Tải bản đầy đủ (.doc) (23 trang)

TÀI LIỆU THAM KHẢO TĂNG CƯỜNG PHỐI hợp CÔNG tác đối NGOẠI với QUỐC PHÒNG, AN NINH TRONG TÌNH HÌNH HIỆN NAY

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (156.31 KB, 23 trang )

TĂNG CƯỜNG PHỐI HỢP CÔNG TÁC ĐỐI NGOẠI VỚI
QUỐC PHÒNG – AN NINH TRONG TÌNH HÌNH HIỆN NAY
------------------------------MỞ ĐẦU

Chúng ta đang ở năm đầu tiên của thập niên thứ hai - thế kỷ 21, nhân
loại đang chứng kiến những biến động to lớn, diễn biến phức tạp, khó lường
của tình hình thế giới. Sự khủng hoảng chính trị ở hàng loạt các nước Trung
Đông và Bắc Phi như Tuynidi, Ai Cập, Y-ê-men, LiBi…; động đất, sóng
thần ở Nhật Bản. Nhìn nhận tình hình thế giới, nghiên cứu, quán triệt quan
điểm phối hợp hoạt động đối ngoại với hoạt động Quốc phòng An ninh trong
tình hình mới, càng có ý nghĩa đặc biệt quan trọng.
Phối hợp hoạt động Đối ngoại với hoạt động Quốc phòng An ninh là
một yếu tố khách quan, có mối liên hệ mật thiết và tác động qua lại lẫn nhau.
Nếu làm tốt công tác quốc phòng - an ninh sẽ tạo điều kiện thuận lợi cho
công tác đối ngoại, ngược lại công tác đối ngoại thực hiện tốt sẽ tạo ra được
một môi trường quan hệ, hợp tác hữu nghị, hoà bình, để đất nước tập trung
phát triển kinh tế - xã hội, tạo điều kiện, tiền đề cho việc tích luỹ cơ sở vật
chất, tích luỹ tiềm lực quốc gia, góp phần nâng cao và tạo môi trường thuận
lợi cho các hoạt động quốc phòng - an ninh.
Kết hợp phát triển kinh tế với tăng cường hoạt động đối ngoại và phối
hợp hoạt động đối ngoại với tăng cường quốc phòng an ninh là nhu cầu
khách quan, là một chủ trương nhất quán, xuyên suốt và có vai trò hết sức
quan trọng trong sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc. Trong tình hình,
bối cảnh thế giới hiện nay có nhiều diễn biến phức tạp, khó lường, tình hình
đất nước có sự phát triển nhanh chóng, thì việc kết hợp hoạt động đối ngoại
với hoạt động phát triển kinh tế, quốc phòng - an ninh càng trở nên cấp thiết.


Hoạt động đối ngoại luôn luôn tồn tại, vận động cùng với sự phát triển của
đất nước. Mỗi khi công cuộc xây dựng, bảo vệ tổ quốc thay đổi trong thực
tiễn, thì các hoạt động đối ngoại cũng phải thay đổi theo, để phù hợp với yêu


cầu phát triển của đất nước và xu thế của thời đại. Vì vậy, quá trình nhận
thức, vận dụng chiến lược đối ngoại, hoạt động ngoại giao kết hợp với quốc
phòng an ninh vào thực tiễn phải hết sức linh hoạt, sáng tạo và giữ vững
nguyên tắc bảo vệ lợi ích quốc gia, tôn trọng độc lập và toàn vẹn lãnh thổ,
không can thiệp vào công việc nội bộ của nhau.
I. CƠ SỞ LÝ LUẬN VÀ THỰC TIỄN CỦA TĂNG CƯỜNG PHỐI HỢP
CÔNG TÁC ĐỐI NGOẠI VỚI QUỐC PHÒNG – AN NINH

Kết hợp phát triển kinh tế với tăng cường quốc phòng - an ninh và
phối hợp hoạt động quốc phòng - an ninh với đối ngoại là tất yếu khách
quan; đó là quan điểm cơ bản, một chủ trương nhất quán có vai trò quan
trọng trong đường lối xây dựng và bảo vệ tổ quốc Việt Nam XHCN của
Đảng ta.
Sau 25 năm đổi mới, tư duy về bảo vệ Tổ quốc XHCN của Đảng ta có
sự phát triển mới. Chúng ta ngày càng nhận thức sâu sắc, đầy đủ và toàn
diện hơn về nhiệm vụ bảo vệ Tổ quốc trong tình hình mới; về chiến lược đối
ngoại gắn với quốc phòng - an ninh trong bối cảnh tình hình đất nước và tình
hình thế giới đang có những thuận lợi cơ bản, song cũng tiềm ẩn những nguy
cơ, thách thức mới.
1. Bối cảnh:
Sau 36 năm thống nhất đất nước, xây dựng CNXH, 25 năm đổi mới
nước ta đang kết hợp phát triển kinh tế - quốc phòng – an ninh – đối ngoại
được tiến hành trong điều kiện nước ta phát triển kinh tế hàng hóa nhiều
thành phần theo định hướng XHCN, các thế lực thù địch chống phá ta quyết
liệt bằng chiến lược “Diễn biến hòa bình”, bạo loạn lật đổ trên mọi lĩnh vực,


trong đó lĩnh vực kinh tế là mũi nhọn, hòng làm chệch hướng về kinh tế, dẫn
đến chệch hướng về chính trị, đưa đất nước đi theo quỹ đạo TBCN. Ngày
nay nước ta đang hội nhập kinh tế quốc tế và khu vực sâu, rộng hơn vì vậy

thời cơ và thách thức sẽ lớn hơn. Trong thời kỳ này, hơn bao giờ hết phải
giữ vững nguyên tắc giữ vững chủ quyền quốc gia, lợi ích dân tộc trong
quan hệ đối ngoại. Khả năng duy trì hòa bình cho phép chúng ta tập trung
vào nhiệm vụ trọng tâm là phát triển kinh tế, đồng thời đòi hỏi chúng ta phải
đề cao cảnh giác, chủ động đối phó với các tình huống phức tạp có thể xảy
ra. Toàn cầu hóa và hội nhập kinh tế quốc tế là xu thế khách quan. Cuộc
khủng khoản tài chính thế giới tác động mạnh mẽ trên toàn cầu và ảnh
hưởng đến nước ta cũng rất lớn, đó cũng là thách thức mới. Vấn đề “An ninh
phi truyền thống” mang tính toàn cầu cũng đang đặt ra cho mỗi quốc gia và
cộng đồng quốc tế cần phải nỗ lực cùng giải quyết.
“An ninh phi truyền thống” lần đầu tiên được Đảng ta chính thức đưa
vào Văn kiện Đại hội Đảng lần thứ XI, phản ánh sự phát triển nhận thức của
đảng và để phù hợp với tình hình hiện nay.
An ninh phi truyền thống là một cụm từ mới, xuất hiện chính thức
trong tuyên bố ASEAN - Trung Quốc về hợp tác trên lĩnh vực an ninh phi
truyền thống (01/11/2002). Theo quan niệm của Liên hợp quốc, an ninh phi
truyền thống bao gồm 7 lĩnh vực là: kinh tế, lương thực, sức khỏe, môi
trường, con người, cộng đồng và chính trị. Theo một tài liệu khác, an ninh
phi truyền thống xác định cụ thể những nguy cơ mới xuất hiện hoặc mới
bùng phát như khủng hoảng kinh tế, thiếu hụt năng lượng, đói nghèo, ô
nhiễm môi trường, dịch bệnh lan tràn, tội phạm xuyên quốc gia, di cư trái
phép, sự vi phạm dân chủ, nhân quyền... Những vấn đề an ninh phi truyền
thống nêu trên đã vượt ra khỏi phạm vi lợi ích, an ninh quốc gia và khả năng


của một nước, trở thành những thách thức mang tính toàn cầu, vì vậy đòi hỏi
có sự nỗ lực chung của cộng đồng quốc tế.
Nghị quyết Đại hội Đảng lần thứ XI, Đảng ta xác định: “… Phát huy
mạnh mẽ sức mạnh tổng hợp toàn dân tộc, của cả hệ thống chính trị, thực
hiện tốt mục tiêu, nhiệm vụ quốc phòng - an ninh là bảo vệ vững chắc độc

lập, chủ quyền, thống nhất, toàn vẹn lãnh thổ; giữ vững chỉ quyền biển đảo,
biên giới, vùng trời; bảo vệ Đảng, Nhà nước, nhân dân và chế độ XHCN;
giữ vững ổn định chính trị, trật tự an toàn xã hội; chủ động ngăn chặn, làm
thất bại mọi âm mưu, hoạt động chống phá của các thế lực thù địch và sẵn
sàng đối phó với các mối đe doạ an ninh phi truyền thống mang tính toàn
cầu, không để bị động, bất ngờ trong mọi tình huống. Tiếp tục mở rộng hợp
tác quốc tế trong lĩnh vực quốc phòng, an ninh…”1.
Trong đó Đảng ta xác định sức mạnh bảo vệ Tổ quốc là sức mạnh tổng
hợp của khối đại đoàn kết toàn dân tộc, của cả hệ thống chính trị dưới sự lãnh
đạo của Đảng; Kết hợp sức mạnh dân tộc với sức mạnh thời đại, sức mạnh trong
nước với sức mạnh quốc tế; Sức mạnh của lực lượng và thế trận quốc phòng toàn
dân với sức mạnh của lực lượng và thế trận an ninh nhân dân; Kết hợp kinh tế
với quốc phòng và an ninh, quốc phòng và an ninh với kinh tế; Phối hợp hoạt
động quốc phòng, an ninh với hoạt động đối ngoại
2. Chiến lược đối ngoại trong thời kỳ mới:
Chiến lược đối ngoại trong thời kỳ mới là tổng thể việc xác định mục
tiêu sắp xếp, quy tụ lực lượng và lựa chọn các giải pháp ở phạm vi toàn cục
nhằm phát huy sức mạnh tổng hợp của toàn Đảng, toàn dân, toàn quân góp
phần giữ vững môi trường hoà bình, tạo các điều kiện quốc tế thuận lợi cho
công cuộc đổi mới, đẩy mạnh phát triển kinh tế - xã hội, công nghiệp hoá,
hiện đại hoá đất nước, xây dựng và bảo vệ Tổ quốc, đồng thời góp phần tích
1

. Văn kiện Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ XI, tr. 233 - 235.


cực vào cuộc đấu tranh chung của nhân dân thế giới vì hoà bình, độc lập dân
tộc, dân chủ và tiến bộ xã hội.
Chúng ta cần khẳng định rằng, trong suốt quá trình đấu tranh cách
mạng, Đảng ta luôn luôn quán triệt tư tưởng kết hợp sức mạnh dân tộc với

sức mạnh thời đại, sức mạnh bên trong với sức mạnh bên ngoài; kết hợp chặt
chẽ các mặt như chính trị , kinh tế, quân sự, an ninh, ngoại giao…để tạo nên
sức mạnh tổng hợp giành thắng lợi. Vì vậy chúng ta phải linh hoạt, sáng tạo,
chống mọi biểu hiện coi chiến lược đối ngoại như một khuôn mẫu, không
thể thay đổi. Tuy nhiên, sự linh hoạt, sáng tạo trong điều chỉnh, thay đổi
chiến lược đối ngoại phải giữ vững nguyên tắc bảo vệ lợi ích quốc gia, dân
tộc, tôn trọng độc lập chủ quyền, toàn vẹn lãnh thổ, không can thiệp vào
công việc nội bộ của nhau trong quan hệ đối ngoại.
3. Mục tiêu:
Chiến lược đối ngoại của thời kỳ mới là kế thừa, phát triển tư tưởng
hòa hiếu để dập tắt ngọn lửa chiến tranh, tông miếu mãi vững bền, giang sơn
đổi mới trong truyền thống dân tộc thành tư tưởng ngoại giao hòa bình trong
thời kỳ hội nhập quốc tế mạnh mẽ, công nghiệp hòa hiện đại hóa đất nước,
với hai vấn đề cơ bản là: Giữ vững môi trường hoà bình, tạo điều kiện quốc
tế thuận lợi cho công cuộc đổi mới, đẩy mạnh phát triển kinh tế - xã hội
,công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước, xây dựng và bảo vệ Tổ quốc và góp
phần tích cực vào cuộc đấu tranh chung của nhân dân thế giới vì hòa bình,
độc lập dân tộc , dân chủ và tiến bộ xã hội. Đây là hai vấn đề quan hệ khăng
khít với nhau, tác động và thúc đẩy lẫn nhau hợp thành mục tiêu chiến lược
đối ngoại trong thời kỳ mới.
Thực hiện nhất quán đường lối đối ngoại độc lập, tự chủ, hòa bình
hợp tác và hợp tác phát triển; chính sách đối ngoại rộng mở, đa phương hóa
đa dạng hóa các quan hệ quốc tế. Nhằm thiết lập quan hệ ngày càng nhiều


với các đối tác; phát triển nhiều hình thức quan hệ. Chủ động và tích cực hội
nhập kinh tế quốc tế, đồng thời mở rộng hợp tác quốc tế trên các lĩnh vực
khác. Chiến lược Việt Nam sẵn sàng là bạn, là đối tác tin cậy của các nước
trong cộng đồng quốc tế, tham gia tích cực vào tiến trình hợp tác quốc tế và
khu vực, kết hợp chặt chẽ giữa hợp tác và đấu tranh trong quan hệ quốc tế.

Giải quyết các bất đồng và tranh chấp trong quan hệ quốc tế bằng thương
lượng hòa bình. Mở rộng quan hệ quốc tế phải góp phần làm thất bại mọi âm
mưu, hành động gây sức ép và cường quyền.
Ngay từ sau cách mạng tháng Tám và trong suốt hơn 65 năm qua,
hoạt động đối ngoại luôn là một mặt trận gắn bó mật thiết với các mặt trận
khác, đặc biệt là mặt trận quốc phòng - an ninh, góp phần xứng đáng vào
thắng lợi của cách mạng Việt Nam trong kháng chiến và trong xây dựng bảo
vệ Tổ quốc.
Ngày nay, khi nước ta bước vào thời kỳ mới - thời kỳ đẩy mạnh công
nghiệp hoá, hiện đại hoá thì những bài học kinh nghiệm nói trên vẫn còn
nguyên giá trị.
Hơn thế nữa, chúng ta lại phải xây dựng và bảo vệ tổ quốc trong bối
cảnh quốc tế cực kỳ phức tạp, trước những âm mưu, thủ đoạn mới của các
thế lực thù địch, đòi hỏi chúng ta phải có nhận thức mới về vấn đề quốc
phòng - an ninh trong sự gắn bó với các trận tuyến khác như chính trị, kinh
tế, văn hoá, xã hội, ngoại giao.
4. Nhiệm vụ trọng tâm của công tác đối ngoại trong tình hình hiện
nay:
Đảng đã khẳng định: "Nhiệm vụ của công tác đối ngoại là giữ vững
môi trường hoà bình, tạo các điều kiện quốc tế thuận lợi cho công cuộc đổi
mới, đẩy mạnh phát triển kinh tế, xã hội, công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất
nước, xây dựng và bảo vệ tổ quốc, đồng thời góp phần tích cực vào cuộc đấu


tranh chung của nhân dân thế giới vì hoà bình, độc lập dân tộc, dân chủ và
tiến bộ xã hội".
Chiến lược đối ngoại phải gắn với mục tiêu "Bảo vệ vững chắc Tổ
quốc, độc lập, chủ quyền, thống nhất, toàn vẹn lãnh thổ; bảo vệ Đảng, Nhà
nước, nhân dân và chế độ xã hội chủ nghĩa; bảo vệ an ninh chính trị, an ninh
kinh tế, an ninh tư tưởng văn hoá và an ninh xã hội; duy trị trật tự kỷ cương,

an toàn xã hội, giữ vững ổn định chính trị của đất nước, ngăn ngừa, đẩy lùi
và làm thất bại mọi âm mưu, hoạt động chống phá, thù địch, không để bị bất
ngờ .
Để hoàn thành tốt nhiệm vụ bao trùm này, hoạt động đối ngoại phải
làm tốt những nhiệm vụ cụ thể sau:
- Đưa các quan hệ quốc tế đã được thiết lập vào chiều sâu, ổn định,
bền vững. Phát triển quan hệ với tất cả các nước, vùng lãnh thổ theo phương
châm "Việt Nam sẵn sàng là bạn với tất cả các nước" trên nguyên tắc tôn
trọng độc lập, chủ quyền và toàn vẹn lãnh thổ, không can thiệp vào công
việc nội bộ của nhau; không dùng vũ lực hoặc đe doạ dùng vũ lực; giải quyết
bất đồng, tranh chấp thông qua thương lượng hoà bình trên nguyên tắc bình
đẳng, cùng có lợi.
- Củng cố và tăng cường quan hệ với các đảng cộng sản, công nhân,
đảng cánh trị, các phong trào dân tộc, cách mạng và tiến bộ; mở rộng quan
hệ với các đảng cầm quyền.
- Phát triển công tác đối ngoại nhân dân; tích cực tham gia các diễn
đàn và hoạt động của nhân dân thế giới; nâng cao hiệu quả hợp tác với các tổ
chức phi chính phủ nước ngoài để phát triển kinh tế - xã hội, đảm bảo các
nguyên tắc quốc phòng - an ninh quốc gia.
Đẩy mạnh kinh tế đối ngoại và hội nhập kinh tế quốc tế trên nguyên
tắc phục vụ lợi ích quốc gia là trên hết.


Đẩy mạnh công tác văn hoá - thông tin và tuyên truyền đối ngoại.
- Tăng cường công tác nghiên cứu, dự báo, tham mưu về đối ngoại
Đảm bảo sự lãnh đạo thống nhất của Đảng, sự quản lý tập trung của Nhà
nước đối với các hoạt động đối ngoại.
- Phối hợp chặt chẽ hoạt động đối ngoại của Đảng, ngoại giao Nhà
nước và đối ngoại nhân dân; chính trị đối ngoại và kinh tế đối ngoại; đối
ngoại, quốc phòng và an ninh; thông tin đối ngoại và thôn tin trong nước.

II. MỘT SỐ NỘI DUNG TĂNG CƯỜNG CÔNG TÁC ĐỐI NGOẠI PHỐI HỢP
VỚI QUỐC PHÒNG - AN NINH TRONG TÌNH HÌNH HIỆN NAY.

Sự gắn kết chặt chẽ giữa đối ngoại với quốc phòng an ninh trong thời
kỳ mới phải là sự gắn kết có mục đích và được tổ chức chặt chẽ dưới sự lãnh
đạo của Đảng, quản lý của Nhà nước và dựa trên cơ sở phát huy sức mạnh
vật chất, tinh thần của toàn dân, hướng tới mục tiêu dân giàu, nước mạnh, xã
hội công bằng, dân chủ, văn minh.
Việc thực hiện thắng lợi chiến lược đối ngoại sẽ phát triển, mở rộng,
củng cố quan hệ quốc tế, tạo điều kiện thuận lợi cho tiến trình hội nhập kinh
tế của đất nước, qua đó khai thác, phát huy tối đa nguồn lực trong nước, kết
hợp chặt chẽ sức mạnh dân tộc với sức mạnh thời đại, tạo nên sức mạnh tổng
hợp để xây dựng phát trăm kinh tế - xã hội, hoàn thành công cuộc đổi mới
đất nước. Đồng thời quá trình mở rộng, phát triển không ngừng các quan hệ
quốc tế thêm bạn, bớt thù sẽ tạo điều kiện thuận lợi cho quốc phòng an ninh
phát triển tạo nên sức mạnh tổng hợp đánh bại thù trong giặc ngoài, giữ
vững an ninh chính trị trật tự an toàn xã hội, độc lập chủ quyền, toàn vẹn
lãnh thổ, bảo vệ Đảng, nhân dân, bảo vệ bản sắc văn hóa dân tộc và kết quả
công cuộc đổi mới.
Từ nhiệm vụ bao trùm và những nhiệm vụ cụ thể nói trên, có thể nhận
thức được rằng: công tác đối ngoại (cả về chính trị, kinh tế, văn hoá, tuyên


truyền đối ngoại; hoạt động đối ngoại của Đảng, ngoại giao của Nhà nước và
đoàn thể quần chúng) luôn mang tính tổng hợp trong cả 4 mặt:
- Một là, góp phần bảo vệ độc lập, chủ quyền, toàn vẹn lãnh thổ, an
ninh quốc gia và trật tự an toàn xã hội.
- Hai là, góp phần duy trì hoà bình, ổn định, tranh thủ những điều kiện
quốc tế thuận lợi để phát triển đất nước;
- Ba là, góp phần nâng cao vị thế quốc tế và uy tín của Việt Nam.

- Bốn là, góp phần vào cuộc đấu tranh của nhân dân thế giới vì hoà
bình, độc lập dân tộc, dân chủ và tiến bộ xã hội.
Bốn mặt đó gắn bó mật thiết với nhau, tác động qua lại lẫn nhau tạo
thành nhiệm vụ tổng hợp phục vụ cho nhiệm vụ chiến lược xây dựng và bảo
vệ Tổ quốc.
Không thể phát triển các hoạt động đối ngoại nếu không bảo đảm
được quốc phòng - an ninh; ngược lại, công tác quốc phòng - an ninh sẽ
không được bảo đảm nếu không đẩy mạnh được phát triển và nâng cao vị
thế, uy tín quốc tế của đất nước và không tranh thủ được sự đồng tình, ủng
hộ của các lực lượng hoà bình và tiến bộ trên thế giới .
Vậy trong hoạt động thực tiễn, hoạt động đối ngoại đóng góp tích cực
cho công tác quốc phòng - an ninh trên một số mặt nổi bật như sau:
1. Làm tốt công tác nghiên cứu chiến lược, phân tích thông tin, dự
báo tình hình:
Tình hình thế giới hiện nay diễn biến phức tạp, khó lường, bên cạnh
đó là những mưu mô, thủ đoạn của các thế lực thù địch, chống đối ngày càng
tinh vi, sao quyệt. Vì vậy, công tác nghiên cứu chiến lược cần được quan
tâm đầu tư thoả đáng, cần có sự phối hợp chặt chẽ giữa các Bộ, ngành, các
cơ quan, viện nghiên cứu để đảm bảo tính khoa học, chuẩn xác phụ vụ cho
việc đưa ra những quyết sách chiến lược.


Làm tốt công tác nghiên cứu chiến lược, thu thập, phân tích và xử lý
thông tin khoa học, chính xác cũng góp phần quan trọng trong việc nhận
định, đánh giá tình hình, xu thế phát triển của thế giới, tạo cơ sở cho việc
xác định đối tác, đối tượng trong quan hệ mọi mặt của ta.
2. Góp phần giải quyết thoả đáng mâu thuẫn mở rộng hợp tác để phát
triển với đảm bảo quốc phòng - an ninh :
Nếu như xây dựng, phát triển kinh tế là nhiệm vụ trọng tâm của đất
nước thì mở rộng quan hệ kinh tế đối ngoại là nhiệm vụ hàng đầu của hoạt

động đối ngoại.
Việc tạo dựng môi trường quốc tế hoà bình, tăng cường hợp tác, mở
rộng thị trường, tranh thủ vốn, công nghệ phục vụ cho xây dựng và phát
triển đất nước là sự đóng góp trực tiếp, thiết thực cho yêu cầu đảm bảo quốc
phòng - an ninh vì quốc phòng - an ninh gắn bó mật thiết với phát triển kinh
tế và nâng cao đời sống nhân dân. Tuy nhiên, do khía cạnh an ninh kinh tế
ngày càng nổi trội, nên trong khi mở rộng sự hợp tác kinh tế cần hết sức chú
trọng đến yêu cầu bảo đảm quốc phòng - an ninh trong một thế giới đang có
nhiều thay đổi. Ngày nay, sự tác động của quá trình toàn cầu hoá, không một
nền kinh tế nào có thể tồn tại và phát triển một cách biệt lập. Ngay nền kinh
tế nước ta mới chỉ trong giai đoạn đầu của hội nhập với nền kinh tế khu vực
và thế giới nhưng "nhân tố ngoại" đã chiếm một tỷ trọng không nhỏ trong
GDP, xuất khẩu, công nghiệp, vốn đầu tư toàn xã hội . . . Do đó, để đảm bảo
yêu cầu quốc phòng - an nính, cần tìm ra một tỷ lệ thoả đáng và các "chốn
an toàn", từ việc lựa chọn đối tác cho đến việc quy hoạch các khu vực kinh
tế phải đảm bảo yêu cầu quốc phòng - an ninh.
Bên cạnh hoạt động ngoại giao chính trị, trong những năm gần đây
hoạt động "ngoại giao kinh tế "ngoại giao văn hoá" cũng được coi là một
trong những nhiệm vụ trọng tâm trong công tác đối ngoại nhằm góp phần


phát triển kinh tế trong nước, giữ gìn, truyền bá những nét đẹp, truyền thống
văn hoá của dân tộc, tiếp thu những tinh hoa của nhân loại, góp phần củng
cố quốc phòng - an ninh trong tình hình mới. Đồng thời ta cũng cần cảnh
giác trước những tác động tiêu cực của nhà "nhân tố ngoại" không có lợi cho
quốc phòng - an ninh.
3 . Tập hợp lực lượng, phân hoá kẻ thù:
Một điều khẳng định là, chúng ta không thể làm tốt nhiệm vụ quốc
phòng - an ninh trong thế cô lập. Kinh nghiệm của cách mạng nước ta đã
chứng minh rằng, chỉ có thể bảo vệ được mình nếu tập hợp được lực lượng

rộng rãi, phân hoá được kẻ thù, thực hiện được phương châm "thêm bạn, bớt
thù”.
V.I.Lênin đã chỉ rõ "chỉ có thể thắng một kẻ địch mạch hơn bằng một
sự nỗ lực hết sức lớn, và với điều kiện bắt buộc là phải lợi Đảng một cách
hết sức tỉ mỉ, hết sức chăm chú, hết sức cẩn thận, hết sức khôn khéo mọi
"chỗ rạn nứt" dù bé nhỏ nhất giữa các kẻ thù, những mâu thuẫn dù bé nhỏ
nhất về quyền lợi giữa giai cấp tư sản các nước, giữa những nhóm hay
những hạng tư sản khác nhau ở trong từng nước, cũng như phải lợi dụng mọi
khả năng dù bé nhỏ nhất để nắm được một bạn đồng minh mạnh về số
lượng, dù là một bạn đồng minh nhất thời, bấp bênh, có điều kiện, ít vững
vàng và ít chắc chắn.
Hoạt động ngoại giao sáng suốt, khôn khéo của Đảng ta và Hồ Chủ
Tịch trong những năm 1945 - 1946 cũng như trong suốt hai cuộc kháng
chiến chống thực dân Pháp và đế quốc Mỹ là một mẫu mực trong việc vận
dụng sách lược phân hoá kẻ thù, bảo vệ cách mạng trong tình thế "ngàn cân
treo sợi tóc" và việc tập hợp lực lượng đồng minh, bè bạn đông đảo trên toàn
thế giới ủng hộ nhân dân ta trong cuộc đấu tranh chống Pháp và Mỹ. Những
bài học đó, đến nay vẫn còn nguyên giá trị.


Một nhân tố nữa trong quan hệ quốc tế có liên quan đến yêu cầu tập
hợp lực lượng và phân hoá đối phương là lợi Đảng các diễn đàn đa phương
mà ở đó có sự tham gia của nhiều nước khau nhau. Một mặt, chúng ta hiểu
rõ các thế lực đế quốc luôn luôn mưu toan áp đặt, thao túng các diễn đàn đó,
mặt khác chúng ta cũng cần nhận thức rõ ràng: tại các diễn đàn đa phương
còn có các nước, các lực lượng chống lại chính sách của các nước đế quốc,
và ngay trong hàng ngũ các nước đế quốc và phương Tây, giữa các nước
lớn, cũng có không ít những mâu thuẫn, khác biệt mà ta có thể lợi Đảng để
phân hoá và tập hợp lực lượng có lợi cho ta.
"Ngoại giao quốc phòng", "Ngoại giao an ninh" là những hoạt động,

tiếp xúc của các quan chức quốc phòng, an ninh (song phương hoặc đa
phương) cũng là những hoạt động bổ ích đối với việc hiểu biết, phân hoá đối
phương, tập hợp lực lượng phục vụ cho yêu cầu quốc phòng - an ninh của ta
như qua các hội nghị ADM và ADMM+ do Bộ Quốc phòng nước ta đăng
cai vừa qua.
Ngoài ra, một điểm nữa trong tập hợp lực lượng cũng cần nói đến là
"những người bạn cũ của chúng ta trong hai cuộc kháng chiến chống thực
dân Pháp và đế quốc Mỹ. Tuy tình hình ở một số nước xã hội chủ nghĩa
trước đây đã thay đổi, một số Đảng cộng sản không còn nắm quyền, nhưng ở
đó chúng ta vẫn còn những người bạn, người đồng chí mà ta có thể tranh thủ
cần thiết. Do đó, chúng ta cần tiếp tục duy trì quan hệ trong điều kiện và
phạm vi có thể, có tính đến lợi ích trọng hệ với Đảng cầm quyền một cách
hài hoà, có lợi nhất.
Ngày nay, trong một thế giới luôn có những biến chuyển phức tạp,
tính tuỳ thuộc lẫn nhau ngày một gia tăng thì việc tạo dựng một mối quan hệ
quốc tế đan xen lợi ích, cơ động, linh hoạt động có ý nghĩa rất quan trọng
đối với việc bảo vệ vị thế độc lập, tự chủ của ta. Muốn vậy thì hoạt động đối


ngoại cần ra sức thực hiện khôn khéo phương châm mà Hội nghị Trung
ương 3 (khoá VII đã đề ra là "độc lập tự chủ đi đôi với "đa dạng hoá, đa
phương hoá". Mặt khác, chúng ta cũng cần nhận thức rõ rằng: ngày nay tình
hình đã khác, thế và lực của ta đã khác, tình hình quốc tế phức tạp, phong
trào cách mạng thế giới đang khó khăn, trong khi hàng ngũ các thế lực thù
địch với ta có không ừ mâu thuẫn. Vì vậy, chúng ta hoàn toàn có khả năng
tập hợp được lực lượng, hoàn toàn có khả năng lợi dụng mâu thuẫn trong
hàng ngũ kẻ thù để phân hoá, cô lập đối phương. Nhưng chúng ta cũng cần
khẳng định lại một lần nữa rằng, bất kỳ trong tình huống nàn ta vẫn phải
đảm bảo phương châm "độc lập tự chủ', bởi xa rời nó ta dễ bị mất phương
hướng.

4. Quán triệt phương châm vừa hợp tác, vừa đấu tranh:
Thực hiện chủ trương "thêm bạn, bớt thù”, một yêu cầu nhất thiết là
quán triệt phương châm vừa hợp tác vừa đấu tranh, trong đó cố gắng thúc
đẩy mặt hợp tác đi đôi với việc đấu tranh dưới hình thức và mở mức độ thích
hợp với các đối tượng khác nhau để bảo vệ lợi ích của ta, tuỳ theo tính chất
của các đối tượng, các vấn đề, thời điểm và địa bàn cụ thể.
Trong tình hình hiện nay, chúng ta vừa phải kiên trì đấu tranh, vừa
phải khôn khéo duy trì hợp tác, cố tránh đẩy tới đối đầu trực diện hoặc rơi
vào thế bị cô lập, không có lợi cho yêu cầu quốc phòng - an ninh của đất
nước. Chúng ta cần nhận thức rõ bản chất, âm mưu của đế quốc Mỹ và các
thế lực thù địch, từ đó đề cao cảnh giác, kiên trì đấu tranh với những thủ
đoạn, hành động chống phá của chúng.
Mặt khác vì lợi ích của chúng ta trong mở rộng và đa dạng hoá quan
hệ quốc tế, mở rộng thị trường, tranh thủ vốn, công nghệ tiên tiến phục vụ
kinh tế, quốc phòng - an ninh của ta, ta vẫn cần hợp tác ở mức độ nào đó và
trong những lĩnh vực cần thiết, nhưng không phải bằng mọi giá.


5. Góp phần tích cực vào cuộc đấu tranh chống chiến lược “diễn biến
hoà bình” bao loạn lật đổ.
Một trong những thủ đoạn thâm độc hiện nay của các thế lực thù địch
nhằm can thiệp sâu vào nội bộ, gây mất ổn định chính trị, an ninh, xã hội,
tiến đến thủ tiêu vai trò lãnh đạo của Đảng, lật đổ Nhà nước xã hội chủ nghĩa
Việt Nam là chiến lược “diễn biến hoà bình", tiếp tay, hậu thuẫn cho những
hoạt động chống phá, gây bạo loạn lật đổ. Chúng thường vu cáo ta trong các
vấn đề nhân quyền, tôn giáo, lợi dụng các vấn đề dân tộc và lấy đó làm cái
cớ để chống phá ta và thực hiện diễn biến hoà bình, kích động bạo loạn, lật
đổ khi có điều kiện thời cơ.
Để góp phần giữ vững ổn định chính trị, trật tự an toàn xã hội, đập tan
âm mưu diễn biến hoà bình của các thế lực thù địch, đảm bảo yêu cầu quốc

phòng - an ninh của đất nước, hoạt động ngoại giao giữ một vai trò quan
trọng trong đấu tranh đối ngoại trên các mặt nhân quyền, tôn giáo và các vấn
đề dân tộc tại các diễn đàn quốc tế đa phương và song phương. Để làm tốt
công tác này, cần có sự phối hợp chặt chẽ giữa các cơ quan ngoại giao với
quốc phòng, an ninh và các cơ quan chức năng liên quan trong nước. Tại các
diễn đàn quốc tế (LHQ) và trong các hoạt động song phương, hoạt động
ngoại giao cần thể hiện rõ quan điểm của Đảng, Nhà nước ta về các vấn đề
này, làm tốt công tác thông tin tuyên truyền đối ngoại để cho bè bạn hiểu,
ủng hộ ta và có biện pháp đấu tranh trước các luận điệu vu khống, sai trái
của đối phương. Đồng thời, với sự hiện diện của các cơ quan đại điện ta ở
nước ngoài, ta có điều kiện để thu thập thông tin giúp trong nước dự đoán,
phát hiện những nước, tổ chức đằng sau các thế lực phản động mưu toan tiến
hành bạo loạn lật đổ trong nước, có biện pháp xử lý, ngăn chặn và đập tan
những hoạt động đó. Vận động, xây dựng mạng lưới tích cực trong cộng
đồng người Việt Nam ở nước ngoài, đặc biệt tại các nước có nhiều hoạt


động của các thế lực người Việt phản động (Mỹ, úc, Canada. . . ) làm "tai
mắt" trong việc sớm phát hiện các mưu toan của bọn phản động; đồng thời
tổ chức tuyên truyền về đường lối, chính sách của Đảng, Nhà nước ta, vạch
trần âm mưu đen tối chống phá đất nước và gây chia rẽ trong hàng ngũ kẻ
thù . . . Góp phần ngăn chặn, đẩy lùi âm mưu diễn biến hoà bình, phát hiện,
ngăn chặn việc các thế lực phản động đưa lực lượng ở ngoài về nước.
Một điểm nữa cũng cần nhấn mạnh ở đây là công tác bảo vệ chính trị
nội bộ, bảo mật tài liệu, thông tin. Thực tế cho thấy, một trong những thủ
đoạn thường dùng của kẻ thù đối với cán bộ, sinh viên, lưu học sinh và kể cả
các đoàn cán bộ đi công tác ngắn hạn ở nước ngoài là "cài bẫy", mua chuộc .
. . Đặc biệt, trong thời đại ngày nay, sự phát triển cao của khoa học công
nghệ, việc trộm thông tin là hoàn toàn có thể xảy ra và ở bất cứ đâu. Do đó,
công tác bảo vệ chính trị nội bộ (đối với cán bộ, học sinh , lưu học sinh . . . .

đặc biệt là những đối tượng "nhạy cảm") cần phải đặc biệt chú ý. Đây cũng
là một nhiệm vụ góp phần đảm bảo yêu cầu quốc phòng - an ninh.
6. Công tác biên giới lãnh thổ.
Việc giải quyết ổn thoả các vấn đề về biên giới lãnh thổ với các nước
láng riêng thông qua đàm phán ngoại giao là một chủ trương xuyên suốt
trong hoạt động đối ngoại của Đảng, nhà nước ta và có tác đội rất lớn đến
công tác quốc phòng an ninh và sự phát triển của nước ta trong tình hình
hiện nay.
Việc giải quyết các vấn đề về biên giới lãnh thổ, chủ quyền biển đảo
của Đảng, nhà nước ta là một minh chứng cho sự vận Đảng một cách linh
hoạt, sáng tạo trong công tác phối hợp giữa hoạt động đối ngoại với quốc
phòng an ninh trong tình hình mới.


Phương hướng:
Tình hình thế giới và khu vực trong những năm tới tiếp tục diễn biến
phức tạp, tác động nhiều chiều tới an ninh và phát triển của Việt Nam. Mặc
dù có nhiều thách thức đặt ra, nhưng chúng ta đã và đang đứng trước những
cơ hội và thuận lợi rất cơ bản. Đó là thành tựu của đất nước trong 5 năm qua
và 25 năm đổi mới làm cho thế và lực Việt Nam mạnh lên nhiều; việc mở
rộng quan hệ đối ngoại và chủ động hội nhập kinh tế quốc tế tạo thuận lợi
cho Việt Nam tiếp tục công cuộc đổi mới, giữ vững và củng cố môi trường
hoà bình, ổn định, để tập trung phát triển kinh tế với tốc độ nhanh hơn.
Trên cơ sở đánh giá sâu sắc những cơ hội và thách thức đối với Việt
Nam trong thời gian tới, chúng ta phải tranh thủ cơ hội, vượt qua thách thức,
tiếp tục đổi mới mạnh mẽ, toàn diện và đồng bộ hơn nữa, phát triển với tốc
độ nhanh hơn và bền vững hơn nhằm sớm đưa nước ta ra khỏi tình trạng
kém phát triển, tạo nền trịng để đến năm 2020 Việt Nam cơ bản trở thành
nước công nghiệp hóa theo hướng hiện đại.
Để thực hiện những nhiệm vụ to lớn trên, công tác đối ngoại cần tập

trung vào một số vấn đề trọng tâm sau:
+ Nhiệm vụ đối ngoại: giữ vững và củng cố môi trường hoà bình, tạo
các điều kiện quốc tế thuận lợi hơn nữa cho công cuộc đổi mới, đẩy mạnh
phát triển kinh tế xã hội, công nghiệp hoá, hiện đại hoá, đồng thời góp phần
vào cuộc đấu tranh chung của nhân dân thế giới vì hòa bình, độc lập dân tộc,
dân chủ và tiến bộ xã hội.
+ Thực hiện nhất quán đường lối đối ngoại độc lập, tự chủ, hoà bình,
hợp tác và phát triển; chính sách đối ngoại rộng mở, đa dạng hóa, đa phương
hóa các quan hệ quốc tế, đưa quan hệ quốc tế song phương và đa phương đi
vào chiều sâu, ổn định bền vững.


+ Tiếp tục giương cao hơn nữa ngọn cờ hoà bình, hợp tác và phát
triển; Việt Nam là bạn, là đối tác tin cậy, là thành viên tích cực và xây dựng
của các nước trong cộng đồng quốc tế, phấn đấu vì hòa bình, hợp tác và phát
triển bền vững; tham gia tích cực vào tiến trình hợp tác quốc tế và khu vực.
Hoạt động đối ngoại trong thời gian tới sẽ được triển khai trên một số
hướng chính sau:
- Tiếp tục mở rộng quan hệ đối ngoại, củng cố và hoàn thiện khuôn
khổ quan hệ ổn định, lâu dài với các nước nhất là láng giềng khu vực, các
nước lớn và các đối tác quan trọng khác, tạo bước chuyển biến mới trong
quan hệ hợp tác theo hướng đưa các mối quan hệ hợp tác đi vào chiều sâu,
ổn định, bền vững, tạo ra sự tin cậy lẫn nhau.
- Chủ động và tích cực hội nhập kinh tế quốc tế sâu hơn và đầy đủ
hơn với các thể chế kinh tế toàn cầu, khu vực và song phương với tư cách
của mốt nước trong tổ chức WTO: thực hiện các cam kết với các nước về
thương mại, đầu tư, mở cửa thị trường, chuẩn bị tết các điều kiện để ký các
Hiệp định thương mại tự do song phương với các nước, nhất là các nước lớn,
ký các Hiệp định hợp tác kinh tế đa phương và khu vực. Thúc đẩy quan hệ
hợp tác toàn diện có hiệu quả với các nước ASEAN, các nước khu vực Châu

Á – Thái Bình Dương.
- Tăng cường hơn nữa vai trò của hoạt động đối ngoại phục vụ kinh
tế, tạo môi trường pháp lý thuận lợi cho hoạt động kinh tế đối ngoại, cải
thiện môi trường đầu tư nhằm thu hút FDI, ODA, thúc đẩy mở rộng quan hệ
hợp tác kinh tế, thương mại, đầu tư, mở rộng thị trường với các nước, các tổ
chức quốc tế nhằm thực hiện nhiệm vụ phục vụ phát triển kinh tế - xã hội,
công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước.
- Xây dựng và củng cố đường biên giới hòa bình, hợp tác phát triển
với các nước láng giềng đồng thời kịp thời giải quyết các vấn đề nảy sinh,


bảo vệ chủ quyền, toàn vẹn lãnh thổ của đất nước, đặc biệt đối với vấn đề
Biển Đông.
Sẵn sàng đối thoại với các nước và các tổ chức quốc tế và khu vực về
những vấn đề cùng quan tâm, trong đó có vấn đề dân chủ, nhân quyền, đồng
thời kiên quyết đấu tranh với các luận điệu sai trái, lợi Đảng các vấn đề dân
chủ, nhân quyền, tôn giáo để can thiệp vào công việc nội bộ của Việt Nam.
- Tăng cường hơn nữa hoạt động trên các diễn đàn đa phương ở khu
vực và trên thế giới, mở rộng sự hợp tác nhiều mặt với các tổ chức khu vực
và quốc tế, chủ động tham gia giải quyết các vấn đề toàn cầu, tiếp tục củng
cố và nâng cao vai trò và vị thế của Việt Nam trong các định chế quốc tế.
- Về người Việt Nam ở nước ngoài, tiếp tục tập trung tuyên truyền,
vận động đồng bào ta ở nước ngoài tích cực tham gia đóng góp sức người
sức của vào công việc xây dựng và bảo vệ Tổ quốc Việt Nam theo tinh thần
nghị quyết của Đại hội XI đã xác định: đồng bào Việt Nam định cư ở nước
ngoài là một bộ phận không tách rời và là nguồn lực của cộng đồng dân tộc
Việt Nam, là nhân tốc quan trọng góp phần tăng cường quan hệ hợp tác, hữu
nghị giữa nhân dân Việt Nam và nhân dân các nước, tổ chức thực hiện có
hiệu quả Nghị quyết 36 của BCT (tạo điều kiện thuận lợi và hỗ trợ ổn định
cuộc sống, bảo vệ quyền lợi chính đáng, có các chính sách để hướng về quê

hương, góp phần xây dựng đất nước, thu hút, phát huy trí tuệ của trí thức).
- Đẩy mạnh công tác thông tin tuyên truyền và văn hoá đối ngoại, đặc
biệt là các kết quả giải quyết các vấn đề về biên giới lãnh thổ giữa Việt Nam
với các nước láng giềng, các chính sách của Đảng, Nhà nước với bà còn
người Việt ở nước ngoài và các nước, để tăng cường sự hiểu biết lẫn nhau,
sự hợp tác và tình hữu nghị giữa nhân dân Việt Nam với nhân dân các nước,
góp phần làm cho bạn bè thế giới hiểu rõ hơn về công cuộc Đổi mới, về đất


nước và con người Việt Nam trên con đường hội nhập và phát triển và ngăn
chặn các thế lực thù địch tạo cớ, công kích, bôi xấu Đảng, nhà nước ta.
- Phối hợp chặt chẽ hoạt động ngoại giao của Đảng, của Quốc hội,
ngoại giao Nhà nước với ngoại giao nhân dân, đối ngoại quốc phòng-an
ninh, chính trị đối ngoại và kinh tế đối ngoại tán thành sức mạnh tổng hợp
nhằm thực hiện tốt nhiệm vụ đối ngoại chung của đất nước.
Tóm lại, hoạt động đối ngoại cần quán triệt những bài học lớn của
Đảng và Bác Hồ đã đúc rút trong quá trình cách mạng của nước ta, nắm
vững đường lối đối ngoại độc lập tự chủ, chính sách đa dạng hoá, đa phương
hoá để góp phần thiết thực cho nhiệm vụ xây dựng và bảo vệ Tổ quốc, giữ
vững quốc phòng - an ninh đi đối với phát triển đất nước.
Trong tình hình hiện nay, với những kinh nghiệm quý báu của cách
mạng nước ta, với tư tưởng và lý luận cách mạng đúng đắn mà Chủ tịch Hồ
Chí Minh đúc kết và xây dựng trong cuộc đời cách mạng của Người, Đảng
đã đề ra những chủ trương, đường lối đúng đắn cho sự nghiệp cách mạng
nước ta trong thời kỳ mới - thời kỳ công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước
mà nhiệm vụ xuyên suất là xây dựng và phát triển kinh tế đất nước, tăng
cường quốc phòng - an ninh, mở rộng quan hệ đối ngoại; chủ động và tích
cực hội nhập kinh tế quốc tế, giữ vững ổn định chính trị - xã hội; sớm đưa
nước ta ra khỏi tình trạng kém phát triển . . .
Để hoàn thành tốt mục tiêu và phương hướng tổng quát trên, đòi hỏi

toàn Đảng, toàn dân và cả hệ thống chính trị - xã hội phải hết sức nỗi lực
phấn đấu với tinh thần trách nhiệm rất cao. Để góp phần vào thắng lợi chung
của đất nước, một phần quan trọng không thể thiếu được, đó là sự kết hợp
nhuần nhuyễn, có hiệu quả giữa công tác đối ngoại với quốc phòng - an ninh
trong tình hình mới. Để làm được điều này, đòi hỏi tất cả các cấp, các ngành
trong hệ thống chính trị và toàn thể xã hội phải quán triệt và chung sức thực


hiện những nhiệm vụ liên quan đến công tác quốc phòng - an ninh và đối
ngoại.
Công tác đối ngoại của nước ta nói chung những năm qua đã có nhiều
cố gắng và đã đem lại những kết quả to lớn góp phần nâng cao vị thế của
Việt Nam trên thế giới. Tuy nhiên, chung ta không nên thoả mãn với những
kết quả bước đầu đó, chúng ta cần phấn đấu nhiều hơn nữa, cần tìm tòi các
phương thức thích hợp để công tác đối ngoại ngày càng có đóng góp xứng
đáng vào công cuộc xây dựng và bảo vệ Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ
nghĩa.


KẾT LUẬN
Công cuộc đổi mới do Đảng ta khởi xướng và lãnh đạo từ năm 1986
đến nay đã thu được những thành tựu hết sức to lớn và có ý nghĩa lịch sử,
làm thay đổi bộ mặt của đất nước, tạo tiền đề và động lực cho Việt Nam tiến
bước nhanh hơn, vững chắc hơn trên con đường công nghiệp hóa, hiện đại
hóa. Quán triệt đường lối đối ngoại độc lập, tự chủ, rộng mở, đa dạng hoá,
đa phương hoá quan hệ quốc tế, chủ động hội nhập quốc tế, Ngoại giao đã
trở thành mặt trận quan trọng trong thời bình và đã góp phần giữ vững và
củng cố môi trường hoà bình và tạo những điều kiện quốc tế ngày càng
thuận lợi cho công cuộc xây dựng và bảo vệ Tổ quốc; nâng cao vị thế và uy
tín của nước ta ở khu vực và trên thế giới.

Thành tựu đối ngoại có tính chất bao trùm trong thời gian qua là từ
chỗ bị cô lập về chính trị, bao vây cấm vận về kinh tế, Việt Nam đã chủ
động, nỗ lực mở rộng hơn bao giờ hết quan hệ đối ngoại của mình theo
hướng đa dạng hóa, đa phương hóa. Thành tựu tiếp được coi là hước phát
triển lớn, mang tính đột phá trong triển khai hoạt động đối ngoại thời kỳ Đổi
mới. Đó là Việt Nam đã đi từ bình thường hóa quan hệ đến từng bước nâng
cấp và xác lập khuôn khổ quan hệ hợp tác bình đẳng, cùng có lợi với tất cả
các nước lớn, các trung tâm kinh tế - chính trị lớn và các nước công nghiệp
phát triển. Trong triển khai chính sách đa dạng hoá, đa phương hoá các quan
hệ quốc tế, Việt Nam đã tích cực và chủ động củng cố và phát triển quan hệ
hợp tác với các nước bạn bè truyền thống và các nước đang phát triển khác ở
Trung Đông, châu Phi và Mỹ La tinh. Hoạt động ngoại giao đa phương đã
có bước phát triển vượt bậc; góp phần nâng cao hơn nữa vai trò và uy tín của
Việt Nam tại các tổ chức và diễn đàn quốc tế như Liên hiệp quốc, Phong
trào Không liên kết, Hiệp hội các quốc gia Đông nam á (ASEAN), Diễn đàn


Hợp tác kinh tế Châu á - Thái bình dương (APEC), Diễn đàn hợp tác
(ASEM), từng bước đưa Việt Nam hội nhập vào kinh tế khu vực và thế giới .
Phát triển kinh tế là nhiệm vụ trung tâm, công tác Ngoại giao phục vụ
phát triển kinh tế đã ngày càng phát huy vai trò; nội dung kinh tế ngày càng
thể hiện rõ nét trong mọi hoạt động chính trị đối ngoại. Ngoại giao đã kết
hợp tốt giữa chính trị đối ngoại với kinh tế đối ngoại, góp phần tạo thêm
nguồn lực từ bên ngoài, mở rộng thị trường, gia tăng đối tác, phục vụ mục
tiêu phát triển kinh tế-xã hội, quốc phòng – an ninh của đất nước.


DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Đảng Cộng sản Việt Nam, Văn kiện đại hội Đảng toàn quốc lần thứ X, Nxb
Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2006.

2. Đảng Cộng sản Việt Nam, Văn kiện đại hội Đảng toàn quốc lần thứ XI, Nxb
Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2011.
3. Thông tư 248/TT – BQP ngày 24/12/2010 của Bộ Quốc phòng Về việc hướng
dẫn công tác quốc phòng ở các Bộ, nghành và các địa phương năm 2011.

NHẬN XÉT CỦA GIẢNG VIÊN CHẤM
..............................................................................................................................................
................................................................................................................................................
................................................................................................................................................
...............................................................................................................................................
...............................................................................................................................................
...............................................................................................................................................



×