Tải bản đầy đủ (.docx) (15 trang)

Phân tích quan điểm của đảng cộng sản việt nam về CNH HDH “lấy phát huy nguồn lực con người làm yếu tố cơ bản cho sự phát triển nhanh và bền vững” em hãy nêu nhận thức của mình khi nghiên cứu quan điểm trên

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (162.43 KB, 15 trang )

Phân tích quan điểm của Đảng Cộng Sản Việt Nam về CNH-HDH: “lấy phát huy nguồn
lực con người làm yếu tố cơ bản cho sự phát triển nhanh và bền vững”. Em hãy nêu
nhận thức của mình khi nghiên cứu quan điểm trên.

A. Cơ sở khoa học của quan điểm
I. Cơ sở lí luận
1. Quan điểm của chủ nghĩa Mác-lênin về vai trò của cá nhân và quần chúng lịch sử:
a) Khái niệm quần chúng nhân dân:







Con người là chủ thể sáng tạo ra lịch sử nhưng không phải theo phương thức hành vi
đơn lẻ, rời rạc, cô độc của mỗi con người mà theo phương thức liên kết những con
người thành sức mạnh cộng đồng xã hội có tổ chức, có lãnh đạo của những cá nhân hay
các tổ chức chính trị, xã hội nhất định nhằm giải quyết các nhiệm vụ lịch sử trên các
lĩnh vực kinh tế, chính trị, văn hóa của xã hội-cộng đồng đó chính là quần chúng nhân
dân.
Những lực lượng cơ bản tạo thành quần chúng nhân dân bao gồm:
Những người lao động tạo ra của cải vật chất và giá trị tinh thần – dó là hạt nhân cơ bản
trong cộng đồng quần chúng nhân dân
Những bộ phận dân cư chống lại giai cấp áp bức thống trị áp bức, bóc lột, đối kháng với
cộng đồng nhân dân
Những giai cấp, tầng lớp xã hội thúc đẩy sự tiến bộ của xã hội thông qua hoạt động của
mình, trực tiếp hoặc gián tiếp trên các lĩnh vực đời sống xã hội.

Ngoài ra, có thể tùy theo mỗi điều kiện lịch sử xác định mà cộng đồng quần chúng nhân dân
còn có thể bao gồm những lực lượng giai cấp và tầng lớp khác.


Vậy quần chúng nhân dân không phải là một cộng đồng bất biến mà trái lại, luôn thay đổi
cùng với sự biến đổi của những nhiệm vụ lịch sử ở mỗi thời đại, mỗi giai đoạn phát triển nhất
định








b) Khái niệm cá nhân trong lịch sử:
Khái niệm cá nhân dùng để chỉ mỗi con người cụ thể sống trong một cộng đồng xã hội
nhất định, và được phân biệt với những con người khác thông qua tính đơn nhất và tính
phổ biến của nó.
Trong mối quan hệ với quần chúng nhân dân, những cá nhân kiệt suất có vai trò đặc biệt
quan trong trong các tiến trình lịch sử, đó là: những vĩ nhân, lãnh tụ
Trong chủ nghĩa Mác-Lenin, khái niệm lãnh tụ thường được dùng để chỉ những các
nhân kiệt suất do phong trào cách mạng của quần chúng nhân dân tạo nên, gắn bó mật
thiết với quần chúng nhân dân
Để trở thành lãnh tụ của quần chúng nhân dân, được nhân dân tín nhiệm, tin yêu, lãnh tụ
phải có những phẩm chất cơ bản sau:
Trang 1








Có tri thức khoa học uyên bác nắm bắt được xu thế vận động, phát triển của lịch sử
Có năng lực tập hợp quần chúng nhân dân,thống nhất ý chí và hành động của quần
chúng nhân dân vào việc giải quyết những nhiệm vụ lịch sử, thúc đẩy sự tiến bộ và phát
triển của lịch sử.
Gắn bó mật thiết với quần chúng nhân dân, hy sinh vì lợi ích của quần chúng nhân dân

Bất kỳ ở một thời kỳ nào, một cộng đồng xã hội nào, nếu lịch sử đặt ra những nhiệm vụ cần
giải quyết thì phong trào quần chúng nhân dân tất yếu sẽ xuất hiện những lãnh tụ đáp ứng
nhiệm vụ đó.
c) Vai trò của quần chúng nhân dân trong lịch sử:
Thứ nhất, quần chúng nhân dân là lực lượng sản xuất cơ bản của mọi xã hội, trực tiếp sản
xuất ra của cải vật chất đáp ứng nhu cầu tồn tại và phát triển của con người, của xã hội –
đây là nhu cầu quan trọng bậc nhất của mọi xã hội ở mọi thời đại, giai đoạn lịch sử.
 Thứ hai, cùng với quá trình sáng tạo ra của cải vật chất, quần chúng nhân dân đồng thời
cũng là lực lượng trực tiếp hoặc gián tiếp sáng tạo ra các giá trị tinh thần của xã hội; là lực
lượng trực tiếp hoặc gián tiếp “ kiểm chứng” các giá trị tinh thần đã được các thế hệ và
các cá nhân sáng tạo ra trong lịch sử. Hoạt động của quần chúng nhân dân là cơ sở hiện
thực có ý nghĩa quyết định và là cội nguồn phát sinh những sáng tạo văn hóa tinh thần của
xã hội. Mọi giá trị sáng tạo tinh thần dù qua phương thức nào thì cuối cùng cũng là để
phục vụ hoạt động quần chúng nhân dân và nó chỉ có ý nghĩa hiện thực một khi được vật
chất hóa bởi hoạt động thực tiễn của nhân dân.
 Thứ ba, quần chúng nhân dân là lượng cơ bản của mọi cuộc cách mạng và các cuộc cải
cách trong lịch sử. Lịch sử nhâ loại đã chứng minh rằng không có cuộc cách mạng hay
cuộc cải cách xã hội nào có thể thành công nếu không xuất phát từ lợi ích , nguyện vọng
của quần chúng nhân dân. Với ý nghĩa đó, có thể nói: “Cách mạng là ngày hội của quần
chúng nhân dân”, và trong ngày hội đó quần chúng sáng tạo ra lịch sử “một ngày bằng hai
mươi năm”. Như vậy những cuộc cách mạng hay cải cách xã hội cần đến lực lượng của
quần chúng nhân dân và sức sáng tạo của quần chúng nhân dân cũng cần có những cuộc
cách mạng hay những cuộc cải cách xã hội. Đó cũng là biện chững của quá trình phát
triển xã hội.

d) Vai trò của cá nhân trong lịch sử
 Vai trò sáng tạo lịch sử của quần chúng nhân dân không bao giờ có thế tách rời vai trò cụ
thể của mỗi cá nhân, đặc biệt là vai trò của các cá nhân ở vai trò thủ lĩnh, lãnh tụ hay ở tầm
vĩ nhân của cộng đồng nhân dân. Theo V.I.Lenin, “Trong lịch sử, chưa hề có một giai cấp
nào giành được quyền thống trị, nếu nó không đào tạo ra được trong hàng ngũ của mình
những lãnh tụ chính trị, những đại biểu tiền phong có đủ khả năng tổ chức và lãnh đạo
phong trào”
 Trong mối quan hệ với quần chúng nhân dân, lãnh tụ có những nhiệm vụ chủ yếu sau:
 Nắm bắt xu thế vận động và phát triển của lịch sử
 Định hướng chiến lược và hoạch định chương trình hành động cách mạng


Trang 2


Tổ chức lưc lượng giáo dục, thuyết phục quần chúng, thống nhất ý chí và hành động
của quần chúng nhằm hướng vào giải quyết những muc tiêu cách mạng đề ra.
Kết luận:




Tuyệt đối hóa vai trò của quần chúng nhân dân mà bỏ qua vai trò của các cá nhân, hoặc tuyệt
đối hóa vai trò của các cá nhân, thủ lĩnh, lãnh tu, vĩ nhân mà xem thường vai trò của quần
chúng nhân dân đều là không biện chứng trong nghiên cứu về lịch sử và do đó không thể lý
giải chính xác tiến trình vận động, phát triển của lịch sử nhân loại nói chung cũng như của mỗi
cộng đồng xã hội nói riêng
2. Quan điểm của Hồ Chí Minh về vai trò của con người trong cách mạng:
 Kế thừa tinh hoa tư tưởng văn hoá dân tộc và nhân loại, tiếp thu, vận dụng, phát triển một
cách sáng tạo học thuyết Mác-Lênin, Hồ Chí Minh đã nâng tư tưởng về con người lên một

tầm cao mới, hình thành nên chủ nghĩa nhân văn Hồ Chí Minh. Tuy không có một tác phẩm
nào bàn riêng về con người, nhưng tư tưởng về con người lại được hiểu thật đa dạng, phong
phú, trở thành một tư tưởng xuyên suốt trong toàn bộ hệ thống tư tưởng Hồ Chí Minh. Vấn
đề con người luôn luôn được nhắc đến như một mục tiêu thiêng liêng, cao cả nhất của sự
nghiệp cách mạng mà Người theo đuổi. Nó trở thành mục tiêu, lý tưởng, được toả sáng
trong từng suy nghĩ, cử chỉ, hành động của Chủ tịch Hồ Chí Minh.
 Từ hệ thống tư tưởng của Người, chúng ta thấy toát lên nội dung quan niệm về con người
như sau:
 Con người là vốn quý nhất, nhân tố quyết định thành công của sự nghiệp cách mạng.
Theo Hồ Chí Minh, "trong bầu trời không quý bằng nhân dân. trong thế giới không gì mạnh
bằng lực lượng đoàn kết của nhân dân". Vì vậy, 'Vô luận việc gì, đều do người làm ra, và từ
nhỏ đến to, từ gần đến xa, đều thế cả". Người cho rằng "việc dễ mấy không có nhân dân cũng
chịu, việc khó mẩy có dân liệu cũng xong". Nhân dân là người sáng tạo ra mọi giá trị vật chất
và tinh thần. Hồ Chí Minh tổng kết ngắn gọn: dân ta tổt lắm. Người phân tích phẩm chất tốt
đẹp của dân từ lòng trung thành và tin tưởng vào cách mạng, vào Đảng, không sợ gian khố, tù
đày, hy sinh đến việc dân nhường cơm sẻ áo, chở che, đùm bọc, bảo vệ, nuôi nấng bộ đội và
cán bộ cách mạng.
Dân ta là tài năng, trí tuệ và sáng tạo, họ biết "giải quyết nhiều vấn đề một cách giản đơn, mau
chóng, đầy đủ, mà những người tài giỏi, những đoàn thể to lớn, nghĩ mãi không ra"'. Đặc biệt
là lòng sốt sắng, hăng hái của dân để thực hiện con đường cách mạng. Hồ Chí Minh có niềm
tin vững chắc rằng với tinh thần quật cường và lực lượng vô tận của dân tộc ta, với lòng yêu
nước và chí kiên quyết của nhân dân và quân đội ta, chẳng những chúng ta có thể thắng lợi,
mà chúng ta nhất định thắng lợi.
Nhân dân là yếu tố quyết định thành công của cách mạng. "Lòng yêu nước và sự đoàn kết của
nhân dân là một lực lượng vô cùng to lớn, không ai thắng nổi".

Trang 3


 Con người vừa là mục tiêu, vừa là động lực của cách mạng: phải coi trọng, chăm sóc,


phát huy nhân tố con người
Vì sống gần dân, với dân, giữa lòng dân, hiểu rõ dân tình, dân tâm, dân ý, Hồ Chí Minh thấy
rõ yêu cầu giải phóng dân tộc, giải phóng con người, giải phóng lao động xã hội. Nhân dân
vừa là mục tiêu, vừa là động lực của cách mạng. Năm 1911, giữa lúc đất nước đang bị xâm
lược, nhân dân phải chịu cảnh lầm than. Người ra đi với ý chí "quyết giải phóng gông ta được
hoàn toàn độc lập, dân ta được hoàn toàn tự do, đồng bào ai cũng có cơm ăn, áo mặc, ai cũng
được cùm nô lệ cho đồng bào”. Người xác định rõ trách nhiệm của Người cũng là của Đảng
và Chính phủ là "làm sao cho nước học hành".
Ở Hồ Chí Minh, có sự cảm nhận, thông cảm sâu sắc với thân phận những người cùng khổ và
nô lệ lầm than. Nhưng không phải là sự cảm thông kiểu tôn giáo; ngược lại, người có niềm tin
vững chắc và trí tuệ, bản lĩnh của con người, ở khả năng tự giải phóng của chính bản thân con
người. Người làm hết sức để xây dựng, rèn luyện con người và quyết tâm đấu tranh để đem lại
độc lập, tự do, hạnh phúc cho con người. Người xác định con người là mục tiêu trong điều
kiện cụ thể của từng giai đoạn cách mạng. Khi đất nước còn nô lệ, lầm than thì mục tiêu trước
hết trên hết là giải phóng dân tộc. giành độc lập dân tộc. Sau khi chính quyền đã về tay nhân
dân, thì mục tiêu ăn, mặc, ở, đi lại, học hành, chữa bệnh lại được ưu tiên hơn, bởi vì, "nếu
nước độc lập mà dân không hưởng hạnh phúc tự do, thì độc lập cũng chẳng có nghĩa lý gì". Vì
vậy chúng ta phải thực hiện ngay: Làm cho dân có ăn. Làm cho dân có mặc. Làm cho dân có
chỗ ở. Làm cho dân có học hành. Đến Di chúc, Người viết: "Đầu tiên là công việc đối với con
người".
* Con người là mục tiêu của cách mạng nên mọi chủ trương, đường lối, chính sách của Đảng,
Chính phủ đều vì lợi ích chính đáng của con người. Có thể là lợi ích lâu dài, lợi ích trước mắt:
lợi ích cả dân tộc và lợi ích của bộ phận, giai cấp, tầng lớp và cá nhân. Với hoạt động thực tiễn
thì việc gì lợi cho dân, dù nhỏ mấy – ta phải hết sức làm. Việc gì hại cho dân, dù nhỏ mấy – ta
phải hết sức tránh.
Hồ Chí Minh có niềm tin mãnh liệt vào sức mạnh vĩ đại và năng lực sáng tạo của quần chúng.
Trong sự nghiệp xây dựng đất nước, Hồ Chí Minh đã nhận rõ: "Muốn xây dựng chủ nghĩa xã
hội, trước hết phải có con người xã hội chủ nghĩa", "có dân thì có tất cả"…
Niềm tin vào sức mạnh của dân còn được nhận thức từ mối quan hệ giữa nhân dân với Đảng

và Chính phủ. Hồ Chí Minh chỉ rõ: Nếu không có nhân dân thì Chính phủ không đủ lực lượng:
nếu không có Chính phủ thì nhân dân không có ai dẫn đường. Đảng lãnh đạo nhưng nhân dân
là chủ. Dân như nước, bộ đội như cá. Lực lượng bao nhiêu là nhờ ở dân hết. Tin dân, học dân,
tôn trọng dân, dựa vào dân theo đúng đường lối quần chúng sẽ tạo nên sức mạnh vô địch. Bởi
vì, sự nghiệp cách mạng giành độc lập dân tộc và xây dựng chủ nghĩa xã hội chỉ có thể thực
hiện được với sự giác ngộ đầy đủ và lao động sáng tạo của hàng chục triệu quần chúng nhân
dân.

Trang 4


Hồ Chí Minh tin ở dân còn xuất phát từ niềm tin vào tình người. Đã là nguời cộng sản thì phải
tin nhân dân và niềm tin quần chúng sẽ tạo nên sức mạnh cho người cộng sản. Người nói: dân
tộc ta là một dân tộc anh hùng.
Trong khi giữ vững niềm tin vào dân thì phải chống các bệnh: xa nhân dân, khinh nhân dân, sợ
nhân dân; không tin cậy nhân dân: không hiểu biết nhân dân; không yêu thương nhân dân.
Không yêu thương và tin tưởng nhân dân là nguyên nhân của căn bệnh nguy hiểm – bệnh quan
liêu, mệnh lệnh. Bệnh này sẽ dẫn đến kết quả là "hỏng việc".
* Con người là động lực của cách mạng được nhìn nhận trên phạm vi cả nước, toàn thể đồng
bào, song trước hết là ở giai cấp công nhân và nông dân. Điều này có ý nghĩa to lớn trong sự
nghiệp giải phóng dân tộc và xây dựng chủ nghĩa xã hội. Nhà nước mới theo tư tưởng của Hồ
Chí Minh lấy công – nông – trí làm nền tảng. Từ thắng lợi của Cách mạng Tháng Mười phải
nhìn nhận và đánh giá đúng giai cấp đứng ở trung tâm của thời đại mới,đó là giai cấp công
nhân. Chỉ có giai cấp công nhân với những đặc điểm chung và riêng mới lãnh đạo được dân
tộc đào mồ chôn chủ nghĩa tư bản. Muốn vậy giai cấp công nhân chỉ có liên minh với giai cấp
nông dân và gắn bó với dân tộc mới trở thành lực lượng hùng mạnh.
Không phải mọi con người đều trở thành động lực mà phải là những con người được giác ngộ
và tổ chức. Họ phải có trí tuệ và bản lĩnh, văn hóa, đạo đức, được nuôi dưỡng trên nền truyền
thống lịch sử và văn hóa hàne ngàn năm của dân tộc Việt Nam… Chính trị, văn hóa, tinh thần
là động lực cơ bản trong động lực con người.

Con người là động lực chỉ có thể thực hiện được khi hoạt động có tổ chức, có lãnh đạo. Vì
vậy, cần có sự lãnh đạo của Đảng cộng sản.
Giữa con người – mục tiêu và con người – động lực có mối quan hệ biện chứng với nhau.
Càng chăm lo cho con người – mục tiêu tốt bao nhiêu thì sẽ tạo thành con người – động lực tốt
bấy nhiêu. Ngược lại, tăng cường được sức mạnh của con người – động lực thì sẽ nhanh chóng
đạt được mục tiêu cách mạng.
Phải kiên quyết khắc phục kịp thời các phản động lực trong con người và tổ chức. Đó là chủ
nghĩa cá nhân. Thứ vi trùng rất độc này đẻ ra hàng trăm thứ bệnh: thói quen truyền thống lạc
hậu, tàn tích xã hội cũ để lại, bảo thủ, rụt rè không dám nói. không dám làm, không dám đề ra
ý kiến, tóm lại không dám đổi mới và sáng tạo.
II. Cơ sở thực tiễn:
1. Cơ sở thực tiễn từ các nước trên thế giới:
 Suy

cho cùng, tiềm năng sức lao động, con người với trí tuệ và lao động đã và đang là tài sản
quý giá nhất của mỗi quốc gia, là nguồn lực quan trọng nhất, quyết định sự phát triển của
mỗi quốc gia. Vì thế mà trong chiến lược phát triển của mình nhiều nước đã đặt con người
vào vị trí trung tâm, quan tâm đặc biệt đến yếu tố con người và chuyển đối tượng khai thác
vào chính bản thân con người. Hiện tượng các nước công nghiệp mới Đông á là những cứ
liệu lịch sử xác thực cho nhận thức về vấn đề này. Sự thành công của những nước đó do
nhiều nguyên nhân nhưng trong đó có một nguyên nhân mang tính đặc trưng chung, đó là là
Trang 5




họ đã nhận thức đúng vai trò quyết định của nguồn lực con người và đầu tư thoả đáng cho
chiến lược con người, đặt lên hàng đầu chất lượng nguồn lao động - đặc biệt là các yếu tố
văn hoá, kỹ thuật và kỷ luật, đi trước một bước về giáo dục và đào tạo, coi đó là chìa khoá
của sự tăng trưởng, là điều kiện đảm bảo cho sự thắng lợi của sự nghiệp Công nghiệp hoá Hiện đại hoá.

Chẳng hạn, để chuẩn bị cho Công nghiệp hoá - Hiện đại hoá, Hàn Quốc đã có kế hoạch “Trí
tuệ hoá toàn dân”.
* Trường hợp của Hàn Quốc cho thấy, các nước nghèo muốn rút ngắn thời kỳ CNH phải
đầu tư mạnh vào phát triển nguồn nhân lực:

+ Trong thời kỳ 1980 – 1990, tuổi giáo dục trung bình của dân số nước này đã tăng tới 9,54
+ Giảm số người mù chữ tới mức không
+ Các trường Đại học cung cấp cho đất nước 3.211 tiến sỹ, 22.000 tốt nghiệp cao học (tính
đến 1992)
+ Số nhân lực R&D đã tăng từ 2765 (năm 1965) lên 70503 (năm 1990)
+ 1990: đầu tư 3.5 triệu USD để mời 100 nhà khoa học nước ngoài về giúp đỡ phát triển khoa
học công nghệ trong nước
* Vấn đề phát triển nhân lực mà Hàn Quốc gặp phải:
Hệ thông giáo dục không linh hoạt để có thể đáp ứng nhu cầu của phát triển công nghiệp, dẫn
đến sự mất tương xứng giữa cung và cầu nhân lực.
Một trong những lý do mất tương xứng là do các trường đại học không có khả năng đáp ứng
trước các nhu cầu thay đổi


Còn Nhật Bản trong kế hoạch phát triển của mình đã đặt giáo dục vào hệ thống 3 chiến
lược: “Giáo dục - Khoa học và mở cửa”.

Người Nhật Bản được biết đến là những người có lòng tự trọng bản thân cao, luôn nghiêm túc
và trách nhiệm trong công việc, văn hóa ứng xử, văn minh lịch sự trong từng cá nhân và một
tinh thần đoàn kết to lớn cả dân khiến cả thế giới nể phục. Bước vào cnh, Nhật bản có lực
lượng lao động đông đảo, trình độ văn hóa khá cao, có kỹ năng nghề nghiệp, được đào tạo
nghề chuyên sâu như lao động kỹ thuật, quản lý. Bên cạnh đó, chính phủ Nhật sử dụng có hiệu
quả nguồn nhân lực như chế độ đãi ngộ, đặc biệt đối với lao động suốt đời hay tạo môi trường
làm việc, quan hệ lao động mang tính gia đình. Trong việc tiếp cận với kỹ thuật tiên tiến
phương Tây là sự kết hợp “kỹ thuật phương Tây” với “Tinh thần Nhật Bản”. Bằng con đường

nhập khẩu với nhiều hình thức khác nhau: nhập khẩu trực tiếp công nghệ, mua bằng phát minh
sáng chế, khuyến khích người Nhật đi du học để tiếp thu những tri thức mới của phương Tây,
và “nhập khẩu" cả chuyên gia giỏi từ nhiều nước khác nhau trên thế giới. Số người nước ngoài

Trang 6


đến làm việc tại Nhật Bản ngày càng nhiều, từ cố vấn kỹ thuật, giáo viên, nhà đầu tư, cho đến
nhà quản lý và thợ lành nghề
Hay ở Đài Loan trong 30 năm từ 1952 đến 1981 tổng giá trị sản phẩm quốc dân tăng 26,43
lần nhưng chi phí cho giáo dục tăng hơn 90 lần...
Có thể nói rằng nền kinh tế xã hội của các nước này có sự phát triển nhanh phần lớn nhờ vào
sự phát triển nguồn lực con người. Kinh nghiệm của các nước này là bài học bổ ích cho đất
nước Viêt Nam cũng như các nước đang phát triển khác đang trong sự nghiệp Công nghiệp
hoá - Hiện đại hoá đất nước.



2. Thực tiễn của Việt Nam:






Nhìn lại toàn bộ sự nghiệp cách mạng của Đảng từ ngày thành lập (3-2-1930) đến nay.
Đảng ta đã nhiều lần khẳng định "con người là vốn quý nhất chăm lo cho hạnh phúc của
con người mục tiêu phấn đấu cao nhất của chế độ ta". Trên thực tế trong suốt những năm
tháng lãnh đạo cách mạng Việt Nam đi từ thắng lợi này đến thắng lợi khác Đảng ta đã cố
gắng làm nhiều việc theo hướng đó. Dân sự chăm lo cho hạnh phúc con người chưa có

nhiều thành công như mong muốn, việc nâng cao đời sống vật chất và tinh thần cho những
người lao động còn thấp, song phần nào đã đáp ứng nguyện vọng của nhân dân, của những
người lao động chăm lo cho hạnh phúc của nhân dân". Việc gì có lợi cho dân, ta phải hết
sức làm, việc gì có hại cho dân ta phải hết sức tránh" đã được Đảng ta đặt lên vị trí hàng
đầu và coi đó là nhiệm vụ Trung tâm. Lời dạy của Chủ tịch Hồ Chí Minh - "Vì lợi ích mười
năm trồng cây, vì lợi ích trăm năm trồng người" và "muốn xây dựng chủ nghĩa xã hội trước
hết cần có những con người xã hội chủ nghĩa" - đã trở thành tư tưởng quán xuyến toàn bộ
sự nghiệp cách mạng của Đảng ta với tư cách là Đảng cầm quyền ngay từ đầu mọi chủ
trương, chính sách, đường lối của Đảng đều quán triệt việc chăm sóc, bồi dưỡng và phát
huy nhân tố con người.
Trong "Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội" Đảng ta
đã chỉ rõ: "Phương hướng lớn của chính sách xã hội là: Phát huy nhân tố con người trên cơ
sở đảm bảo công bằng, bình đẳng về nghĩa vụ và quyền lợi công dân kết hợp tốt tăng trưởng
kinh tế với tiến bộ xã hội, giữa đời sống vật chất và đời sống tinh thần, giữa đáp ứng các
nhu cầu trước mắt với chăm lo lợi ích lâu dài giữa cá nhân với tập thể và cộng đồng xã hội".
Định hướng có ý nghĩa chiến lược đó chính là thể hiện tư tưởng vì con người, của mục tiêu
phát triển con người Việt Nam, toàn diện trong công cuộc xây dựng đất nước theo định
hướng xã hội chủ nghĩa ở nước ta hiện nay.
Từ Đại hội VII, vấn đề phát triển nguồn nhân lực đã được Đảng ta chú trọng, coi đây là
động lực chính tạo nên lực lượng sản xuất - nhân tố quyết định tốc độ và sự phát triển bền
vững của phương thức sản xuất mới ở nước ta trong điều kiện hội nhập quốc tế. Nghị quyết
Trung ương 2 khóa VIII (12-1996) về định hướng chiến lược phát triển giáo dục, đào tạo
trong thời kỳ CNH, HĐH và nhiệm vụ đến năm 2000 khẳng định: “Lấy việc phát huy
nguồn lực con người là yếu tố cơ bản cho sự phát triển nhanh và bền vững”. Mục tiêu và
Trang 7


nhiệm vụ của giáo dục là xây dựng những thế hệ con người thiết tha gắn bó với lý tưởng
độc lập dân tộc và CNXH.
Thực trạng nguồn nhân lực Việt Nam

Nguồn nhân lực nước ta đứng trước tình hình: trẻ (tính theo tuổi đời trung bình – một ưu thế
lớn), đông (một ưu thế lớn khác, nước có dân số đứng thứ 13 trên thế giới), nhưng tỷ lệ tính
trên triệu dân của số người có nghề và có trình độ chuyên môn rất thấp so với tất các nước
trong nhóm ASEAN 6 và Trung Quốc; số cán bộ kỹ trị và có trình độ quản lý cao rất ít so với
dân số cũng như so với quy mô nền kinh tế.
Theo điều tra của Diễn đàn kinh tế thế giới năm 2005: Nguồn nhân lực Việt Nam về chất
lượng được xếp hạng 53 trên 59 quốc gia được khảo sát và mất cân đối nghiêm trọng:
- Ở Việt Nam cứ 1 cán bộ tốt nghiệp đại học có 1,16 cán bộ tốt nghiệp trung cấp và 0,92 công
nhân kỹ thuật, trong khi đó tỷ lệ này của thế giới là 4 và 10;
- Ở Việt Nam cứ 1 vạn dân có 181 sinh viên đại học, trong khi đó của thế giới là 100, của
Trung Quốc là 140 mặc dù mức thu nhập quốc dân tính theo đầu người của TQ khoảng gấp
đôi của nước ta…






Dân số: Việt Nam có quy mô dân số trên 90 triệu người, đứng thứ 13 thế giới, thứ 7 châu Á và
thứ 3 trong khu vực Đông Nam Á. Dân số phân bố không đều và có sự khác biệt lớn theo
vùng. Dân cư Việt Nam phần đông vẫn còn là cư dân nông thôn (khoảng 68 % - năm 2013).
Trình độ học vấn của dân cư ở mức khá; tuổi thọ trung bình tăng khá nhanh (năm 2013 đạt
73,1 tuổi).
Lao động: Lực lượng lao động nước ta hiện nay khoảng 52.207.000 người; hàng năm trung
bình có khoảng 1,5-1,6 triệu thanh niên bước vào tuổi lao động. Thể lực và tầm vóc của
nguồn nhân lực đã được cải thiện và từng bước được nâng cao, tuy nhiên so với các nước
trong khu vực (Nhật Bản, Thái Lan, Sin-ga-po, Trung Quốc,..) nói chung thấp hơn cả về
chiều cao trung bình, sức bền, sức dẻo dai. Lao động Việt Nam được đánh giá là thông minh,
khéo léo, cần cù, tuy nhiên ý thức kỷ luật, năng lực làm việc theo nhóm,… còn nhiều hạn
chế.

Đào tạo: Số lượng nhân lực được tuyển để đào tạo ở các cấp tăng nhanh. Điều này có thể
được xem như là một thành tựu quan trọng trong lĩnh vực đào tạo nhân lực. Theo số liệu
thống kê sơ bộ năm 2013, số sinh viên đại học và cao đẳng là 2.058.922 người, số tốt nghiệp
là 405.900 người; số học sinh các trường trung cấp chuyên nghiệp là 421.705 người. Tuy
nhiên, chất lượng đào tạo, cơ cấu theo ngành nghề, lĩnh vực, sự phân bố theo vùng, miền, địa
phương,… chưa đồng nhất, chưa thực sự phù hợp với nhu cầu sử dụng của xã hội, gây lãng
phí nguồn lực của Nhà nước và xã hội.
Tỷ lệ học sinh trên triệu dân, tỷ lệ số trường các loại trên triệu dân, tỷ lệ số trường đại học
trên triệu dân; tỷ lệ tốt nghiệp đại học trên triệu dân, tỷ lệ có học vị tiến sỹ trên triệu dân của
Trang 8


nước ta đều cao hơn tất cả các nước có mức thu nhập bình quân theo đầu người tương đương
như Thái Lan, nhưng chất lượng đang có nhiều vấn đề.
Điều tra của Bộ giáo dục và đào tạo cho thấy cả nước có tới 63% số sinh viên ra trường
không có việc làm, 37% số còn lại có việc làm thì hầu hết phải đào tạo lại và có nhiều người
không làm đúng nghề mình đã học, trong khi đó nhiều doanh nghiệp, kể cả những doanh
nghiệp có FDI và nhiều dự án kinh tế quan trọng khác rất thiếu lực nguồn lực chuyên nghiệp.
Khoảng 2/3 số người có học vị tiến sỹ trong cả nước không làm khoa học mà đang làm công
tác quản lý; số bài báo khoa học được công bố hàng năm chỉ bằng khoảng ¼ của Thái Lan và
bằng 0,00043% của thế giới, mặc dù số tiến sỹ của ta hàng năm nhận bằng thường nhiều hơn
của Thái Lan, có năm cao gần gấp đôi…
Về trình độ chuyên môn kỹ thuật, tỷ lệ lao động đã qua đào tạo trong toàn bộ lực lượng lao
động từ 15 tuổi trở lên là 17,9%, trong đó ở thành thị là 33,7%, gấp 3 lần tỷ lệ này ở khu vực
nông thôn là 11,2%, phân theo giới tính tỷ lệ này là 20,3% đối với nam và 15,4% đối với nữ;
tỷ lệ nhân lực được đào tạo trình độ cao (từ đại học trở lên) trong tổng số lao động qua đào
tạo ngày càng tăng (năm 2010 là 5,7%, năm 2012 là 6,4%, sơ bộ năm 2013 là 6,9% ).





Sử dụng nhân lực: Lực lượng lao động đã được thu hút vào làm việc trong nền kinh tế là khá
cao. Theo báo cáo của Chính phủ tại Kỳ họp thứ 8 của Quốc hội khoá XIII, nền kinh tế đã
tạo ra trong năm 2013 khoảng 1,58-1,6 triệu việc làm mới; tỷ lệ thất nghiệp là 2,18% (trong
đó thành thị là 3,59%, nông thôn là 1,54%), tỷ lệ thiếu việc làm là 2,75% (trong đó thành thị
là 1,48%, nông thôn là 3,31%).
Năng suất lao động có xu hướng ngày càng tăng: Theo cách tính năng suất lao động đo
bằng tổng sản phẩm trong nước (GDP) theo giá hiện hành chia cho tổng số người làm việc
bình quân trong 01 năm, năng suất lao động năm 2005 là 21,4 triệu đồng/người, năm 2010 là
44,0 triệu đồng/người, năm 2012 là 63,1 triệu đồng/người, sơ bộ năm 2013 là 68,7 triệu
đồng/người.
Đội ngũ nhân lực có trình độ chuyên môn và kỹ năng nghề nghiệp khá đã được thu hút và
phát huy hiệu quả lao động cao ở một số ngành, lĩnh vực như bưu chính viễn thông, công
nghệ thông tin, sản xuất ô tô, xe máy, đóng tàu, công nghiệp năng lượng, y tế, giáo dục,… và
xuất khẩu lao động. Đội ngũ doanh nhân Việt Nam ngày càng tăng về số lượng và cải thiện
về kiến thức, kỹ năng kinh doanh, từng bước tiếp cận trình độ quốc tế.



Kết quả chung là: Nhìn nhận theo góc độ đánh giá nguồn nhân lực, chất lượng con người
Việt Nam thấp về nhiều mặt so với các nước ASEAN6 và Trung Quốc, có nhiều ưu thế không
được nuôi dưỡng và phát huy đúng hướng.
B. Phân tích nội dung:
Sự thành công của quá trình công nghiệp hoá, hiện đại hoá đòi hỏi ngoài môi trường chính trị
ổn định, phải có các nguồn lực cần thiết như: nguồn lực con người, vốn, tài nguyên thiên
nhiên, cơ sở vật chất kỹ thuật, vị trí địa lý, nguồn lực nước ngoài. Các nguồn lực này có quan
Trang 9


hệ chặt chẽ với nhau, cùng tham gia vào quá trình công nghiệp hoá, hiện đại hoá nhưng mức

độ tác động và vai trò của chúng đối với toàn bộ quá trình công nghiệp hoá, hiện đại hoá
không giống nhau, trong đó nguồn lực con người là yếu tố quyết định.
Khái niệm nguồn lực con người
 Nguồn lực con người là tổng thể những tiềm năng năng lực của mỗi cá nhân và cộng
đồng đã và đang và sẽ tạo ra sức mạnh để thúc đẩy XH phát triển.
Nguồn lực con người bao gồm cả số lượng và chất lượng nguồn nhân lực
 Vai trò của nguồn lực con người quan trọng như thế nào đã được chứng minh trong lịch
sử kinh tế của những nước tư bản phát triển như Nhật Bản, Mỹ,… nhiều nhà kinh doanh
nước ngoài khi đến tham quan Nhật Bản thường chỉ chú ý đến kỹ thuật, máy móc và coi
đó là nguyên nhân tạo nên “kỳ tích Nhật Bản”. Nhưng họ đã nhầm, chính người Nhật
Bản cũng không quan niệm như vậy. Người Nhật cho rằng kỹ thuật và công nghệ có vai
trò rất to lớn nhưng không phải là yếu tố quyết định nhất. Yếu tố quyết định nhất dẫn
đến thành công của họ là con người. Cho nên họ đã tập trung cao độ và có những chính
sách độc đáo phát triển yếu tố con người.
 Ngày nay đối với những nước lạc hậu đi sau, không thể phát triển nhanh chóng nếu không
tiếp thu những tiến bộ khoa học-kỹ thuật và công nghệ hiện đại của các nướcphát triển.
Nhưng không phải cứ nhập công nghệ tiên tiến bằng mọi giá mà không cần tính đến yếu tố
con người. Cần nhớ rằng, công nghệ tiên tiến của nước ngoài khi được tiếp thu sẽ phát huy
tác dụng tốt hay bị lãng phí, thậm chí bị phá hoại là hoàn toàn phụ thuộc vào yếu tố con
người khi sử dụng chúng. Nhiều công ty chỉ chú ý đổi mới kỹ thuật và công nghệ nhưng vì
không chú ý đến yếu tố con người nên đều thất bại. Ông Victor S.L.Tan, giám đốc của
Ohostate University đã viết: “Điều mỉa mai lớn nhất còn là ở chỗ, trong có nhiều công ty
đã cố thực hiện đổi mới, nhưng lại có ít công ty thực hiện đủ mức để đạt tới thành công.
Nhiều công cuộc đổi mới đã tiến hành nhưng thất bại vì các công ty đó đã không đưa vào
cấu tạo của kế hoạch đổi mới hoặc chương trình đổi mới của họ một nhân tố khó nhất để
thành công- con người.”
 Như mọi quốc gia khác trên thế giới, sự nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại hoá ở Việt Nam
cũng phải phụ thuộc vào nguồn lực con người và do nguồn lực này quyết định. Bởi vì:

Thứ nhất, các nguồn lực khác như vốn, tài nguyên thiên nhiên, vị trí địa lý… tự nó chỉ

tồn tại dưới dạng tiềm năng. Chúng chỉ phát huy tác dụng và có ý nghĩa tích cực xã hội khi
được kết hợp với nguồn lực con người thông qua hoạt động có ý thức của con người. Bởi lẽ,
con người là nguồn lực duy nhất biết tư duy, có trí tuệ và có ý chí, biết “lợi dụng” các
nguồn lực khác, gắn chúng kết lại với nhau, tạo thành một sức mạnh tổng hợp, cùng tác
động vào quá trình công nghiệp hoá, hiện đại hoá. Các nguồn lực khác là những khách thể
chịu sự cải tạo, khai thác của con người, hết thảy chúng đều phục vụ cho nhu cầu, lợi ích
của con người, nếu con người biết cách tác động và chi phối. Vì thế trong các yếu tố cấu
thành lực lượng sản xuất, người lao động là yếu tố quan trọng nhất, là “lực lượng sản xuất
hàng đầu của toàn nhân loại”.


Trang 10


Chẳng hạn như vốn cũng là một nguồn lực để tiến hành công nghiệp hoá, hiện đại hoá
nhưng vốn chỉ trở thành nguồn lực quan trọng và cấp thiết của sự phát triển khi nó nằm
trong tay những người biết sử dụng đúng mục đích và có hiệu quả cao.
Tương tự như vậy, sự giàu có về tài nguyên thiên nhiên và những ưu thế về vị trí địa lý cũng
sẽ mất ý nghĩa nếu chủ nhân của nó không có năng lực khai thác.
Ngày nay trước xu hướng quốc tế hoá đời sống kinh tế, sự hợp tác đầu tư nước ngoài cũng
là nguồn lực quan trọng, nó tạo ra “cái hích” kinh tế, nhất là với các nước có điểm xuất phát
thấp, nhưng sức mạnh của “cái hích” này đến đâu, tác động tích cực của nó như thế nào còn
tuỳ thuộc vào yếu tố con người khi tiếp nhận nguồn lực đó.
Xét đến cùng nếu thiếu sự hiện diện của trí tuệ và lao động của con người thì mọi nguồn lực
đều trở nên vô nghĩa thậm chí khái niệm “nguồn lực” cũng không còn lý do gì để tồn tại.
Thứ hai, các nguồn lực khác là hữu hạn, có thể bị khai thác cạn kiệt, trong khi đó nguồn
lực con người lại là vô tận. Nó không chỉ tái sinh và tự sản sinh về mặt sinh học mà còn tự
đổi mới không ngừng, phát triển về chất trong con người xã hội, nếu biết chăm lo, bồi
dưỡng và khai thác hợp lý. Đó là cơ sở làm cho năng lực nhận thức và hoạt động thực tiễn
của con người phát triển như một quá trình vô tận xét trên bình diện cộng đồng nhân loại.

Nhờ vậy con người đã từng bước làm chủ tự nhiên, sáng tạo, khám phá ra nhiều nguồn tài
nguyên mới, nhiều công cụ sản xuất có hiệu quả hơn, đưa xã hội chuyển qua các nền văn
minh từ thấp đến cao.

Thứ ba, trí tuệ con người có sức mạnh vô cùng to lớn một khi nó được vật thể hoá, trở
thành lực lượng sản xuất trực tiếp. Dự báo vĩ đại này của C.MáC đã và đang trở thành hiện
thực. Sự phát triển như vũ bão của cuộc cách mạng khoa học-kỹ thuật và công nghệ hiện
đại đang dẫn nền kinh tế của các nước công nghiệp phát triển vận động đến nền kinh tế của
trí tuệ. Giờ đây sức mạnh của trí tuệ đã đạt đến mức mà nhờ nó con người có thể sáng tạo ra
những người máy “bắt chước” hay “phỏng theo” những đặc tính trí tuệ của chính con
người. Rõ ràng là bằng những kỹ thuật công nghệ hiện đại do chính bàn tay khối óc con
người làm ra mà ngày nay nhân loại đang chứng kiến những biến đổi thần kỳ trong lịch sử
phát triển của mình.

Thứ tư, kinh nghiệm của nhiều nước và thực tiễn của chĩnh nước ta cho thấy sự thành
công của công nghiệp hoá, hiện đại hoá phụ thuộc chủ yếu vào việc hoạch định đường lối,
chính sách cũng như tổ chức thực hiện, nghĩa là phụ thuộc vào năng lực nhận thức và hoạt
động thực tiễn của con người. Đối với những nền kinh tế nông nghiệp chưa công nghiệp
hoá thì mặt số lượng của nguồn nhân lực có tầm quan trọng đặc biệt vì nó qui định quy mô
của thị trường. Nhưng khi tiến hành công nghiệp hoá thì mặt chất lượng, cơ cấu và cơ chế
sử dụng nguồn nhân lực lại quan trọng hơn. Cơ cấu lao động cần cho quá trình công nghiệp
hoá phải bao gồm: các chính khách, các nhà hoạch định chính sách, các học giả, các nhà
kinh doanh, các nhà kỹ thuật và công nghệ, các công nhân lành nghề… không có các chính
khách, các học giả tài ba thì khó có thể có được những chiến lược, chính sách phát triển


Trang 11


đúng đắn; không có các nhà kinh doanh lỗi lạc thì cũng sẽ không có người sử dụng một

cách có hiệu quả các nguồn vốn, nhân lực, công nghệ. Sự thiếu vắng hay kém cỏi của một
trong các bộ phận cấu thành nhân lực trên đây sẽ có hại cho quá trình công nghiệp hoá, hiện
đại hoá đất nước.


Qua toàn bộ phân tích trên có thể kế luận rằng nguồn lực con người là nguồn lực có vai trò
quyết định sự thành công của sự nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước. Do vậy,
muốn công nghiệp hoá, hiện đại hoá thành công thì phải đổi mới cơ bản các chính sách đầu tư
cho các ngành khoa học, văn hoá, giáo dục, y tế ở Việt Nam nhằm phát triển nguồn lực con
người cho công nghiệp hoá, hiện đại hoá. Đây là nhiệm vụ lớn nhất và khó khăn nhất trong
công cuộc đổi mới hiện nay.
C. Nhận thức của bản thân:
I. Đánh giá về quan điểm:
Quan điểm trên hoàn toàn đúng đắn vì:




Lấy việc phát huy nguồn lực con người làm yếu tố cơ bản cho sự phát triển nhanh và bền
vững điều đó động viên toàn dân cần kiệm xây dựng đất nước, không ngừng tăng tích luỹ
cho đầu tư phát triển. Tăng trưởng kinh tế gắn với đời sống nhân dân, phát triển văn hoá,
giáo dục, thực hiện tiến bộ, công bằng xã hội. Công nghiệp hoá, hiện đại hoá không chỉ đòi
hỏi phải có vốn, kỹ thuật, tài nguyên... mà còn cần phải phát triển một cách tương xứng
năng lực của con người sử dụng những phương tiện đó. Nguồn nhân lực đáp ứng nhu cầu
công nghiệp hoá, hiện đại hoá bao gồm những con người có đức, có tài, ham học hỏi, thông
minh, sáng tạo, làm việc quên mình vì nền độc lập và sự phồn vinh của Tổ quốc; được
chuẩn bị tốt về kiến thức văn hoá, được đào tạo thành thạo về kỹ năng nghề nghiệp, về năng
lực sản xuất kinh doanh, về điều hành vĩ mô nền kinh tế và toàn xã hội, có trình độ khoa
học- kỹ thuật vươn lên ngang tầm thế giới.
Để có nguồn nhân lực phù hợp với yêu cầu công nghiệp hoá, hiện đại hoá, phải coi việc đầu

tư cho giáo dục, đào tạo là một trong những hướng chính của đầu tư phát triển, giáo dục và
đào tạo phải thực sự trở thành quốc sách hàng đầu. Phải đào tạo ra một cơ cấu nhân lực
đồng bộ bao gồm các lĩnh vực khoa học tự nhiên, khoa học xã hội, cán bộ nghiên cứu và
triển khai công nghệ, cán bộ quản lý, nghiệp vụ kinh tế, cán bộ trong các ngành kinh doanh,
công nhân kỹ thuật... Việc xây dựng nguồn nhân lực cho công nghiệp hoá, hiện đại hoá phải
tiến hành với tốc độ, quy mô thích hợp, đáp ứng yêu cầu của mỗi thời kỳ trong quá trình
công nghiệp hoá, hiện đại hoá. Đi đôi với việc đào tạo, bồi dưỡng, phải bố trí và sử dụng tốt
nguồn nhân lực đã được đào tạo, phát huy đầy đủ khả năng, sở trường và nhiệt tình lao
động sáng tạo của họ để sáng tạo ra năng suất, chất lượng và hiệu quả kinh tế cao, đóng góp
xứng đáng vào sự nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước.

II. Trách nhiệm của bản thân:
Trang 12


Trong công nghiệp hóa, hiện đại hóa, con người là nhân tố quan trọng. Chính vì vậy với cương
vị là một công dân Việt Nam, chúng em nhận thức sâu sắc được trách nhiệm và nghĩa vụ của
bản thân. Hiện tại, đang là những sinh viên đại học, trong tương lai sẽ là những người công
dân của đất nước, là những người tiếp nối ông, cha xây dựng đất nước. Chúng em hiểu rằng
ngay từ khi còn trên ghế nhà trường, cần rèn luyện, tu dưỡng một cách nghiêm túc. Để trở
thành công dân tốt, phát huy những truyền thống tốt đẹp của dân tộc Việt Nam và xây dựng
đất nước ngày càng giàu mạnh, sánh vai với các cường quốc năm châu.


Trách nhiệm với bản thân:

Cuộc sống, xã hội ngày càng phát triển, vì thế mà mỗi chúng ta đều cần không ngừng thay đổi,
rèn luyện bản thân. Đó không chỉ là việc học tập mà còn là việc luyện tập thể dục thể thao, giữ
sức khỏe, ăn uống điều độ để có một cuộc sống lành mạnh. Tập thể được tạo nên từ những cá
thể đơn lẻ, vì vậy, nếu muốn môi trường tốt đẹp thì phải xây dựng, giữ gìn từ từng cá thể.

Do đó, chúng em hiểu được rằng phải tự giác điều chỉnh để có chế độ sinh hoạt hợp lí, lành
mạnh. Đa số sinh viên Việt Nam hiện nay có tình trạng thức khuya, ngủ không đúng giờ, sinh
hoạt không điều độ. Đây là nguyên nhân khiến sức khỏe và khả năng làm việc cũng kém đi.
Chúng em nhận thấy phải xây dựng lại đồng hồ sinh học của bản thân, đi ngủ đúng giờ, đủ giờ
để luôn có được sự tỉnh táo, minh mẫn trong học tập, làm việc. Cần có chế độ dinh dưỡng phù
hợp, an toàn, tránh sử dụng các thức ăn đường phố không đảm bảo, để có đủ sức khỏe. Ngoài
ra, nên tập thể dục, thể thao, rèn luyện thể lực, để nâng cao sức đề kháng, đồng thời tạo nên
cuộc sống lành mạnh, vui vẻ.
Việc có trách nhiệm với chính bản thân mình cũng chính là có trách nhiệm tạo nên một xã hội
tươi đẹp, giảm bớt các tệ nạn xã hội.


Trách nhiệm với gia đình:

Gia đình là những người gần gũi và luôn sẵn sàng giúp đỡ chúng ta bất cứ khi nào. Một người
sinh ra và trưởng thành từ gia đình. Vì vậy mà mọi thói quen, tính cách cũng sẽ ảnh hưởng bởi
gia đình. Đồng thời, bản thân người đó cũng tác động lại các thành viên trong gia đình. Xã hội
được tạo thành từ các hộ gia đình. Gia đình văn hóa, hạnh phúc cũng chính là mảnh ghép cho
đất nước văn minh, hiện đại.
Hiểu được điều đó, chúng em biết rằng cần yêu thương, quan tâm ông bà, bố mẹ, hòa thuận,
đùm bọc anh, chị, em trong gia đình. Trong quá trình học đại học xa nhà, học thêm được điều
tốt điều hay, cần có ý thức truyền đạt lại cho người thân. Cùng mọi người từng bước trở thành
những công dân hiện đại, văn minh và giàu tình cảm.
Thế hệ ông cha cũng là những người đã và đang xây dựng đất nước, hiểu thảo với ông bà, cha
mẹ, cũng phần nào thể hiện lòng kính trọng và biết ơn tới công lao của những người đã hi sinh

Trang 13


vì cuộc sống, tương lai. Và từ đó, chúng em lắng nghe những câu chuyện lịch sử, câu chuyện

dựng nước, giữ nước, làm tiền đề cho sự nghiệp xây dựng xã hội sau này.


Trách nhiệm với bạn bè, người thân:

“Một cây chẳng làm nên non, ba cây chụm lại nên hòn núi cao” - đây chính là câu nói mà mọi
người đều biết. Câu nói mang ý nghĩa một người thì không tạo nên sức mạnh, nhưng nhiều
người cùng góp sức sẽ thành công. Chính vì vậy, chúng ta cần đoàn kết, giúp đỡ bạn bè, người
thân. Cùng nhau rèn luyện, học tập để có được kết quả tốt. Luôn giữ thái độ trong sáng và
nhiệt tình, thân thiện, tạo dựng những tình cảm bạn bè bền lâu, tốt đẹp. Trong tương lai, đây sẽ
là những mối quan hệ giúp chúng ta trưởng thành. Cùng nhau trưởng thành và góp phần xây
dựng đất nước phát triển, giàu mạnh hơn.


Trách nhiệm với xã hội:

Khắp mọi nơi trên đất nước Việt Nam, vẫn còn những tệ nạn xã hội, những mảnh đời bất hạnh.
Chúng em rất biết ơn vì được đi học, được cuộc sống tốt hơn mà nhiều người mong muốn. Vì
vậy, chúng em cần có trách nhiệm chia sẻ, đùm bọc những người có hoàn cảnh khó khăn. Có
thể chưa có điều kiện về kinh tế, nhưng chúng em có thể tham gia tình nguyện, hiến máu, ủng
hộ đồ dùng học tập, quần áo cũ cho những em nhỏ vùng cao. Đồng thời, cần nâng cao ý thức
tránh xa các tệ nạn xã hội, tuyên truyền cho mọi người về những điều tốt, điều hay.
Một vấn đề vô cùng cấp bách đó là việc bảo vệ môi trường. Hiện tại, là những sinh viên trong
quá trình rèn luyện, chưa thể quyết định được các chính sách to lớn cho đất nước. Nhưng việc
mà chúng em có thể làm được đó là bảo vệ môi trường, không vứt rác bừa bãi, phân loại rác
để có thể tái sử dụng. Không hái hoa, bẻ cành, hoặc gây ảnh hưởng xấu đến cây xanh. Tuyên
truyền và thực hiện các chương tình bảo vệ cây xanh, chống nạn phá rừng, lâm tặc ở địa
phương.



Có thể giúp đỡ đất nước, góp phần công sức trong sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa
hay không, thì mỗi chúng ta đều cần có trí tuệ, có kiến thức. Chúng em nhận thức sâu sắc
được yếu tố quan trọng này, nên sẽ cố gắng học tập trên lớp chăm chỉ. Để có được những kiến
thức theo mỗi ngành nghề thật tốt, tạo nền móng cho công việc sau này.
Hơn ai hết chúng em hiểu được sự may mắn của bản thân khi được học dưới mái trường Kinh
tế Quốc dân đầy tự hào. Được trau dồi kiến thức bởi các thầy cô có bề dày chuyên môn, kinh
nghiệm, chúng em càng cần cố gắng để tiếp thu được những kiến thức bổ ích. Dù học ở ngành,
khoa, viện nào, chúng em điều hiểu được tầm quan trọng của chuyên ngành đó trong sự
nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước. Do vậy, chúng em hứa sẽ có ý thức học tập
nghiêm túc, để chuẩn bị hành trang tốt nhất cho tương lai.

Trang 14



×