Tải bản đầy đủ (.doc) (17 trang)

TIỂU LUẬN TRIẾT học NHỮNG tư TƯỞNG cơ bản về vật CHẤT và ý THỨC TRONG tác PHẨM CHỐNG DUY RINH của ENGGHEN

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (137.09 KB, 17 trang )

Những tư tưởng cơ bản về vật chất và ý thức
trong tác phẩm “Chống Đuyrinh”
“Chống Đuyrinh” là một tác phẩm được Ph.Ăngghen viết theo kiểu
luận chiến, nhằm chống lại hệ tư tưởng phản động của Đuyrinh- hệ tư tưởng
sản, qua đó vừa để bảo vệ chủ nghĩa Mác, vừa nêu lên nhiều tư tưởng mới có
giá trị to lớn về nhiều mặt; làm cơ sở lý luận khoa học cho phong trào đấu
tranh vì dân chủ, công bằng xã hội cũng như trong đời sống tinh thần của xã
hội lúc đó. Đặc biệt tác phẩm này không chỉ bổ sung, phát triển góp phần
hoàn thiện ba bộ phận cấu thành chủ nghĩa Mác, mà còn làm rõ mối quan hệ
hữu cơ giữa triết học với khoa học nhất là khoa học tự nhiên. Có thể nói, đây
là một trong những công trình vĩ đại nhất của Ph.ăngghen (trong đó cũng có
công lao rất lớn của C.Mác “vì thế giới quan trình bày trong cuốn sách này
một phần hết sức quan trọng là do Mác đặt cơ sở và phát triển, còn tôi
(Ph.Ăngghen) chỉ tham dự vào đó một phần hết sức nhỏ” 1 ); là bộ bách khoa
toàn thư của chủ nghĩa Mác, là sách gối đầu giường của những người công
nhân giác ngộ; “một cuốn sách có nội dung đặc biệt phong phú và bổ ích” 2 vì
đã “phân tích những vấn đề quan trọng nhất của triết học, của khoa học tự
nhiên và khoa học xã hội”3.
Tác phẩm “chống Đuyrinh” được Ph.Ăngghen viết từ tháng chín năm
1876 đến tháng sáu năm 1878 vớ sự cổ vũ của C.Mác, và sau khi viết xong
bản thảo Ph.ăngghen đưa cho C.Mác xem để góp ý trước khi in, C.Mác đã
viết thêm chương thứ mười trong phần kinh tế chính trị học. Như vậy, tác
phẩm được ra đời từ nửa sau thế kỷ XIX, khi chủ nghĩa tư bản đã phát triển
thành một hệ thóng rộng lớn, trải khắp từ châu Âu sang Bắc Mỹ. Thời kỳ này
chủ nghĩa tư bản tự do cạnh tranh đã và đang chuyển sang chủ nghĩa tư bản
. C.Mác và Ph.ăngghen toàn tập, tập 20, Nxb CTQG, H. 1994, tr. 20.
. V.I.Lênin Toàn tập, tập 2, Nxb Mátcơva 1978, tr.11.
3
. V.I.Lênin Toàn tập, tập 2, Nxb Mátcơva 1978, tr.11.
1
2




độc quyền, nhiều cường quốc thế giới ra đời; bằng sức mạnh của nội tại, sự
thay đổi trong cơ cấu lực lượng sản xuất và các quan hệ xã hội, cùng với việc
xâm chiếm thực dân đã làm cho các nước tư bản chủ nghĩa ngày càng phát
triển mạnh. Phong trào công nhân đang trở thành một lực lượng có vị trí vai
trò đặc biệt quan trọng trên thế giới, họ đã biết lấy chủ nghĩa Mác làm lý luận
nền tảng, quá trình nhận thức lại về nội dung của chủ nghĩa Mác đang được
diễn ra tích cực, trong đó có cả những vấn đề về thế giới quan, phương pháp
luận, nhất là phương pháp đấu tranh cách mạng. Các học thuyết xét lại
(Revisionism) và cơ hội (Opportunism) sau công xã Pari bắt đầu đưa ra những
giải thích mới về chủ nghĩa Mác, nhưng thực chất là xa rời các luận điểm cơ
bản của chủ nghĩa Mác, chúng chủ trương dung hoà với trật tự xã hội hiện tại,
hoặc tìm kiếm một cương lĩnh chính trị mới dựa trên sự thoả hiệp giai cấp
nhân danh tiến bộ xã hội và văn minh. Trong khi đó, chủ nghĩa cộng sản ngày
càng được đông đảo quần chúng nhân dân, giai cấp công nhân tin tưởng, đi
theo đang bị các kẻ thù tư tưởng tấn công mạnh mẽ, gây hoang mang về lập
trường tư tưởng.
Nước Đức vào cuối thế kỷ XVIII, đầu thế kỷ XIX vẫn còn trong tình
trạng cát cứ, giai cấp tư sản Đức yếu kém về lực lượng, yếu hèn về chính trị,
không hoàn thành được sứ mệnh lịch sử của mình, vì vậy nước Đức đang đặt
ra yêu cầu của một cuộc cách mạng tư sản kiểu mới. Tổ chức đảng dân chủ xã
hội Đức bị bọn cơ hội xét lại chi phối, lũng đoạn. Nhiều tư tưởng lý luận sai
trái, phản động xuất hiện chống lại lý luận mác xít, trong đó phải kể đến
Đuyrinh – giáo sư cơ học – giáo sư kinh tế và là nhà triết học Đức, ông ta đã
công khai chống lại chủ nghĩa Mác cả về lý luận và thực tiễn. Tình hình đó đã
được Ph.ăngghen ví “ở Đức, những hệ thống nghiên cứu nguồn gốc của vũ
trụ, hệ thống triết học tự nhiên nói chung, hệ thống chính trị học, hệ thống
kinh tế chính trị học, v.v., mọc ra như nấm sau một trận mưa” 4, ngay cả “một
. C.Mác và Ph.ăngghen toàn tập, tập 20, Nxb CTQG, H. 1994, tr. 16-17.


4


vị tiến sĩ triết học xoàng nhất, thậm chí cả một sinh viên, cũng bắt tay vào
việc sáng tạo ra một “hệ thống” hoàn chỉnh chứ không kém hơn” 5. Năm
1875 Đuyrinh đã tăng cường truyền bá trên quy mô nguy hiểm và đăng
nhiều sách có tư tưởng phản động, như: Lịch sử phê phán khoa kinh tế chính
trị, Bài giảng về lịch sử triết học…, ông ta đưa ra tư tưởng cải cách chủ
nghĩa xã hội mới, nhưng thực chất là chống lại đảng dân chủ xã hội đức, mà
như Ph.ăngghen nói là chống lại “thời đại ông”. Một số báo chí xã hội chủ
nghĩa đã hoan nghênh một cách nhiệt thành Đuyrinh- môn đồ mới, thậm chí
có những người đã chuẩn bị truyền bá tư tưởng của Đuyrinh vào trong công
nhân, dưới một hình thức phổ cập. Trong bối cảnh ấy, những người dân chủ
Đức đề nghị Ph.ăngghen lên tiếng vạch trần bộ mặt phản động của Đuyrinh,
bảo vệ đảng dân chủ xã hội còn non trẻ, ông viết: “Cách đây ba năm, khi
ông Đuyrinh, lấy tư cách là môn đồ và đồng thời là nhà cải cách chủ nghĩa
xã hội, đột nhiên khiêu chiến với thời đại ông, thì những người bạn của tôi ở
Đức đã nhiều lần yêu cầu tôi giải thích phê phán trên cơ quan trung ương
của Đảng dân chủ – xã hội, bấy giờ là tờ “Volksstaat” – cái lý luận xã hội
chủ nghĩa mới đó. Những người bạn ấy cho rằng việc đó là tuyệt đối cần
thiết để không cho cái đảng còn non trẻ và chỉ vừa mới thống nhất hẳn đó có
cơ hội mới dẫn tới sự chia rẽ bè phái và rối loạn” 6.
Trước tình hình đó, Ph.ăngghen phải tạm gác lại công việc khác
(nghiên cứu trong lĩnh vực khoa học tự nhiên) của mình để viết tác phẩm này,
chống lại những kẻ phản động xuyên tạc lý luận mác xít, mà trong đó chủ yếu
là Đuyrinh. Đây vốn đã là một công việc không dễ dàng gì, mà hơn thế nữa
Đuyrinh lại không phải là con người đơn giản, bình thường, ông ta là một
người “có bộ óc bách khoa”, nên công việc của Ph.ăngghen càng khó khăn
hơn rất nhiều. Vì vậy, Ph.ăngghen đã ví nó như một quả vừa chua, vừa to, rất

. SĐD, tr. 17.
. SĐD, tr.15.

5
6


khó nuốt, nhưng khi đã xác định quyết tâm ăn quả chua ấy thì phải ăn cho kỳ
hết. Ông viết: “Tuy vậy, cũng phải mất đến một năm tôi mới có thể dứt khoát
hoãn các công việc khác lại để ngoạm vào cái quả chua ấy. Thật vậy, đây là
cái quả mà một khi đã ngoạm vào thì buộc phải nuốt cho kỳ hết. Hơn nữa , nó
không những rất chua mà lại còn rất to” 7. Với tư cách là một tác phẩm bút
chiến, nên quá trình đấu tranh, luận chiến phải luôn bám sát tư tưởng, quan
điểm của đối phương, trên cơ sở đó vạch ra tính chất sai trái, phản động của
nó, đồng thời làm nổi bật quan điểm của mình. mà một trong những nguyên
tắc để đấu tranh trên mặt trận tư tưởng, lý luận giành thắng lợi là phải đấu
tranh toàn diện, kiên quyết, mềm dẻo, linh hoạt, ngòi bút phải sắc xảo, ngôn
từ phải “đắt”, câu văn phải chặt chẽ, mang tính chiến đấu cao. Nếu tư tưởng
của đối phương mang tính hệ thống thì toàn bộ nội dung được nêu ra để luận
chiến cũng phải có tính hệ thống cao, thậm chí còn phải cao hơn tính hệ thống
của đối phương; nếu phạm vi tư tưởng của đối phương rộng lớn, bao trùm
nhiều lĩnh vực, thì nội dung tư tưởng đấu tranh được nêu ra cũng phải rộng
lớn như vậy; trong tình hình âý chỉ có C.Mác và Ph.ăngghen đảm nhiệm được
yêu cầu sứ mệnh lịch sử đó. Do vậy, trong tác phẩm này Ph.ăngghen đã đấu
tranh quyết liệt với những tư tưởng phản động mang tính hệ thống, và bao
trùm nhiều lĩnh vực của Đuyrinh, đồng thời ông đã lấy đó làm cơ sở, điểm
xuất phát cho quá trình luận chiến của mình. Ông viết: “Hệ thống của ông
Đuyrinh được phê phán trong quyển sách này bao trùm một lĩnh vực lý luận
rất rộng; tôi buộc phải dõi theo ông khắp nơi và đem những quan điểm của tôi
ra đối lập lại những quan điểm của ông ta. Vì vậy, sự phê phán tiêu cực đã trở

thành tích cực; cuộc bút chiến chuyển thành một sự trình bày ít nhiều có hệ
thống về phương pháp biện chứng và thế giới quan cộng sản chủ nghĩa mà

. SĐD, tr. 16.

7


Mác và tôi đã đại biểu, - và trình bày như thế trên một loạt khá nhiều lĩnh
vực”8.
“Chống Đuyrinh” là một công trình tổng thể, gồm lời mở đầu và ba
phần chính (triết học, kinh tế chính trị học và chủ nghĩa cộng sản khoa học)
nhưng không dàn trải, mà tập trung vào những vấn đề cốt lõi, trong đó có các
vâns đề được giải quyết một phần, như vấn đề cơ bản của triết học, các vấn đề
về phép biện chứng, lý luận nhận thức, chủ nghĩa duy vật lịch sử. Được dịch
sang tiếng Việt, in trong C.Mác và Ph.ăngghen toàn tập, tập 20, năm 1994, từ
trang 7 đến trang 450.
Trong tác phẩm này tư tưởng về vấn đề vật chất và ý thức được
Ph.ăngghen trình bày rất sâu sắc, có nhiều phát triển mới, đã trở thành thế giới
quan khoa học cho giai cấp công nhân cũng như các lực lượng tiến bộ trong
xã hội. Trước hết, Ph.ăngghen khẳng định óc người là sản phẩm của giới tự
nhiên, là một dạng vật chất đặc biệt, đồng thời cũng chính là “nơi” sáng tạo ra
ý thức của con người. Ông viết: “ Nếu người ta đặt câu hỏi rằng tư duy và ý
thức là gì, chúng từ đâu đến, thì người ta sẽ thấy rằng chúng là sản vật của
giới tự nhiên, một sản vật đã phát triển trong một môi trường nhất định và
cùng với môi trường đó. Vì vậy, lẽ tự nhiên là những sản vật của bộ óc người,
- quy đến cùng, cũng là những sản vật của giới tự nhiên, - không mâu thuẫn
mà lại còn phù hợp với mối liên hệ còn lại của giới tự nhiên” 9. Sự phát triển
của các khoa học đã ngày càng tìm ra nhiều cơ sở chứng minh cho tính đúng
đắn về tư tưởng này của Ph.ăngghen, đến ngày nay chúng ta càng thấy rõ hơn

quá trình phát triển lâu dài của con người trong giới tự nhiên, chỉ có óc người
với một kiểu tổ chức đặc thù có khoảng 15 nghìn tỷ tế bào nơron thần kinh
mới có đủ khả năng sáng tạo ra ý thức. Trải qua quá trình hoạt động thực tiễn
của con người (nhất là lao động và ngôn ngữ), cùng với những điều kiện hoàn
. SĐD, tr. 20.
. SĐD, tr. 55.

8
9


cảnh khách quan (môi trường) đã làm cho loài vượn người thoát thai khỏi loài
vượn, tiến hoá thành con người với bộ óc người ngày càng phát triển. Đây
chính là cơ sở để khoa học ngày nay đi sâu vào nghiên cứu, khám phá cấu tạo,
quá trình hoạt động, khả năng sáng tạo của óc người với tư cách nó là một
dạng vật chất đặc biệt, có tổ chức cao nhất trong thế giới vật chất. Nói đến óc
người là sản vật của giới tự nhiên trong một môi trường nhất định,
Ph.ăngghen muốn nói với chúng ta rằng không phải cứ có óc người là có ý
thức, càng không phải trong bất kỳ môi trường nào, điều kiện nào cũng có thể
sáng tạo ra ý thức, mà để có ý thức, sản vật của quá trình tiến hóa lâu dài của
giới tự nhiên ấy luôn phải gắn với môi trường cụ thể và điều kiện nhất định.
Khoa học đã làm nhiều thí nghiệm, cho con người sống ở các điều kiện, môi
trường khác nhau, kết quả cho thấy chỉ có trong giao tiếp với xã hội con
người mới có thể phát triển bình thường, với bộ óc phát triển bình thường và
tất nhiên mới có ý thức.
Cũng qua tư tưởng này của Ph.ăngghen, ta nhận thấy vật chất là cái có
trước, quyết định sự ra đời, tồn tại và phát triển của ý thức, còn ý thức chẳng
qua chỉ là sản phẩm của một dạng vật chất đặc biệt có tổ chức cao nhất là óc
người, nó là sự phản ánh khác hẳn về chất so với sự phản ánh của tất cả các
dạng vật chất khác trong thế giới vật chất. (cụ thể sự phản ánh đó như thế nào

sẽ được nghiên cứu ở các tác phẩm khác của C.Mác, Ph.ăngghen và Lênin).
Ph.ăngghen đã phê phán Đuyrinh khi ông ta cho rằng “những nguyên lý”
được “rút ra từ tư duy”, chứ không phải từ giới tự nhiên, từ thế giới bên ngoài
ý thức con người; dĩ nhiên nếu như thế thì giới tự nhiên phải phù hợp với
những nguyên lý ấy, như thế tức là sự tồn tại và phát triển của giới tự nhiên
hoàn toàn phụ thuộc vào ý thức của con người; điều này là không thể như vậy
được, vì ngay cả khoa học và thực tiễn thời kỳ đó cũng như ngày nay đã minh
chứng rõ ràng rằng con người là sản phẩm của quá trình tiến hóa lâu dài của


giới tự nhiên, con người được sinh ra, tồn tại và phát triển trong giới tự nhiên
chứ không phải giới tự nhiên do con người sinh ra, càng không phải do một
lực lượng siêu nhiên nào sinh ra, mà bản thân giới tự nhiên cũng là kết quả
của quá trình vận động, biến đổi và phát triển lâu dài từ vô cơ đến hữu cơ, từ
đơn bào đến đa bào, từ chưa có sự sống đến có sự sống, là kết quả của sự vận
động
biến đổi không ngừng của các sự vật hiện tượng trong thế giới vật chất; nhận
thức (tư duy) của con người về thế giới không phải được rút ra một cách chủ
quan từ bộ óc người mà phải là từ chính thế giới hiện thực đang tồn tại một
cách khách quan. Ph.ăngghen đã phê phán sai lầm nguy hiểm củâ Đuyrinh,
ông viết: “Như vậy là ông Đuyrinh nói lên những nguyên lý rút ra từ tư duy,
chứ không phải từ thế giới bên ngoài, đến những nguyên lý hình thức phải
được ứng dụng vào giới tự nhiên và loài người, do đó, giới tự nhiên và loài
người phải phù hợp với chúng”10. Như vậy, theo Ph.ăngghen, Đuyrinh đang
đóng vai “người chào hàng” cho học thuyết ý niệm của Hêghen, đồng thời
vay mượn ở Cantơ quan niệm “chủ quan tính tiên thiên”. Lập luận của
Đuyrinh ở đây hàm chứa lời giải đáp cho vấn đề mối quan hệ giữa vật chất và
ý thức, tồn tại và tư duy, cái gì có trước, là khởi điểm, cái gì có sau, mang tính
chất phái sinh. Ph.ăngghen khẳng định rõ “ở đây chỉ nói đến những hình thức
của tồn tại, về các hình thức của thế giới bên ngoài, và tư duy không bao giờ

có thể lấy và rút ra được hình thức ấy từ bản thân nó, mà chỉ từ thế giới bên
ngoài. Như thế là toàn bộ mối quan hệ hoá ra bị đảo ngược: các nguyên lý
không phải là điểm xuất phát của sự nghiên cứu mà là kết quả cuối cùng của
nó; những nguyên lý ấy không phải được ứng dụng vào giới tự nhiên và vào
lịch sử loài người; không phải là giới tự nhiên và loài người phải phù hợp với
các nguyên lý, mà trái lại các nguyên lý chỉ đúng trong chừng mực chúng phù
10

. SĐD, tr. 54.


hợp với giới tự nhiên và lịch sử”11. Vậy là Đuyrinh đã hoàn toàn đặt lộn
ngược mối quan hệ hiện thực (tư duy và tồn tại, nói cách khác là vật chất và ý
thức), cho rằng “cấu tạo thế giới hiện thực từ tư duy, từ những đồ thức, từ
những phương án hay những phạm trù tồn tại vĩnh cửu ở đâu đó trước khi có
thế giới”12 giống như ở tư tưởng duy tâm về giới tự nhiên của nhà triết học cổ
điển Đức – Hêghen. Với tư tưởng ấy của Đuyrinh, ông ta đã bị rơi vào một hệ
tư tưởng làm cho bản thân ông trở thành “kẻ hậu sinh” của triết học Hêghen
không thể cứu vãn được và theo Ph.ăngghen, nếu nhà triết học nào có “tư
tưởng như vậy thì không thể lập ra được bất kỳ một học thuyết duy vật nào” 13,
dĩ nhiên gặp những lúc, những vấn đề không thể giải quyết được họ sẽ tìm
cách gán ngay cho một lực lượng siêu nhiên nào đó như thượng đế, ý niệm
hay ý nịêm tuyệt đối. Các thành tựu khoa học và thực tiễn lịch sử hàng nghìn
năm đã cho thấy, nguyên lý bao giờ cũng là cái có sau so với thực tiễn, là kết
quả của quá trình nghiên cứu thế giới, chúng không “cắm” vào giới tự nhiên,
vào lịch sử, mà chúng được trừu tượng hoá từ giới tự nhiên và lịch sử ấy;
không phải giới tự nhiên và lịch sử tuân thủ theo những nguyên lý mà ngược
lại, các nguyên lý chỉ xác thực một khi chúng phù hợp với giới tự nhiên và
lịch sử. Nếu các nguyên lý được khái quát ra ấy mang tính khoa học đúng
đắn, nó sẽ có vai trò quan trọng trong sự phát triển tiếp theo và cao hơn của

quá trình nhận thức, của tri thức nhân loại. Những nguyên lý, quy luật phải
được rút ra từ giới tự nhiên, không phải là từ bên ngoài (ý niệm tuyệt đối hay
từ một lực lượng siêu nhiên) nào, mà cũng không phải từ cảm giác chủ quan
của con người, sau đó đem áp đặt vào giới tự nhiên. Nói cách khác, tư duy (ý
thức) của con người chẳng qua chỉ là cái phản ánh thế giới vật chất, thế giới
vật chất ấy vốn nó như thế nào, vận động biến đổi theo quy luật gì…đều tác
động vào con người cơ bản như thế ấy, khả năng của con người là nhận thức
. SĐD, tr. 54.
. SĐD, tr. 54.
13
. SĐD, tr. 56.
11
12


những quy luật ấy, vận dụng nó để sáng tạo ra phương pháp luận chỉ đạo hoạt
động thực tiễn ngày càng đạt kết qủa cao hơn, phục vụ tốt hơn cho đời sống
xã hội. Ph.ăngghen viết: “Sau cùng, đối với tôi, vấn đề là ở chỗ không thể đưa
những quy luật biện chứng từ bên ngoài vào trong giới tự nhiên, mà là phất
hiện ra chúng trong giới tự nhiên và rút chúng ra từ giới tự nhiên” 14. Mỗi loại
nguyên lý có những vị trí, vai trò không giống nhau; riêng các nguyên lý
mang tính thế giới quan của triết học, như nguyên lý về mối liên hệ phổ biến,
về sự phát triển, quan niệm về tính chất vật chất của thế giới và sự thống nhất
của nó, về tính có sau của ý thức, tính vận động vĩnh viễn của vật chất, các
quy luật của phép biện chứng…luôn có ý nghĩa phương pháp luận, nhận thức
luận nhất là trong hoạt động khoa học rất to lớn. Các nguyên lý này như kim
chỉ nam cho quá trình nhận thức, tạo nên các yếu tố làm cơ sở của phương
pháp luận khoa học chung, để từ đó giúp con người nâng cao nhận thức và đạt
hiệu quả cao trong cải tạo thế giới, chứ không phải giá trị của các nguyên lý
ấy ở chỗ, kiến thức cụ thể về thực tiễn được rút ra một cách tư biện từ chúng

(kiến thức- tư duy), hoặc là các luận điểm cụ thể được chứng minh nhờ sự
giúp đỡ của tư duy tư biện đó. Tóm lại, quan điểm của Ph.ăngghen về óc
người – dạng vật chất đặc biệt có trình độ phản ánh cao nhất – ý thức, là một
quan điểm đúng đắn, có cơ sở khoa học và thực tiễn; có giá trị to lớn cho sự
phát triển tiếp theo của các ngành khoa học, cũng như trong đời sống tinh
thần, tư tưởng của xã hội.
Trong thời kỳ này tuy C.Mác và Ph.ăngghen chưa nêu ra định nghĩa
hoàn chỉnh về vật chất, nhưng cả hai ông đều thống nhất quan điểm về tính
thống nhất của thế giới vật chất, các ông cho rằng chỉ có một thế giới duy
nhất là thế giới vật chất, thế giới thống nhất ở tính vật chất. Tư tưởng này đã
thể hiện lập trường duy vật triệt để của các ông và được Ph.ăngghen khẳng
định rõ ràng, dứt khoát và nhất quán trong tác phẩm, “tính thống nhất thực sự
14

. SĐD, tr. 25.


của thế giới là ở tính vật chất của nó, và tính vật chất này được chứng minh
không phải bằng vài ba lời lẽ khéo léo của kẻ làm trò ảo thuật, mà bằng một
sự phát triển lâu dài và khó khăn của triết học và khoa học tự nhiên”15. Tính
thống nhất của thế giới gồm có cả các đặc tính của nó, như tính chất duy nhất
và tính toàn vẹn. Nếu xem xét tính thống nhất của thế giới mà chỉ thấy tính
toàn vẹn (trong thế giới mọi cái đều liên hệ lẫn nhau), thì quả là sai lầm không
thể chấp nhận được, nhất là đối với các nhà duy vật biện chứng. Theo cách
lập luận của Ph.ăngghen, tính thống nhất của thế giới còn phải được hiểu như
tính chất duy nhất của nó, có nghĩa là trong thế giới không có gì khác ngoài
vật chất và những biểu hiện của vật chất. Tất cả các sự vật hiện tượng, quá
trình đều là các thành tố khác nhau của vật chất đang vận động không ngừng
trong không gian và thời gian. Không thể có thế giới “bên kia” hay thế giới
“thiên cầu” nào, lực lượng siêu nhiên nào. Tất cả các hiện tượng trong thế

giới đều có thể được giải thích bằng các nguyên nhân tự nhiên, thông qua
thành tựu của các ngành khoa học. Có người cho rằng có sự cùng tồn tại của
hai thế giới, đó là thế giới vật chất và thế giới ý thức. Không thể hiểu như vậy
được, vì ý thức chẳng qua chỉ là sản phẩm của một dạng vật chất đặc biệt, có
tổ chức cao, đó là bộ óc con người, là một phạm trù chỉ sự phản ánh mang
tính tích cực, chủ động và sáng tạo của một dạng vật chất đặc biệt có một
không hai trong thế giới vật chất. Sự ra đời, tồn tại và phát triển của ý thức
hoàn toàn do vật chất quyết định và vai trò của ý thức trong thế giới vật chất
đó luôn phụ thuộc một cách tuyệt đối vào hoạt động thực tiễn của con người.
Nói đến tính thống nhất của thế giới vật chất Ph.ăngghen cho rằng cần
phải chú ý đến tính tồn tại của thế giới vật chất ấy, vì theo ông trước khi có sự
thống nhất ấy thì bản thân thế giới vật chất đó phải tồn tại đã, nếu bất kỳ một
sự vật hiện tượng nào mà không tồn tại thì chẳng có gì mà nói cả. Ông viết:
“Tính thống nhất của thế giới không phải ở sự tồn tại của nó, mặc dù tồn tại là
15

. SĐD, tr. 67.


tiền đề của tính thống nhất của nó, vì trước khi thế giới có thể là một thể
thống nhất thì trước hết thế giới phải tồn tại đã” 16. Như vậy, tính thống nhất
và tính tồn tại là hai thuộc tính khác nhau của thế giới vật chất, nhưng giữa
chúng có mối quan hệ mật thiết với nhau, thuộc tính tồn tại là cơ sở, tiền đề
để cho thế giới vật chất có sự thống nhất. “Tồn tại nói chung là một vấn đề
còn bỏ ngỏ”17, vì thế có thể tồn tại hai quan niệm đối lập nhau về tồn tại, và sự
trình bày lấp lửng trong cách lý giải về tồn tại nói chung chẳng qua là nhằm
né tránh nguyên tắc nhận thức tính thống nhất của thế giới, cơ sở của tính
thống nhất ấy. Trong quan điểm của nhà triết học Hy Lạp cổ đại Đêmôcrit,
bản nguyên của thế giới là nguyên tử (atomos), nói cách khác, theo Đêmôcrit
tính thống nhất của thế giới là ở các nguyên tử. Nguyên tử được các nhà triết

học trước Mác hiểu là vật chất, là cái sự vật ban đầu sinh ra mọi cái khác, mà
các ông chưa hiểu được nguyên tử chỉ là một dạng vật chất – một vật thể
trong thế giới vật chất. Vì vậy, đến khi khoa học phát triển cao hơn, họ đã
nhận thấy nguyên tử không phải là phần tử nhỏ nhất, không thể phân chia
được thì các nhà triết học trước Mác đã bị khủng hoảng về mặt thế giới quan,
sự lý giải về thế giới vật chất bị đi vào con đường bế tắc. Nhưng dù sao sự
cống hiến to lớn này của Đêmôcrit cũng là những nét chấm phá quan trọng
trong quá trình sáng tạo ra quan điểm về tính thống nhất, về thuộc tính tồn tại
của thế giới vật chất trong tư tưởng của hai nhà bác học vĩ đại kiêm chiến sĩ
của giai cấp vô sản thế giới.
Bàn về tính thống nhất vật chất và thuộc tính tồn tại của thế giới, những
nhà triết học theo trường phái duy tâm khách quan cho rằng, bản nguyên của
thế giới là ý niệm (Platon), là ý niệm tuyệt đối (Hêghen). Nếu quan niệm như
thế, thế giới vật chất không thể thống nhất ở tính vật chất, điều này hoàn toàn
trái ngược với các luận điểm của các khoa học kể cả thời kỳ C.Mác,
. SĐD, tr. 67.
. SĐD, tr. 67.

16
17


Ph.ăngghen cũng như khoa học ngày nay. Và như vậy, sự tồn tại của thế giới
phụ thuộc vào tinh thần, tư tưởng, ý niệm hay cái ý niệm tuyệt đối ấy, điều
này càng hết sức vô lý. Còn Đuyrinh, ông ta chủ trương đi theo “con đường
thứ ba”, con đường của nhà thực chứng, vượt qua cả chủ nghĩa duy vật lẫn
chủ nghĩa duy tâm và đưa ra tuyên bố “Tồn tại bao trùm tất cả là duy nhất”.
Ông ta tự nhận mình là nhà duy vật thực sự, nhưng lại quả quyết về vai trò
chế định và sáng tạo của tư duy trong sự đồng nhất tư duy – tồn tại, mặc dù
ngôn từ của ông ta hầu như né tránh trong quá trình diễn đạt tư tưởng của ông.

Ph.ăngghen đã vạch rõ sự lấp lửng, lập lờ đó của Đuyrinh: “Khi chúng ta nói
đến tồn tại thôi thì tính thống nhất chỉ có thể bao hàm ở chỗ: tất cả những đối
tượng mà chúng ta nói đến, đều có, đều tồn tại. Chúng được tư duy tập hợp lại
trong thể thống nhất của tồn tại ấy, chứ không phải trong thể thống nhất nào
khác”18.
Trong tác phẩm, Ph.ăngghen cũng đề cập đến sự vận động của vật chất.
Vận động của vật chất bao hàm mọi quá trình, mọi sự thay đổi diến ra trong
vũ trụ, đó là sự vận động và biến đổi nói chung. Không có vật chất không vận
động, cũng như không có sự vận động nào mà lại không gắn với vật chất, “bất
kỳ ở đâu và bất cứ lúc nào cũng không có và không thể có vật chất mà không
có vận động”19. Khoa học và thực tiễn cũng đã chứng minh sự vận động, biến
đổi, chuyển hoá không ngừng của các sự vật hiện tượng trong thế giới vật
chất, chúng có thể tồn tại ở dạng này hoặc dạng khác, có thể ở chỗ này hoặc
chỗ khác, có những sự vận động có thể ta quan sát được bằng mắt thường,
cũng có những dạng vận động chúng ta không thể nhìn thấy bằng mắt thường,
mà phải thông qua các phương tiện, thiết bị khoa học, tư duy trừu tượng mới
thấy được. Ph.ăngghen viết: “Vật chất không có vận động, cũng như vận động

18

. SĐD, tr. 66.

19

. SĐD, tr.89.


không có vật chất, đều là không thể hình dung nổi” 20. Khoa học càng phát
triển thì càng giúp cho con người nhận thức đúng đắn, sâu sắc về thế giới vật
chất, càng thấy rõ hơn thế giới vật chất luôn vận động biến đổi, mọi sự vật

hiện tượng luôn tồn tại và phát triển trong sự vận động không ngừng, trong
mối liên hệ phổ biến và tuân theo các quy luật khách quan vốn có của thế giới
vật chất. Điều này càng có ý nghĩa to lớn cho cả các nhà kinh nghiệm chủ
nghĩa, họ không thể giữ mãi ý kiến “cũ” của mình khi khoa học đã phát triển
đến một trình độ nhất định và đã được triết học khái quát thành lý luận.
Ph.ăngghen viết: “Tuy nhiên, cũng có thể là tiến bộ của khoa học tự nhiên lý
thuyết sẽ làm cho đại bộ phận hoặc toàn bộ công trình của tôi trở thành thừa,
bởi vì chỉ một sự cần thiết phải sắp xếp lại những phát hiện thuần tuý có tính
chất kinh nghiệm, đã tích luỹ lại rất nhiều, cũng buộc phải đưa đến một cuộc
cách mạng trong khoa học tự nhiên lý thuyết, khiến cho nhà kinh nghiệm chủ
nghĩa ngoan cố nhất phải ngày càng nhận thức được tính chất biện chứng của
các quá trình tự nhiên”21.
Vận động không chỉ đơn thuần là gắn liền với vật chất, mà “vận động
còn là phương thức tồn tại của vật chất” 22. Như vậy, nếu vật chất mà không có
vận động thì nó không thể tồn tại được, hơn nữa con người muốn nhận thức
được các sự vật hiện tượng thì càng phải thông qua vận động của nó, vì như
Ph.ăngghen nói sự vật mà đứng im thì chúng ta chẳng có gì mà nói cả. Nhờ
vào quá trình tác động qua lại lẫn nhau, sự đấu tranh giải quyết mâu thuẫn của
các sự vật hiện tượng đã tạo ra sự vận động biến đổi không ngừng, dẫn đến
quá trình tích luỹ dần dần về lượng, tạo ra sự chuyển hoá, nhảy vọt về chất
một cách liên tục của chúng làm cho chúng tồn tại và phát triển trong thế giới
vật chất. Vận động là thuộc tính cố hữu, là cái vốn có của vật chất, nó không
do ai sinh ra và cũng không thể có lực lượng nào tiêu diệt được, “vận động
. SĐD, tr. 89.
. SĐD, tr. 25 – 26.
22
. SĐD, tr. 89.
20
21



cũng không thể tạo ra dược va cũng không thể tiêu diệt được như bản thân vật
chất”23. Trong khi trình bày tư tưởng về vận động, Ph.ăngghen đã dùng
phương pháp đối lập để làm toát lên tư tưởng của mình. Ông đã dùng phạm
trù đứng im – phạm trù đối lập với vận động để làm nổi bật tư tưởng vận động
là tuyệt đối, còn đứng im chỉ là tương đối, sau này ông nhấn mạnh thực chất
đứng im chính là sự vận động trong thăng bằng. “Theo quan điểm biện chứng,
khả năng biểu hiện vận động bằng cái đối lập với nó, tức thể tĩnh, hoàn toàn
không phải là một điều gì khó khăn cả. Theo quan điểm biện chứng, tất cả sự
đối lập ấy, như chúng ta đã thấy đều chỉ là tương đối; không có thể tĩnh tuyệt
đối, không có sự thăng bằng vô đuiêù kiện. Vận động riêng biệt thì có xu
hướng thăng bằng, song vận động toàn thể thì lại loại trừ sự thăng bằng. Cho
nên thể tĩnh và thế thăng bằng ở nơi nào chúng diễn ra thì đều là kết quả của
một vận động có hạn nào đó, và hiển nhiên là vận động ấy có thể do được
bằng kết qủa của nó, có thể biẻu hiện ra bằng kết quả của nó và đi từ két quả
ấy có thể được phục hồi lại nó dưới hình thức này hay hình thức khác” 24. Ông
còn khẳng định: “Cái sự thật là vận động được đo bằng cái đối lập với nó, tức
là thể đứng im, tất nhiên là một vấn đề hóc búa, một liều thuốc đắng đối với
nhà siêu hình học của chúng ta” 25. Các nhà siêu hình học chủ yếu chỉ nhìn
thấy sự vận động của thế giới vật chất một cách dơn thuần, thường chỉ thấy
hình thức vận động này mà không thấy đồng thời cũng đang diễn ra các hình
thức vận động khác. Trong tác phẩm, Ph.ăngghen đã phân tích sâu sắc các
hình thức vận động của vật chất, vận động cơ học, vận động vật lý, vận động
hoá học, vận động sinh học và vận động xã hội. Tất cả các hình thức vận động
đó không phải tách rời nhau, mà liên hệ, chuyển hóa lẫn nhau, trong không
gian và thời gian. “Vận dọng trong không gian vũ trụ, vận động cơ học của
những khối nhỏ tren mỗi thiên thể riêng biệt, dao động phân tử, dưới hình
. SĐD, tr. 89.
. SĐD, tr. 93.
25

. SĐD, tr. 92.
23
24


thức nhiệt, hay dưới hình thức dòng điện hoặc dòng từ, phân giải hoá học và
hoá hợp hoá học, đời sống hữu cơ - đó là những hình thức vận động mà mỗi
nguyên tử vật chất riêng biệt trong vũ trụ, trong mỗi lúc nhất định, dều nằm
dưới một hình thức vận động hay dưới nhiều hình thức vận động cùng một
lúc”26. Từ đó, nguyên lý mà chúng ta rút ra biểu hiện thế giới quan duy vật
triệt để là: Thế giới không có gì ngoài vật chất đang vận động, và vật chất
đang vận động trong không gian và thời gian. Ông viết tiếp: “Việc quy vận
động chỉ đơn thuần thành lực cơ giới còn có cái lợi là người ta có thể hình
dung được một lực là tĩnh, là bị ràng buộc, tức là trong một thời điểm nhất
định, nó không hoạt động”27. Ph.ăngghen đã kịch liệt lên án và loại bỏ tư
tưởng về “cái hích ban đầu” của thượng đế, mà theo ông, sự vận động ấy phải
nằm ngay trong chính bản thân sự vật hiện tượng. Ông viết: “Cái tuyệt đối
không có sự biến đổi nào, hơn nữa, lại ở trong trạng thái ấy từ ngàn xưa, thì
dù sao cũng không thể tự nó thoát ra khỏi trạng thái ấy đươcụ để chuyển sang
trạng thái vận động và biến đổi. Như vậy, là phải có một cái hích đầu tiên từ
bên ngoài, từ ngoài thế giới vào, làm cho nó vận động. Nhưng ai cũng biết
rằng “cái hích đầu tiên” chỉ là một cách nói khác để chỉ thượng đế mà thôi”28.
Vật chất tồn tại và vận động chỉ có thể là trong không gian và thời gian,
nói rằng vật chất tồn tại hay đang vận động ở ngoài thời gian cũng vô lý như
ngoài không gian vậy. Không gian và thời gian luôn gắn liền với vật chất, là
phương thức tồn tại của vật chất. Đó phải là không gian và thời gian hiện
thực, chứ không phải là cái đơn thuần của tư duy, “vấn đề ở đây không phải là
khái niệm về thời gian mà là thời gian hiện thực mà ông Đuyrinh quyết không
thể dứt bỏ được dễ dàng như vậy” 29.


. SĐD, tr. 89.
. SĐD, tr. 90.
28
. SĐD, tr. 78.
29
. SĐD, tr. 78.
26
27


Tư tưởng về vấn đề vật chất và ý thức trong tác phẩm “Chống
Đuyrinh” của Ph.ăngghen là cơ sở khoa học cho chúng ta nghiên cứu, xem xét
và cải tạo thế giới. Đây cũng chính là một trong những nội dung trong vấn đề
cơ bản của triết học. Do đó, nó có gí trị thế giới quan, phương pháp luận rát
lớn cho hoạt động thực tiễn của con người nói chung, của các ngành khoa học
nói riêng.
Ngày nay các ngành khoa học đều dựa trên cơ sở quan điểm của chủ
nghĩa Mác-Lênin về thế giới, về mối quan hệ giữa vật chất và ý thức để đi sâu
vào khám phá, chinh phục thế giới vĩ mô cũng như thế giới vi mô. Ngành
khoa học vũ trụ đang tiến những bước xa hơn, dài hơn để tìm hiểu sự sống
ngoài trái đất, các ngành khoa học cũng đang tìm ra những mối liên hệ giữa
con người với giới tự nhiên, tìm ra nhiều điều còn bí ẩn mà từ xưa đến nay
con người chưa giải thích được. Thậm chí, hiện nay đứng trước những vấn đề
mới nảy sinh như việc “giao tiếp” với người âm, tìm mồ mả, có khả năng biết
trước điều gì sẽ xảy ra.v.v. Nếu không dựa vào sự khái quát của triết học, rất
dễ bị sa vào lập trường duy tâm, thần bí, tôn giáo và rồi sẽ dẫn đến bế tắc.
Tóm lại, “Chống Đuyrinh” là một trong những tác phẩm vĩ đại của
Ph.ăngghen đồng thời cũng là của C.Mác. Mặc dù tác phẩm đã được viết cách
đây 128 năm, nhưng những vấn đề được bàn đến trong nội dung tác phẩm đều
có gí trị to lớn. Tuy nhiên một số nhận định căn cứ vào trình độ khoa học và

nhận thức lúc đó, đén nay không còn phù hợp nữa, một số nhận định cần được
bổ sung và hoàn chỉnh thêm. Thái độ khách quan, khoa học trong việc xem
xét các sự vật hiện tượng, trong viẹc đánh gia quá khứ và dự báo tương lai đã
làm cho tác phẩm trở thành điển hình của tinh thần luận chiến khoa học, bảo
vệ và phát triển các giá trị chủ nghĩa Mác trong điều kiện phức tạp của đời
sống xã hội. Tư tưởng ấy, phong cách ấy cần được tiếp tục trong bối cảnh thế
giới hiẹn nay.




×