Tải bản đầy đủ (.pdf) (166 trang)

Tính phổ biến và tính đặc thù của nhận thức mới về chủ nghĩa xã hội trên thế giới hiện nay (tt)

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.15 MB, 166 trang )

HỌC VIỆN CHÍNH TRỊ QUỐC GIA HỒ CHÍ MINH

VŨ THẾ TÙNG

TÍNH PHỔ BIẾN VÀ TÍNH ĐẶC THÙ
CỦA NHẬN THỨC MỚI VỀ CHỦ NGHĨA XÃ HỘI
TRÊN THẾ GIỚI HIỆN NAY

LUẬN ÁN TIẾN SĨ
CHUYÊN NGÀNH: CHỦ NGHĨA XÃ HỘI KHOA HỌC

HÀ NỘI - 2017


HỌC VIỆN CHÍNH TRỊ QUỐC GIA HỒ CHÍ MINH

VŨ THẾ TÙNG

TÍNH PHỔ BIẾN VÀ TÍNH ĐẶC THÙ
CỦA NHẬN THỨC MỚI VỀ CHỦ NGHĨA XÃ HỘI
TRÊN THẾ GIỚI HIỆN NAY

LUẬN ÁN TIẾN SĨ
CHUYÊN NGÀNH: CHỦ NGHĨA XÃ HỘI KHOA HỌC
Mã số: 62.22.03.08

NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC:
1. PGS.TS. NGUYỄN QUỐC PHẨM
2. PGS.TS. NGUYỄN VĂN OÁNH

HÀ NỘI - 2017




LỜI CAM ĐOAN

Tôi xin cam đoan dưới đây là công trình nghiên cứu
của riêng tôi. Các số liệu, kết quả nêu trong luận án là
trung thực, có nguồn gốc rõ ràng và được trích dẫn đầy đủ
theo quy định.
Tác giả

Vũ Thế Tùng


MỤC LỤC
Trang
MỞ ĐẦU

1

Chương 1: TỔNG QUAN TÌNH HÌNH NGHIÊN CỨU LIÊN QUAN ĐẾN
ĐỀ TÀI LUẬN ÁN

5

1.1. Những công trình đã công bố liên quan đến luận án

5

1.2. Giá trị, hạn chế của các công trình nghiên cứu đã công bố và hướng
nghiên cứu của luận án


25

Chương 2: LÝ LUẬN CHUNG VỀ TÍNH PHỔ BIẾN VÀ TÍNH ĐẶC THÙ
CỦA NHẬN THỨC VỀ CHỦ NGHĨA XÃ HỘI

28

2.1. Một số khái niệm cơ bản của luận án

28

2.2. Quan niệm của chủ nghĩa Mác - Lênin về tính phổ biến và tính đặc
thù của nhận thức về chủ nghĩa xã hội

37

2.3. Quan điểm của các đảng cộng sản về tính phổ biến và tính đặc thù của
nhận thức về chủ nghĩa xã hội thời kỳ trước cải cách, cải tổ, đổi mới

46

Chương 3: TÍNH PHỔ BIẾN VÀ TÍNH ĐẶC THÙ CỦA NHẬN THỨC MỚI
VỀ CHỦ NGHĨA XÃ HỘI TRÊN THẾ GIỚI THỜI KỲ CẢI CÁCH, ĐỔI MỚI

63

3.1. Bối cảnh tác động đến nhận thức mới về tính phổ biến và tính đặc thù
của chủ nghĩa xã hội thời kỳ cải cách, đổi mới


63

3.2. Tính phổ biến của nhận thức mới về chủ nghĩa xã hội trên thế giới
thời kỳ cải cách, đổi mới

68

3.3. Tính đặc thù của nhận thức mới về chủ nghĩa xã hội trên thế giới
hiện nay

105

Chương 4: Ý NGHĨA ĐỐI VỚI SỰ NGHIỆP XÂY DỰNG CHỦ NGHĨA XÃ
HỘI TRÊN THẾ GIỚI VÀ VIỆT NAM HIỆN NAY

120

4.1. Ý nghĩa thời đại của việc quán triệt, vận dụng những giá trị phổ biến
và đặc thù trong nhận thức về chủ nghĩa xã hội trên thế giới hiện nay

120

4.2. Ý nghĩa đối với Việt Nam trên con đường đi lên chủ nghĩa xã hội

133

KẾT LUẬN

148


DANH MỤC CÔNG TRÌNH ĐÃ CÔNG BỐ CỦA TÁC GIẢ LIÊN QUAN
ĐẾN LUẬN ÁN

151

DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO

152


DANH MỤC CÁC CHỮ VIẾT TẮT

CNCS

:

Chủ nghĩa cộng sản

CNTB

:

Chủ nghĩa tư bản

CNXH

:

Chủ nghĩa xã hội


GDP

:

Tổng sản phẩm quốc nội

TBCN

:

Tư bản chủ nghĩa

USD

:

Đô la Mỹ

XHCN

:

Xã hội chủ nghĩa


1
MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Năm 1848, chủ nghĩa Mác ra đời đánh dấu một bước chuyển biến quan
trọng trong lịch sử tư tưởng xã hội chủ nghĩa, đưa chủ nghĩa xã hội (CNXH)

từ không tưởng trở thành khoa học. Dựa trên quan niệm duy vật lịch sử,
C.Mác và Ph.Ăngghen đã đưa ra những dự báo khoa học về sự xuất hiện của
một hình thái kinh tế - xã hội mới, hình thái kinh tế - xã hội cộng sản chủ
nghĩa với những quy luật có tính phổ biến, làm cơ sở cho các nước xây dựng
chủ nghĩa xã hội, chủ nghĩa cộng sản (CNCS), đồng thời cũng chỉ rõ, việc vận
dụng những quy luật phổ biến đó phải luôn đặt trên “mảnh đất hiện thực”, phù
hợp với điều kiện đặc thù của từng quốc gia.
Sau cách mạng tháng Mười Nga năm 1917, chủ nghĩa xã hội từ lý luận
trở thành hiện thực, những nguyên lý phổ biến của chủ nghĩa xã hội khoa học
được vận dụng trên đất nước Liên Xô và đã đạt được những thành tựu quan
trọng. Đặc biệt, từ sau Chiến tranh thế giới thứ hai, chủ nghĩa xã hội trở thành
một hệ thống thế giới. Các nước xã hội chủ nghĩa trên con đường phát triển
đều vận dụng những quy luật phổ biến mà chủ nghĩa Mác - Lênin đã chỉ ra và
giành được những thành tựu hết sức rực rỡ trên các lĩnh vực: kinh tế, chính
trị, văn hóa, xã hội, khoa học - kỹ thuật, an ninh - quốc phòng… Riêng Liên
Xô đã vươn lên trở thành siêu cường trên thế giới, là nguồn cổ vũ to lớn đối
với phong trào giải phóng dân tộc và cách mạng xã hội chủ nghĩa, là trụ cột
giữ gìn hòa bình cho sự phát triển chung của nhân loại.
Tuy nhiên, bên cạnh những thành tựu đạt được, các nước xã hội chủ
nghĩa cũng mắc phải những hạn chế trong nhận thức và xây dựng chủ nghĩa
xã hội, đó là: tuyệt đối hóa quy luật phổ biến, coi nhẹ quy luật đặc thù; coi
kinh nghiệm của Đảng Cộng sản Liên Xô trong xây dựng chủ nghĩa xã hội là
vấn đề có tính nguyên tắc đối với toàn bộ phong trào cộng sản quốc tế; những
sáng tạo, tìm tòi con đường xây dựng chủ nghĩa xã hội theo cách riêng được
cho là “chủ nghĩa xét lại”, “chệch hướng”, “xa rời chủ nghĩa Mác - Lênin”.
Điều này dẫn đến vận dụng giáo điều mô hình Xô viết cho các nước xã hội


2
chủ nghĩa, làm suy giảm sự sáng tạo trong việc tìm tòi con đường phát

triển…, và, khi mô hình Xô viết không phù hợp với thực tế, rơi vào khủng
hoảng đã dẫn đến sự khủng hoảng của toàn bộ hệ thống.
Trước thực tế đó, Liên Xô và các nước Đông Âu tiến hành công cuộc cải
tổ. Tuy nhiên, do dần xa rời những nguyên lý phổ biến của CNXH khoa học, công
cuộc cải tổ ở Liên Xô và Đông Âu đã thất bại vào cuối thập niên 80, đầu thập niên
90 thế kỷ XX. Các nước xã hội chủ nghĩa như Trung Quốc, Việt Nam, Lào, Cuba
tiến hành cải cách, đổi mới, giữ vững nguyên lý phổ biến của chủ nghĩa xã hội
khoa học, kiên trì chủ nghĩa Mác - Lênin, kết hợp hài hòa giữa tính phổ biến với
tính đặc thù, hình thành con đường phát triển riêng, đưa đất nước vượt qua khó
khăn, từng bước giành được những thành công trên con đường đi lên CNXH.
Đến nay, việc nghiên cứu về tính phổ biến và tính đặc thù của nhận
thức mới về chủ nghĩa xã hội trên thế giới là một vấn đề lý luận và thực tiễn
cấp thiết, giúp các nước xã hội chủ nghĩa thấy rõ những quy luật phổ biến và
đặc thù đang được vận dụng trong điều kiện hiện nay; quán triệt sâu sắc bài
học về sự kết hợp tính phổ biến và tính đặc thù trong nhận thức và xây dựng
chủ nghĩa xã hội; vận dụng sáng tạo và phát triển chủ nghĩa Mác - Lênin vào
điều kiện cụ thể mỗi nước; tăng cường tổng kết thực tiễn, bổ sung, phát triển
lý luận, hoàn thiện hơn nhận thức về chủ nghĩa xã hội trong điều kiện mới…
Đối với Việt Nam, việc nghiên cứu tính phổ biến và tính đặc thù của
những nhận thức mới về chủ nghĩa xã hội trên thế giới hiện nay sẽ giúp chúng
ta kiên định với chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, mục tiêu độc
lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội, tiếp tục vận dụng sáng tạo những quy luật
phổ biến kết hợp với tính đặc thù trong xây dựng xã hội mới. Đồng thời, tham
khảo những kinh nghiệm của các nước xã hội chủ nghĩa, các đảng cộng sản
trên thế giới để bổ sung, phát triển lý luận về chủ nghĩa xã hội; tăng cường
đấu tranh chống biểu hiện xa rời mục tiêu chủ nghĩa xã hội, “tự diễn biến”,
“tự chuyển hóa” trong Đảng; phản bác những quan điểm sai trái, thù địch, tạo
ra sự đồng thuận xã hội cùng hướng tới mục tiêu chung là xây dựng nước Việt
Nam: “Dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh”.



3
Với những lý do trên, tác giả chọn vấn đề “Tính phổ biến và tính đặc
thù của nhận thức mới về chủ nghĩa xã hội trên thế giới hiện nay” làm đề
tài luận án tiến sỹ chuyên ngành Chủ nghĩa xã hội khoa học.
2. Mục tiêu và nhiệm vụ nghiên cứu
2.1. Mục tiêu: trên cơ sở nghiên cứu tính phổ biến và tính đặc thù của
nhận thức mới về chủ nghĩa xã hội trên thế giới, luận án rút ra ý nghĩa đối với
sự nghiệp xây dựng chủ nghĩa xã hội trên thế giới và Việt Nam hiện nay.
2.2. Nhiệm vụ: để đạt được mục tiêu trên, luận án tập trung giải quyết
những nhiệm vụ cơ bản sau:
- Tổng quan tình hình nghiên cứu liên quan đến đề tài luận án, từ đó
xác định hướng nghiên cứu của luận án;
- Làm rõ lý luận chung về tính phổ biến và tính đặc thù của nhận thức
về chủ nghĩa xã hội;
- Phân tích tính phổ biến và tính đặc thù của những nhận thức mới về
chủ nghĩa xã hội trên thế giới thời kỳ cải cách, đổi mới;
- Rút ra ý nghĩa đối với sự nghiệp xây dựng chủ nghĩa xã hội trên thế
giới và Việt Nam hiện nay.
3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
3.1. Đối tượng nghiên cứu: những vấn đề có tính phổ biến và tính đặc
thù của nhận thức mới về chủ nghĩa xã hội trên thế giới hiện nay.
3.2. Phạm vi nghiên cứu
Không gian: luận án tập trung nghiên cứu tính phổ biến và tính đặc thù
của nhận thức mới về CNXH ở 4 nước: Trung Quốc, Việt Nam, Lào, Cuba.
Thời gian: từ khi các nước này tiến hành cải cách, đổi mới đến nay.
4. Cơ sở lý luận và phương pháp nghiên cứu
4.1. Cơ sở lý luận
Luận án được thực hiện dựa trên cơ sở lý luận của chủ nghĩa Mác Lênin, quan điểm của các đảng cộng sản, các lãnh tụ, các nhà lãnh đạo ở các
nước xã hội chủ nghĩa.

Luận án cũng tham khảo các kết quả nghiên cứu của các nhà khoa học
ở trong và ngoài nước liên quan đến chủ đề của luận án.


4
4.2. Phương pháp nghiên cứu
Luận án dựa trên phương pháp luận của chủ nghĩa duy vật biện chứng
và chủ nghĩa duy vật lịch sử, kết hợp các phương pháp cụ thể như: logic - lịch
sử, phân tích, tổng hợp, so sánh…
5. Đóng góp mới về khoa học của luận án
Một là, góp phần làm rõ những vấn đề lý luận chung về tính phổ biến
và tính đặc thù của nhận thức về chủ nghĩa xã hội;
Hai là, phân tích làm rõ những vấn đề có tính phổ biến và tính đặc thù
của nhận thức mới về chủ nghĩa xã hội trên thế giới thời kỳ cải cách, đổi mới.
Ba là, luận án chỉ ra ý nghĩa của việc nghiên cứu tính phổ biến và tính
đặc thù của nhận thức mới về chủ nghĩa xã hội trên thế giới đối với sự nghiệp
xây dựng chủ nghĩa xã hội trên thế giới và Việt Nam hiện nay.
6. Ý nghĩa khoa học và thực tiễn của đề tài nghiên cứu
6.1. Ý nghĩa khoa học
Luận án góp phần làm sáng tỏ hơn những vấn đề về tính phổ biến và
tính đặc thù của nhận thức mới về chủ nghĩa xã hội trên thế giới. Từ đó,
cung cấp cơ sở lý luận cho việc bổ sung, phát triển và hoàn thiện nhận thức
về chủ nghĩa xã hội ở các nước xã hội chủ nghĩa trên thế giới và Việt Nam
hiện nay.
6.2. Ý nghĩa thực tiễn
Luận án có thể làm tài liệu phục vụ cho nghiên cứu và giảng dạy những
chuyên đề: xã hội xã hội chủ nghĩa và con đường đi lên chủ nghĩa xã hội ở
Việt Nam; chủ nghĩa xã hội hiện thực và các mô hình chủ nghĩa xã hội trên
thế giới hiện nay… trong chuyên ngành chủ nghĩa xã hội khoa học và các
chuyên ngành liên quan khác.

7. Kết cấu của luận án
Ngoài phần mở đầu, kết luận, danh mục công trình đã công bố của tác
giả liên quan đến luận án và danh mục tài liệu tham khảo, luận án gồm 4
chương, 10 tiết.


5
Chương 1
TỔNG QUAN TÌNH HÌNH NGHIÊN CỨU
LIÊN QUAN ĐẾN ĐỀ TÀI LUẬN ÁN
1.1. NHỮNG CÔNG TRÌNH ĐÃ CÔNG BỐ LIÊN QUAN ĐẾN LUẬN ÁN

1.1.1. Những công trình nghiên cứu của các tác giả trong nước về
tính phổ biến và tính đặc thù của nhận thức mới về chủ nghĩa xã hội
1.1.1.1. Những công trình nghiên cứu của các tác giả trong nước về
tính phổ biến và tính đặc thù của nhận thức mới về chủ nghĩa xã hội trên
thế giới
Nguyễn An Ninh, Về triển vọng chủ nghĩa xã hội trong hai thập niên
đầu thế kỷ XXI [72]. Trong công trình này, tác giả luận giải về triển vọng phát
triển của chủ nghĩa xã hội trong những thập niên đầu của thế kỷ XXI đầy
biến động, chỉ rõ rằng đó là một xu thế phát triển tất yếu của toàn thể nhân
loại trong thời đại ngày nay. Với cách đặt vấn đề đi từ phương pháp luận
nhận thức về triển vọng của chủ nghĩa xã hội đến phân tích một số yếu tố cơ
bản tác động đến triển vọng của chủ nghĩa xã hội và tiến trình phát triển của
chủ nghĩa xã hội trong hai thập niên đầu thế kỷ XXI, tác giả đã cung cấp
cách nhìn biện chứng về xu hướng phát triển khách quan của chủ nghĩa xã
hội trong tương lai để từ đó phân tích những nhiệm vụ đặt ra cho Đảng Cộng
sản và giai cấp công nhân Việt Nam trong quá trình thực hiện sứ mệnh lịch
sử của mình.
Nguyễn Ngọc Long, Chủ nghĩa Mác - Lênin với vận mệnh và tương lai

của chủ nghĩa xã hội hiện thực [59]. Trong công trình này, tác giả đã phân
tích sự hình thành và phát triển của CNXH hiện thực thời kỳ trước cải cách,
cải tổ, đổi mới, trong đó tập trung phân tích, đánh giá về chủ nghĩa xã hội ở
Liên Xô và các nước Đông Âu với thành tựu, hạn chế, nguyên nhân và bài
học kinh nghiệm. Cũng trong công trình này, tác giả đã đi sâu phân tích về
công cuộc cải cách, xây dựng chủ nghĩa xã hội đặc sắc Trung Quốc; công


6
cuộc đổi mới trên con đường “quá độ lên chủ nghĩa xã hội bỏ qua chế độ tư
bản chủ nghĩa” ở Việt Nam; về con đường đi lên chủ nghĩa xã hội ở Cộng hòa
Cuba, Cộng hòa Dân chủ Nhân dân Lào, Cộng hòa Dân chủ Nhân dân Triều
Tiên. Khi đánh giá về công cuộc cải cách, đổi mới, tác giả đã chỉ rõ, các nước
xã hội chủ nghĩa đã vận dụng những quy luật phổ biến của chủ nghĩa Mác Lênin một cách sáng tạo trên tinh thần nhận thức mới. Đồng thời, tác giả cũng
phân tích những nét đặc thù, sáng tạo của các nước trong quá trình xây dựng
xã hội mới. Từ sự phân tích trên, tác giả đưa ra những dự báo về tương lai của
chủ nghĩa xã hội, trong đó, khẳng định quá độ đi lên CNXH là xu thế khách
quan của thời đại, đồng thời, cũng khẳng định giá trị, sức sống của chủ nghĩa
Mác - Lênin trong thời đại ngày nay.
Trịnh Quốc Tuấn, Về chủ nghĩa xã hội mang đặc sắc Trung Quốc những vấn đề có thể tham khảo cho công cuộc đổi mới ở nước ta [103]. Đây
là công trình tập hợp nhiều bài nghiên cứu dưới những góc độ khác nhau về
chủ nghĩa xã hội mang đặc sắc Trung Quốc. Các tác giả tập trung vào bốn
nhóm nội dung lớn như: chủ nghĩa xã hội mang đặc sắc Trung Quốc là gì;
một số quan điểm lý luận về thể chế kinh tế xã hội chủ nghĩa; thể chế chính trị
xã hội chủ nghĩa; lý luận về xây dựng văn minh tinh thần xã hội chủ nghĩa;
tập trung làm rõ quá trình đổi mới nhận thức của Đảng Cộng sản Trung Quốc
về CNXH và xây dựng CNXH kể từ sau Hội nghị Trung ương 3 khóa XI
(1978); phân tích quá trình hình thành, đặc trưng của CNXH mang đặc sắc
Trung Quốc, lộ trình, bước đi trong quá trình cải cách, mở cửa nhằm hướng
tới thực hiện mục tiêu xây dựng chủ nghĩa xã hội ở Trung Quốc.

Đỗ Tiến Sâm, Trung Quốc với việc xây dựng Nhà nước pháp quyền xã
hội chủ nghĩa [90]. Đây là công trình nghiên cứu chuyên sâu về tính phổ biến
và tính đặc thù trong nhận thức về xây dựng nhà nước pháp quyền ở Trung
Quốc. Những nội dung chủ yếu được tác giả phân tích như: hoàn thiện chế độ
đại biểu nhân dân và hệ thống pháp luật; cải cách bộ máy hành chính nhà


7
nước và thực hiện hành chính theo pháp luật; cải cách, hoàn thiện thể chế tư
pháp và thực hiện tư pháp công bằng. Tác giả cũng chỉ rõ, để xây dựng nhà
nước pháp quyền có hiệu quả thì một nhiệm vụ quan trọng là phải cải cách,
hoàn thiện phương thức lãnh đạo, phương thức cầm quyền và nâng cao năng
lực lãnh đạo của Đảng Cộng sản Trung Quốc.
Đỗ Tiến Sâm, Chủ nghĩa xã hội đặc sắc Trung Quốc - quá trình hình
thành và phát triển [91]. Tác giả đã phân tích quá trình nhận thức của các thế
hệ lãnh đạo Trung Quốc về chủ nghĩa xã hội, từ thế hệ lãnh đạo thứ nhất do
Mao Trạch Đông làm đại biểu, đến thế hệ lãnh đạo thứ tư do Hồ Cẩm Đào
làm đại biểu. Tác giả chỉ rõ hệ thống lý luận chủ nghĩa xã hội đặc sắc Trung
Quốc bao gồm: “Lý luận Đặng Tiểu Bình, tư tưởng quan trọng “ba đại diện”
và quan điểm phát triển khoa học”. Tác giả cũng nêu rõ một số nội dung cơ
bản của lý luận về CNXH đặc sắc Trung Quốc biểu hiện trên các mặt như:
kinh tế, chính trị, văn hóa, xã hội. Từ sự phân tích đó, tác giả đi tới một số kết
luận: CNXH đặc sắc Trung Quốc là sản phẩm của sự kết hợp giữa những
nguyên lý cơ bản của chủ nghĩa Mác với thực tế cụ thể Trung Quốc; chủ
nghĩa xã hội đặc sắc Trung Quốc là một mô hình CNXH hiện thực, tuy mang
tính đặc thù nhưng cũng có những giá trị phổ biến nhất định. Từ đó tác giả chỉ
ra “Việt Nam là nước láng giềng có nhiều điểm tương đồng, có thể tham khảo
những kinh nghiệm phổ biến từ sự phát triển CNXH đặc sắc Trung Quốc”.
Nguyễn An Ninh, Nguyễn Văn Quyết, Chủ nghĩa xã hội đặc sắc Trung
Quốc [76]. Các tác giả đã phân tích tính phổ biến, tính đặc thù của nhận thức

mới về chủ nghĩa xã hội thông qua mô hình “Chủ nghĩa xã hội đặc sắc Trung
Quốc” với các đặc trưng cơ bản như: sự lãnh đạo của đảng cộng sản, lấy chế
độ công hữu làm chủ thể, xây dựng nền văn hóa xã hội chủ nghĩa… Tuy
nhiên, bên cạnh những nét phổ biến, nhận thức về CNXH hiện nay còn có
nhiều nét đặc thù phản ánh sự vận dụng sáng tạo lý luận chủ nghĩa xã hội của
chủ nghĩa Mác - Lênin để phù hợp với “mảnh đất hiện thực” ở Trung Quốc.


8
Trương Duy Hòa, Một số vấn đề và xu hướng chính trị - kinh tế của
Cộng hòa Dân chủ Nhân dân Lào trong hai thập niên đầu thế kỷ XXI [40].
Cuốn sách tập trung phân tích tính phổ biến và tính đặc thù của nhận thức về
chủ nghĩa xã hội của Đảng Nhân dân Cách mạng Lào, với các đặc điểm cơ
bản như: vấn đề xây dựng bộ máy quyền lực nhà nước và củng cố hệ thống
chính trị, vấn đề hòa hợp dân tộc, vấn đề mở rộng dân chủ và nâng cao vai trò
của đảng cầm quyền, vấn đề cạnh tranh ảnh hưởng chính trị của một số nước
tại Lào…Đồng thời, tác giả phân tích triển vọng về chính trị đối nội và đối
ngoại của Cộng hòa Dân chủ Nhân dân Lào giai đoạn 2011 - 2020. Về mặt
kinh tế, trong cuốn sách, tác giả đã tổng quan hai kỳ kế hoạch 5 năm từ 2001 2010 ở Lào, dự báo về những triển vọng kinh tế nổi bật của Lào đến 2020 và
phân tích tác động của tình hình chính trị - kinh tế của Cộng hòa Dân chủ
Nhân dân Lào đối với Việt Nam giai đoạn 2011 - 2020.
Lê Hữu Nghĩa, Trương Thị Thông, Mạch Quang Thắng, Nguyễn Văn
Giang, Xây dựng đảng cầm quyền trong quá trình phát triển kinh tế thị trường
định hướng xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam và nền kinh tế hàng hóa theo cơ chế
thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa ở Lào [71]. Các tác giả đã làm rõ
những vấn đề lý luận và thực tiễn về đảng cộng sản cầm quyền và xây dựng
đảng cầm quyền trong quá trình phát triển kinh tế thị trường định hướng xã hội
chủ nghĩa ở Việt Nam và kinh tế hàng hóa theo cơ chế thị trường định hướng
xã hội chủ nghĩa ở Lào; phân tích về thực trạng, nguyên nhân và kinh nghiệm
về đảng và xây dựng đảng cầm quyền trong quá trình phát triển kinh tế thị

trường ở Việt Nam và Lào; đưa ra những dự báo xu hướng phát triển và tác
động tới xây dựng đảng cầm quyền, những quan điểm chỉ đạo và những giải
pháp lớn xây dựng đảng cầm quyền trong quá trình phát triển kinh tế thị trường
định hướng xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam và kinh tế hàng hóa theo cơ chế thị
trường định hướng xã hội chủ nghĩa ở Lào.


9
Vũ Trung Mỹ, Đại hội VII Đảng Cộng sản Cuba: tiếp tục hướng tới
mục tiêu xây dựng chủ nghĩa xã hội thịnh vượng và bền vững [69]. Tác giả đã
khái quát chặng đường phát triển của Cuba từ năm 1961 đến nay; phân tích
những kết quả chính trong việc thực hiện nghị quyết Đại hội VI của Đảng
Cộng sản Cuba, đồng thời, chỉ ra định hướng của Đại hội VII đối với sự phát
triển của cách mạng Cuba trong thời gian tới nhằm hướng tới mục tiêu xây
dựng nước Cuba XHCN thịnh vượng và bền vững.
Đinh Công Tuấn, Mô hình phát triển Bắc Âu [105]. Cuốn sách gồm 3
chương: ở chương 1, tác giả phân tích những vấn đề tổng quan về mô hình
Bắc Âu như nguồn gốc ra đời, nội dung và đặc trưng cơ bản và sự phát triển
của mô hình Bắc Âu; ở chương 2, tác giả phân tích đi sâu phân tích mô hình
phát triển của các nước Bắc Âu điển hình như: Thụy Điển, Phần Lan, Đan
Mạch, Na Uy, trong đó, nêu bật tính phổ biến của các mô hình này như: coi
trọng phân phối, thực hiện tốt các chính sách xã hội “hệ thống giáo dục miễn
phí”, “hệ thống chăm sóc sức khỏe gia đình và trẻ em”, “hệ thống bảo hiểm
xã hội cho người lao động” và nhiều chính sách ưu việt khác; ở chương 3, tác
giả phân tích tính đặc thù của các nước trong mô hình phát triển Bắc Âu, đánh
giá những thành công và hạn chế của mô hình này và dự báo triển vọng của
mô hình Bắc Âu trong những thập kỷ tới.
Phạm Quý Long, Cộng hòa Dân chủ Nhân dân Triều Tiên trong thập
niên đầu thế kỷ XXI [60]. Trong cuốn sách, tác giả đã khái quát những nét cơ
bản của Cộng hòa Dân chủ Nhân dân Triều Tiên, những đặc điểm của khu

vực Đông Bắc Á thập niên đầu thế kỷ XXI; đánh giá sự phát triển của Cộng
hòa Dân chủ Nhân dân Triều Tiên trên các lĩnh vực kinh tế, chính trị, an ninh,
đối ngoại, văn hóa - xã hội. Từ đó, khái quát về hình ảnh một đất nước Triều
Tiên trong suốt quá trình phát triển từ 1945 đến thập niên đầu thế kỷ XXI, với
nhiều nét đặc thù, nhiều vấn đề còn đặt ra trong quá trình phát triển.


10
Tạ Ngọc Tấn, Những tranh luận mới của các học giả Nga về chủ nghĩa
xã hội [94]. Cuốn sách là tập hợp 28 công trình nghiên cứu của các học giả
Nga với những quan điểm, đánh giá, bình luận liên quan đến chủ nghĩa xã
hội. Nội dung cuốn sách đề cập đến nhiều khía cạnh khác nhau, song tập
trung chính vào một số vấn đề cơ bản như: thứ nhất: nguyên nhân sụp đổ của
mô hình chủ nghĩa xã hội Xô viết, trong đó, các tác giả tập trung nhấn mạnh
những nguyên nhân chủ quan; thứ hai: nhìn nhận, đánh giá và khẳng định tính
khoa học và cách mạng của chủ nghĩa Mác, các tác giả cũng thống nhất rằng,
“chủ nghĩa Mác không phải là giáo điều mà là kim chỉ nam cho hành động”,
vì vậy, cần vận dụng và luôn luôn phát triển trong thực tế; thứ ba: các trào lưu
chủ nghĩa xã hội mới; thứ tư: về triển vọng và tương lai của chủ nghĩa xã hội,
các tác giả cho rằng, dù còn phải trải qua nhiều khó khăn, thách thức nhưng
triển vọng của chủ nghĩa xã hội là khả quan và CNXH là xu hướng đi tới của
nhân loại.
Nguyễn An Ninh, Về mô hình “chủ nghĩa xã hội thế kỷ XXI” của khu
vực Mỹ Latinh hiện nay [74]. Tác giả phân tích bối cảnh Mỹ Latinh trong
những thập niên gần đây, khái quát nội dung cơ bản của mô hình “Chủ nghĩa
xã hội thế kỷ XXI”, khái quát quá trình hiện thực hóa “chủ nghĩa xã hội thế
kỷ XXI” ở khu vực này. Tác giả cũng phân tích những vấn đề có tính phổ
biến của mô hình “Chủ nghĩa xã hội thế kỷ XXI”, đồng thời, chỉ rõ những nét
đặc thù, những đóng góp mới đối với nhận thức về chủ nghĩa xã hội; những
vấn đề đặt ra từ mô hình “Chủ nghĩa xã hội thế kỷ XXI” đối với quá trình xây

dụng chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam.
Bùi Thị Ngọc Lan, Chủ nghĩa xã hội thế kỷ XXI ở khu vực Mỹ Latinh thực trạng và triển vọng [51]. Tác giả phân tích những đặc điểm có tính phổ
biến của mô hình chủ nghĩa xã hội thế kỷ XXI ở Mỹ Latinh như: “công hữu
hóa những ngành kinh tế chiến lược”, mở rộng dân chủ, xây dựng hệ thống
công xã nhân dân nhằm “bảo đảm cho nhân dân là chủ thể tối thượng của


11
quyền lực nhà nước”, chú trọng phát triển và thực hiện các chính sách xã hội
như: xóa đói giảm nghèo, nâng cao mức sống và đảm bảo chất lượng sống của
nhân dân, chú trọng phát triển giáo dục - đào tạo, xóa nạn mù chữ, nâng cao
dân trí; khôi phục và thúc đẩy hợp tác giữa các nước trong khu vực. Đồng
thời, tác giả cũng chỉ ra một số nét đặc thù trong mô hình này như: lấy chủ
nghĩa Mác - Lênin, kết hợp với tư tưởng tiến bộ của cách mạng Simon
Bolivar và tinh thần nhân đạo của Thiên Chúa giáo làm nền tảng tư tưởng;
giành chính quyền thông qua con đường tranh cử dân chủ, sửa đổi hiến pháp
nhằm từng bước phá bỏ bộ máy nhà nước cũ…
Nguyễn An Ninh, Tính phổ biến và đặc thù của các mô hình và con
đường đi lên chủ nghĩa xã hội hiện nay [75]. Trong công trình này, tác giả
trình bày những nhận thức về mô hình và con đường đi lên chủ nghĩa xã hội
trong xây dựng chủ nghĩa xã hội hiện thực, trong đó, làm rõ quan niệm về mô
hình chủ nghĩa xã hội và con đường đi lên chủ nghĩa xã hội; nhận thức và
thực hiện trước đây về mô hình và con đường đi lên chủ nghĩa xã hội; những
nhận thức mới về mô hình chủ nghĩa xã hội và con đường đi lên chủ nghĩa xã
hội. Về tính phổ biến của mô hình chủ nghĩa xã hội, tác giả đã khái quát 7
điểm tương đồng thể hiện tính phổ biến, đó là: Các nước kiên định mục tiêu
xã hội chủ nghĩa đều tiến hành cải cách, đổi mới từ sự khủng hoảng của một
mô hình đã không còn phù hợp; quá trình cải cách, đổi mới của các nước đều
bắt đầu từ sự điều chỉnh quan niệm về mô hình chủ nghĩa xã hội; hầu hết các
nước đều coi lý luận chủ nghĩa xã hội khoa học là nền tảng lý luận cho quá

trình đổi mới quan niệm về mô hình chủ nghĩa xã hội; các mô hình đều mang
dấu ấn từ “mảnh đất hiện thực” và chấp nhận sự khác biệt trong quan niệm về
chủ nghĩa xã hội; đa số mô hình mới qua thể nghiệm đã được thực tiễn xác
nhận và đạt được thành công nhất định; các mô hình đều phải đối diện với
một số vấn đề thực tiễn và lý luận khá giống nhau; nhận thức về đặc trưng của
mô hình chủ nghĩa xã hội thường xuyên được cải cách, đổi mới ở các nước.


12
Cùng với 7 điểm tương đồng về mô hình, tác giả cũng đã phân tích 7 điểm
tương đồng về biện pháp xây dựng chủ nghĩa xã hội như vấn đề về vai trò của
đảng cộng sản, về mục tiêu chủ nghĩa xã hội, về xây dựng nền kinh tế thị
trường, về công nghiệp hóa, về quan hệ sản xuất theo tư duy mới…
1.1.1.2. Những công trình nghiên cứu của các tác giả trong nước về tính
phổ biến, tính đặc thù của nhận thức mới về chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam
Đào Duy Tùng, Quá trình hình thành con đường đi lên chủ nghĩa xã
hội ở Việt Nam [106]. Tác giả khái quát về lịch sử hình thành, phát triển của
nhận thức về con đường đi lên CNXH ở Việt Nam, phân tích và so sánh giữa
tư duy cũ và tư duy đổi mới về CNXH và con đường đi lên chủ nghĩa xã hội.
Tác giả cũng phân tích quá trình vận dụng và phát triển những quy luật phổ
biến kết hợp với những yếu tố đặc thù của Việt Nam để xây dựng mô hình xã
hội xã hội chủ nghĩa với 6 đặc trưng cơ bản được trình bày trong Cương lĩnh
xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội (1991). Tác giả
cũng phân tích những khó khăn, phức tạp và nỗ lực của Đảng ta trong quá
trình đổi mới tư duy, thành tựu và những vấn đề đặt ra đối với cách mạng
nước ta trong tình hình mới.
Nguyễn Văn Oánh, Về con đường đi lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam
[78]. Trong công trình này, tác giả chỉ ra một số điểm phổ biến và đặc thù về
con đường đi lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam, đó là: con đường đi lên
CNXH gắn bó mật thiết với củng cố nền độc lập dân tộc, thống nhất Tổ quốc,

chủ quyền quốc gia; quá trình chuyển biến cơ cấu kinh tế theo hướng công
nghiệp hóa, hiện đại hóa và quá trình xây dựng nền kinh tế hàng hóa nhiều
thành phần, với cơ chế thị trường, có sự quản lý của Nhà nước theo định
hướng XHCN; quá trình đẩy nhanh tốc độ tăng trưởng kinh tế cùng với đảm
bảo tiến bộ và công bằng xã hội, bảo vệ môi trường sinh thái; nhân dân lao
động ở vị trí trung tâm của con đường đi lên chủ nghĩa xã hội; xây dựng một
chế độ dân chủ, nhà nước pháp quyền của dân, do dân và vì dân do Đảng


13
Cộng sản lãnh đạo trên cơ sở liên minh giữa giai cấp công nhân với giai cấp
nông dân và tầng lớp trí thức; con đường đi lên CNXH ở Việt Nam hòa nhập
với quá trình phát triển của nhân loại trên tinh thần hòa bình, hợp tác và hữu
nghị; sự lãnh đạo của Đảng là nhân tố quyết định con đường phát triển của
nước ta theo đúng định hướng XHCN. Tác giả cũng chỉ ra rằng, cùng với việc
áp dụng những nguyên lý phổ biến của CNXH cần có sự nghiên cứu, tìm tòi,
vận dụng và phát triển sáng tạo những nguyên lý đó vào điều kiện cụ thể của
nước ta, không ngừng tổng kết thực tiễn và nghiên cứu lý luận để từng bước
hình dung ngày càng sáng tỏ về CNXH và con đường xây dựng CNXH ở
nước ta.
Nguyễn Văn Oánh, Về khái niệm định hướng xã hội chủ nghĩa [77]. Tác
giả đã phân tích tính phổ biến của chủ nghĩa xã hội thông qua việc làm rõ khái
niệm “định hướng xã hội chủ nghĩa” theo nghĩa rộng, tức là, sự định hướng
mục tiêu và con đường phát triển của đất nước theo quy luật khách quan được
chủ nghĩa Mác chỉ ra: loài người nhất định sẽ tiến tới chủ nghĩa xã hội và
CNCS. Theo nghĩa hẹp hơn, định hướng xã hội chủ nghĩa “là con đường phát
triển không tư bản”, đây là khái niệm được đặt ra với các “nước kinh tế lạc
hậu”, “kém phát triển”, “các nước đang phát triển” trong bối cảnh nhân loại
đang trong thời kỳ quá độ từ chủ nghĩa tư bản (CNTB) lên CNCS trên phạm vi
toàn thế giới và các nước này đã giành được chính quyền về tay nhân dân và do

đảng mácxít lêninnít lãnh đạo. Từ đó, tác giả phân tích, làm rõ cơ sở khoa học
của “định hướng xã hội chủ nghĩa”, khẳng định tính đúng đắn và niềm tin vào
sự thành công của con đường đi lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam.
Nguyễn Duy Quý, Những vấn đề lý luận về chủ nghĩa xã hội và con
đường đi lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam [85]. Trong công trình này, tác giả
phân tích quan điểm của chủ nghĩa Mác - Lênin về tính phổ biến của chủ
nghĩa xã hội thể hiện qua những đặc trưng của xã hội XHCN. Đồng thời, tác
giả cũng phân tích tính phổ biến và tính đặc thù của nhận thức về chủ nghĩa
xã hội và con đường đi lên CNXH ở Việt Nam thể hiện trong sáu đặc trưng


14
của xã hội xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam được trình bày trong Cương lĩnh xây
dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội (1991).
Trịnh Quốc Tuấn, Nguyễn Khánh Bật, Hồ Chí Minh về chủ nghĩa Mác Lênin, chủ nghĩa xã hội và con đường đi lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam [102].
Công trình bao gồm 2 nội dung lớn: Hồ Chí Minh về chủ nghĩa Mác - Lênin,
chủ nghĩa xã hội; con đường đi lên CNXH ở Việt Nam. Thông qua hai nội
dung này, các tác giả đã phân tích những quan niệm của Hồ Chí Minh về chủ
nghĩa Mác - Lênin, CNXH và con đường đi lên CNXH ở Việt Nam trên cơ sở
tập trung chọn lọc những quan điểm, tư tưởng của Người từ bộ sách Hồ Chí
Minh, toàn tập. Từ góc độ lý luận, các tác giả đã phân tích quá trình vận dụng
của Đảng ta trong việc xây dụng mô hình chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam cũng
như vận dụng những nguyên lý khoa học để hiện thực hóa mô hình đó.
Phạm Đình Đảng, Tính thống nhất và tính đa dạng của chủ nghĩa xã
hội với sự nghiệp xây dựng chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam [15]. Tác giả đã phân
tích, làm rõ lý luận mác xít về tính thống nhất và tính đa dạng của chủ nghĩa
xã hội; thực tiễn vận động và xu thế phát triển của chủ nghĩa xã hội hiện thực
trong tính thống nhất và tính đa dạng. Trên cơ sở đó, tác giả đi sâu phân tích
tính thống nhất và tính đa dạng của chủ nghĩa xã hội trong thực tiễn xây dựng
chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam, chỉ rõ định hướng xã hội chủ nghĩa là một vấn

đề hợp quy luật khách quan của sự phát triển Việt Nam. Tác giả cũng phân
tích thực trạng và những mâu thuẫn nảy sinh trong xây dựng chủ nghĩa xã hội,
đồng thời, chỉ ra những phương hướng và 3 giải pháp chủ yếu đảm bảo tính
thống nhất và tính đa dạng của chủ nghĩa xã hội trong sự nghiệp xây dựng chủ
nghĩa xã hội ở Việt Nam.
Dương Phú Hiệp, Tiến lên chủ nghĩa xã hội bỏ qua chế độ tư bản chủ
nghĩa ở Việt Nam [39]. Trong công trình này, tác giả khái quát lý luận của chủ
nghĩa Mác - Lênin về thời kỳ quá độ, đặc biệt là hình thức quá độ gián tiếp.
Trên cơ sở đó, tác giả đã đã phân tích sâu sắc tính đặc thù của con đường đi
lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam, đó là, từ một nước “nông nghiệp lạc hậu


15
tiến thẳng lên chủ nghĩa xã hội không phải kinh qua giai đoạn phát triển tư
bản chủ nghĩa”, từ đó, tác giả phân tích những nhiệm vụ quan trọng trên các
lĩnh vực kinh tế, chính trị, văn hóa, xã hội, trong đó, “nhiệm vụ quan trọng
nhất… là phải xây dựng nền tảng vật chất và kỹ thuật của chủ nghĩa xã hội”.
Nguyễn Quốc Phẩm, Đại hội X tiếp tục làm sáng tỏ con đường đi lên
chủ nghĩa xã hội ở nước ta [80]. Bài viết đã phân tích và làm rõ một số nhận
thức mới về CNXH và con đường đi lên CNXH ở nước ta qua 20 năm đổi
mới. Nhận thức này đã được Đại hội X của Đảng làm sáng tỏ với việc bổ
sung và phát triển một số đặc trưng mới về xã hội xã hội chủ nghĩa mà nhân
dân ta xây dựng so với Cương lĩnh năm 1991, đó là đặc trưng: dân giàu, nước
mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh và xây dựng Nhà nước pháp
quyền XHCN Việt Nam của nhân dân, do nhân dân, vì nhân dân dưới sự lãnh
đạo của Đảng; đồng thời, Đại hội X cũng làm rõ hơn về con đường đi lên chủ
nghĩa xã hội ở Việt Nam với 8 phương hướng cơ bản. Những đặc trưng và
phương hướng được Đại hội X nêu ra vừa thể hiện việc vận dụng những quy
luật phổ biến của chủ nghĩa xã hội vào thực tiễn đổi mới của đất nước, vừa
thể hiện đặc thù của cách mạng Việt Nam.

Nguyễn Đức Bình, Về chủ nghĩa xã hội và con đường đi lên chủ nghĩa
xã hội ở Việt Nam [8]. Tác giả đi sâu đánh giá về tình hình đất nước từ khi đổi
mới đến những năm đầu thế kỷ XXI, từ đó khẳng định mục tiêu và kiên định
con đường xây dựng chủ nghĩa xã hội. Đồng thời, tác giả chỉ rõ những
phương hướng và nội dung cơ bản của con đường đi lên chủ nghĩa xã hội ở
Việt Nam trong giai đoạn tới.
Nguyễn Trọng Phúc, Đổi mới ở Việt Nam - thực tiễn và nhận thức lý
luận [84]. Trong công trình này, tác giả đã phân tích, so sánh làm sáng tỏ một
số vấn đề về tính phổ biến và tính đặc thù của nhận thức về CNXH giai đoạn
trước và sau đổi mới. Trước đổi mới, tác giả tập trung làm rõ những nhận
thức của Đảng ta về CNXH và con đường đi lên CNXH trong điều kiện miền


16
Bắc tiến hành cách mạng XHCN và miền Nam tiếp tục cách mạng dân tộc
dân chủ nhân dân. Tác giả cũng phân tích những nhận thức về CNXH và thời
kỳ quá độ lên CNXH sau ngày đất nước thống nhất (30-4-1975), nhận thức đó
được thể hiện rõ trong đường lối chung được thông quan tại Đại hội IV của
Đảng với việc vận dụng những nguyên lý có tính phổ biến của CNXH vào
thực tiễn nước ta. Tuy nhiên, do chủ quan, nóng vội mà việc nhận thức và vận
dụng những quy luật này có những sai lầm dẫn đến khủng hoảng kinh tế - xã
hội. Tác giả đã phân tích những thành tựu nhận thức lý luận về chủ nghĩa xã
hội và con đường đi lên CNXH thời kỳ sau đổi mới, làm rõ sự đổi mới trong
tư duy chính trị; tư duy kinh tế thị trường và hội nhập quốc tế; những chặng
đường và bước đi của thời kỳ quá độ lên CNXH; vấn đề về lợi ích của nhân
dân; về công tác xây dựng Đảng…
Trịnh Quốc Tuấn, Một số vấn đề về con đường đi lên chủ nghĩa xã hội
ở nước ta [104]. Tác giả đã khái quát quan điểm của chủ nghĩa Mác - Lênin
và tư tưởng Hồ Chí Minh về CNXH và con đường đi lên CNXH. Đồng thời,
tác giả đi sâu phân tích đặc trưng của xã hội xã hội chủ nghĩa mà nhân dân ta

xây dựng được trình bày trong “Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ
quá độ lên chủ nghĩa xã hội”. Tác giả cho rằng, những đặc trưng này là mô
hình chủ nghĩa xã hội ở nước ta, bởi vì đó là một kết cấu tổng thể của xã hội
ta trong thời kỳ quá độ, dựa trên sự thống nhất cơ sở kinh tế với kiến trúc
thượng tầng và toàn bộ những quan hệ xã hội chủ yếu. Tác giả cũng phân tích
về tính phổ biến của chủ nghĩa xã hội, trong đó, “trước hết và trên hết quyền
làm chủ thuộc về nhân dân, nghĩa là toàn bộ quyền lực xã hội thuộc về nhân
dân. Đó chính là đặc trưng nổi bật nhất của chế độ xã hội chủ nghĩa”.
Đỗ Thị Thạch, Mô hình (đặc trưng) chủ nghĩa xã hội trong Cương lĩnh
xây dựng đất nước thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội (bổ sung, phát triển
năm 2011) [96]. Tác giả đã phân tích một số nhận thức mới về mô hình
CNXH trong Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ


17
nghĩa xã hội (bổ sung, phát triển năm 2011). Tác giả cho rằng, những nhận
thức mới là thành quả của công cuộc đổi mới, trước hết là thành quả của đổi
mới nhận thức lý luận về CNXH trên cơ sở vận dụng sáng tạo chủ nghĩa Mác
- Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, phù hợp với thực tế Việt Nam trong điều kiện
hiện nay. Đó cũng chính là thành quả của sự kết hợp hài hòa giữa “cái phổ
biến” và “cái đặc thù”, cái chung và cái riêng trong thời kỳ quá độ lên CNXH
ở Việt Nam.
Nguyễn Văn Huyên, Mô hình phát triển xã hội ở Việt Nam trong thời
kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội [44]. Trên cơ sở nghị quyết Đại hội XI của
Đảng, nhất là Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ
nghĩa xã hội (Bổ sung, phát triển năm 2011) tác giả đã phân tích, chỉ ra những
điểm mới trong nhận thức của Đảng về mô hình phát triển xã hội trong thời
kỳ quá độ. Tác giả chỉ rõ, chỉ có thể xây dựng được xã hội xã hội chủ nghĩa
với đầy đủ các giá trị và phẩm chất cơ bản trong hiện thực khi nó được đảm
bảo đầy đủ các thành phần, các yếu tố và các điều kiện tạo nên sức sống của

xã hội, cũng như xây dựng theo nguyên lý phát triển trên cơ sở các quy luật
vận động và phát triển của xã hội. Đó là một mô hình tổng thể với sự phát
triển của các yếu tố: kinh tế, chính trị, văn hóa, trình độ giải phóng con
người… Để thực hiện mô hình trên, tác giả phân tích sáu giải pháp cơ bản,
đồng thời nêu ra những nguyên tắc thực hiện để đưa nước ta phát triển nhanh
và bền vững.
Nguyễn Thị Ngân, Quan điểm của C.Mác về chủ nghĩa xã hội và nhận
thức của Đảng ta về con đường đi lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam [70]. Tác
giả đã làm sáng tỏ tính phổ biến của nhận thức về chủ nghĩa xã hội thông qua
việc khái quát quan điểm của chủ nghĩa Mác về chủ nghĩa xã hội. Tác giả cho
rằng, chủ nghĩa xã hội được phát triển từ CNTB và trải qua một thời kỳ quá
độ mà xét về mọi mặt của đời sống xã hội còn đan xen giữa CNTB và chủ
nghĩa xã hội. Việc chủ nghĩa xã hội phát triển kinh tế thị trường với sự đa


18
dạng hóa các loại hình sở hữu, chính là những bước trung gian và quá độ để
tiến tới một nền kinh tế của chủ nghĩa xã hội và CNCS trong hiện thực. Chủ
tịch Hồ Chí Minh và Đảng Cộng sản Việt Nam đã vận dụng sáng tạo chủ
nghĩa Mác - Lênin vào điều kiện cụ thể ở Việt Nam, đề ra đường lối đúng
đắn, hoàn thành thắng lợi cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân, tạo tiền đề vật
chất và tinh thần để Việt Nam bước vào chặng đầu của thời kỳ quá độ lên chủ
nghĩa xã hội. Con đường đi lên chủ nghĩa xã hội ngày càng được Đảng ta
nhận thức rõ hơn, từ việc xác định “bỏ qua giai đoạn phát triển tư bản chủ
nghĩa” đến “bỏ qua chế độ tư bản chủ nghĩa” và đó là bước chuyển biến quan
trọng trong nhận thức của Đảng. Thực chất “bỏ qua chế độ tư bản chủ nghĩa”
là bỏ qua việc xác lập vị trí thống trị của quan hệ sản xuất và kiến trúc thượng
tầng tư bản chủ nghĩa, đồng thời, tiếp thu những thành tựu mà nhân loại đã
đạt được dưới chế độ tư bản chủ nghĩa, đặc biệt là về khoa học công nghệ, để
phát triển nhanh lực lượng sản xuất và xây dựng nền kinh tế hiện đại.

Nguyễn Quốc Phẩm, Đỗ Thị Thạch, Nhận thức mới về chủ nghĩa xã hội
và xây dựng chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam [81]. Các tác giả trình bày cơ sở lý
luận và thực tiễn của nhận thức về chủ nghĩa xã hội và xây dựng chủ nghĩa xã
hội ở Việt Nam. Phân tích những điểm mới trong nhận thức của Đảng ta về
chủ nghĩa xã hội và xây dựng chủ nghĩa xã hội. Các tác giả chỉ rõ những vấn
đề đặt ra, dự báo những xu hướng phát triển nhận thức về chủ nghĩa xã hội và
xây dựng chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam trong những thập kỷ tới.
Hoàng Chí Bảo, Chủ nghĩa xã hội hiện thực và quá độ lên chủ nghĩa
xã hội ở Việt Nam [6]. Tác giả đã trình bày lịch sử hình thành của CNXH
hiện thực, những cách tiếp cận về chủ nghĩa xã hội, những đặc trưng của
CNXH hiện thực trong thế kỷ XX. Tác giả cũng đã chỉ ra những đặc trưng
được xác định là phổ biến, điển hình, thể hiện bản chất ưu việt của CNXH.
Tuy nhiên, tác giả cũng chỉ rõ tính giáo điều, chủ quan, duy ý chí, không
bám sát vào thực tiễn và đó là nguyên nhân dẫn đến sự trì trệ, khủng hoảng


19
của hệ thống các nước xã hội chủ nghĩa. Từ phân tích thực tiễn xây dựng
CNXH trên thế giới, tác giả đã chỉ rõ khả năng, điều kiện và những đặc điểm
của con đường quá độ lên CNXH ở Việt Nam và từ đó cho phép hiểu: “chủ
nghĩa xã hội ở Việt Nam như một cái có thể, cái cần thiết dựa trên một cái
tất yếu phổ biến trên con đường phát triển do thời đại quy định. Đây là
phương diện thứ nhất nhận thức cái đặc thù Việt Nam, đặt nó trong mối quan
hệ không tách rời và không thể tách rời với cái phổ biến của thế giới và thời
đại” [6, tr.109]. Phương diện thứ hai của cái đặc thù Việt Nam chính là
“nhận thức những đặc điểm của con đường quá độ lên chủ nghĩa xã hội bỏ
qua chế độ tư bản chủ nghĩa ở Việt Nam” [6, tr.110]. Tác giả cũng phân tích
thời kỳ quá độ và phân kỳ thời kỳ quá độ lên CNXH ở nước ta, mối quan hệ
giữa đổi mới theo định hướng xã hội chủ nghĩa với định hình chủ nghĩa xã
hội ở Việt Nam, giá trị của CNXH trong thế giới đương đại.

Trần Thành, Chủ nghĩa xã hội Việt Nam - những quan điểm lý luận cơ
bản [97]. Trong công trình này, tác giả đã làm rõ tính đặc thù của nhận thức về
chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam thông qua việc phân tích, làm rõ cơ sở kinh tế của
chủ nghĩa xã hội Việt Nam trong những thập niên đầu thế kỷ XXI với những
đặc trưng về lực lượng sản xuất, về chế độ sở hữu, chế độ phân phối và kinh tế
thị trường; phân tích kiến trúc thượng tầng chính trị với nền tảng lý luận, vai trò
của Đảng Cộng sản Việt Nam, nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa; tác giả
cũng đã phân tích những đặc trưng văn hóa với vai trò là nền tảng tinh thần của
xã hội, phân tích kết cấu xã hội giai cấp của chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam.
Lưu Ngọc Khải, Về tính phổ biến và tính đặc thù trong đổi mới chủ
nghĩa xã hội hiện nay [48]. Trong công trình này, tác giả đã đi sâu phân tích
làm rõ lý luận về tính phổ biến và tính đặc thù của chủ nghĩa xã hội trong thời
kỳ đổi mới. Về bản chất của mối quan hệ giữa tính phổ biến và tính đặc thù,
tác giả cho rằng, đó là: “sự phản ánh khách quan mối liên hệ giữa đặc trưng
chung của chủ nghĩa xã hội với những mô hình xã hội xã hội chủ nghĩa cụ thể


20
vốn rất đa dạng, phong phú” [48]. Cụ thể, về nội dung tính phổ biến của chủ
nghĩa xã hội, đó là: “cái chung nhất, cái đặc trưng bản chất về chủ nghĩa xã
hội; tính phổ biến của chủ nghĩa xã hội hiện thực biểu hiện tập trung ở bản
chất, đặc trưng và mục tiêu của nó” [48], còn về tính đặc thù, đó là: “phản ánh
cái riêng, đặc trưng cụ thể được vận dụng ở các quốc gia, dân tộc sau khi giai
cấp công nhân giành được chính quyền và lãnh đạo tiến hành cách mạng xã
hội chủ nghĩa trên cơ sở vận dụng những quy luật chung” [48]. Việc giải
quyết đúng đắn mối quan hệ giữa tính phổ biến và tính đặc thù của chủ nghĩa
xã hội có liên quan trực tiếp đến vận mệnh, tương lai của chủ nghĩa xã hội
trong đổi mới, cải cách. Từ sự phân tích đó, tác giả đã nêu ra một số vấn đề cơ
bản đối với công cuộc xây dựng chủ nghĩa xã hội ở nước ta hiện nay.
Nguyễn Hữu Đổng, Phạm Thế Lực, Tính phổ biến và đặc thù của con

đường đi lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam [32]. Các tác giả đã chỉ ra một số
vấn đề lý luận về tính phổ biến và tính đặc thù: Khái niệm, nội dung về tính
phổ biến và tính đặc thù; các nguyên lý, quan điểm cơ bản có giá trị bền vững
của các nhà kinh điển Mác - Lênin về con đường đi lên CNXH, luận điểm
sáng tạo của Hồ Chí Minh về CNXH và con đường đi lên CNXH. Trên cơ sở
lý luận đó, các tác giả phân tích nội dung chủ yếu của sự vận dụng và phát
triển các nguyên lý của chủ nghĩa Mác - Lênin trong xây dựng CNXH ở Việt
Nam, một số thành tựu, hạn chế và bài học kinh nghiệm rút ra. Đồng thời, các
tác giả cũng nêu ra một số phương hướng và giải pháp tiếp tục vận dụng tính
phổ biến và tính đặc thù trong xây dựng CNXH ở Việt Nam những thập niên
đầu thế kỷ XXI.
Tạ Ngọc Tấn, Chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam - những vấn đề lý luận từ
công cuộc đổi mới [95]. Trong công trình này, các tác giả đã khái quát những
thành tựu nghiên cứu và phát triển lý luận của Đảng Cộng sản Việt Nam qua
30 năm đổi mới. Các tác giả đã phân tích cơ sở lý luận và thực tiễn của quá
trình hình thành, phát triển lý luận về chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam trong thời


×