Tải bản đầy đủ (.docx) (89 trang)

TÀI LIỆU THAM KHẢO ĐẢNG bộ TỈNH NGHỆ AN LÃNH đạo PHÁT TRIỂN CÔNG NGHIỆP từ năm 2001 đến năm 2010

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (384.99 KB, 89 trang )

“Đảng bộ tỉnh Nghệ An lãnh đạo phát triển công nghiệp từ năm
2001 đến 2010”
1. Lý do chọn đề tài
Công nghiệp là ngành kinh tế quốc dân quan trọng nhất, có ảnh hưởng
quyết định đến trình độ phát triển của lực lượng sản xuất và năng suất lao
động xã hội. Tỷ lệ sản phẩm công nghiệp trong cơ cấu tổng sản phẩm xã hội
được xem như chỉ tiêu phản ánh trình độ phát triển KT-XH của một quốc gia.
Do đó, phát triển công nghiệp là yêu cầu khách quan không thể tách rời trong
tiến trình công nghiệp hóa của bất cứ quốc gia nào
Dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam, mỗi giai đoạn phát
triển của công nghiệp Việt Nam đều gắn liền với những bước tiến của cách
mạng. Công nghiệp Việt Nam luôn có những đóng góp quan trọng cho sự phát
triển toàn diện của đất nước. Từ Đại hội IV, Đảng Cộng sản Việt Nam xác
định công nghiệp hóa xã hội chủ nghĩa là nhiệm vụ trung tâm của cả thời kỳ
quá độ lên chủ nghĩa xã hội. Hiện nay, công nghiệp là động lực chủ yếu để
đưa Việt Nam trở thành một nước công nghiệp theo hướng hiện đại vào
những thập niên tới. Đại hội XI của Đảng xác định: “Cơ cấu lại, xây dựng nền
công nghiệp theo hướng phát triển mạnh những ngành có tính nền tảng, có lợi
thế so sánh và có ý nghĩa chiến lược đối với sự phát triển nhanh, có hiệu quả,
bền vững, nâng cao tính độc lập, tự chủ của nền kinh tế” [38, tr.193].
Tỉnh Nghệ An nằm trong khu vực Bắc Trung Bộ - nơi tập trung nhiều
nguồn tài nguyên thiên nhiên, là một tỉnh lớn cả về diện tích và dân số, điều
kiện tự nhiên tương đối thuận lợi. Những năm qua tỉnh Nghệ An đã xây dựng
được cơ cấu kinh tế công nghiệp - dịch vụ - nông - lâm - ngư nghiệp, trong đó
công nghiệp giữ vị trí, vai trò rất quan trọng trong quá trình phát triển KT XH của tỉnh. Cơ cấu sản xuất công nghiệp có sự chuyển dịch theo hướng tích
cực, qui mô và chất lượng tổ chức sản xuất từng bước được nâng cao. Những


thành tựu đạt được trong quá trình CNH, HĐH là tiền đề quan trọng để Nghệ
An phấn đấu trở thành tỉnh công nghiệp. Tuy nhiên, cũng phải khẳng định sự
phát triển công nghiệp của Nghệ An vẫn còn chưa tương xứng với tiềm năng


sẵn có. Quy mô các doanh nghiệp còn nhỏ bé, trình độ công nghệ lạc hậu,
chất lượng và sức cạnh tranh của sản phẩm còn thấp; tình trạng ô nhiễm môi
trường, cạn kiệt tài nguyên, các vấn đề an sinh xã hội đang đặt ra yêu cầu cấp
thiết phải tập trung giải quyết. Do đó, nghiên cứu quá trình Đảng bộ tỉnh
Nghệ An lãnh đạo phát triển công nghiệp từ năm 2001 đến năm 2010, để đánh
giá đúng mức những thành tựu đạt được, những hạn chế, bất cập, làm rõ
nguyên nhân và rút ra kinh nghiệm để vận dụng vào hiện tại là việc làm cần
thiết có ý nghĩa lý luận và thực tiễn sâu sắc.
1. Tình hình nghiên cứu có liên quan đến đề tài
Phát triển công nghiệp là vấn đề rất quan trọng đối với mỗi quốc gia.
Công nghiệp là động lực cơ bản để đưa nước ta sớm trở thành nước công
nghiệp theo hướng hiện đại. Trong những năm qua, có nhiều tác giả nghiên
cứu vấn đề phát triển công nghiệp, CNH, HĐH, tiếp cận, khai thác ở những
góc độ khác nhau, tiêu biểu là các nhóm công trình nghiên cứu sau:
Nhóm các công trình nghiên cứu chung về quá trình phát triển công
nghiệp và CNH, HĐH:
Đồng chí Đỗ Mười với tác phẩm, Về công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất
nước, (1997), Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội. Gồm những bài phát biểu của
đồng chí Tổng bí thư Đỗ Mười từ năm 1991 đến năm 1996. Với nội dung
phong phú, đồng chí Tổng Bí thư đã phân tích sâu sắc vị trí, vai trò và tính tất
yếu của sự nghiệp CNH, HĐH đất nước, nêu rõ những quan điểm chỉ đạo,
những yêu cầu nội dung, nhiệm vụ của CNH, HĐH, đồng thời phê phán
những nhận thức sai lệch khi đi vào kinh tế thị trường.
Tác giả Trần Xuân Viện trong nghiên cứu, Chiến lược huy động và sử
dụng vốn trong nước cho phát triển nền công nghiệp Việt Nam , (1998), Nxb
2
2


Lao động, Hà Nội. Khẳng định: Vốn là một trong những nguồn lực quan

trọng nhất cho phát triển công nghiệp, nhưng đây lại là khó khăn lớn của Việt
Nam. Vấn đề đặt ra là phải có chính sách hợp lý để thu hút mạnh mẽ các
nguồn vốn, trong đó phải chú trọng huy động và sử dụng một cách có hiệu
quả nguồn vốn trong nước mới có thể xây dựng được một nền công nghiệp
độc lập, tự chủ và có năng lực nội sinh cao.
Nguyễn Xuân Hinh (2003), Quy hoạch xây dựng KCN ở Việt Nam
trong thời kỳ đổi mới, Luận án tiến sĩ Kiến trúc. Tác giả đã khái quát quá trình
hinh thành và phát triển KCN trên thế giới và ở Việt Nam, xác định cơ sở
khoa học quy hoạch, xây dựng KCN ở nước ta dưới góc độ khoa học Kiến
trúc thời kỳ CNH, HĐH đất nước, xây dựng những mô hình KCN, phương
pháp lựa chọn địa điểm, quy mô, các giải pháp xây dựng quy hoạch KCN ở
Việt Nam.
Lê Tuyển Cử ( 2013), Những biện pháp phát triển và hoàn thiện công
tác quản lý nhà nước đối với khu công nghiệp ở Việt Nam, Luận án tiến sĩ
kinh tế. Với đề tài này, tác giả đã khái quát vai trò của KCN trong quá trình
phát triển KT - XH của các nước đang phát triển, yêu cầu và nội dung công
tác quản lý nhà nước đối với KCN, thực trạng công tác quản lý nhà nước đối
với các KCN, xác định phương hướng và những giải pháp phát triển, hoàn
thiện công tác quan lý nhà nước đối với sự phát triển công nghiệp ở các KCN
của Việt Nam.
Thanh Sơn (1990), 45 năm xây dựng và phát triển công nghiệp Việt
Nam, Nxb Khoa học, Hà Nội; GS, TS Ngô Đình Giao (1996), Suy nghĩ về
CNH, HĐH ở nước ta, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội; TS Nguyễn Xuân
Đông (2008), Chuyển dịch cơ cấu kinh tế công nghiệp ở nước ta hiện nay,
Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội; GS, TS Mạch Quang Thắng (2000), Công
nghiệp hóa dưới ánh sáng tư tưởng Hồ Chí Minh, Nxb Chính trị quốc gia, Hà
Nội; PGS, TS Lê Quốc Lý (2009), “Khủng hoảng kinh tế thế giới và những
giải pháp kích cầu ở nước ta”, Tạp chí Lý luận chính trị, 7.

3

3


Các công trình khoa học trên đây đã đi sâu nghiên cứu làm rõ sự lãnh
đạo của Đảng trước yêu cầu khách quan của quá trình phát triển công nghiệp
trong khu vực cũng như ở nước ta; khẳng định vai trò của công nghiệp trong
phát triển đất nước; nêu lên một số xu hướng biến đổi, vận động của kinh tế
công nghiệp của khu vực và nước ta trong những năm đầu thế kỷ XXI; làm rõ
nội dung, chủ trương, giải pháp chủ yếu về phát triển công nghiệp; tổng kết sự
lãnh đạo của Đảng về đẩy mạnh CNH, HĐH và phát triển công nghiệp từ năm
1996 đến năm 2010.
Nhóm các công trình nghiên cứu về phát triển công nghiệp ở các địa
phương trong nước:
Các công trình nghiên cứu đi sâu luận giải những vấn đề lý luận và
thực tiễn tình hình phát triển công nghiệp ở các tỉnh, thành phố, qua đó trình
bày các quan điển, đường lối phát triển của các Đảng bộ địa phương trên cơ
sở khai thác các tiềm năng, thế mạnh để phát triển công nghiệp như:
Đoàn Duy Khương (2002), Một số giải pháp đẩy mạnh phát triển khu
công nghiệp, khu chế xuất ở Hải Phòng, Luận án tiến sĩ Kinh tế. Tác giả trình
bày mục đích hình thành, yêu cầu đối với việc phát triển KT - XH. Đặc biệt,
tác giả đã trình bày quá trình hình thành phát triển KCN ở thành phố Hải
Phòng, khẳng định vai trò to lớn của KCN đối với tiến trình đẩy mạnh CNH,
HĐH của thành phố. Trên cơ sở đó, tác giả nêu lên những quan điểm, phương
hướng, giải pháp phát triển KCN ở thành phố Hải Phòng.
Bùi Đức Hùng (2005), Giải pháp nâng cao hiệu quả đầu tư phát triển
công nghiệp trên địa bàn thành phố Đà Nẵng. Luận án hệ thống hóa những
vấn đề lý luận về đầu tư phát triển công nghiệp trong nền kinh tế thị trường.
Đánh giá thực trạng đầu tư, cơ cấu đầu tư và hiệu quả đầu tư phát triển công
nghiệp trên địa bàn thành phố Đà Nẵng từ năm 1997 đến năm 2003. Đề xuất
giải pháp nâng cao hiệu quả, đẩy mạnh đầu tư phát triển công nghiệp ở Đà

Nẵng đến năm 2010
Nguyễn Khắc Thanh (2007), Đảng bộ tỉnh Đồng Nai lãnh đạo xây
dựng khu công nghiệp trong những năm đổi mới từ 1986 - 2005, Luận án tiến
4
4


sĩ Lịch sử, Học viện Chính trị - Quân sự; đã phân tích và làm rõ quá trình lãnh
đạo của Đảng bộ tỉnh Đồng Nai trong xây dựng và phát triển KCN trong 10
năm đầu đổi mới (1896 - 1995) và trong thời kỳ đẩy mạnh CNH, HĐH đất
nước (1996 - 2005), kết quả và những kinh nghiệm chủ yếu trong quá trình
lãnh đạo, chỉ đạo xây dựng KCN (1986 - 2005).
Bên cạnh đó, còn có các công trình; Nguyễn Minh Hiếu (2011), Nghiên
cứu vấn đề phát triển bền vững công nghiệp trên địa bàn tỉnh Thái Nguyên,
Luận án tiến sĩ Kinh tế, Đại học Kinh tế quốc dân, Hà Nội; Nguyễn Hà Minh
(2011), Chính sách phát triển công nghiệp tỉnh Thái Nguyên, Luận văn thạc sĩ
Kinh tế, Đại học Kinh tế và Quản trị kinh doanh Thái Nguyên; Bùi Viết Sơn
(2012), Đảng bộ tỉnh Thái Nguyên lãnh đạo phát triển công nghiệp từ năm
2001 đến năm 2010, Luận văn thạc sĩ Lịch sử Đảng, Học viện Chính trị Quân sự.
Nhóm các công trình nghiên cứu về tình hình phát triển công nghiệp
của tỉnh Nghệ An:
Nguyễn Văn Chất (2005), "Nghệ An tích cực cải thiện môi trường đầu
tư khuyến khích phát triển", Tạp chí Kinh tế và dự báo, 8.Tác giả đã nêu rõ
những thay đổi trong chủ trương, chính sách của Nghệ An làm cải thiện môi
trường đầu tư là nguyên nhân rất quan trọng trong thu hút các nhà đầu tư
trong và ngoài nước trong thời gian vừa qua, đồng thời cũng chỉ ra những
nguyên nhân và giải pháp để tiếp tục cải thiện và thu hút vốn đầu tư để Nghệ
An trở thành điểm đến của các nhà đầu tư trong thời gian tới.
Nguyễn Bá (2005), "Các khu công nghiệp ở Nghệ An sẵn sàng đón
nhận các nhà đầu tư", Tạp chí Kinh tế và dự báo, 8.Tác giả đã nêu rõ những

chính sách thu hút đầu tư vào các KCN ở Nghệ An, đã được hình thành và
đang tích cực mời gọi đầu tư, đồng thời cũng chỉ ra nguyên nhân việc thu hút
đầu tư vào các KCN Nghệ An đang phải đối mặt với với nhiều khó khăn thách
thức. Trên cơ sở đó đã chỉ ra những gải pháp chủ yếu, cấp thiết trong thời gian
tới, để làm cho Nghệ An trở thành một điểm đến hấp dẫn các nhà đầu tư.

5
5


Nguyễn Xuân Thành (2005), Thu hút vốn đầu tư vào các khu công
nghiệp ở Nghệ An hiện nay, Luận văn thạc sĩ Kinh tế, trường Đại học Kinh tế
quốc dân, Hà Nội; Bùi Thanh Xuân (2009), Đảng bộ Tỉnh Nghệ An lãnh đạo
thực hiện CNH, HĐH nông nghiệp, nông thôn (1996 - 2006), Luận văn thạc
sỹ Lịch sử, Trường Đại học Quốc gia Hà Nội.
Chương 1
CHỦ TRƯƠNG VÀ SỰ CHỈ ĐẠO CỦA ĐẢNG BỘ TỈNH NGHỆ AN
VỀ PHÁT TRIỂN CÔNG NGHIỆP (2001 - 2005)

1.1. Những nhân tố tác động và chủ trương của Đảng bộ tỉnh Nghệ
An về phát triển công nghiệp (2001 - 2005)
1.1.1. Những nhân tố tác động đến sự phát triển công nghiệp tỉnh
Nghệ An
* Vị trí, vai trò của công nghiệp đối với sự phát triển kinh tế - xã hội
tỉnh Nghệ An
Công nghiệp là ngành kinh tế quốc dân quan trọng nhất, có ảnh hưởng
quyết định đến trình độ phát triển lực lượng sản xuất và năng suất lao động xã
hội. Tỷ lệ sản phẩm công nghiệp trong cơ cấu tổng sản phẩm xã hội được xem
như chỉ tiêu phản ánh trình độ phát triển KT - XH.
Vai trò của công nghiệp đối với sự phát triển KT - XH đã được các nhà

kinh điển của chủ nghĩa Mác - Lênin sớm khẳng định “Cơ sở thực sự và duy
nhất để làm tăng các nguồn dự trữ của chúng ta, để xây dựng xã hội, xã hội
chủ nghĩa chỉ có thể là đại công nghiệp. Không có những công xưởng lớn như
những xưởng mà chủ nghĩa tư bản đã tạo ra, không có một nền đại công
nghiệp tổ chức cao, thì không thể nói đến chủ nghĩa xã hội nói chung được,
mà lại càng không thể nói đến chủ nghĩa xã hội đối với một nước nông nghiệp
được” [59, tr.366]. Do đó, “Cơ sở vật chất duy nhất của chủ nghĩa xã hội chỉ
có thể là nền đại công nghiệp cơ khí có khả năng cải tạo cả nông nghiệp” [60,
tr.10]. Kế thừa, vận dụng sáng tạo chủ nghĩa Mác - Lênin vào điều kiện cụ thể
của nước ta, Hồ Chí Minh đã khẳng định: Hiện nay, chúng ta lấy sản xuất
nông nghiệp làm chính, vì muốn mở mang công nghiệp thì phải có đủ lương
6
6


thực, nguyên liệu...nhưng công nghiệp hóa xã hội chủ nghĩa vẫn là mục tiêu
phấn đấu chung, là con đường no ấm thật sự của nhân dân ta.
Đối với Nghệ An, công nghiệp không chỉ tạo ra sản phẩm tiêu dùng
nhằm nâng cao đời sống xã hội, thúc đẩy sự phát triển nhiều ngành kinh tế
khác, mà còn tạo điều kiện khai thác có hiệu quả nguồn tài nguyên thiên
nhiên, khả năng mở rộng sản xuất, thị trường lao động, tạo việc làm, tăng thu
nhập, củng cố và tăng cường quốc phòng an ninh trên địa bàn tỉnh.
* Điều kiện tự nhiên, KT-XH của tỉnh Nghệ An tác động đối với sự phát
triển công nghiệp
Đặc điểm tự nhiên
Vị trí địa lý: Nghệ An là tỉnh nằm ở trung tâm vùng Bắc Trung bộ, trải
dài theo hướng Tây Bắc - Đông Nam. Nằm trong toạ độ từ 180 35' đến
20000'10'' vĩ độ Bắc và từ 1030 50'25'' đến 105040'30'' kinh độ Đông. Về phía
bắc giáp tỉnh Thanh Hoá. Phía nam giáp tỉnh Hà Tĩnh. Phía tây chung biên
giới với Cộng hoà Dân chủ Nhân dân Lào thuộc phạm vi 3 tỉnh Xiêng

Khoảng, Bôli Khămxay và Hủa Phăn. Phía đông, tiếp giáp với vùng biển rộng
lớn, có cảng Cửa Lò là 1 cảng lớn trong cụm cảng Cửa Lò- Hòn Ngư- Cửa
Hội- Xuân Hải. Nhờ đó, các mối giao lưu trong nước và quốc tế trở nên thuận
tiện. Với vị trí này, tỉnh Nghệ An có điều kiện hội nhập với thị trường trong
nước và quốc tế trên cơ sở khai thác các thế mạnh vốn có của mình.
Khí hậu, sông ngòi
Nghệ An nằm trong vùng khí hậu nhiệt đới gió mùa, có 4 mùa rõ rệt:
xuân, hạ, thu, đông. Lượng mưa trung bình hàng năm 1.670 mm. Nhiệt độ
trung bình 25,2°C. Số giờ nắng trong năm 1.420 giờ. Độ ẩm tương đối trung
bình 86 - 87%.
Mạng lưới sông ngòi trên lãnh thổ Nghệ An phần lớn chảy theo hướng
Tây Bắc - Đông Nam, phù hợp với độ nghiêng của địa hình. Các sông lớn
gồm có sông Cả, sông Hiếu, sông Con, sông Giăng. Hệ thống sông suối dày
đặc, mật độ lưới sông từ 0,6 - 0,7 km/km 2. Sông Cả là sông lớn nhất tỉnh, dài
375 km có diện tích lưu vực 17.730 km 2, chiếm 80% diện tích mặt nước toàn
7
7


tỉnh. Do địa hình dốc nên các sông suối có khả năng xây dựng các công trình
thuỷ điện lớn nhỏ, đáp ứng nhu cầu năng lượng tại chỗ cho nhân dân vùng
cao và hoà lưới điện quốc gia. Tổng trữ năng thuỷ điện qua tính toán có thể
lên tới 950 - 1.000 MW.
Tài nguyên sinh vật: Nghệ An là tỉnh có tài nguyên rừng tương đối
phong phú và đa dạng. Đến nay, tổng diện tích rừng của Nghệ An là 745.537
ha với tổng trữ lượng gỗ là 50 triệu m 3. Rừng nguyên sinh vườn quốc gia Pù
Mát diện tích 91.113 ha, khu bảo tồn thiên nhiên Pù Huống diện tích 50.000
ha với nhiều động vật và thực vật quý hiếm. Có tiềm năng đầu tư phát triển
công nghiệp chế biến lâm sản và nguyên liệu giấy.
Nghệ An có 82 km bờ biển với diện tích 4.230 hải lý vuông, 6 cửa lạch,

có trên 3.000 ha diện tích nước mặn, lợ, 12.000 ha ao hồ mặt nước ngọt có
khả năng phát triển nuôi trồng thuỷ sản. Trữ lượng hải sản ước tính trên
80.000 tấn. Bờ biển Nghệ An có nhiều bãi tắm đẹp, nổi tiếng là bãi biển Cửa
Lò, Nghi Thiết, Diễn Thành, Quỳnh Phương.
Tài nguyên khoáng sản: Nghệ An có nhiều loại khoáng sản với trữ
lượng lớn. Đá vôi trên 1 tỷ tấn, đá xây dựng trên 1 tỷ m 3. Đất sét làm nguyên
liệu xi măng có trữ lượng 300 triệu tấn; 982 triệu tấn đá trắng (Quỳ Hợp, Quỳ
Châu); đá bazan có trữ lượng 260 triệu m 3 (Nam Đàn, Quỳ Hợp); 160 tấn đá
granite (Tân Kỳ); sét làm gốm sứ cao cấp trên 300 triệu tấn (Nghi Lộc, Đô
Lương, Yên Thành, Tân Kỳ); 5 triệu tấn than (Tương Dương, Con Cuông);
than bùn trên 10 triệu tấn (Tân Kỳ, Yên Thành); vàng sa khoáng tập trung
nhiều dọc sông Cả, sông Hiếu...Nguồn tài nguyên của Nghệ An tập trung
thành những quần thể, nguyên liệu chính và nguyên liệu phụ ở gần nhau, có
chất lượng cao, gần đường giao thông. Đây là một trong những yếu tố thu hút
các nhà đầu tư đến với Nghệ An.
Đặc điểm KT - XH: Nghệ An là địa bàn chiến lược đặc biệt quan trọng
về KT-XH, quốc phòng, an ninh, đối ngoại của đất nước, có tiềm năng và lợi
8
8


thế phát triển về công nghiệp, nông nghiệp, lâm nghiệp, thủy điện, khai
khoáng, du lịch và phát triển kinh tế cửa khẩu. Mục tiêu của phát triển KT-XH
Nghệ An đến năm 2020; nhằm khai thác hợp lý và có hiệu quả các tiềm năng,
thế mạnh về phát triển công nghiệp, nông nghiệp, lâm nghiệp, thủy điện, khai
khoáng, du lịch, kinh tế cửa khẩu để duy trì tốc độ tăng trưởng kinh tế của
tỉnh cải thiện rõ rệt và đồng bộ hệ thống kết cấu hạ tầng đáp ứng yêu cầu phát
triển kinh tế, dân sinh và bảo đảm quốc phòng, an ninh.
Về hệ thống giao thông: Tỉnh có hệ thống giao thông khá đồng bộ, bao
gồm đường bộ, đường sắt, đường không, đường biển.

Hệ thống thông tin liên lạc: Tỉnh đã có cơ sở vật chất và mạng lưới bưu
chính viễn thông hiện đại, với đầy đủ loại hình dịch vụ có thể nhanh chóng
đáp ứng nhu cầu trao đổi thông tin, liên lạc trong nước và quốc tế.
Nguồn nhân lực: Tính đến tháng 7 - 2005, dân số trong độ tuổi lao
động của Nghệ An là 1.782 nghìn người, chiếm 58,8% dân số toàn tỉnh. Lao
động ở độ tuổi từ 15 - 24 chiếm 22,45%; 25 - 34 chiếm 14,96%, 35 - 44
chiếm 12,68% và 45 - 54 chiếm 8,71%. Trên địa bàn tỉnh có các cơ sở đào tạo
nguồn nhân lực chất lượng cao bao gồm: Đại học Vinh, Trường Đại học Sư
phạm kỹ thuật Nghệ An, Trường Cao đẳng Kinh tế kỹ thuật Nghệ An, Trường
Cao đẳng Y tế, Trường Cao đẳng Sư phạm, Trường Cao đẳng văn hoá nghệ
thuật. Bên cạnh đó còn có 3 trường Trung học kỹ thuật, 7 trường đào tạo công
nhân kỹ thuật và dạy nghề cùng với nhiều trung tâm dạy nghề ở các huyện,
hàng năm đào tạo 22.000 đến 25.000 lao động kỹ thuật. Đây là nguồn nhân
lực rất quan trọng phục vụ cho quá trình phát triển công nghiệp của tỉnh, có
thể đáp ứng nhu cầu lao động kỹ thuật cho các nhà đầu tư.
* Thực trạng phát triển công nghiệp tỉnh Nghệ An trước năm 2001
Thành tựu: Trước năm 2001, cùng với những thành công của sự
nghiệp đổi mới đất nước, các ngành kinh tế của Nghệ An cũng từng bước
khẳng định và phát triển. Tổng sản phẩm nội tỉnh (GDP) tăng với tốc độ
9
9


tương đối cao, bình quân hàng năm 7,25% (cả nước 6,7%). Trong đó “Công
nghiệp - xây dựng tăng bình quân 13,2%/ năm. So với năm 1990, giá trị sản
xuất công nghiệp tăng 2,79 lần, tỷ trọng công nghiệp - xây dựng trong GDP từ
12,1% năm 1990 lên 18,9% năm 2000” [29, tr.14].
Trong điều kiện tỉnh chưa phải là khu vực trọng điểm phát triển công
nghiệp của Trung ương, điểm xuất phát thấp, tỉnh đã biết lựa chọn một số mặt
hàng, sản phẩm có lợi thế để đầu tư như; sản xuất và chế biến mía đường, chế

biến hải sản, sản xuất VLXD…đã đạt được thành tựu rất quan trọng. Cụ thể,
một số sản phẩm như: xi măng 185.000 tấn, mía đường 40.000 tấn, gạch ngói
210 triệu viên, bia đạt 13,5 triệu lít, chè thành phẩm 2.700 tấn...bắt đầu hình
thành một số mũi công nghiệp rõ nét.
Được sự quan tâm của Trung ương, các doanh nghiệp đã được đầu tư
phát triển sản xuất, đổi mới công nghệ để có sản phẩm đạt chất lượng cao
hơn, phục vụ nhu cầu trong tỉnh và xuất khẩu, đóng góp cho ngân sách Nhà
nước, tạo được vị thế mới trong sự phát triển KT - XH của tỉnh. Không ngừng
áp dụng khoa học công nghệ tiên tiến vào quá trình sản xuất, đổi mới thiết bị
công nghệ theo hướng lựa chọn, ứng dụng công nghệ hoặc chuyển giao. Đã
khuyến khích các doanh nghiệp đăng ký tham gia dự án hỗ trợ áp dụng hệ
thống quản lý chất lượng quốc tế ISO. Tỉnh bắt đầu có sự định hướng qui
hoạch và thực hiện một bước qui hoạch các KCN tập trung trên các địa bàn
dân cư. Ngay từ năm 1997, thực hiện chủ trương của Tỉnh ủy, UBND tỉnh
Nghệ An đã chỉ đạo các ngành chức năng lập đề án quy hoạch xây dựng
KCN. Ngày 18 - 12 - 1998, KCN Bắc Vinh - KCN đầu tiên của Nghệ An
được chính thức thành lập, có diện tích quy hoạch là 143,17 ha.
Những kết quả đạt được trong phát triển công nghiệp đã góp phần
quan trọng vào việc ổn định và phát triển KT - XH của tỉnh những năm trước
2001. Với chủ trương, chính sách đổi mới CNH, HĐH nói chung, công
nghiệp nói riêng đã tạo bước phát triển mới trong quá trình quy hoạch, đầu tư,
ứng dụng khoa học công nghệ vào sản xuất công nghiệp của tỉnh Nghệ An.
Nguyên nhân của những thành tựu:
10
10


Trong quá trình lãnh đạo phát triển KT - XH, Đảng bộ tỉnh đã nắm chắc
yêu cầu của thực tiễn, tích cực đổi mới tư duy lãnh đạo, do đó đã có những
đột phá về cơ chế chính sách, mở đường cho sản xuất phát triển. Trong phát

triển các ngành công nghiệp luôn gắn kết chặt chẽ giữa chính sách của Trung
ương với điều kiện cụ thể của tỉnh, có nhiều cơ chế thu hút các nguồn lực về
vốn và lao động.
Cơ cấu kinh tế được xác lập theo đúng hướng công nghiệp - dịch vụ và
khai thác bước đầu có hiệu quả về điều kiện, tiềm năng của tỉnh, cơ cấu trong
ngành công nghiệp thay đổi theo xu hướng chất lượng và giá trị sản phẩm, sản
xuất gắn với thị trường. Tập trung phát triển kinh tế công nghiệp và xây dựng
kết cấu hạ tầng thương mại dịch vụ, du lịch. Tiếp tục đẩy mạnh cải cách hành
chính, công tác bồi thường giải phóng mặt bằng và tiến độ các công trình, dự
án trọng điểm. Các nguồn vốn được quan tâm và tập trung khai thác, trong đó
có nguồn vốn thu hút từ nội lực của tỉnh cũng như các nguồn lực bên ngoài.
Môi trường đầu tư được cải thiện rõ rệt, các quan hệ vùng được xác lập rõ
ràng hơn, liên kết kinh tế giữa Nghệ An với các tỉnh bạn được hình thành. Sức
ép phải phát triển nhanh hơn, đột phá hơn ngày càng rõ, các thành phần kinh
tế ngày càng được chú trọng.
Hạn chế
Bên cạnh thành tựu đã đạt được, ngành công nghiệp của tỉnh Nghệ An
còn những hạn chế, đó là: Công nghiệp chế biến hàng nông sản và tiểu thủ
công nghiệp phát triển chậm chưa tương xứng với tiềm năng của tỉnh và thị
trường. Việc qui hoạch, định hướng phát triển KCN còn lúng túng, triển khai
phát triển chưa toàn diện, thiếu vững chắc. “Nhịp độ tăng GTSXCN đạt thấp
so với tỷ trọng công nghiệp trong GDP mới đạt 18,9% (mục tiêu của Đại hội
XIV là 21%) [29, tr.22].
Việc củng cố, xây dựng quan hệ sản xuất mới còn lúng túng, sắp xếp và
đổi mới doanh nghiệp, nhất là cổ phần hóa còn chậm, trình độ công nghệ,
hiệu quả sản xuất kinh doanh, khả năng cạnh tranh của từng sản phẩm, từng

11
11



doanh nghiệp, từng ngành còn thấp. Cụ thể; “Doanh nghiệp nhà nước kém
hiệu quả, chất lượng hàng hóa và sức cạnh tranh yếu, ít doanh nghiệp có tích
lũy để tái đầu tư phát triển. Công nghiệp, tiểu thủ công ngoài quốc doanh phát
triển chậm, nhiều khó khăn vướng mắc về thuế đất và giao quyền sử dụng đất,
về vay vốn, về đầu tư chưa được tháo gỡ kịp thời” [29, tr.24]. Các KCN, CCN
chậm hình thành. Trước 2001, tỉnh Nghệ An chỉ có 1 KCN (KCN BắcVinh).
Nguyên nhân của hạn chế
Điểm xuất phát về kinh tế của tỉnh thấp, nguồn vốn để phát triển hạn
hẹp, lại chịu tác động của khủng hoảng tài chính - tiền tệ trong khu vực, ảnh
hưởng của thiên tai. Tại thời điểm năm 2001, tỉnh Nghệ An còn là một tỉnh
nghèo, cơ sở hạ tầng yếu kém lại chưa được đầu tư. Do đó, người dân không
có nhiều cơ hội để giao lưu, buôn bán, phát triển kinh tế nông nghiệp theo
hướng hàng hóa tập trung gắn với nhu cầu của thị trường. Tuy nhiên, nguyên
nhân chính là việc nhận thức và vận dụng đường lối đổi mới, CNH, HĐH,
phát triển nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa của Đảng vào
địa phương chưa sâu sắc, sáng tạo, còn thụ động, thỏa mãn với kết quả ban
đầu, không nhất quán, thiếu kiên trì, chưa đưa ra được cơ chế chính sách để
thu hút, thúc đẩy các tổ chức, cá nhân trong và ngoài nước đầu tư phát triển
công nghiệp. Một số lợi thế như nguồn nhân lực, tài nguyên khoáng sản, kinh
tế đồi rừng, kinh tế biển…khai thác chưa có hiệu quả. Công nghiệp và tiểu
thủ công nghiệp ngoài quốc doanh chưa được coi trọng, vai trò định hướng,
hỗ trợ của Nhà nước còn yếu.
Thu hút dự án còn chậm, công tác đền bù giải phóng mặt bằng còn
nhiều khó khăn, các biện pháp hỗ trợ triển khai các dự án đầu tư chưa mạnh
mẽ. Cơ chế chính sách phát triển doanh nghiệp vừa và nhỏ còn hạn chế. Năng
lực và hệ thống quản lý, đội ngũ cán bộ quản lý, điều hành phát triển ngành
công nghiệp chưa đáp ứng yêu cầu trong tình hình mới. Ðây là vấn đề hết sức

12

12


cấp bách, nếu không được quan tâm giải quyết, sẽ là một yếu tố hạn chế đến
quá trình đẩy mạnh CNH, HĐH của tỉnh.
Từ tình hình thực trạng phát triển công nghiệp tỉnh Nghệ An trước năm
2001, đặt ra yêu cầu trong những năm 2001 - 2005, Đảng bộ tỉnh cần có
những chủ trương, biện pháp lãnh đạo, chỉ đạo để tập trung từ chiều sâu, đổi
mới thiết bị, mở rộng sản xuất, nâng cao chất lượng sản phẩm và sức cạnh
tranh của các mặt hàng trên thị trường. Khuyến khích và tạo điều kiện cho các
nhà đầu tư trong và ngoài nước. Đồng thời nghiên cứu đúc rút kinh nghiệm
góp phần bổ sung, hoàn thiện chủ trương và sự chỉ đạo của Đảng bộ tỉnh về
phát triển công nghiệp tỉnh Nghệ An, địa chỉ tham khảo cho một số tỉnh khác
để tiến tới mục tiêu hoàn thành nhiệm vụ CNH, HĐH trong cả nước.
* Quan điểm và định hướng của Đảng Cộng sản Việt Nam về phát triển
công nghiệp (2001- 2005)
Xuất phát từ vị trí, vai trò của công nghiệp đối với sự phát triển KT
-XH, Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ IX (4/2001), Đảng Cộng sản Việt
Nam đã xác định: “Coi phát triển kinh tế là nhiệm vụ trung tâm, xây dựng
đồng bộ nền tảng cho một nước công nghiệp là yêu câu cấp thiết” [38, tr.164]
Định hướng phát triển công nghiệp những năm 2001 - 2005 như sau:
Một là, phát triển với nhịp độ cao, có hiệu quả, coi trọng đầu tư chiều
sâu, đổi mới thiết bị công nghệ tiến tiến và tiến tới hiện đại hóa từng phần các
ngành sản xuất công nghiệp.
Hai là, phát triển các ngành công nghiệp có lợi thế cạnh tranh, chú
trọng công nghiệp chế biến và công nghiệp sản xuất hàng xuất khẩu; các
ngành công nghiệp phục vụ phát triển nông nghiệp và kinh tế nông thôn.
Ba là, xây dựng có lựa chọn, có điều kiện về vốn, công nghệ, thị trường
và có hiệu quả một số cơ sở công nghiệp sản xuất tư liệu sản xuất: dầu khí,
luyện kim, cơ khí, điện tử, hóa chất cơ bản.

13
13


Bốn là, phát triển mạnh công nghiệp công nghệ cao, nhất là công nghệ
thông tin, viễn thông, điện tử. Phát triển một số cơ sở công nghiệp quốc
phòng cần thiết.
Năm là, kết hợp hài hòa giữa phát triển công nghiệp đáp ứng yêu cầu
trong nước và xuất khẩu; có những biện pháp bảo hộ hợp lý, bảo đảm công
nghiệp với khả năng cạnh tranh cao, thúc đẩy CNH, HĐH đất nước.
Sáu là, khuyến khích mọi thành phần kinh tế tham gia đầu tư phát triển
sản xuất công nghiệp với nhiều quy mô, nhiều trình độ, chú trọng các doanh
nghiệp vừa và nhỏ, phù hợp định hướng chung và lợi thế của từng vùng, từng
địa phương; trước hết tập trung cho công nghiệp chế biến, công nghiệp sử
dụng nhiều lao động và công nghiệp sản xuất hàng xuât khẩu, phát triển mạnh
tiểu thủ công nghiệp.
Đại hội IX của Đảng xác định mục tiêu phát triển công nghiệp đến năm
2005 là: GTSXCN tăng bình quân 13%/ năm; tỷ trọng công nghiệp và xây
dựng chiếm khoảng 38 - 39% trong GDP. Sau Đại hội IX của Đảng (4/2001),
Hội nghị lần thứ 3 Ban Chấp hành trung ương Đảng (khóa IX) đã ra Nghị
quyết số 05/ NQ-TW, Về tiếp tục sắp xếp, đổi mới, phát triển và nâng cao
hiệu quả doanh nghiệp nhà nước. Ngày 27 - 11 - 2001, Bộ Chính trị ra Nghi
quyết 07/NQ-TW, Về hội nhập kinh tế quốc tế. Ngày 15 - 11 - 2004, Bộ Chính
trị ra Nghị quyết số 41/NQ-TW, Về bảo vệ môi trường trong thời kỳ đẩy mạnh
CNH, HĐH đất nước. Ngày 04 - 3 - 2005, Ban Bí thư ra chỉ thị số 50/CT-TW,
Về việc đẩy mạnh phát triển và ứng dụng công nghệ sinh học phục vụ sự
nghiệp CNH, HĐH đất nước. Những đường lối, chủ trương trên là cơ sở để
Đảng bộ tỉnh Nghệ An đề ra chủ trương, biện pháp lãnh đạo, chỉ đạo phát
triển công nghiệp giai đoạn 2001 - 2005.
1.1.2. Chủ trương của Đảng Bộ tỉnh Nghệ An về phát triển công

nghiệp (2001 - 2005)
Quán triệt chủ trương, quan điểm CNH, HĐH của Đảng, vận dụng sáng
tạo trong điều kiện thực tiễn của địa phương. Ngày 08 - 8 - 2001, Ban Chấp
14
14


hành Đảng bộ tỉnh (khóa XV) đã đề ra nghị quyết số 06 NQ/TU, Về phát
triển công nghiệp, TTCN, xây dựng và phát triển làng nghề tỉnh Nghệ An thời
kỳ 2001 - 2010. Trên cơ sở đó, tỉnh đã xây dựng quy hoạch phát triển công
nghiệp đến năm 2020, xây dựng đề án phát triển công nghiệp trên địa bàn
miền Tây tỉnh Nghệ An đến năm 2020.
Về quan điểm phát triển công nghiệp
Đẩy nhanh tốc độ phát triển công nghiệp dựa vào các nguồn lực và tiềm
năng, thế mạnh của tỉnh về đất đai, tài nguyên khoáng sản, nguồn lao động,
sản phẩm nông nghiệp, chăn nuôi, lâm nghiệp, thuỷ sản, cần qui hoạch và tổ
chức nuôi trồng để phục vụ cho công nghiệp chế biến. Thực hiện chính sách
thu hút đầu tư để xây dựng một số cơ sở sản xuất công nghiệp có qui mô lớn,
kết hợp xây dựng các xí nghiệp nhỏ và vừa với công nghệ và thiết bị hiện đại.
“Tập trung đầu tư chiều sâu, khai thác tối đa các năng lực thiết bị sản xuất
sẵn có. Đẩy nhanh đầu tư xây dựng các KCN: Bắc Vinh, Nam Cấm, Cửa Lò,
phát triển các KCN nhỏ, CCN, điểm công nghiệp, khôi phục và phát triển
làng nghề. Tạo môi trường sản xuất kinh doanh thuận lợi để các thành phần
kinh tế phát triển” [29, tr.36].
Quá trình đầu tư phát triển công nghiệp, đảm bảo gắn kết ngành hàng,
sản phẩm, gắn công nghiệp Trung ương với công nghiệp địa phương trong
một thể thống nhất. Phát triển công nghiệp gắn với quốc phòng an ninh và
đảm bảo môi trường sinh thái. Phát triển công nghiệp đảm bảo chuyển dịch cơ
cấu kinh tế của tỉnh theo hướng nâng cao tỷ trọng công nghiệp, góp phần
phục vụ qúa trình CNH, HĐH nông nghiệp nông thôn, thay đổi cơ cấu cây

trồng, vật nuôi trong nông nghiệp.
Mục tiêu, nhiệm vụ phát triển công nghiệp
Mục tiêu, nhiệm vụ tổng quát
Phát huy thế và lực hiện có, khai thác có hiệu quả các công trình KT XH đã được xây dựng, tận dụng mọi nguồn lực cho đầu tư sản xuất, phát triển
15
15


kết cấu hạ tầng, thúc đẩy nhanh quá trình chuyển dịch cơ cấu kinh tế theo
hướng nâng cao tỷ trọng công nghiệp, góp phần phục vụ qúa trình CNH,
HĐH, tạo ra nhiều sản phẩm có giá trị, có chất lượng và sức cạnh tranh cao,
góp phần cùng cả nước thực hiện mục tiêu đưa nước ta trở thành một nước
công nghiệp vào năm 2020. “Phấn đấu đến năm 2005 thu nhập nội tỉnh (GDP)
tăng 1,6 - 1,65 lần và thu nhập bình quân đầu người tăng ít nhất 1,5 lần so với
năm 2000, tạo tiền đề vững chắc đưa Nghệ An ra khỏi tỉnh nghèo vào thời kỳ
2006 - 2010” [29, tr.35].
Mục tiêu, nhiệm vụ cụ thể
Phấn đấu từ nay đến năm 2005, tốc độ tăng trưởng kinh tế (GDP) đạt
bình quân hàng năm thời kỳ 2001 - 2005: 9,5 - 10 % (cả nước ít nhất 7%).
Trong đó, tốc độ tăng trưởng công nghiệp - xây dựng bình quân hàng năm
phải đạt 17 - 18%/năm, GTSXCN đạt 500 tỷ đồng, tỷ trọng công nghiệp GDP
25 - 26%
Giải pháp phát triển công nghiệp
Một là, ưu tiên phát triển những ngành công nghiệp tác động trực tiếp
vào nông nghiệp và nông thôn; (công nghiệp chế biến nông, lâm, thủy sản,
chế biến thịt xuất khẩu gắn với phát triển vùng nguyên liệu nhằm tạo ra khối
lượng sản phẩm hàng hóa lớn, có giá trị cao, có sức cạnh tranh trên thị trường
trong nước và thế giới). Coi trọng công nghiệp khai thác khoáng sản, công
nghiệp sản xuất VLXD, công nghiệp sản xuất hàng tiêu dùng và xuất khẩu ở
những sản phẩm có lợi thế, sự dụng nhiều lao động, có khả năng gắn kết, làm

vệ tinh cho công nghiệp Trung ương trên địa bàn. Chủ động phát triển các
ngành công nghiệp công nghệ cao.
Hai là, phát triển công nghiệp đặt trong yêu cầu nghiêm ngặt bảo vệ
môi trường sinh thái, quy hoạch đô thị và phân bố dân cư, hình thành các

16
16


vùng kinh tế động lực, phát triển công nghiệp nông thôn để tạo liên kết chặt
chẽ giữa nông thôn và thành thị.
Ba là, việc xác định quy mô đầu tư phải lấy nhu cầu thị trường và hiệu
quả kinh tế làm căn cứ chủ yếu. Ưu tiên quy mô vừa và nhỏ phù hợp với khả
năng huy động vốn và trình độ quản lý, tổ chức thị trường. Với những sản
phẩm có nhu cầu lớn, có tác động mạnh mẽ đến hình thành vùng sản xuất
hàng hóa trong nông nghiệp mà tỉnh có lợi thế, có khả năng cạnh tranh thì
mạnh dạn đầu tư với quy mô lớn.
Bốn là, đặt ưu tiên vào việc thu hút các nhà đầu tư trong và ngoài nước,
các thành phần kinh tế ngoài quốc doanh, phát triển các cơ sở sản xuất tại
Nghệ An. Chú trọng đầu tư vào các sản phẩm có tác động thúc đẩy phát triển
nông nghiệp và nông thôn, sản phẩm công nghệ cao, sản phẩm sử dụng nhiều
lao động với những thiết bị công nghệ tiến tiến.
1.2. Đảng bộ tỉnh Nghệ An chỉ đạo phát triển công nghiệp (2001 2005)
1.2.1.Chỉ đạo phát triển các ngành công nghiệp
Thực hiện chủ trương, chính sách đổi mới của Đảng và Nhà Nước về
phát triển công nghiệp; Quán triệt thực hiện Nghị quyết 06 - NQ/TU của Ban
chấp hành Đảng bộ tỉnh về phát triển công nghiệp, tiểu thủ công nghiệp, xây
dựng làng nghề thời kỳ 2001 - 2010; Kế hoạch triển KT - XH năm 2001 2006, Đảng bộ tỉnh Nghệ An đã chỉ đạo cho các cấp, các ngành, các lĩnh vực
ở địa phương thực hiện những bước đi và biện pháp thích hợp, xác định cơ
cấu kinh tế công nghiệp, dịch vụ, nông nghiệp - lâm - ngư nghiệp, tạo nên sự

tăng trưởng mạnh về công nghiệp, đẩy mạnh sự chuyển dịch cơ cấu kinh tế,
chú trọng tăng trưởng nhanh về tỷ trọng công nghiệp và phát triển bền vững.
Một là, chỉ đạo phát triển công nghiệp chế biến nông - lâm- thủy sản,
công nghiệp sản xuất hàng tiêu dùng và xuất khẩu.
Chỉ đạo phát triển công nghiệp chế biến nông - lâm - thủy sản
17
17


Đây là ngành công nghiệp có vai trò quan trọng trong việc giải quyết
việc làm cho lao động địa phương. Số lượng lao động của ngành bình quân
hàng năm 29.000 - 30.000 người, tập trung 2 ngành công nghiệp chế biến
nông sản và lâm sản. Vì thế, để cho các ngành công nghiệp chế biến nông lâm - thủy sản phát triển bền vững tỉnh đã luôn quan tâm tới việc phát triển
vùng nguyên liệu nhằm đáp ứng đầu vào cho các ngành sản xuất. Cụ thể:
UBND tỉnh đã chỉ đạo các cơ quan chức năng xây dựng chính sách khuyến
khích, động viên nông dân tích cực nuôi, trồng thủy sản, đồng thời tăng
cường cán bộ kỹ thuật trên các lĩnh vực luôn bám sát cơ sở để kịp thời giúp
đỡ nông dân, nâng cấp, phát triển mạng lưới giao thông và điện nông thôn.
Từng bước đưa công nghiệp chế biến nông - lâm - thủy sản với quy mô thích
hợp. Hình thành các thị trấn, thị tứ, lập thêm các loại chợ nhằm thúc đẩy giao
lưu hàng hóa giữa thành thị và nông thôn, mở rộng các hoạt động dịch vụ sản
xuất trong hợp tác xã ở nông thôn. Trên cơ sở đó thúc đẩy quá trình phân
công lại lao động và quy hoạch lại dân cư ở nông thôn. Từ đó “lựa chọn
hướng ưu tiên phát triển nhanh các ngành công nghiệp chế biến nông - lâm thủy sản” [29, tr.40].
Bên cạnh đó, Tỉnh ủy chỉ đạo khai thác triệt để công suất các nhà máy
đường, đưa công suất lên 11 vạn tấn đường/năm, phát triển sản phẩm sau
đường, chế biến dứa 4.000 - 5.000 tấn/năm, xây dựng nhà máy sản xuất bột
mì 20.000 tấn, đưa sản lượng tinh luyện dầu ăn đạt 10.000 tấn/năm, bánh kẹo
3.000 tấn. Đầu tư tăng công suất chế biến chè xuất khẩu và tiêu dùng trong
nước lên 7.000 tấn/năm; chế biến gỗ ván ép 15.000m 3/năm và sản xuất gỗ gia

dụng, đưa nhanh công xuất sản xuất giấy lên 15.000 đến 20.000 tấn/năm; lập
kế hoạch cụ thể, ban hành các chính sách hộ trợ và chỉ đạo chặt chẽ việc trồng
rừng để trong năm 2003, khởi công xây dựng nhà máy bột giấy
100.000tấn/năm, đưa vào sản xuất cuối năm 2006; nâng cấp xí nghiệp thịt
đông lạnh; hải sản đông lạnh xuất khẩu 3.000 - 4.000 tấn, thịt lợn đông lạnh
xuất khẩu 2.000 - 3.000 tấn/năm.
18
18


Công nghiệp sản xuất hàng tiêu dùng và xuất khẩu: Tỉnh ủy và UBND
tỉnh đã xác định: đây là các ngành công nghiệp đầu tư ít vốn, thời gian đầu tư
nhanh, sử dụng nhiều lao động cần phát triển nhanh và mạnh hơn nữa để thu
hút nhiều lao động, giải quyết việc làm cho nhân dân. Trên cơ sở đó, tỉnh đã
chỉ đạo các cơ quan chức năng đẩy mạnh công tác tiếp thị, mở rộng thị trường
trong nước để ổn định và phát triển các cơ sở may mặc, da giầy…hiện có. Vì
thế, thực hiện Nghị quyết số 17NQ/TU ngày 20 - 9 - 2000 của Thường vụ
Tỉnh ủy, các quyết định của UBND tỉnh về chương trình giai đoạn 20012005, Sở Công nghiệp đã có chương trình hành động số 200 ngày 27 - 09 2000, triển khai thực hiện đề án công nghiệp sản xuất giầy, đề án ngành may
xuất khẩu, đề án sản xuất giầy vải, giầy thể thao…
Thực hiện tư tưởng chỉ đạo trên, các ngành đã tích cực bước vào đầu tư
và sản xuất. Cụ thể: Nâng năng lực sản xuất của Công ty may lên 3 triệu sản
phẩm/năm, thuộc da đạt 3 triệu bìa; giày thể thao xuất khẩu đạt 1 triệu đôi. Đề
nghị Bộ Công nghiệp, tổng công ty dệt may chủ động thực hiện quá trình liên
kết giữa các xí nghiệp sợi, dệt, may để sớm hình thành khu liên hợp sợi, dệt,
nhuộm, may. Hình thành CCN da giầy; nhà máy thuộc da 3.000 tấn/năm, 1,2
triệu đôi giày thể thao/năm, 200.000 đôi giầy da/năm, các đồ dùng khác bằng
da, cặp da, túi xách...
Xây dựng KCN chuyên ngành chế biến đồ uống, nông - lâm sản thực
phẩm, hàng tiêu dùng đáp ứng nhu cầu tiêu thụ trong nước và xuất khẩu; phát
triển sản xuất bia, rượu, các loại nước uống tinh khiết, nước hoa quả, nước

giải khát chất lượng cao; xây dựng các vùng chuyên canh trồng trọt và chăn
nuôi gắn với công nghiệp chế biến; ứng dụng công nghệ tiên tiến để bảo đảm
sản phẩm sau thu hoạch, tiến tới đầu tư các cơ sở chế biến với công nghệ hiện
đại; chế biến thức ăn chăn nuôi từ nguồn nguyên liệu tại chỗ phục vụ nhu cầu
nuôi trồng tại địa phương; phát triển sản phẩm mộc dân dụng từ vật liệu mới
(ván nhân tạo). Đầu tư (kể cả liên doanh, liên kết) để đưa sản lượng bia tại
công ty cổ phần Bia Nghệ An lên 25 triệu tấn lít/năm, nước khoáng 5 triệu
19
19


lít/năm, dứa cô đặc 5.000 tấn/năm, sữa 5 triệu lít/năm và các loại rau quả hộp
(ớt, nấm, măng..), nước giải khát trái cây các loại.
Hai là, chỉ đạo phát triển công nghiệp sản xuất VLXD, cơ khí, điện tử,
tin học đáp ứng nhu cầu của nhân dân.
Công nghiệp sản xuất VLXD, cơ khí, điện tử được coi là “trái tim
ngành công nghiệp”, Đảng bộ đã chỉ đạo tập trung xây dựng, nâng cấp, cải
tạo các nhà máy xi măng, nhà máy sản xuất gạch, điện tử, gia công kim loại
và cơ khí lắp ráp phát triển theo định hướng phù hợp với chiến lược phát triển
ngành cơ khí Việt Nam đến năm 2010 đã được Thủ tướng Chính phủ phê
duyệt tại Quyết định số 186/2002/QĐ - TTg. Cụ thể:
Đối với công nghiệp sản xuất VLXD: Trên cơ sở phân tích cân đối
năng lực sản xuất, nhu cầu tiêu thụ của thị trường trong tỉnh và các tỉnh lân
cận, vốn đầu tư, tốc độ tăng trưởng kinh tế, mức tăng dân số. Tỉnh ủy chỉ đạo
bằng các biện pháp tổ chức thị trường và chính sách kích cầu thích hợp để sản
xuất và tiêu thụ 1,3 - 1,4 triệu tấn xi măng, 350 triệu viên gạch ngói/năm. Phát
triển các loại tấm lợp phibrôximăng và các tấm lợp khác đạt 1,5 - 2 triệu m 2,
gạch granít nhân tạo 1,5 triệu m2/năm.
Cơ khí, điện tử, tin học: Đảng bộ đã xác định cần chấn chỉnh khâu quản
lý nhằm hạ giá thành, nâng cao tính cạnh tranh, lựa chọn các chủng loại có

nhu cầu lớn, làm tốt công tác tổ chức thị trường để đưa năng lực sản xuất và
tiêu thụ thép lên 8.000 - 9.000 tấn/năm.
Đồng thời cũng xác định công nghệ thông tin là công cụ quan trọng
hàng đầu để rút ngắn quá trình CNH, HĐH. Ứng dụng công nghệ thông tin là
yếu tố có ý nghĩa quyết định chiến lược, làm tăng năng suất lao động, tạo giá
trị gia tăng trong phát triển.Vì thế, Tỉnh ủy xác định; “Tập trung chỉ đạo và
lựa chọn bước đi phù hợp để xây dựng ngành công nghiệp công nghệ thông
tin, phát triển phần mềm trên cơ sở đẩy mạnh đào tạo nguồn nhân lực và tạo
lập thị trường” [29, tr.41].
20
20


Tỉnh đã đề nghị: Sớm xúc tiến các thủ tục để Công ty điện tử- tin họcviễn thông là thành viên Tổng công ty điện tử - tin học, nhà máy cơ khi
Vinh gia nhập làm thành viên Tổng công ty máy động lực và nông
nghiệp, để các Tổng công ty đầu tư nâng cấp, thực hiện các chương
trình phát triển bảo đảm hiệu quả. Đẩy nhanh tốc độ lập đề án và xây
dựng trung tâm công nghệ thông tin và phát triển phần mềm [71, tr.7].
Thứ ba, chỉ đạo phát triển tiểu thủ công nghiệp và làng nghề.
TTCN và làng nghề góp phần rất quan trọng trong giải quyết việc làm
và tăng thu nhập cho người lao động trên địa bàn, đồng thời làm thay đổi cơ
cấu kinh tế theo hướng công nghiệp hoá, tạo nhiều điều kiện cho phát triển
sản xuất. Vì thế, ngày 13 - 3 - 2002 UBND tỉnh đã ra quyết định số 839
QĐ/UT - CN về quy hoạch phát triển TTCN, ngành nghề nông thôn đến năm
2010. Tỉnh đã xác định phải lựa chọn khôi phục lại một số ngành nghề tiểu
thủ công nghiệp đã có, mạnh dạn du nhập các nghề mới. Mở lớp truyền nghề,
đào tạo thợ để sản xuất hàng tiểu thủ công nghiệp với phương thức tổ chức
khác nhau: hộ gia đình, tổ hợp tác, hợp tác xã, doanh nghiệp (chủ yếu là
doanh nghiệp vừa và nhỏ). Phấn đấu đến năm 2005 nhiều làng có nghề, mỗi
huyện đồng bằng và vùng núi thập, Thị xã Cửa Lò, Thành Phố Vinh có từ 3

đến 4 làng nghề, phố nghề mới; tập trung vào các ngành sản xuất đồ gỗ gia
dụng, đá mỹ nghệ, sản xuất hàng cói, mây tre đan, trồng dâu nuôi tằm, dệt lụa,
sửa chữa và đóng tàu thuyền, chế biến nông - lâm sản - hải sản… Các huyện
vùng núi cao khôi phục và phát triển nghề thổ cẩm và những nghề mà địa
phương có điều kiện. Phấn đấu đến năm 2005, giá trị sản xuất tiểu thủ công
nghiệp đạt 950 đến 1.000 tỷ đồng trong đó giá trị xuất khẩu đạt ít nhất 8 triệu
USD. Bình quân hàng năm chuyển ít nhất 1,6 đến 1,8 vạn lao động sang sản
xuất tiểu thủ công nghiệp.
Để đảm bảo cho sản xuất TTCN và làng nghề phát triển, ngày 2 - 8
-2004, UBND tỉnh ra quyết định 82/2004/QĐ – UBND, Về việc ban hành quy
21
21


định chính sách khuyến khích phát triển tiểu thủ công nghiệp và làng nghề
trên địa bản tỉnh Nghệ An. Trên cơ sở đó đã yêu cầu các ngành tiểu thủ công
nghiệp và làng nghề phải đặc biệt coi trọng tổ chức dich vụ cung ứng nguyên
liệu, thiết kế mẫu mã, tiêu thụ sản phẩm. Đồng thời, UBND tỉnh đã giao cho
một số doanh nghiệp, các cá nhân làm đầu mối đứng ra thu mua và tiêu thụ
sản phẩm cho các hộ sản xuất tiểu thủ công nghiệp, các làng nghề.
1.2.2. Chỉ đạo phát triển khoa học, công nghệ, đào tạo nguồn nhân
lực nhằm phát triển các ngành công nghiêp
Phát triển khoa học, công nghệ: Tiếp tục quán triệt, thực hiện Nghị
quyết Trung ương lần thứ 2 (khóa VIII), Nghị quyết 13/NQ - TU (XV) ngày
18 - 1 – 2001, Về định hướng phát triển khoa học công nghệ trong thời kỳ
CNH, HĐH và kết luận số 14 - KL/TW của Hội nghị Ban Chấp hành Trung
ương lần thứ sáu (khóa IX), Về khoa học công nghệ đến năm 2005. UBND
tỉnh đã xây dựng chương trình hành động số 1435/CT- UBND, Về nâng cao
chất lượng khoa học công nghệ phục vụ cho sự nghiệp CNH, HĐH và phát
triển công nghiệp. Trên cơ sở đó ngày16 - 3 - 2003 UBND tỉnh đã ban hành

quyết định số 1632/QĐ – UBND, Về việc thành lập câu lạc bộ Khoa học Công nghệ tỉnh Nghệ An trực thuộc Liên hiệp các hội KH&KT tỉnh Nghệ An.
Để thực hiện mục tiêu tăng trưởng cao của công nghiệp, tỉnh đã chỉ đạo
tập trung giải quyết tốt vấn đề công nghệ. Hướng chính là hiện đại hóa từng
phần, từng công đoạn trong dây chuyền sản xuất nhằm nâng cao chất lượng
sản phẩm, hạ giá thành, tăng sức cạnh tranh của hàng hoá trên thị trường
trong và ngoài nước.
Đối với các dự án đầu tư nước ngoài phải cân nhắc áp dụng công nghệ
phù hợp với từng giai đoạn phát triển, không nhập khẩu công nghệ và thiết bị
đã lạc hậu. Đẩy mạnh ứng dụng khoa học kỹ thuật để nâng cao hiệu quả hoạt
động sản xuất kinh doanh, không ngừng tích lũy để tiếp tục tái sản xuất
mở rộng. Đồng thời, tỉnh đã ban hành quy chế tạo lập thị trường công nghệ,
22
22


chú ý tới các loại hình hợp đồng công nghệ: nghiên cứu triển khai, tư vấn,
dịch vụ công nghệ; hình thành mạng lưới quản lý thị trường công nghệ trong
công nghiệp. Tạo cơ chế khuyến khích các cơ quan khoa học công nghệ
nghiên cứu cải tiến công nghệ, hợp lý hoá sản xuất đưa đến giảm giá thành,
tăng năng suất lao động, chất lượng sản phẩm, đổi mới mẫu mã sản phẩm.
Ban hành quy chế đấu thầu tuyển chọn thiết bị, công nghệ trên cơ sở bảo đảm
hiệu quả kinh tế, trình độ công nghệ tiên tiến phù hợp, hàm lượng công nghệ
cao và khuyến khích khai thác năng lực nội sinh. Chú trọng hỗ trợ các doanh
nghiệp công nghiệp vừa và nhỏ trong việc lựa chọn thiết bị công nghệ.
Đào tạo nguồn nhân lực nhằm phát triển các ngành công nghiệp
Tập trung phát triển nguồn nhân lực là một trong những mục tiêu quan
trọng của sự phát triển KT - XH, là điều kiên cơ bản đảm bảo sự thành công
sự nghiệp CNH, HĐH nói chung và phát triển công nghiệp của tỉnh Nghệ An
nói riêng. Quán triệt Nghị quyết Đại hội IX của Đảng và Nghị quyết lần thứ
XV Đảng bộ tỉnh, để đảm bảo sự Nghiệp CNH, HĐH của tỉnh phát triển

nhanh, bền vững. Ban chấp hành Đảng bộ tỉnh (khóa XV) đề ra chương trình
hành động phát triển nguồn nhân lực giai đoạn 2001 - 2005, trong đó vấn đề
phát triển nguồn nhân lực phục vụ cho công nghiệp, Tỉnh ủy xác định như
sau: phát triển nguồn nhân lực trên 3 mặt; nâng cao dân trí, đào tạo nhân lực,
bồi dưỡng nhân tài. Phát huy tốt nguồn nhân lực hiện có đồng thời với phát
triển nguồn nhân lực mới, phấn đấu có quy mô, cơ cấu, chất lượng nguồn
nhân lực đáp ứng yêu cầu phát triển KT - XH của tỉnh giai đoạn 2001 - 2005.
Theo đó, trong giai đoạn 2001 - 2005 phải đào tạo đội ngũ lao động đáp
ứng nhu cầu phát triển các ngành, các lĩnh vực, trong đó có phát triển công
nghiệp như: phát triển mạnh dạy nghề bằng nhiều hình thức (công lập, bán
công, dân lập…) để nâng số lao động được đào tạo nghề lên 30% vào năm
2005. Chú trọng đào tạo nghề có chất lượng cao để phục vụ phát triển nông
nghiệp, công nghiệp và xuất khẩu lao động. Nâng cao chất lượng của các
23
23


trường kỹ thuật, dạy nghề của tỉnh như Trường kỹ thuật Việt Đức, Trường
nghề số1, Trường đại học sư phạm kỹ thuật Nghệ An, các trung tâm dạy nghề
và tiếp tục mở rộng các trung tâm đào tạo khác. Thực hiện phương châm
“gắn đào tạo nghề theo nhu cầu và địa chỉ sử dụng”.
1.2.3. Chỉ đạo đầu tư kết cấu hạ tầng kinh tế - xã hội, phục vụ phát
triển khu công nghiệp, cụm công nghiệp
Chỉ đạo phát triển kết cấu hạ tầng KT - XH
Kết cấu hạ tầng phát triển là tiền đề để thu hút đầu tư trong và ngoài
nước, góp phần nâng cao tỷ trọng công nghiệp trong GDP của tỉnh, cải thiện
và nâng cao đời sống vật chất cũng như tinh thần của nhân dân. Tỉnh ủy đề ra
chương trình hành động thực hiện Nghị quyết Đại hội IX của Đảng và Nghị
quyết Đại hội XV Đảng bộ tỉnh về “Tiếp tục phát triển kết cấu hạ tầng kinh tế,
xã hội” trong đó nổi lên những vấn đề cơ bản:

Phối hợp với các ngành Trung ương xây dựng đường Hồ Chí Minh qua
địa phận Nghệ An, nâng cấp một số tuyến nhánh rẽ như đường Thanh
Thuỷ - Rộ nối với quốc lộ 46. Nâng cấp quốc lộ 7, quốc lộ 48 và 15A
(đặc biệt đoạn đường nối đường 48 và đường 7 Nghĩa Đàn - Đô
Lương). Tiếp tục hoàn thiện các tuyến tỉnh lộ đảm bảo tiêu chuẩn cấp
đường. Xây dựng mới tuyến đường Nam Cấm - Cửa Lò; đường Mường
Xén Ta Đo… nâng cấp và đồng bộ hóa giao thông nội thị; hoàn thành
cơ bản giao thông nông thôn. Đến năm 2005 có ít nhất 456/466 xã có
đường ô tô vào trung tâm. Xây dựng đường sắt Quán Hành - Cửa Lò [74, tr.43].
Bên cạnh đó, tỉnh cũng chỉ đạo phải đẩy mạnh tiến độ nâng cấp và mở
rộng hệ thống cảng biển và sân bay nhằm phục vụ nhu cầu phát triển KT - XH
của tỉnh; “Đẩy nhanh tiến độ nâng cấp và mở rộng cảng Cửa Lò để tàu 1 - 1,5
vạn tấn có thể ra vào thuận lợi và nâng năng lực thông qua cảng khoảng 2
triệu tấn/năm gắn với việc mở rộng và nâng cấp các tuyến đường ra vào cảng.
Nâng cấp bước 2 sân bay Vinh” [74, tr.43].
Cùng với việc chỉ đạo xây dựng hệ thống giao thông, tỉnh cũng rất chú
trọng xây dựng, cải tạo và phát triển hệ thống thông tin liên lạc, điện, thủy lợi.
24
24


Cụ thể:Tiếp tục hiện đại hóa và phát triển hệ thống thông tin liên lạc. Thực
hiện cáp quang 100% nội tỉnh, mở rộng mạng điện thoại di động đến với các
vùng Đô Lương, Nghĩa Đàn… Đến năm 2003 có 5 - 6 máy điện thoại trên
100 dân; 85 - 90% hộ được xem truyền hình; 95% dân được nghe phát thanh.
Hệ thống điện lưới: Tỉnh chỉ đạo xây dựng đường dây và trạm biến áp
110 KV thị xã Cửa Lò, các huyện Diễn Châu, Tương Dương. Mở rộng trạm
220 KV Hưng Đông và trạm 110KV tại Nghĩa Đàn. Hoàn thành việc cải tạo
lưới điện thành phố Vinh. Xây dựng đường dây 35KV Tương Dương -Tân
Kỳ. Xây dựng đường dây Giát - Lạch Quèn phục vụ phát triển kinh tế bãi

ngang huyện Quỳnh Lưu. Tiếp tục phát triển lưới điện theo quy hoạch, đến
năm 2005, đưa công suất điện thương phẩm lên 600 triệu KW - h điện quốc
gia đến 90% số xã và 90% số hộ có điện bằng nhiều dạng năng lượng. Nâng
cao chất lượng điện, đáp ứng nhu cầu phát triển kinh tế. Bàn giao lưới điện
trung thế cho ngành điện quản lý, đảm bảo giao điện cho hộ nông thôn theo
quy định Nhà nước.
Chỉ đạo phát triển KCN, CCN: Xây dựng KCN, CCN, chính là thực
hiện ý tưởng “đi tắt, đón đầu” trong quá trình phát triển KT - XH. Nghệ An
là một tỉnh lớn cả về diện tích và dân số, điều kiện tự nhiên tương đối thuận
lợi để phát triển công nghiệp, nhưng vẫn là một tỉnh nghèo. Để đưa Nghệ An
thoát khỏi tình trạng tỉnh nghèo và kém phát triển vào năm 2010, cơ bản trở
thành tỉnh công nghiệp vào năm 2020 đòi hỏi phải đẩy nhanh tốc độ phát triển
công nghiệp. Chính vì thế, việc xây dựng KCN, CCN là con đường thu hút
đầu tư trong và ngoài nước nhanh nhất góp phần thúc đẩy chuyển dịch cơ cấu
kinh tế theo hướng hiện đại. Để tiến hành xây dựng KCN, CCN tỉnh đã chỉ
đạo “Tiến hành lập các thủ tục theo quy định để triển khai xây dựng KCN
Cửa Lò vào năm 2002 - 2003. Tiếp tục lựa chọn các vị trí để hình thành KCN
Hoàng Mai gắn với KCN Nam Thanh - Bắc Nghệ, KCN Nam Cấm, xây dựng
CCN chế biến hải sản ở Cửa Hội” [73, tr.8].

25
25


×