Tải bản đầy đủ (.doc) (28 trang)

TIỂU LUẬN TRIẾT học TÍNH tất yếu xây DỰNG NHÀ nước PHÁP QUYỀN xã hội CHỦ NGHĨA ở VIỆT NAM HIỆN NAY

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (234.23 KB, 28 trang )

TÍNH TẤT YẾU XÂY DỰNG NHÀ NƯỚC PHÁP QUYỀN XÃ HỘI
CHỦ NGHĨA CỦA DÂN, DO DÂN, VÌ DÂN Ở NƯỚC TA HIỆN NAY

Đ

ối với nước ta, việc xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa
của dân, do dân, vì dân trong điều kiện xây dựng và vận hành cơ chế

thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa là nhiệm vụ mới mẻ, hiểu biết của
chúng ta còn ít, có nhiều việc vừa làm, vừa tìm tòi, rút kinh nghiệm. Do vậy,
nhiệm vụ xây dựng nhà nước pháp quyền trong điều kiện lịch sử cụ thể ở
nước ta, đòi hỏi phải tiến hành nghiên cứu cơ bản về lý luận; tổng kết kinh
nghiệm thực tiễn hơn 50 năm xây dựng nhà nước, nhằm xác định đúng đắn,
mục tiêu và các giải pháp cải cách có hiệu quả mô hình tổ chức và hoạt động
của nhà nước ta hiện nay.
Tại Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ IX của Đảng cộng sản Việt Nam
đã xác định: “Xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa dưới sự
lãnh đạo của Đảng”.1 Việc xác định mục tiêu xây dựng nhà nước pháp
quyền xã hội chủ nghĩa trong báo cáo chính trị của Đại hội IX không chỉ
khẳng định quyết tâm chính trị của Đảng ta trong việc đẩy mạnh cải cách tổ
chức và hoạt động của nhà nước, phát huy dân chủ, tăng cường pháp chế xã
hội chủ nghĩa, mà còn đánh dấu một giai đoạn phát triển mới của sự nghiệp
xây dựng nhà nước kiểu mới-nhà nước của dân, do dân, vì dân.
Khi Đảng ta xác định xây dựng nhà nước pháp quyền của dân, do dân,
vì dân, đã được nghiên cứu một cách có hệ thống về học thuyết nhà nước
pháp quyền tiến bộ trong lịch sử tư tưởng chính trị của nhân loại. Nhưng
trong quá trình xây dựng và hoàn thiện Nhà nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa
Việt Nam có nghiên cứu tiếp thu và phê phán, chọn lọc những giá trị về tư
tưởng và kinh nghiệm xây dựng nhà nước pháp quyền đã được thử thách qua
quá trình phát triển lâu dài của lịch sử nhân loại. Nhà nước pháp quyền
Đảng Cộng sản Việt Nam, Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ IX, Nxb CTQG, H, 2001,


tr.131
1

1


không phải là một kiểu nhà nước riêng biệt. Trong lịch sử chỉ có 4 kiểu nhà
nước: nhà nước chủ nô, nhà nước phong kiến, nhà nước tư sản và nhà nước
xã hội chủ nghĩa, không có kiểu nhà nước pháp quyền. Học thuyết nhà nước
pháp quyền là hệ thống các quan điểm tư tưởng và kinh nghiệm thực tiễn đề
cao pháp luật trong đời sống xã hội. các quan điểm, tư tưởng này ra đời rất
sớm và ngày càng được hoàn thiện. đứng trước tình hình hiện nay việc xây
dựng nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa của dân, do dân, vì dân là một
đòi hỏi tất yếu.
I.Tính tất yếu xây dựng nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa của
dân, do dân, vì dân ở nước ta hiện nay
Mục tiêu xây dựng nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa được xác
định tại đại hội Đảng lần thứ IX đã tiếp tục được khẳng định tại nghị quyết
của Quốc khoá IX về việc sửa đổi bổ sung một số điều của hiến pháp nước
cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam năm 1992. Để làm rõ quan điểm này
Đảng ta dựa trên cơ sở lý luân và thực tiễn của nó.
1.1. Cơ sở lý luận về xây dựng nhà nước pháp quyền xã hội chủ
nghĩa của dân, do dân, vì dân
* Tư tưởng về nhà nước pháp quyền trong lịch sử
- Những mầm mống tư tưởng đầu tiên về nhà nước pháp quyền đã xuất
hiện từ thời cổ đại. Từ thế kỷ IX-VI trước công nguyên, các nhà tư tưởng
Hy Lạp và La mã cổ đại đã tìm kiếm những nguyên tắc, hình thức, những cơ
chế trong mối quan hệ tương hỗ giữa pháp luật với tổ chức và hoạt động của
quyền lực nhà nước. Điển hình là những nhà tư tưởng sau:
Xô-crat (469-399 TCN) là một nhà triết học truyền khẩu nổi tiếng. Ông

cho rằng, công lý ở trong sự tuân thủ pháp luật hiện hành; sự công minh và
sự hợp pháp đều là một; nếu không tuân thủ pháp luật thì cũng không thể có

2


nhà nước và trật tự pháp luật; công dân của nhà nước nào tuân thủ pháp luật
thì nhà nước đó sẽ vững mạnh.
Pla-Ton (427-374 TCN) là một trong những nhà tư tưởng vĩ đại nhất
thời cổ, Ông là tác giả nhiều công trình khoa học, đã để lại nhiều tư tưởng về
nhà nước pháp quyền có giá trị: quan niệm của ông, hoạt động xét xử là để
bảo vệ pháp luật, nhà nước sẽ ngừng tồn tại nếu như trong nhà nước ấy tòa
án không được tổ chức một cách thỏa đáng.
A-ri-xtôt (384-322 TCN). Ông đã tiếp tục phát triển và làm sâu sắc thêm
các quan điểm chính trị pháp lý của Pla-tôn. A-ri-xtôt- cho rằng yếu tố cấu
thành cơ bản của phẩm chất chính trị trong các đạo luật là sự phù hợp của
tính đúng đắn về chính trị của nó với tính pháp quyền. Ông lên án việc cầm
quyền không tuân thủ pháp luật, những mưu toan thống trị bằng bảo lực.
Những tư tưởng về nhà nước pháp quyền trên của các nhà tư tưởng thời
cổ đại đều có nguồn gốc sâu xa từ sự mơ ước của con người về chiến thắng
của công lý đối với bạo lực, của chính nghĩa đối với gian tà, của cái thiện đối
với cái ác; từ thực trạng đời sống xã hội lúc bấy giờ là vua có toàn quyền,
không chịu trách nhiệm pháp lý với ai cả.
- Các nhà tư tưởng trung và cận đại đã tiếp thu những tư tưởng về nhà
nước pháp quyền thời cổ đại, phát triển nó trong thời kỳ quá độ từ chế độ phong
kiến sang chế độ tư bản, với thế giới quan của những tầng lớp và giai cấp đang
lên, nhằm phản ánh và tấn công vào chế độ phong kiến lỗi thời và lạc hậu,
nhằm thiết lập lên một chế độ nhà nước dân chủ theo quan điểm của giai cấp tư
sản. Tiêu biểu trong thời kỳ này có Jôn-lốc-cơ; Sác-Lơ-lui Mông-te-xki-ơ, Can
tơ; Hê-ghen .v.v.

Jôn-lốc-cơ(1632-1704) là nhà tư tưởng người Anh. Theo ông, các quyền
của con người là tự nhiên và không bị tước đoạt; nhà nước được lập lên là để
bảo vệ các quyền của con người, bảo vệ và không được xâm phạm đến pháp

3


luật. Từ đó ông lập luận sự cần thiết phải đề cao pháp luật. Ông cho rằng: ở
đâu không có pháp luật thì ở đó không có tự do, vì pháp luật là công cụ cơ bản
quyết định việc giữ gìn và mở rộng tự do cá nhân, bảo đảm cho cá nhân tránh
khỏi sự tùy tiện và độc đoán của người khác; mối nguy hiểm chính của sự tùy
tiện và xâm phạm từ phí quyền lực nhà nước đối với các quyền tự do của con
người là bắt nguồn từ đặc quyền của người cầm quyền; việc điều hành nhà
nước phải dựa trên các đạo luật do nhân dân tuyên bố và hiểu rõ về nó; chủ
quyền của nhân dân tối cao hơn, quan trọng hơn chủ quyền của nhà nước do
họ lập ra. Do đó, nhà cầm quyền không được thi hành chính sách chuyên chế
và độc tài đối với nhân dân của mình.
Sác-Lơ-lui Mông-te-xki-ơ(1698-1755) là nhà luật pháp người Pháp nổi
tiếng. Ông cho rằng sự tồn tại của chế độ chuyên chế dựa vào việc làm cho
con người khiếp sợ. Đó chính là nhà nước của sự độc đoán và tùy tiện. Trong
nhà nước đó không có pháp luật; hoặc nếu có pháp luật thì cũng không được
tuân thủ trong thực tế, bởi không có những quy định bảo vệ pháp luật. Từ đó,
ông lập luận sự cần thiết phải có pháp luật và tuân thủ nghiêm chỉnh theo
pháp luật, sự cần thiết phải phân chia quyền lực nhà nước thành ba nhánh:
lập pháp, hành pháp và tư pháp. Theo ông, nếu quyền lập pháp, hành pháp và
tư pháp nằm trong tay một người hay một cơ quan thì con người sẽ không có
tự do. Còn nếu như quyền tư pháp hợp nhất với quyền hành pháp thì tòa án
sẽ trở thành kẻ đàn áp và tất cả sẽ bị hỷ diệt. Như thế, nhân tố hợp lý trong
học thuyết của Mông-te-xki-ơ ở chỗ, ông đã đề cập lý thuyết về sự phân
công quyền lực nhà nước bắt nguồn từ bản chất dân chủ và nhân đạo.

Can-tơ (1724-1804) là nhà triết học nổi tiếng người Đức. Dựa trên hệ
thống triết học của mình Can-tơ cho rằng: lý trí thực tế hay lý trí tự do của
mỗi người chính là nguồn gốc của các đạo luật có tính pháp quyền và hợp
đạo đức, pháp luật là để bảo đảm các quan hệ văn minh giữa con người. Nhà
nước đó là sự hợp nhất của nhiều người biết phục tùng các đạo luật có tính

4


pháp quyền nhằm bảo vệ trật tự pháp luật và được xây dựng trên nguyên tắc
toàn bộ hoạt động của mình phải dựa trên pháp luật, nếu không sẽ bị mất tín
nhiệm của các công dân-những người cấu thành nó.
Tư tưởng về nhà nước pháp quyền mà trong đó pháp luật giữ địa vị tối
cao trong đời sống nhà nước và các lĩnh vực hoạt động xã hội. Pháp luật đó
phải bắt nguồn từ ý chí của nhân dân, phải được nhà nước và mọi người tôn
trọng. Tư tưởng về nhà nước pháp quyền mà trong đó con người là giá trị
cao quý, nhà nước bảo đảm cho con người quyền tự do cơ bản, sự an toàn
pháp lý.
* Tư tưởng của C.Mác, Ph.Ăngghen, V.I.Lênin bàn về nhà nước
pháp quyền xã hội chủ nghĩa
Trong tư tưởng của C. Mác, Ph.Ăngghen, V.I Lênin, khái niệm nhà
nước pháp quyền chưa được sử dụng. Nhưng những tư tưởng cốt lõi của nhà
nước pháp quyền thì đã được đề cập sâu sắc theo quan điểm khoa học và
cách mạng: đó là một nhà nước kiểu mới hợp hiến, hợp pháp; một hệ thống
pháp luật dân chủ triệt để phát chế nghiêm minh theo hướng giải phóng con
người. Nói cách khác trong khi đặt vấn đề xây dựng một xã hội mới, một nhà
nước kiểu mới C. Mác, Ph.Ăngghen, V.I Lênin đã kế thừa phát triển tư
tưởng nhà nước pháp quyền trong điều kiện mới. Các ông đã sử dụng những
tính nguyên tắc về nhà nước pháp quyền của các nhà tư tưởng trước đó, đặc
biệt là những tư tưởng dân chủ, tư tưởng cộng hoà và cách mạng để hình

thành, phát triển những quan điểm của mình. Đó là tư tưởng của Rut-xô,
Mông-te-xki-ơ, những quan niệm của Can tơ, Hêghen về nhà nước và xã hội
công dân của Xanh Ximông, của các nhà tư tưởng Pháp thời phục hưng, cận
đại…
Trước hết, từ tiêu chí “đề cao dân chủ, pháp luật và tính nhân văn của
pháp luật” như là những giá trị cơ bản của nhà nước pháp quyền, C. Mác,

5


Ph.Ăngghen đã nêu những tư tưởng sâu sắc về nhà nước pháp quyền trong các
tác phẩm “gia đình thần thánh”, “sự khốn cùng của triết học”, “Phê phán triết
học pháp quyền của Hêghen”, và đặc biệt trong tác phẩm “Tuyên ngôn của
Đảng cộng sản”. C. Mác, Ph.Ăngghen đã đặt vấn đề xây dựng một xã hội mới,
một xã hội mà trong đó “tự do của mỗi người là điều kiện phát triển tự do của
tất cả mọi người”2. Và giải phóng con người là mục tiêu của nhà nước pháp
quyền kiểu mới; đó là một nhà nước tổ chức được đời sống chung của nhân
dân, trong đó bảo đảm được sự phát triển tối đa và phát triển “toàn diện con
người” .
Về mặt nhà nước C.Mác chủ trương xây dựng một chế độ dân chủ triệt
để, dân chủ là do nhân dân tự quy định, là bước chuyển từ xã hội thần dân
sang xã hội công dân, là từ “nhân dân của nhà nước” sang “ Nhà nước của
nhân dân”. Dân chủ là xuất phát từ con người và pháp luật cũng vì con
người. Trong xã hội mới sẽ tạo ra điều kiện cơ bản để giải phóng các cá
nhân; “bởi lẽ xã hội sẽ không thể giải phóng cho mình được, nếu không giải
phóng một cá nhân riêng biệt”. Do vậy, xã hội phải được xây dựng trên cơ sở
pháp luật.
Trong tác phẩm phê phán “ Cương lĩnh gôta” C. Mác chỉ ra rằng:
Việc duy trì pháp luật xã hội chủ nghĩa là điều cần thiết, vì rằng, pháp luật
ở đây đóng vai trò quan trọng trong sự tổ chức những quan hệ xã hội mới.

Pháp luật ở khía cạnh này, không chỉ là một công cụ trừng trị, trấn áp và
cưỡng bức. Mặc dù đôi khi nó đóng vai trò đó. Cái chính ở đây là vai trò
tổ chức các quá trình kinh tế trong xã hội nhằm bảo đảm cho sự thắng lợi
của chủ nghĩa xã hội và xã hội cộng sản chủ nghĩa.
Những tư tưởng cơ bản của C. Mác, Ph.Ăngghen đã được V.I Lênin tiếp
thu và phát triển trong quá trình xây dựng một nhà nước kiểu mới, trong đó xác
định rõ mục đích của chính quyền Xô Viết là thu hút những người lao động
2

C. Mác, Ph. Ph.Ăngghen, Toàn tập, Tập 4, Nxb, CTQG, H. 1995, Tr 628

6


tham gia vào quản lý nhà nước, thực hiện một nền dân chủ rộng rãi nhằm giải
phóng con người và phát triển toàn diện con người trong xã hội mới. Người cho
rằng không có chế độ dân chủ thì chủ nghĩa xã hội sẽ không thực hiện được
theo 2 nghĩa sau đây:
Thứ nhất, giai cấp vô sản không thể hoàn thành được cuộc cách mạng
xã hội chủ nghĩa, nếu họ không được chuẩn bị cho cuộc cách mạng đó thông
qua cuộc đấu tranh cho chế độ dân chủ.
Thứ hai, Chủ nghĩa xã hội chiến thắng sẽ không giữ được thắng lợi của
mình và sẽ không dẫn được nhân loại đi đến thủ tiêu nhà nước, nếu không
thực hiện đầy đủ chế độ dân chủ.
Về mặt nhà nước, từ chỗ xác định “mục đích của chính quyền Xô Viết
là sự tham gia của những người lao động vào chính quyền và việc thu hút
được mọi người lao động tham gia vào quản lý là một trong những ưu thế
quyết định của nền dân chủ xã hội chủ nghĩa” V.I Lênin đã xác lập hàng loạt
quan điểm về xây dựng nhà nước kiểu mới, “Nhà nước không còn nguyên
nghĩa”, “Nhà nước nữa nhà nước”, “Nhà nước quá độ” để rồi chuyển dần tới

một chế độ tự quản. Muốn vậy, trước mắt phải thực hiện chế độ dân chủ theo
các hướng cơ bản.
Quyền bầu cử được thực hiện ngay sau cách mạng tháng Mười Nga
thành công và dần dần được mở rộng. Bầu cử theo nguyên tắc “ Phổ thông
bình đẳng, trực tiếp, bỏ phiếu kín” là nguyên tắc tiến bộ nhất của nền dân
chủ hiện đại. Qua đó, những người lao động tự lựa chọn được người xứng
đáng thay mặt mình giải quyết và quản lý công việc của nhà nước và xã hội.
Quyền tham gia quản lý nhà nước của những người lao động. Theo V.I
Lênin, những người lao động phải “thay nhau” tham gia vào tổ chức nhà
nước và quản lý nhà nước. Theo đó mỗi lần bầu cử nhất thiết phải đổi mới
thành phần đại biểu để có thêm nhiều đại biểu mới. Người còn coi đây là một

7


trường học, một phương thức đào tạo các bộ quản lý để họ có kinh nghiệm,
có điều kiện tham gia quản lý nhà nước. Qua đó ngày càng có nhiều người
trưởng thành, thật sự trở thành cán bộ quản lý nhà nước kiểu mới.
Quyền bãi miễn là quyền có ý nghĩa quan trọng trong việc thực hiện
chế độ dân chủ. Lênin nhấn mạnh: mọi cơ quan được bầu ra… đều có thể
coi là có tính chất dân chủ chân chính và đại biểu thực sự cho ý chí của
nhân dân, khi nào quyền bãi miễn của cử tri đối với những người trúng cử
được thừa nhận và áp dụng… từ chối không chịu áp dụng quyền bãi miễn,
trì hoãn thi hành quyền đó, hạn chế nó, thì như thế tức là phản lại dân chủ
và hoàn toàn từ bỏ nguyên tắc chủ yếu và nhiệm vụ của cuộc cách mạng
xã hội chủ nghĩa đã bắt đầu ở nước Nga.
Về mặt pháp luật. V.I Lênin khẳng định rõ vai trò của pháp luật về pháp
chế trong quản lý xã hội mới, coi đó là một trong những điều kiện cơ bản để
xây dựng thành công chủ nghĩa xã hội, nhà nước xã hội chủ nghĩa phải “căn
cứ vào luật lệ của mình là điều kiện cần và đủ cho chủ nghĩa xã hội thắng lợi

triệt để”. Đặc biệt khi chuyển sang chính sách kinh tế mới (NEP), Người
nhấn mạnh những hình thức quan hệ mới được xác lập trong quá trình cách
mạng và trên cơ sở của chính sách kinh tế do chính quyền thực hiện, phải
được thể hiện trong pháp luật mà được bảo vệ về mặt tư pháp. Có thể nói ở
đây Lênin là người đã sáng tạo ra khái niệm pháp chế xã hội chủ nghĩa và là
người trực tiếp chỉ đạo xây dựng tổ chức viện kiểm sát nhân dân nhằm bảo
đảm pháp chế nghiêm minh và thống nhất.
*Tư tưởng về xây dựng nhà nước pháp quyền của Chủ Tịch Hồ Chí
Minh
Trong toàn bộ di sản tư tưởng của Chủ tịch Hồ Chí Minh để lại cho dân
tộc-tư tưởng về nhà nước dân chủ - có ý nghĩa đặc biệt quan trọng cả về lý
luận và thực tiễn sâu sắc, quyết định đối với quá trình thay đổi địa vị của

8


nhân dân Việt Nam từ người nô lệ lên địa vị làm chủ xã hội, làm chủ nhà
nước.
Ngay từ khi ra đi tìm đường cứu nước Chủ tịch Hồ Chí Minh đã mong
muốn cho nước ta hoàn toàn được độc lập, dân ta được hoàn toàn tự do, đồng
bào ta ai cũng có cơm ăn, áo mặc, ai cũng được học hành. Để thực hiện được
ước nguyện ấy, Bác Hồ đã ra nước ngoài, đặt chân đến rất nhiều nước,
nghiên cứu các cuộc cách mạng diễn ra ở Mỹ, Pháp, Nga… đọc các tác phẩm
của các nhà tư tưởng lớn, đặc biệt là các tác phẩm của C.Mác, V.I. Lênin.
Cuối cùng Người đi đến kết luận: “Trong thế giới bây giờ chỉ có cách mệnh
Nga là đã thành công và thành công đến nơi, nghĩa là dân chúng hưởng được
cái hạnh phúc, tự do, bình đẳng thật, không phải tự do bình đẳng giả dối như
đến quốc chủ nghĩa Pháp khoe khoang bên An Nam” 3. Từ kết luận đó, Người
đã xác định cách mạng Việt Nam phải đi theo con đường cách mạng vô sản,
Cách mạng tháng Mười Nga năm 1917, kiểu nhà nước theo Chủ nghĩa MácLênin, phù hợp với đặc điểm Việt Nam, tức là lật đổ chính quyền thực dân,

phong kiến, lập nên nhà nước dân tộc độc lập, dân chủ công hòa.
Tư tưởng về nhà nước kiểu mới của Hồ Chí Minh được hình thành và
phát triển qua một loạt tác phẩm của Người như: “Yêu sách của nhân dân An
Nam” (1919), “Đông Dương và Triều Tiên” (1921), “Lời phát biểu tại đại
hội Tua” (1920), “Bản án chế độ thực dân Pháp” (1925)… Thông qua các tác
phẩm đó người phê phán chế độ thực dân Pháp nói riêng và bóc trần bản chất
của nhà nước thực dân phong kiến đã bóc lột tận xương tủy dân tộc Việt
Nam; đồng thời suy nghĩ về xây dựng một chế độ xã hội mới, nhà nước mới
của dân.
Sau cách mạng tháng Tám thành công, chính quyền về tay nhân dân, tư
tưởng của Nguyễn Ái Quốc về xây dựng một nhà nước mới ở Việt Nam đã
thành hiện thực. Tuyên ngôn độc lập ngày 2 tháng 9 năm 1945 và Hiến pháp
3

.Hồ Chí Minh, Toàn tập, t.2, Nxb chính trị quốc gia. H. 1995, tr.280.

9


1946 đã thể hiện tập trung tư tưởng của Chủ tịch Hồ Chí Minh về nhà nước độc
lập, tự chủ, công hòa, chủ quyền quốc gia dân tộc-nhà nước thực sự của dân, do
dân, vì dân.
Nhà nước của dân, do dân, vì dân trong tư tưởng của Hồ Chí Minh là
nhà nước do nhân dân tổ chức ra thông qua phổ thông đầu phiếu; là nhà nước
trong đó nhân dân là người có quyền tổ chức quản lý đất nước, kiểm soát
hoạt động của nhà nước; là nhà nước phụ thuộc nhân dân, đem lại lợi ích cho
nhân dân; là nhà nước cần, kiệm, liêm, chính, tin dân và được dân tin, dân
mến.
Tư tưởng của Bác còn tập trung đề cao vai trò pháp luật trong quản lý
nhà nước, quản lý xã hội. Ngay từ năm 1919, trong bản yêu sách của nhân

dân An Nam gửi những người đứng dầu các nước thắng trận họp Hội nghị
Véc-Xây, Nguyễn ái Quốc đã đề cập đến những vấn đề liên quan đến pháp
quyền như:
Điều 1: Tổng ân xá tất cả những người bản xứ bị tù chính trị phạm.
Điều 2: Cải cách nền pháp lý ở Đông Dương bằng cách cho người bản
xứ cũng được quyền hưởng những đảm bảo về mặt pháp luật như người Âu
châu; xóa bỏ hoàn toàn các tòa án đặc biệt làm công cụ khủng bố và áp bức
bộ phận trung thực nhất trong nhân dân An Nam.
Điều 7: Thay chế độ ra sắc lệnh bằng chế độ ra các đạo luật. Để dễ phổ
biến và tuyên tuyền rộng rãi cho người Việt Nam, Người đã chuyển bản yêu
sách thành “Việt Nam yêu cầu ca” trong đó có câu:
“Bảy xin Hiến pháp ban hành.
Trăm điều phải có thần linh pháp quyền” 4
Trong những lời nêu trên đã chứng minh là Người đã chú ý rất sớm
đến pháp luật, đến công lý, đến quyền con người. tư tưởng “trăm điều
4

Hồ Chí Minh, Toàn tập, T.1, Nxb Chính trị quốc gia. H. 1995, tr.438

10


phải có thần linh pháp quyền” là một tư tưởng rất đặc sắc của Hồ Chí
Minh, chứng tỏ Người đã nhận rõ tầm quan trọng tối thượng của nhà nước
quản lý xã hội bằng pháp luật, nhưng phải là pháp luật của dân chủ. Khi
bàn đến bản chất pháp luật của nhà nước ta, Chủ tịch Hồ Chí Minh xác
định nó là ý chí của giai cấp công nhân và của dân tộc, nó bảo vệ quyền
lợi cho hàng triệu người lao động. Người nói: “Pháp luật của ta là pháp
luật thật sự dân chủ vì nó bảo vệ quyền tự do dân chủ rộng rãi cho nhân
dân lao động”5. Vì vậy, Người nói rõ quan điểm của mình có cơ sở tư

tưởng để định ra pháp luật là phải dựa hẳn vào lực lượng nhân dân, lực
lượng lao động làm nền tảng để xây dựng nhà nước, xây dựng xã hội. Ở
chủ tịch Hồ Chí Minh cũng thể hiện rất rõ tư tưởng về xây dựng một nhà
nước hợp pháp, hợp hiến, Người đã hoạt động không mệt mỏi để thành lập
một nhà nước như vậy. Chủ trương “thành lập chính quyền cách mạng” ở
các căn cứ địa, khu giải phóng cách mạng tháng Tám; việc triệu tập Đại
hội quốc dân Tân Trào cử ra “ủy ban dân tộc giải phóng” đầu tháng Tám
năm 1945, Bản Tuyên ngôn độc lập tuyên bố sự ra đời của nước Việt Nam
dân chủ cộng hòa.. đã chứng minh tư tưởng xuyên suốt của Hồ Chí Minh
về xây dựng một nhà nước hợp pháp, hợp hiến.
Trong tư tưởng của Người, một nhà nước mạnh, có trật tự kỷ cương
phải được tạo ra nhiều yếu tố, trong đó phải quản lý xã hội bằng pháp luật
với kết hợp giáo dục đạo đức, nâng cao giác ngộ cho nhân dân. Không quản
lý bằng pháp luận, dẫn đến sơ hở, cán bộ dễ nảy sinh lạm dụng quyền lực, vi
phạm quyền dân chủ của người khác, của cộng đồng và của xã hội, dẫn đến
hỗn loạn vô chính phủ. Khi xây dựng các đạo luật, Hồ Chí Minh lấy điểm
xuất phát từ ý nguyện và lợi ích của nhân dân. Người cho rằng công lý ở nơi
dân, vì dân sẽ tạo ra công lý xã hội, “quyền hành và lực lượng đều ở nơi
dân”6
Hồ Chí Minh, Toàn tập, T.2, Nxb Chính trị quốc gia. H. 1995, tr.280.
. Hồ Chí Minh, Toàn tập, T.5, Nxb CTQG. H. 1995, tr.698.

5
6

11


Việc định ra pháp luật là rất quan trọng, song vấn đề là luật pháp ấy
phải được toàn xã hội thi hành nghiêm túc, đã là pháp luật của xã hội thì

không từ một ai, dù người đó có làm đến chức to đến đâu hoặc người đó làm
một công dân bình thường thì cũng đều phải thực hiện pháp luật một cách
nghiêm túc “Thẳng tay trừng trị kẻ bất liêm, bất kỳ kẻ ấy ở địa vị nào, làm
nghề gì”. Điều đặc sắc trong tư tưởng của Hồ Chí Minh là Người đã kết hợp
nhuần nhuyễn giữa “pháp trị” và “Đức trị” để làm cho quần chúng nhân dân
thấy được điều hay, lẽ phải đền thực hiện nghĩa vụ với dân, với nước, tránh
đi những điều xấu có hại cho dân, cho nước, đồng thời động viên được nhân
dân tham gia nhiều vào việc quản lý, điều hành nhà nước.
*Tư tưởng về xây dựng nhà nước pháp quyền của Đảng ta
Ngay từ ngày đầu Đảng công sản Việt Nam ra đời, trong cương lĩnh của
mình đã khẳng định phải có pháp luật để bảo hộ lợi ích của dân cày. Sau Cách
mạng tháng Tám năm 1945, nhà nước kiểu mới ra đời, mặc dù đất nước mới
trải qua cuộc chiến tranh chống thực dân pháp, sau này chống đến quốc Mỹ,
nhưng trong các Nghị quyết của mình, Đảng ta đều coi trọng xây dựng chính
quyền nhân dân và tăng cường pháp chế xã hội chủ nghĩa. Đặc biệt từ khi tiến
hành công cuộc đổi mới, Đảng ta không ngừng đổi mới tư duy, từng bước
hình thành tư duy mới về xây dựng nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa ở
Việt Nam, nhà nước thật sự của dân, do dân, vì dân theo tư tưởng của Chủ
tịch Hồ Chí Minh.
Ngay từ Đại hội VI, Đảng ta có bước tiếp cận tư tưởng về nhà nước
pháp quyền với tinh thần đổi mới, cải cách. Đảng ta khẳng định: quản lý đất
nước bằng pháp luật chứ không bằng đạo lý, phải thực hiện cuộc cải cách lớn
về tổ chức bộ máy của các cơ quan nhà nước để khắc phục sự cồng kềnh,
quan liêu, bệnh hình thức giấy tờ, tổ chức thực hiện kém hiệu quả.

12


Đại hội VII, khi bàn về phương hướng cơ bản xây dựng chủ nghĩa xã
hội và xây dựng hệ thống chính trị ở Việt Nam, đảng đã tiếp cận có phê

phán, chắc lọc những ý tưởng tiến bộ vè nhà nước pháp quyền trong lịch sử,
nâng những giá trị đó lên tầm cao mới phù hợp với bản chất tốt đẹp của nhà
nước xã hội chủ nghĩa. Đảng khẳng định “Nhà nước xã hội chủ nghĩa là nhà
nước của dân, do dân, vì dân lấy liên minh giai cấp công nhân và tầng lớp trí
thức làm nền tảng do Đảng cộng sản lãnh đạo, thực hiện đầy đủ quyền dân
chủ của nhân dân, giữ nghiêm kỷ cương xã hội, chuyên chính với mọi hành
động xâm hại lợi ích của Tổ quốc và của nhân dân; nhà nước phải có đủ
quyền lực, đủ khả năng định luật pháp và tổ chức, quản lý mọi mặt đời sống
bằng pháp luật… nhà nước có mối liên hệ thường xuyên chặt chẽ với nhân
dân,… tổ chức và hoạt động của nhà nước theo nguyên tắc tập trung dân chủ,
nhà nước thống nhất ba quyền lập pháp, hành pháp và tư pháp, với sự phân
công ràng mạch ba quyền đó”7.
Nghị quyết Hội nghị toàn quốc giữa nhiệm kỳ (khóa VII), Đảng ta đã
chính thức sử dụng khái niệm nhà nước pháp quyền Việt Nam và xác định
“xây dựng Nhà nước pháp quyền Việt Nam của nhân dân, do nhân dân, vì
nhân dân” là một trong 8 nhiệm vụ chủ yếu.
Hội nghị Trung ương lần thứ 8, (Khóa VII), Đảng ta đã đề cập quan
điểm, chủ trương, nhiệm vụ xây dựng kiện toàn bộ máy nhà nước: tiếp
tục đổi mới tổ chức và hoạt động của cơ quan lập pháp; cải cách một
bước nền hành chính nhà nước; đổi mới tổ chức và hoạt động của cơ
quan tư pháp; phát huy vai trò làm chủ của nhân dân; tăng cường sự lãnh
đạo của Đảng đối với Nhà nước.
Hội nghị Trung ương lần thứ 3 (Khóa VIII), Đảng ta tiếp tục cụ thể hóa
một số vấn đề cơ bản về xây dựng nhà nước, bảo đảm cho Nhà nước ta thật

7

Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội, Nxb Sự thật, H. 1991, tr.9.

13



sự trong sạch, vững mạnh. Đó là phát huy quản lý nhà nước và xây dựng đội
ngũ cán bộ, trong đó có đội ngũ cán bộ nhà nước.
Đến Đại hội Đảng toàn quốc khóa IX và khóa X tiếp tục khẳng định
nhất quát xây dựng nhà nước pháp quyền của dân, do dân, vì dân vững
mạnh toàn diện, trong văn kiện Đại hội Đảng Khóa X có viết: “Đẩy nhanh
công cuộc xây dựng nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa trên các mặt:
hệ thống thể chế, chức năng, nhiệm vụ; tổ chức bộ máy; cán bộ, công
chức; phương thức hoạt động” 8.
Như vậy, Đảng ta từng bước phát triển hệ thống quan điểm, nguyên
tắc cơ bản về xây dựng nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa của dân, do
dân, vì dân. Hiến pháp năm 1992 và nhiều bộ luật, luật, pháp lệnh đã được
ban hành, tạo khuôn khổ pháp lý để nhà nước quản lý bằng pháp luật trên
các lĩnh vực kinh tế-xã hội, đối ngoại, an ninh, quốc phòng. Đã có nhiều
quyết định cải cách có ý nghĩa quan trọng trên lĩnh vực xây dựng nhà
nước và pháp luật, làm cơ sở cho đổi mới hệ thống chính trị, đổi mới tổ
chức hoạt động của bộ máy nhà nước.
1.2. Thực trạng xây dựng nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa
Việt Nam trong những năm qua
Quá trình xây dựng, tăng cường nhà nước xã hội chủ nghĩa của dân, do
dân, vì dân ở nước ta trong suốt mấy chục năm qua đã thu được nhiều kết
quả to lớn. Nghị quyết hội nghị lần thứ ba (khoá VIII) của Ban chấp hành
trung ương Đảng đã khẳng định công cuộc xây dựng và hoàn thiện nhà nước
cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam có những tiến bộ quan trọng.
Tổ chức bộ máy, chức năng, nhiệm vụ của nhà nước, trước hết là của cơ
quan hành chính nhà nước, đã có một bước điều chỉnh theo yêu cầu của quá

8


Đảng Cộng sản Việt Nam, Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ X, Nxb CTQG, H,2006, tr.253

14


trình chuyển từ cơ chế kế hoạch hoá tập trung bao cấp sang quản lý nền kinh
thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa.
Nội dung và phương thức lãnh đạo của Đảng đối với nhà nước từng
bước được đổi mới vừa đảm bảo tăng cường vai trò lãnh đạo của Đảng, vừa
phát huy trách nhiệm và tính chủ động của các cơ quan nhà nước.
Tuy nhiên, thực tiễn tổ chức và hoạt động nhà nước ta cũng đang bộc lộ
nhiều yếu kém.
Bộ máy nhà nước chưa thật sự trong sạch, vững mạnh; tình trạng tham
nhũng, lãnh phí, quan liêu còn nghiêm trọng, chưa được ngăn chặn; hiệu lực
quản lý, điều hành chưa nghiêm; kỷ cương xã hội bị buôn lỏng, làm giảm sút
lòng tin của nhân dân đối với Đảng, Nhà nước ta.
Quản lý nhà nước chưa ngang tầm với đòi hỏi của thời kỳ mới; chưa
phát huy đầy đủ mặt tích cực và hạn chế được tính tự phát tiêu cực của kinh
tế thị trường. Đất đai, vốn, tài sản nhà nước chưa được quản lý chặt chẽ, sử
dụng lãng phí và thất thoát nghiêm trọng (đặc biệt trong lĩnh vực xây dựng
cơ bản).
Tổ chức bộ máy nhà nước còn nặng nề, sử phân công và phối hợp giữa
các cơ quan nhà nước trong việc thực hiện 3 quyền lập pháp, hành pháp và tư
pháp còn có những điểm chưa rõ về chức năng, nhiệm vụ, mối quan hệ phân
cấp trung ương-địa phương còn một số mặt chưa cụ thể (như về quản lý đầu
tư, tài chính, tổ chức bộ máy, kết hợp quản lý theo ngành và lãnh thổ), làm
cho tình trạng tập trung quan liêu cũng như phân tán, cục bộ chậm được khắc
phục.
Sự lãnh đạo của Đảng chưa đáp ứng yêu cầu của quá trình đổi mới tổ
chức, hoạt động của nhà nước, còn có tình trạng buôn lỏng và bao biện,

chồng chéo nên chưa phát huy tốt vai trò lãnh đạo của Đảng và hiệu lực điều
hành của bộ máy nhà nước.

15


Mặt khác, xây dựng nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa của dân, do
dân, vì dân ở nước ta hiện nay cần phải vượt qua những trợ ngại của thời kỳ
quá độ.
Những đặc điểm của thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội bỏ qua tư bản
chủ nghĩa đã tác động đến mọi mặt, mọi lĩnh vực của đời sống, mọi quan hệ
xã hội của con người, mọi quá trình xây dựng, tổ chức, quản lý xã hội. Có
thể hình dung thấy vô số vấn đề phức tạp và những trở ngại trên con đường
nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam.
Nhận thức đầy đủ và sâu sắc những trở ngại đó là một quá trình, đồng thời
khắc phục, vượt qua những trở ngại đó để xây dựng thành công Nhà nước pháp
quyền Việt Nam xã hội chủ nghĩa lại càng là một qua trình lâu dài và phức tạp
hơn.
Con đường đi lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam do chính những đặc
điểm của nó quy định, đòi hỏi về mặt nhận thức luận, một điều tưởng như
đơn giản, thông thường mà lại rất hệ trọng sau đây: chống chủ nghĩa chủ
quan, duy ý chí nhưng không bao giờ được xem thường nổ lực chủ quan và ý
chí của lực lượng những con người xây dựng chế độ mới. Cũng như vậy,
chống chủ nghĩa kinh nghiệm thực dụng không có một chút gì với việc xem
thường kinh nghiệm và đầu óc thực tế, cách làm thiết thực bắt nguồn từ sự
thấm nhuần quan điểm thực tiễn. Chống chủ nghĩa giáo điều, sách vở, nhưng
không vì thế mà xem thường, coi khinh lý luận.
Nhà nước pháp quyền là trình độ phát triển hiện đại của tổ chức và hoạt
động của nhà nước với sự hoàn thiện công cụ quản lý là pháp luật, nó chỉ có
thể là con đẻ, là sản phẩm của một xã hội hiện đại. Cơ sở và môi trường xã

hội của nhà nước phát quyền phải là một xã hội công dân, là đời sống xã hội
dân sự được tổ chức một cách nề nếp và hoạt động có hiệu quả theo tinh
thần pháp luật, theo những giá trị và chuẩn mực của dân chủ.

16


Trong điều kiện Đảng cộng sản Việt Nam cầm quyền, lãnh đạo xã hội
và nhà nước, hơn nữa là chế độ nhất nguyên chính trị và một Đảng lãnh đạo,
nhất thiết phải giải quyết đúng đắn mối quan hệ giữa Đảng và Nhà nước,
không lẫn lộn chức năng, nhiệm vụ và phương pháp hoạt động trong mô hình
tổ chức bộ máy, trong quan hệ lãnh đạo và quản lý, không rơi vào tình trạng
hình thức hoá nhà nước và nhà nước hóa Đảng, đây là một trong những trở
ngại rất lớn và có tính phổ biến ở các nước xã hội chủ nghĩa trước đây.
Từ những cơ sở lý luận và thực tiễn trên, đạt ra cho việc xây dựng Nhà
nước pháp quyền ở Việt Nam đang là một tất yếu lịch sử. Tính tất yếu lịch sử
của nhà nước pháp quyền bắt nguồn chính lịch sử xây dựng và phát triển của
Nhà nước ta, ngay từ khi thành lập, nhà nước cộng hoà dân chủ của ta đã và
luôn luôn là một nhà nước hợp Hiến, hợp pháp. Nhà nước được tổ chức và
hoạt động trên cơ sở những quy định của Hiến pháp và pháp luật đồng thời
hoạt động và vận hành trong khuôn khổ của Hiến pháp và pháp luật.
II. MỘT SỐ VẤN ĐỀ CƠ BẢN VỀ XÂY DỰNG NHÀ NƯỚC PHÁP QUYỀN
XÃ HỘI CHỦ NGHĨA CỦA DÂN, DO DÂN, VÌ DÂN Ở NƯỚC TA HIỆN NAY

Trung thành và tiếp thu những di sản quý báu về tư tưởng xây dựng nhà
nước pháp quyền trong lịch sử, quan điểm chủ nghĩa Mác-Lênin, của Chủ
tịch Hồ Chí Minh và Đảng ta, trong quá trình xây dựng Nhà nước Cộng hòa
xã hội chủ nghĩa Việt Nam theo định hướng nhà nước pháp quyền của dân,
do dân, vì dân cần nắm vững những vấn đề sau:
2.1. Xây dựng và từng bước hoàn thiện nhà nước pháp quyền xã hội

chủ nghĩa Việt Nam là nhà nước của dân, do dân, vì dân, quản lý mọi
mặt đời sống xã hội bằng pháp luật
Quan điểm này thể hiển bản chất của Nhà nước ta và đã được khẳng
định trong tất cả các bản Hiến pháp. Đặc biệt Hiến pháp 1992 (sửa đổi) đã
khẳng định “ Nhà nước cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam là nhà nước

17


pháp quyền xã hội chủ nghĩa của nhân dân, do nhân dân, vì nhân dân. Tất cả
các quyền lực nhà nước thuộc về nhân dân mà nền tảng là liên minh giữa giai
cấp công nhân với giai cấp nông nhân và đội ngũ trí thức”9.
Cơ sở chính trị xã hội của nhà nước pháp quyền Việt Nam là mở
rộng khối đại đoàn kết toàn dân, lấy liên minh, trí thức làm nền tảng do
Đảng cộng sản Việt Nam lãnh đạo. Phát huy sức mạnh quyền làm chủ
của nhân dân là nhiệm vụ quan trọng hàng đầu, là bản chất tốt đẹp, ưu
việt của nhà nước pháp quyền Việt Nam, phát huy mạnh mẽ quyền làm
chủ của nhân dân, quyền dân chủ đại diện và quyền dân chủ trực tiếp
của nhân dân với cơ chế ngày càng cụ thể, hoàn thiện; bảo đảm ngày
càng hiệu qủa các quyền cơ bản của công dân.
Nền tảng xã hội - vật chất của nhà nước là dân. Đây là sự kế thừa tư
tưởng của dân tộc, các triều đại phong kiến Việt Nam đều coi dân là gốc
của nước. như: quan niệm Trần Hưng Đạo “khoan thư sức dân để làm kế
sâu, bền gốc”; Nguyễn Trãi đã nhìn nhận: "Chở thuyền cũng là dân, lật
thuyền mới biết sức dân mạnh như sức nước"; tư tưởng "dân vi quí, xã
tắc thứ chi, quân vi khinh"; hay trong Nho giáo đã coi "dân duy bang
bản" (dân là gốc nước); "quân dĩ dân vi thiên" (vua lấy dân làm trời).
Mặc dù những tư tưởng trên rất coi trọng vai trò, sức mạnh của dân,
nhưng chưa bao giờ họ lấy dân là chủ của quyền cai trị đất nước. Chủ
tịch Hồ Chí Minh đã kế thừa những tư tưởng đó, vận dụng quan điểm cơ

bản của chủ nghĩa Mác - Lênin về vai trò của quần chúng nhân dân là
người sáng tạo ra các giá trị văn hóa, vật chất, tinh thần cho xã hội, sáng
tạo ra lịch sử, từ đó đi đến khẳng định: Nước ta là nước dân chủ, trong
đất nước địa vị cao nhất là dân. Chế độ ta là chế độ dân chủ, tức là nhân
dân là người chủ, bao nhiêu lợi ích đều vì dân, bao nhiêu quyền hạn đều
của dân; công việc đổi mới và xây dựng là trách nhiệm của dân; quyền
Hiến pháp nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam năm 1992 (đã sữa đổi, bổ sung năm 2001).Nxb
CTQG, H. 2002, Tr. 13
9

18


hành và lực lượng đều ở nơi dân; làm cho nhân dân biết hưởng quyền
dân chủ, biết dùng quyền dân chủ của mình, dám nói, dám làm. Nhân dân
có quyền lợi là người chủ thì phải có nghĩa vụ, bổn phận người làm chủ.
Đó chính là chế độ dân chủ mới - dân chủ xã hội chủ nghĩa-chế độ nhà
nước dân chủ, nhà nước của dân, do dân, vì dân.
Ngày nay, bài học lấy dân làm gốc với tư tưởng bao nhiêu lợi ích đều
vì dân, bao nhiêu quyền hành đều của dân luôn nhất quán trong lịch sử xây
dựng và phát triển của Nhà nước ta càng trở nên hết sức quan trọng. Nhà
nước ta do dân lập lên, do dân bầu ra, dân kiểm tra, giám sát. Đó phải là
nhà nước hoạt động vì dân, lấy việc phục vụ nhân dân làm mục tiêu cao
nhất của mình. Sức mạnh của Nhà nước ta bắt nguồn từ sức mạnh của nhân
dân, của khối đại đoàn kết toàn dân. Do vậy, phải xây dựng Nhà nước ta
trong sạch vững mạnh, gần dân, sát dân, thể hiện đúng ý chí nguyện vọng
của dân; đảm bảo trên thực tế quyền lực nhà nước thuộc về nhân dân. Chủ
tịch Hồ Chí Minh đã chỉ rõ: “Chúng ta phải hiểu rằng, các cơ quan của
chính phủ từ toàn quốc cho đến các làng, đều là công bộc của dân, nghĩa là
để gánh việc chung cho dân, chứ không phải để đè đầu dân” 10.

Điều đáng chú ý quyền công dân phải đi đôi tránh nhiệm công dân, mở
rộng hoàn thiện dân chủ, phải đi đôi với thiết lập tăng cường trật tự, kỷ
cương xã hội, thực hiện chuyên chính đối với các phần tử phá hoại chủ
quyền an ninh quốc gia, xâm phạm lợi ích của nhân dân.
2.2. Xây dựng bộ máy nhà nước theo nguyên tắc quyền lực nhà
nước là thống nhất ba quyền lập pháp, hành pháp và tư pháp
Cải cách, đổi mới, tinh giản, gọn nhẹ các cơ quan nhà nước, bảo đảm
hiệu lực, hiệu quả, đúng chức năng và phối hợp chặt chẽ trong hoạt động của
các cơ quan đó, lập pháp, hành pháp và tư pháp đều hoạt động theo nguyên

10

Hồ Chí Minh, Toàn tập, T 4. Nxb. CTQG, Hà Nội, 1995. tr 56

19


tắc tập trung dân chủ, nhưng nguyên tắc đó phải được vận hành sáng tạo, cụ
thể, phù hợp với chức năng, nội dung tổ chức, hoạt động của từng lĩnh vực.
Đẩy nhanh và nâng cao chất lượng hoạt động lập pháp, lập quy, đáp ứng
yêu cầu quản lý xã hội bằng pháp luật, khắc phục những yếu kém về vai trò,
hiệu lực của pháp luật, yếu kém về ý thức của pháp luật, xúc tiến xây dựng
hệ thống pháp luật đồng bộ, nhất quán, thể chế hóa đường lối của Đảng trên
tất cả các lĩnh vực đời sống xã hội. Tạo cơ sở hành lanh pháp luật để thực
hiện dân chủ rộng rãi và tăng cường kỷ cương xã hội, thực hiện nhà nước
pháp quyền Việt Nam của dân, do dân, vì dân, đồng thời coi trọng giáo dục,
nâng cao đạo đức xã hội chủ nghĩa.
Hiến pháp 1992 xác định rõ Quốc hội là cơ quan quyền lực nhà nước cao
nhất; Chủ tịch nước là người đứng đầu nhà nước; Chính phủ là cơ quan hành
chính nhà nước cao nhất; Tòa án nhân dân tối cao là cơ quan xét xử cao nhất.

Như vậy, điều hiển nhiên là mỗi một cơ quan nêu trên đều ở vị trí cao nhất của
quốc gia, có chức năng riêng, quyền hạn riêng và có mối quan hệ phụ thuộc
lẫn nhau.
Phân tích các quy định của Hiến pháp 1992 và các luật về tổ chức và
hoạt động của các cơ quan nhà nước cao nhất ở Nước ta, đều nhận thấy sự
phân công, phân nhiệm về quyền hạn, nhiệm vụ, chức năng giữa 3 quyền lập
pháp, hành pháp và tư pháp đã được xác định. Quốc hội thực hiện quyền lập
hiến và lập pháp, Chính phủ thực hiện quyền hành pháp, Toà án và Viện
kiểm sát thực hiện quyền tư pháp. Sự phân công quyền lực nhà nước giữa
các cơ quan tối cao của nhà nước trong điều kiện hiện nay ở nước ta không
mang tính tuyệt đối.
Quốc hội thực hiện chức năng lập pháp, có nghĩa là Quốc hội phải thực
hiện và quán xuyến toàn bộ các giai đoạn của quá trình xây dựng pháp luật.

20


Vấn đề xây dựng nhà nước pháp quyền phụ thuộc rất lớn vào việc xây
dựng pháp luật mà nội dung trung tâm là hoạt động làm luật của Quốc hội.
Quyền lực của Quốc hội được kết tinh trong các quy định của luật.
Như vậy, sự củng cố vai trò, vị trí của Quốc hội trong bộ máy nhà
nước hiện nay không phải là ở chỗ tăng thêm quyền lực cho Quốc hội các
quy định Hiến pháp, mà là ở chỗ tăng cường năng lực làm luật của Quốc hội
và của bản thân từng đại biểu Quốc hội. Muốn vậy, điều cốt lõi là phải đổi
mới căn bản quá trình xây dựng các dự án luật, trong đó trách nhiệm chính
phải thuộc về các cơ quan của Quốc hội, chứ không phải là Chính phủ hay
các cơ quan của Chính phủ. Hơn nữa, luật do Quốc hội ban hành cần có hiệu
lực điều chỉnh trực tiếp, tức là luật cần phải cụ thể, xác thực để trực tiếp đi
vào đời sống mà không cần thiết phải có nhiều các nghị định của Chính phủ,
các thông tư của những bộ có liên quan mới thi hành được.

Quốc hội với tư cách là cơ quan thực hiện quyền lập pháp, tổ chức và
hoạt động của Quốc hội cần được đổi mới để phù hợp với nhu cầu xây dựng
pháp luật trong tình hình mới. Điều đặc biệt có ý nghĩa là, phải phát huy tính
tích cực của bản thân các đại biểu Quốc hội, đảm bảo cho đại biểu Quốc hội
có quyền tự mình làm báo cáo công khai trước Quốc hội, trực tiếp đưa ra các
kiến nghị, thậm chí có quyền đưa ra cả một dự án luật.
Hiến pháp 1992 đã quy định địa vị pháp lý mới của Chính phủ. Theo
điều 109: “Chính phủ là một cơ quan chấp hành của Quốc hội, cơ quan
hành chính nhà nước cao nhất của nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt
Nam”. Như vậy, Chính phủ là một cơ quan giữ 2 vị trí: cơ quan chấp hành
của Quốc hội và là cơ quan hành chính cao nhất của quốc gia. Sự khẳng
định 2 tư cách của Chính phủ trong Hiến pháp 1992 đây là sự vận dụng
khéo léo 2 nguyên tắc thống nhất quyền lực nhà nước, có sự phân công và
phối hợp chặc chẽ giữa 3 quyền lập pháp, hành pháp và tư pháp. Trong
một cơ chế kinh tế-xã hội mới, vai trò của Chính phủ với tính cách là cơ
21


quan đứng đầu nền hành chính quốc gia ngày càng trở nên đặc biệt quan
trọng. Một nền hành chính mạnh mẽ phải được bắt đầu từ một Chính phủ
mạnh. Do vậy, tổ chức và hoạt động của Chính phủ cần được quy định cụ
thể hơn, phù hợp với tinh thần nghị quyết Trung ương 8 (khoáVII) của
Đảng. Trước hết, cần xác định lại vai trò của Chính phủ cho một cơ cấu
kinh tế-xã hội mới, khi mà nền kinh tế tập trung, kế hoạch hoá đã được
thay thế bằng nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa. Nhiệm
vụ quản lý vĩ mô của Chính phủ đối với đời sống kinh tế đã đặt Chính phủ
trước thuận lợi và thử thách mới. Do vậy, nội dung quản lý vĩ mô đối với
nền kinh tế được xác định cụ thể để một mặt, Chính phủ không sa vào
cách thức quản lý trước đây đối với kinh tế; mặt khác, không buôn lỏng
dẫn đến tình trạng không kiểm soát được các quá trình kinh tế-xã hội.

Quyền hành pháp phải được tập trung và thống nhất vào Chính phủ và
Chính phủ đứng đầu là Thủ tướng phải chịu trách nhiệm trước nhân dân về
việc thực thi quyền hành pháp này. Một Chính phủ mạnh phải biết đặt hoạt
động của mình trong mối liên hệ và hợp tác nhịp nhàng với các thiết chế
quyền lực khác, biết hành động đúng trong phạm vi thẩm quyền của mình,
không lấn sân, không can thiệp gây phương hại đến thẩm quyền và hoạt
động của các thiết chế quyền lực khác. Là cơ quan hành chính nhà nước cao
nhất, sự đổi mới toàn diện của Chính phủ là một động lực quan trọng góp
phần quyết định sự thành công của công cuộc cải cách nền hành chính quốc
gia.
Quyền tư pháp là lĩnh vực quyền lực quan trọng. Việc thực thi quyền
này ảnh hưởng trực tiếp đến mục tiêu và các giá trị của công cuộc xây dựng
nhà nước pháp quyền. Việc thực thi quyền tư pháp là thẩm quyền và nhiệm
vụ của hệ thống các cơ quan tư pháp. Đất nước đang chuyển sang một giai
đoạn phát triển mới, cần đòi hỏi các cơ quan thực hiện quyền tư pháp phải
được đổi mới toàn diện. Vị trí, vai trò của từng cơ quan bảo vệ pháp luật

22


trong cơ chế mới phải được xác định rõ ràng, kể cả trên phương diện luật
pháp lẫn các mối liên hệ trên thực tế. Có thể nói, tổ chức và hoạt động hiện
nay của các toà án nhân dân vẫn chưa phù hợp và chưa đáp ứng được các
yêu cầu của công cuộc đổi mới. Nền kinh tế hàng hoá nhiều thành phần đã
và đang phát sinh nhiều quan hệ xã hội phức tạp, đòi hỏi phải được điều
chỉnh bằng pháp luật.
Trước nhu cầu như vậy, việc thiết kế một mô hình tòa án nhân dân cần
đảm bảo các yêu cầu: thuận tiện cho nhân dân, tiết kiệm cho nhà nước, đảm
bảo tính độc lập xét xử của thẩm phán và hội thẩm nhân dân.
Quyền độc lập xét xử của các hội đồng xét xử của các tòa án không phụ

thuộc vào các cơ quan hành chính nhà nước cùng cấp, không lệ thuộc vào cơ
quan tòa án cấp trên. Theo đó, các toà án đều xác định cụ thể về thẩm quyền
xét xử và mối quan hệ giữa toà án nhân dân các cấp là các mối quan hệ tố
tụng chứ không thể là các quan hệ hành chính. Vì vậy, công cuộc cải cách tư
pháp đòi hỏi phải quy định lại thẩm quyền xét xử theo xu hướng mở rộng
thẩm quyền xét xử sơ thẩm các vụ án dân sự, hình sự cho toà án nhân dân
cấp huyện, quận. Muốn vậy, cần ưu tiên đầu tư cho các toà án này không chỉ
tăng thêm thẩm quyền xét xử, mà đặc biệt chú trọng chất lượng và năng lực
của đội ngũ các thẩm phán ở các toà án cơ sở.
Nhà nước pháp quyền cũng đòi hỏi và tăng cường các tổ chức luật sư,
các tổ chức tư vấn pháp luật, công chứng nhà nước và công chứng phi Chính
phủ và các tổ chức trọng tài phi Chính phủ.
2.3.Xây dựng cải cách hệ thống pháp luật đáp ứng các yêu cầu của
mục tiêu: dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh.
Trên thực tế, đời sống xã hội ngày càng phát triển đặt ra đòi hỏi phải
quản lý đất nước “không phải bằng đạo lý, mà phải bằng pháp luật”, và chính
điều đó đặt ra yêu cầu cao đối với sự nghiệp xây dựng nhà nước pháp quyền

23


xã hội chủ nghĩa của dân, do dân, vì dân ở Nước ta hiện nay, đồng thời phải
hoàn thiện mối quan hệ giữa Nhà nước với đời sống xã hội dựa trên cơ sở
tăng cường pháp chế xã hội chủ nghĩa, thực hiện thống nhất các chức năng
của nhà nước và phát huy có hiệu quả quyền làm chủ của nhân dân trên mọi
hoạt động của Đảng, Nhà nước cũng như các lĩnh vực của đời sống xã hội vì
mục tiêu: dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh.
Hiện nay hệ thống các văn bản pháp luật của Việt Nam hầu như mới
chỉ là sự “mở đầu” của một thời kỳ mới còn nhiều điều chưa đáp ứng yêu
cầu của cuộc sống xã hội. Trong khi đó, nền kinh tế nhiều thành phần phát

triển theo cơ chế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa là một đối tượng
rất phức tạp đang vận động, đòi hỏi phải có những quy phạm pháp luật mới
để điều tiết. Cho nên, hệ thống văn bản pháp luật còn tiếp tục phát triển
nhằm phản ánh hết thực tế phức tạp, từng bước khắc phục “kẻ hở” trong các
quy phạm pháp luật do trình độ kỹ thuật lập pháp hạn chế. Những quy phạm
pháp luật mới chưa đủ sức điều tiết các lĩnh vực đời sống xã hội trong trạng
thái không ngừng phát triển, nhất là trước yêu cầu giao lưu, hội nhập kinh tếxã hội khu vực và thế giới. Tất cả các nhân tố ấy đều ảnh hưởng không tốt
đến hiệu lực của pháp luật, và quan trọng hơn là cản trở đến quá trình thực
hiện dân chủ hoàn thiện các chế định xã hội dân sự vốn là nhu cầu thực tế.
Trong điều kiện xây dựng Nhà nước ta theo tiêu chí Nhà nước pháp
quyền xã hội chủ nghĩa của dân, do dân, vì dân, những yêu cầu đòi hỏi mới
đang đặt ra cho việc hoàn thiện hệ thống các văn bản pháp luật nhằm tăng
cường pháp chế xã hội chủ nghĩa càng trở nên bức thiết. Bên cạnh đó yêu
cầu nhà nước pháp quyền còn đòi hỏi hệ thống văn bản pháp luật cũng như
từng quy phạm pháp luật nói riêng không những phải bảo đảm hành lanh
pháp lý tính định hướng phát triển cơ sở kinh tế-xã hội, góp phần cải thiện
đời sống vật chất và tinh thần cảu nhân dân, mà còn là cơ sở pháp lý để xây

24


dựng hệ thống kiến trúc thượng tầng quá độ lên chủ nghĩa xã hội, đặc biệt là
củng cố hệ thống chính trị, trong đó trọng tâm là bộ máy nhà nước.
Nhà nước quản lý xã hội bằng pháp luật, theo pháp luật là nguyên tắc
có tính hiến định, xác định các cơ sở chủ yếu để điều chỉnh các quan hệ cơ
bản trong xã hội giữa công dân với công dân, giữa công dân với nhà nước,
giữa nhà nước với các tổ chức xã hội. Sự đổi mới pháp luật, tăng cường pháp
chế xã hội chủ nghĩa đang được tiến hành trên 3 lĩnh vực cơ bản: xây dựng
pháp luật, chấp hành pháp luật, bảo vệ pháp luật.
Cải cách thủ tục hành chính là một việc làm đang được đẩy mạnh ở

nước ta. Nhiệm vụ cải cách nền hành chính quốc gia trong điều kiện hiện nay
đang tiếp tục đặt ra các yêu cầu bức xúc về cải cách mạnh mẽ hơn nữa thủ
tục hành chính theo hướng xoá bỏ triệt để cơ chế “xin-cho”; hạn chế các
trường hợp phải “cấp phép”, đơn giản hoá thủ tục giải quyết các yêu cầu của
người dân, tiến tới thực hiện trên thực tế nguyên tắc pháp lý cơ bản của xã
hội nước ta; công dân được làm tất cả trừ những điều pháp luật cấm.
Nhà nước mà đại diện các cơ quan nhà nước, các công chức phải chịu
trách nhiệm bồi thường cho công dân trong các trường hợp lợi ích hợp pháp
của họ bị các cơ quan công quyền vi phạm. Một dự luật về trách nhiệm dân
sự của nhà nước trong các quan hệ này rất cần thiết phải được nghiên cứu
xây dựng. Đặc biệt, cơ chế pháp lý đảm bảo việc thực hiện trách nhiệm dân
sự của nhà nước đối với công dân có ý nghĩa to lớn. Ở đây, vai trò của các
toà án, đặc biệt là toà án hành chính có ý nghĩa quyết định.
Nhà nước pháp quyền đòi hỏi pháp luật phải được thực hiện nghiêm
chỉnh và thống nhất. Sống và làm việc theo Hiến pháp và pháp luật phải trở
thành đạo đức hàng đầu, thành nếp sống tốt đẹp của mọi người. Pháp luật
vừa là hình thức pháp lý của tự do và dân chủ, vừa là công cụ cơ bản để đảm
bảo tự do và dân chủ. Do vậy, chỉ có trong khuôn khổ của Hiến pháp và pháp

25


×