24
Chăm sóc đời sống và giúp phơng tiện làm việc đối với các vị s sãi chủ
trì các Ban trị sự Hội Phật giáo địa phơng. Biểu dơng, khen thởng các chùa
chiền, các vị s sãi có công với nớc với dân.
Về an ninh chính trị: Tăng cờng giáo dục, nâng cao giác ngộ chính trị
cho cán bộ và đồng bào dân tộc Khmer cũng nh Kinh, làm cho mọi ngời quán
triệt chính sách dân tộc, chính sách tôn giáo của Đảng và Nhà nớc, tăng cờng
đoàn kết dân tộc, hăng hái góp phần xây dựng và bảo vệ Tổ quốc Việt Nam xã
hội chủ nghĩa. Đi đôi với việc phổ biến tình hình thời sự trong nớc và thế giới,
tuyên truyền quyền lợi và nghĩa vụ công dân, tổ chức đấu tranh chống những
âm mu thủ đoạn của các thế lực thù địch lợi dụng vấn đề lịch sử, vấn đề dân
tộc, tôn giáo và những sai sót của cán bộ hòng xuyên tạc, gây chia rẽ, kích
động thù hằn dân tộc, gieo rắc hoang mang trong nhân dân, phá hoại việc thực
hiện chủ trơng, chính sách của Đảng và Nhà nớc.
Tổ chức và giúp đỡ đồng bào Khmer Nam bộ có nguyện vọng qua lại biên
giới Việt Nam - Campuchia thăm viếng bà con và ngời thân quen, theo đúng
pháp luật nhà nớc và quy chế qua lại biên giới giữa hai bên, vừa thuận tiện cho
đồng bào vừa bảo vệ đợc an ninh quốc gia và an ninh của nớc láng giềng.
Về công tác quần chúng, xây dựng Đảng và đào tạo cán bộ: Đổi mới
nội dung, hình thức và phơng thức hoạt động của các đoàn thể quần chúng,
các tổ chức xã hội theo tinh thần Nghị quyết Hội nghị lần thứ 8 Ban Chấp
hành Trung ơng Đảng (khóa VI), phù hợp với đặc điểm và thực tế vùng đồng
bào Khmer.
Có kế hoạch xây dựng và củng cố tổ chức cơ sở đảng ở vùng đồng bào
dân tộc Khmer. Phát triển đảng viên là ngời dân tộc Khmer phù hợp với đặc
điểm dân tộc Khmer. Trên cơ sở xây dựng đội ngũ trung kiên, cốt cán, lựa
chọn những đoàn viên, hội viên u tú (kể cả trong s sãi) để đào tạo, bồi dỡng
trở thành cán bộ, đảng viên.
Các cấp ủy đánh giá đúng đắn đội ngũ cán bộ, đảng viên Khmer để có
quy hoạch đào tạo, bồi dỡng sử dụng, nhằm phát huy tốt khả năng cống hiến
của cán bộ Khmer cho sự nghiệp xây dựng địa phơng và sự nghiệp xây dựng
đất nớc. Xây dựng một đội ngũ cán bộ đồng bộ hoạt động trong các lĩnh vực
kinh tế, văn hóa, đối ngoại. Có chính sách đối với những cán bộ ngời dân tộc
Khmer chủ chốt, tiêu biểu, đã tham gia công tác lâu năm.
25
Quán triệt tinh thần cơ bản trên, Đảng bộ An Giang tập trung lãnh đạo
đề ra nhiều giải pháp nhằm phát triển vùng núi - dân tộc, đã tạo sự chuyển
biến tích cực. Tuy nhiên, nhìn chung đời sống đồng bào Khmer vẫn còn nhiều
khó khăn trên nhiều lĩnh vực so với mặt bằng chung của nhân dân trong tỉnh.
Nhận thức một cách đầy đủ, toàn diện về chính sách dân tộc của Đảng
và Nhà nớc ta, Báo cáo chính trị tại Đại hội đại biểu Đảng bộ tỉnh lần thứ VI
(1996) khẳng định: "Mục tiêu công tác quần chúng trong năm năm tới là trên
cơ sở tăng cờng khối liên minh công nhân - nông dân - trí thức, không ngừng
mở rộng khối đoàn kết toàn dân, động viên các tầng lớp nhân dân, tín đồ các
tôn giáo, các dân tộc, phát huy vai trò làm chủ ra sức thực hiện thắng lợi mục
tiêu dân giàu, nớc mạnh, xã hội công bằng, văn minh theo Nghị quyết Đại hội
lần thứ VIII của Đảng.
Xuất phát từ yêu cầu phát triển mọi mặt ở An Giang nói chung và đồng
bào dân tộc Khmer nói riêng, nhằm nhanh chóng biến An Giang thành một
vùng chiến lợc mạnh về kinh tế, chính trị và quốc phòng, nhất là rút ngắn
khoảng cách chênh lệch về trình độ kinh tế, văn hóa, xã hội giữa đồng bào dân
tộc thiểu số và đồng bào đa số, giữa vùng này với vùng khác.
ủy ban nhân dân tỉnh đã xây dựng Quy hoạch tổng thể phát triển kinh
tế - xã hội 1996 -2010, với mục tiêu là tìm ra con đờng phát triển và sự bố trí
theo lãnh thổ phù hợp với các điều kiện có bên trong và bên ngoài, phù hợp
với các quy luật phát triển chung và đạt đợc các mục tiêu do Đảng đề ra, đồng
thời thúc đẩy tăng trởng nhanh nền kinh tế của tỉnh.
Riêng miền núi và biên giới, vừa theo định hớng phát triển chung của
tỉnh; nhng do tính đặc thù của vùng mà mục tiêu quy hoạch cần tập trung vào
một số lĩnh vực then chốt sau:
Nhiệm vụ hàng đầu có tính quyết định chi phối là thủy lợi, ra sức giải
quyết vấn đề nớc cho sản xuất, sinh hoạt, phòng chống và né lũ đầu nguồn,
bằng nhiều biện pháp kỹ thuật thích ứng với từng khu vực: kênh mơng thờng ở
đồng bằng; kênh nổi, bơm chuyền ở ruộng trên; xây hồ trên núi
Phát triển nông, lâm, ng toàn diện và đa dạng. Tiếp tục đầu t thâm
canh, tăng vụ, mở diện đối với cây lúa, khôi phục phát triển các giống lúa đặc
sản; quy hoạch các vùng chuyên canh cây khoai mì, mía đờng làm nguyên
liệu cho công nghiệp chế biến. Tiếp tục phát triển các loại rau màu thực phẩm,
chăn nuôi heo, gia cầm; đặc biệt phát triển nhanh đàn bò lai sind để dần dần