Tải bản đầy đủ (.doc) (14 trang)

Một số kinh nghiệm sạy văn học nước ngoài ở cấp THCS

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (107.14 KB, 14 trang )

Phần I: ĐẶT VẤN ĐỀ
Văn chương nước ngoài là một bộ phận quan trọng trong chương trình Ngữ văn Trung
học cơ sở , gồm những sáng tác dân gian, văn thơ cổ điển, văn thơ hiện đại được chọn và
bố trí song song với chương trình văn học dân tộc. Cùng với văn học dân tộc, văn chương
nước ngoài đã góp phần tạo điều kiện cho học sinh mở rộng tầm nhìn và khả năng cảm
thụ tinh hoa văn hoá nhân loại, hiểu biết thêm về cuộc sống và tài năng sáng tạo của các
dân tộc từ đó hiểu rõ hơn đất nước, dân tộc và văn hoá dân tộc đồng thời phát triển tinh
thần quốc tế và ý thức về cộng đồng văn hoá nhân loại. Đó là những sáng tác được chọn
lọc trong kho tàng văn học của các dân tộc. Nói rộng ra đó là tinh hoa văn hoá nhân loại
đủ sức vượt qua sự thử thách khắc nghiệt của thời gian, của không gian đến với chúng ta
hôm nay. Ta bắt gặp ở đây những tác phẩm đã thành mẫu mực của văn học thế giới từ các
chuyện cổ tích như : “Cây bút thần” (Trung Quốc), “Ông lão đánh cá và con cá vàng”
(Nga ) cho đến các tác phẩm văn chương nổi tiếng của các nhà văn lớn của các dân tộc
cũng là của thế giới như Đôn- ki-hô-tê” của (Xéc-van-tét), “Cô bé bán diêm” của (Anđéc-xen), “Chiếc lá cuối cùng” của (OHen-ry), thơ của Lý Bạch, Đỗ Phủ. Truyện của Lỗ
Tấn, A. Tôn-xtôi, Mô-pa-xăng, Giắc Lơn-đơn, Ai-ma-tốp, các trích đoạn kịch cổ điển
Pháp, Anh của Mô-li-e, Sếc-xpia. Nhìn chung, đó là những tác phẩm rất giàu giá trị nhân
bản, giàu tinh thần dân tộc có tác dụng rất lớn trong việc giáo dục tình cảm cao đẹp, bồi
dưỡng tâm hồn trong sáng và ý thức vươn tới điều thiện để phát triển và hoàn thiện nhân
cách cho học sinh. Đó còn là những tác phẩm có giá trị nghệ thuật lớn, đạt trình độ mẫu
mực được viết ra bởi tài nghệ bậc thầy của các nhà văn xuất sắc. Tuy nhiên, trong thực tế
dạy và học tác phẩm văn chương nước ngoài ở trung học cơ sở hiện nay gặp rất nhiều
khó khăn mà trước hết khó khăn lớn nhất là khoảng cách khá lớn về không gian và thời
gian, về lịch sử và tâm lý. Đứng trước nhiều tác phẩm văn chương nước ngoài, nhiều giáo
viên nhất là học sinh cảm thấy vô cùng xa lạ. Nếu không được giải thích, hướng dẫn thì
trong tiếp cận khó mà hiểu, cảm nổi.
Khó khăn lớn thứ hai là chúng ta dạy và học văn chương nước ngoài trong điều kiện
tài liệu, sách vở phục vụ cho tham khảo còn khan hiếm. Nhiều tác phẩm, giáo viên mới
được nghe lần đầu tiên. Nhiều tác phẩm ,giáo viên nghe tên nhưng chưa được một lần
nhìn tận mắt. Hầu hết tác phẩm được đưa vào chương trình giáo viên chỉ biết được qua
sách giáo khoa, qua tóm tắt, qua trích đoạn.Khó khăn này không phải một sớm một
chiều mà khắc phục được. Trước những thực trạng khó khăn trong việc tiếp cận, việc dạy


và học các tác phẩm văn chương nước ngoài như vậy, với tấm lòng yêu nghề, yêu bộ môn
và trong thực tế giảng dạy ,tôi đã cùng nhiều đồng nghiệp tìm ra những hướng dạy, bàn
cách khắc phục những khó khăn trên để góp phần nâng cao hiệu quả của các giờ học ngữ


văn. Trong khuôn khổ của đề tài này, tôi xin mạnh dạn góp thêm " Một số kinh nghiệm
sạy văn học nước ngoài ở cấp THCS”
Phần 2: GIẢI QUYẾT VẤN ĐỀ
I, Điều tra thực trạng trước khi nghiên cứu:
Trước khi nghiên cứu và thực nghiệm đề tài này tôi đã cùng với các đồng nghiệp trong
nhóm Ngữ văn của nhà trường tiến hành khảo sát các tiết dạy và học phần văn học nước
ngoài trong chương trình đối với các khối lớp 6, 7, 8,9 trong năm học: 2016-2017.
Hình thức và nội dung khảo sát: Tập trung vào mảng kiến thức thuộc phần văn học nước
ngoài đã dạy thực tế trong chương trình ở các khối 6, 7, 8, 9 của năm học: 2016-2017
. + Thông qua các buổi sinh hoạt tổ, nhóm chuyên môn, qua dự giờ đồng nghiệp, thăm
lớp rút kinh nghiệm và đánh giá chất lượng, kết quả của các tiết dạy và học từ đó rút ra
những phương pháp và biện pháp chung trong dạy và học các loại thể văn học nước
ngoài.
+ Sử dụng phiếu học tập với những câu hỏi trắc nghiệm để kiểm tra việc nắm kiến thức
bài học, sự hiểu biết của học sinh về các tác giả, tác phẩm văn học nước ngoài.
+ Tiến hành cho học sinh làm các bài kiểm tra viết để đánh giá tổng quát khả năng cảm
thụ, phân tích những giá trị nghệ thuật và nội dung của các tác phẩm văn học nước ngoài.
2, Kết quả khảo sát:
Khối
Lớp
Sĩ số
Giỏi
khá
Trung
Yếu

bình
6
6a
40
03
7.5 6
15
21 51
10
25
6b
40
02
5
10
25
14 35
14
35
7
8d
39
2
5
10
25.5 17 43
10
25.5
8e
41

3
7
12
29
14 34
12
7
Qua thực tế và kết quả khảo sát tôi nhận thấy rằng:
+ Sự hiểu biết của học sinh về các tác giả cũng như các tác phẩm văn học nước ngoài
được học trong chương trình còn rất hạn chế.
+ Khả năng tiếp thu và cảm nhận những tác phẩm văn chương nước ngoài chưa cao.
+ Kỹ năng phân tích và cảm thụ những giá trị đặc sắc về nghệ thuật và nội dung các tác


phẩm văn chương nước ngoài còn hời hợt và chưa sâu sắc.
Vì vậy số bài đạt điểm khá chưa cao..
+ Ở một vài giáo viên sự hiểu biết về phong tục, tập quán sinh hoạt, quan niệm thẩm mĩ
của dân tộc đó sản sinh ra tác phẩm chưa thật sâu sắc, chưa có điều kiện đọc trọn vẹn các
tác phẩm có đoạn trích được dạy.
II, Những công việc thực tế đã làm và kết quả đạt được.
1. Những nguyên tắc chung:
1a. Muốn dạy tốt các tác phẩm văn chương nước ngoài phải trực tiếp tiếp xúc
với tác phẩm: Có thể coi đây là một yêu cầu nghiêm ngặt đối với giáo viên và học
sinh khi dạy học tác phẩm văn chương. Nhưng với các tác phẩm văn chương nước
ngoài thì đây là một yêu cầu khá cao, song phải tìm mọi cách mà thực hiện cho được.
Có thể tổ chức cho tổ, nhóm chuyên môn chia nhau tìm đọc, trao đổi với nhau. Cũng
có thể tổ chức báo cáo trong sinh hoạt chuyên môn hoặc có thể tổ chức ngoại khoá
cho học sinh. Nếu không đọc được tác phẩm thì cũng phải được nghe, được kể, được
thảo luận về tác phẩm mà mình phải dạy và học.
1b. Tìm hiểu những vấn đề liên quan đến tác phẩm: Sự hiểu biết về tác giả, về

thời đại, về đất nước đó sản sinh ra tác phẩm, những đặc sắc về thiên nhiên, về tập
tục xã hội nhất là về tâm lý dân tộc sẽ giúp ta hiểu và cảm tác phẩm văn chương
nước ngoài rất nhiều. Những điều đó không dễ gì có đươc nếu chúng ta không tìm tòi
học hỏi. Chúng ta sẽ không cảm và hiểu tốt đoạn trích " Đánh nhau với cối xay
gió"trong “Đôn-ki hô- tê” của Xéc-van-tét. Nếu ta không hiểu biết gì về đất nước
Tây Ban Nha thời trung cổ, sự tan rã của ý thức hệ phong kiến và sự hình thành của ý
thức hệ tư sản. Vì vậy việc tìm đọc các tài liệu có liên quan trên các tạp chí, các sách
báo rất cần thiết đối với giáo viên và học sinh nhất là giáo viên trong việc dạy học tác
phẩm văn chương, nhất là tác phẩm văn chương nước ngoài.
1c. Muốn dạy tốt tác phẩm cần hiểu đúng tác phẩm: Muốn dạy tốt văn bản thì
phải hiểu đúng nó, tìm hiểu nó đúng trong vị trí tác phẩm, hiểu được toàn bộ tác
phẩm và dụng ý nghệ thuật của tác giả ,từ đó mới lựa chọn được vấn đề và cách
hướng dẫn học sinh tìm hiểu, khám phá và lĩnh hội cho phù hợp với trình độ học
sinh. Đây là một yêu cầu cao song với tác phẩm văn chương nước ngoài thì việc hiểu
đúng tác phẩm là một yêu cầu quan trọng. Hầu như giáo viên chỉ mới biết được nhà
văn Giắc-lơn-đơn và "Tiếng gọi nơi hoang dã" qua một đoạn trích không trọn vẹn
trong sách giáo khoa. Cũng vì vậy mà chưa hiểu được tinh thần của văn bản cũng


như chưa hiểu sâu sắc tác giả và nội dung toàn bộ tác phẩm. Thực ra, đây chỉ là một
đoạn trích trong tác phẩm “Tiếng gọi nơi hoang dã"của Giắc-lơn-đơn, một nhà văn
Mỹ nổi tiếng thế kỷ XIX đầu thế kỷ XX. “Tiếnggọi nơi hoang dã" là một kiệt tác của
nhà văn nhằm chứng minh: mâu thuẫn giữa sự tàn bạo dã man của cái gọi là văn
minh và sự tự do của loài vật sống hoang dã trong thiên nhiên. Kiệt tác này được nhà
văn viết từ 1903. Truyện kể về số phận của con chó Bấc bị bắt cóc mang đi khỏi
trang trại của một người chủ giàu có ở Ca-li-phoóc-ni-a, và bị ném vào vùng Bắc cực
hoang dã trong cuộc săn vàng của con người. Thiên nhiên nguyên thuỷ, sự nghiệt
ngã tàn bạo của môi trường đã đánh thức và làm phát triển mạnh mẽ trong đáy sâu
thẳm của nó những bản năng thú dữ của tổ tiên nó. Nó đã sống với đủ hạng người
phần lớn họ là những kẻ độc ác, tàn bạo đối với thú vật. Chỉ có một người là chiếm

được thiện cảm của nó bằng lòng nhân đạo và tình thương yêu rộng lớn. Đó là Giôn
Thoóc Tơn. Truyện toát lên một nhân sinh quan rõ rệt: Lòng thương yêu loài vật, ông
cho rằng chỉ có trên cơ sở một tình thương yêu vô hạn đối với loài vật mới chiến
thắng được những con vật, thậm chí là những con vật dữ tợn. Tình yêu thương thực
sự và nồng nàn đến mức cuồng nhiệt dấy lên trong lòng con chó Bấc thì đến Giôn
Thoóc Tơn mới khơi dậy được những điều đáng tìm hiểu là vì sao mà Bấc yêu
thương Giôn Thoóc Tơn đến mức có những hành động đep đẽ thế? Bởi vì con người
này đã cứu sống nó. Nhưng hơn thế nữa, con người này là một ông chủ lý tưởng.
Anh chăm sóc chó của mình như thể chính nó là con cái của anh vậy. Có đọc toàn bộ
tác phẩm ta mới thấy hết tình thương yêu thực sự của Giôn Thoóc Tơn đối với loài
vật mà cụ thể là đối với con chó Bấc trong sự so sánh với bao nhiêu ông chủ trước
đó, trong bối cảnh khốc liệt của cuộc hành trình dai dẳng dài dặc trên những con
đường ngập tuyết, trong cơn tuyệt mệnh của đàn chó. Chính đây mới là phần cốt yếu
của tác phẩm, mới là dụng ý nghệ thuật của tác giả. Chỉ có trên cơ sở tình yêu vô hạn
đối với loài vật mới chiến thắng được những con vật. Nội dung của tác phẩm là thế,
tư tưởng của tác phẩm cũng là thế nhưng nếu chỉ dựa vào tên của văn bản, qua hai
chiến côngcủa con chó, nhiều người chỉ thấy nổi lên hình ảnh “Con chó Bấc” mà
thôi.
Dạy học tác phẩm văn chương nước ngoài cũng là dạy-học tác phẩm văn chương
nói chung. Đó cũng là tác phẩm văn chương dân gian, văn chương cổ điển và văn
chương hiện đại. Đó cũng là tác phẩm trữ tình và tự sự. Dạy học tác phẩm văn

5


chương nước ngoài cũng đến phải vận dụng các phương pháp và biện pháp dạy học
tác phẩm văn chương nói chung nhưng với tác phẩm văn chương nước ngoài, do
những đặc điểm, những khó khăn như đã nói ở trên nên ta cần vận dụng những hình
thức, biện pháp sao cho hợp lý và đạt được hiệu quả giờ dạy.
2a. Tìm hiểu bối cảnh lịch sử và hoàn cảnh sáng tác tác phẩm: Tác phẩm văn

chương bao giờ cũng mang trên mình dấu ấn của một thời lịch sử nhất định. Vì vậy
việc tìm hiểu bối cảnh lịch sử và hoàn cảnh sáng tác bao giờ cũng là một yêu cầu có
tính nguyên tắc. Dạy học tác phẩm văn chương nước ngoài thì việc tìm hiểu bối cảnh
lịch sử và việc sáng tác thật là việc vô cùng quan trọng. Vì đây là những điều rất xa
lạ đối với học sinh. Sự phụ thuộc của tác phẩm văn chương vào hoàn cảnh lịch sử sẽ
rất khó giải thích cho học sinh nếu như không gắn liền với những điểm phân tích,
đánh giá chung với hoàn cảnh cuộc sống và hoạt động sáng tác của nhà văn. Có như
thế mới giúp học sinh có điều kiện tìm hiểu sâu tác phẩm.
2b. Tìm hiểu phong tục, tập quán sinh hoạt, quan niệm đạo đức, thẩm mĩ của
dân tộc đã sản sinh ra tác phẩm trong mối tương quan với văn hoá dân tộc. Để
hiểu cảm đúng tác phẩm văn chương nước ngoài, giáo viên cần giúp học sinh hiểu
được phong tục, tập quán sinh hoạt cũng như quan niệm đạo đức, thẩm mĩ của dân
tộc mà tác phẩm phản ánh trong mối tương quan với nền văn hoá dân tộc mình. Đặt
tác phẩm văn học vào mối tương quan văn học của hai dân tộc là để khai thác đến
cạn kiệt những tư tưởng hữu dụng cho đời sống tinh thần công dân tương lai, kích
thích những truyền thống tốt đẹp hiện tại, để hiểu sâu sắc hơn nhân loại. Cho đến
nay, dạy học văn học phục hưng Anh hay Tây Ban Nha trong nhà trường vẫn là vấn
đề khó với thầy và trò. Thời đại phục hưng ở Châu Âu, từ Ý qua Pháp rồi đến nhiều
nước. Ở mỗi nước lại có màu sắc riêng. Vì sao chàng Đôn- ki-hô-tê lại nói nhiều lời
có cánh? Nhưng chính chàng lại là một hiệp sĩ đạo không hợp thời, hình ảnh hiệp sĩ
đạo ở Việt Nam học sinh khó hình dung ra. Đôn Ki-hô-tê yêu tự do, công bằng, nhân
đạo, Xan-trô pan-xa thì thực tế, lạc quan, lành mạnh, yêu đời. Cả hai nhân vật chung
đúc lại đã làm nổi bật truyền thống đạo đức của nhân dân Tây Ban Nha. Cái mê sảng
và cả cái tỉnh táo đến siêu việt của Đôn-ki hô-tê chứng tỏ Xéc-van-tex tán thành lý
tưởng nhân đạo là tuyệt vời nhưng khó thực hiện được trong thời đại mà tầng lớp quý
tộc lại toan làm cái đó là mơ hồ ảo tưởng. Tác phẩm có nhạo báng sách hiệp sĩ nhưng
cơ bản vẫn là khẳng định khát vọng, lý tưởng nhân văn cao cả của những con người
khổng lồ trong một xã hội đầy đen tối xấu xa. Nếu không cảnh giác, đấy chỉ là một
ảo tưởng, một trò cười lịch sử. Hoặc cái lối “vẽ trăng thấy mây”, “ý ở ngoài lời”, “ý
đến mà bút chẳng cần đến”, hay việc sử dụng vần (nhất, tam, ngũ bất luận; nhị , tứ,

lục phân minh), những kiểu đối:


Đối thanh, đối ý (24 loại), những bút pháplấy“động” tả “tĩnh”; “cao” tả “thấp”;
“quá khứ” tả “hiện tại”. Trong thơ Đường cũng cần được học sinh hiểu biết trước khi
đi sâu vào tìm hiểu những bài thơ của Lý Bạch, Đỗ Phủ, Hạ Tri Chương. Đặt tác
phẩm trong mối tương quan văn hoá của hai dân tộc sẽ giúp cho việc nghiên cứu tác
phẩm cụ thể nhận ra và làm phong phú hơn đời sống tâm hồn và tình cảm dân tộc của
mỗi người khi tiếp xúc với tác phẩm. Trên thực tế trong quá trình tiếp xúc với tác
phẩm dù thế nào cũng vẫn gợi ra sự liên tưởng so sánh nhất định nhưng trong chương
trình văn học nước ngoài ở Trung học cơ sở, có rất nhiều điểm khác nhau, thậm trí
trái ngược nhau trong cách cảm, cách nghĩ và cách diễn đạt bởi thế, để học sinh hiểu
cảm đúng tác phẩm, cần phải giúp học sinh rút ngắn khoảng cách này lại.
2c. Tìm hiểu mối quan hệ giữa văn bản ngôn từ và văn bản hình tượng. Văn
chương nước ngoài đến với giáo viên và học sinh đều qua lời dịch của các dịch giả.
Văn bản tác phẩm mà giáo viên và học sinh được dạy-học là văn bản dịch chứ không
phải là nguyên tác. Như thế người dịch đã phải thực thi một hoạt động rất phức tạp
là:
- Chuyển dịch một tác phẩm từ một ngôn ngữ khác.
- Chuyển dịch một tác phẩm từ một thời gian này (thời gian lich sử xuất hiện
nguyên bản) sang một thời gian khác (thời gian lịch sử của bản dịch).
- Chuyển dịch một tác phẩm từ một không gian văn hoá này sang một không gian
văn hoá khác.
Như vậy, dịch bản là văn bản hình tượng. Dạy học tác phẩm văn chương nước
ngoài chủ yếu là dạy học trên văn bản hình tượng gặp phải những bài thơ nước ngoài
từ nguyên bản đến bản dịch nghĩa, sang đến bản dịch thơ thì về mặt ngôn từ đã có sự
khác nhau rất xa những bài thơ của Đỗ Phủ, Lý Bạch trong thơ Đường đều nằm trong
trường hợp đó. Thế là việc bám lấy ngôn từ để khai thác như với trường hợp thơ nói
chung là không thể được. Nhưng các đặc điểm khác của thi pháp bài thơ lại có thể
giúp ta hiểu cảm bài thơ thì lại phải khai thác. Tuỳ từng bài mà có cách vận dụng linh

hoạt, sáng tạo để đạt hiệu quả cao trong các tiết dạy và học tác phẩm. Đó là điều
cần được quán triệt trong dạy học tác phẩm văn chương nước ngoài. Ta có thể thấy,
biện pháp so sánh, đối chiếu là biện pháp đặc trưng, đắc dụng trong quá trình dạy học
tác phẩm văn chương nước ngoài. Biện pháp đó được thực hiện trong việc đối chiếu
bản dịch với nguyên tác, so sánh các chi tiết, các hình ảnh cùng một phong cách, một
giọng điệu để giúp học sinh hiểu cảm tác phẩm sâu sắc hơn. VD: Khi dạy văn bản
"Tình dạ tứ"(Cảm nghĩ trong đêm thanh tĩnh) của Lý Bạch, qua biện pháp đối chiếu,
so sánh bản dịch thơ với nguyên tác ta thấy: nguyên tác thơ viết là "minh nguyệt


quang", bản dịch thơ dịch là "ánh trăng rọi", dùng từ "rọi" (động từ), thay cho
"sáng' (tính từ) đã làm nhạt mối liên tưởng trong bài thơ vì trăng phải sáng nhà thơ
mới nhầm là sương, hơn nữa, trăng rọi và sương phủ làm cho bài thơ tăng thêm hai
chủ thể, làm mờ đi cái chủ thể cô độc, nhớ quê. Trong nguyên tác chỉ có một chủ thể
là Lý Bạch. Trong bản dịch việc thêm hai chủ thể nữa đang hoạt động làm giảm đi
cái thanh tĩnh, yên ắng của đêm khuya. Do đó để học sinh cảm nhận được sâu sắc
hơn hai câu thơ đầu: Sàng tiền minh nguyệt quang, Nghi thị địa thượng sương. Dịch:
“Đầu giường ánh trăng rọi/ Ngỡ mặt đất phủ sương”. Giáo viên cần đặt câu hỏi có
tính chất gợi mở để dẫn dắt học sinh khi tìm hiểu: Bản dịch nghĩa theo nguyên tác là
dịch "quang" là "sáng". Nhưng câu thơ dịch đổi thành "rọi". Em thấy "sáng" và "rọi"
cũng như "chiếu" khác nhau như thế nào? Em có thích từ "rọi" trong bản dịch này
không? tại sao? Tại sao nhà thơ lại xúc cảm từ một ánh trăng đầu giường? Trong hai
câu, câu nào là miêu tả, câu nào là biểu cảm? Quan hệ giữa tả và cảm có hợp lý
không? Với thể loại tác phẩm tự sự thì hình tượng nhân vật trong các bản dịch cần
được tìm hiểu, khai thác đúng mức. Nếu không sẽ khó lòng đạt được hiệu quả như
mong muốn.
Chẳng hạn ,với "chiếc lá cuối cùng" của O.Henry trong ngữ văn 8. Hình tượng
“chiếc lá cuối cùng” không chỉ gợi lại ở đó mà còn gợi ta đến tấm lòng của người
nghệ sĩ nghèo của nước Mĩ mà đặc biệt là tấm lòng của bác Bơ- men đã tạo lên kiệt
tác “chiếc lá cuối cùng”. Câu chuyện ngợi ca tình cảm trong sáng, cao đẹp của những

nghệ sĩ chân chính, ca ngợi sự hy sinh quên mình của cụ Bơ- men để vẽ chiếc lá, cứu
sống Giôn- xy. Những chiếc lá trường xuân , theo qui luật sinh tồn của tạo hoá, từng
chiếc lá một theo mùa đông rét mướt qua đi. chiếc lá cuối cùng sót lại không phải bởi
cây ấy là cây trường xuân, không phải bởi lá cây là lá trường xuân mà bởi nét vẽ tài
hoa của ông lão Bơ-men làm trường xuân lá ấy. Cây tuy là trường xuân cũng không
giữ được lá của mình. Người tuy hữu hạn nhưng lại giữ được lá. Vậy ra điều duy
nhất để giữ được lá kia lại trên dương thế này là tấm lòng. Tấm lòng đã thăng hoa
thành nghệ thuật. Và nghệ thuật đã mang thiên chức cứu người. Với O.Henry nghệ
thuật phải phụng sự cái đẹp, phải phụng sự cuộc sống. Mà cuộc sống, tồn tại trong ý
nghĩ cao đẹp nhất, là phải biết hi sinh. Có thể nói, nhân loại tồn tại trong ý thức cao
đẹp nhất, là phải biết hi sinh.Và có thể nói, nhân loại tồn tại và phát triển là nhờ sự hi
sinh kế tục của các thế hệ tiếp nối. Xét ở góc độ này, O.Henry đặt vấn đề về ý nghĩa
tồn tại và khả năng duy trì sự sống của con người. Cuộc sống là đáng quí, nhưng theo
Bơ-men, nếu cần, lão sẵn sàng hi sinh tính mạng của mình vì những điều cao quí
hơn. đến đây ta thấy rõ hơn dụng ý nghệ thuật tạo độ căng của O.Henry.Sử dụng thủ


pháp tăng cấp nhưng khi truyện phát triển lên đến đỉnh điểm thì khéo léo đan cài tư
tưởng, chủ đề khác vào, đây mới là chủ đề chính của tác phẩm. Vậy ra, cả hai cô gái,
bác sĩ, bức tường gạch, dây trường xuân kia và cả cách tự sự duyên dáng từ đầu tác
phẩm đến đây tất cả đều là nền để ông lão Bơ-men xuất hiện. Với kĩ thuật tự sự này,
tác giả tạo dựng được độ hẫng thẩm mĩ trong tâm lí tiếp nhận. Đây là nét độc đáo của
"Chiếc là cuối cùng" bởi độ hẫng thẩm mĩ thì dễ được thực hiện ở thi ca chứ văn
xuôi thì quả là rất khó. Vậy nên ta có thể ví "Chiếc lá cuối cùng" như một bài thơtranh đặc biệt.
Xét ở góc độ khác, "Chiếc lá cuối cùng" được xem như là một truyện ngắn có kết
cấu mẫu mực vào hạng bậc nhất. Cốt truyện, nhân vật, giọng điệu, trần thuật, đối
thoại. Đều có thể được xem như là một trong những khuôn mẫu của thể loại này ở
thế kỉ XIX.

2d. Tìm hiểu những dấu hiệu thi pháp của tác phẩm theo đặc trưng loại thể.

Mỗi tác phẩm văn học xuất hiện bên cạnh động lực lớn, cảm hứng chủ quan của nhà
văn còn bị chi phối trực tiếp bởi trào lưu văn hoá trong khu vực ảnh hưởng cụ thể
đến dân tộc. Vì vậy, chúng ta đặt yêu cầu này ra là để tìm kiếm những điều kiện lý
tưởng khi dạy và học cũng như nghiên cứu tác phẩm. Ví dụ: Với thơ Đường thì dù
bút pháp hiện thực như Đỗ Phủ, lãng mạn như Lý Bạch đều bị chi phối bởi triết học
Đạo giáo và Phật giáo không đơn thuần chỉ là Nho giáo. Màu sắc của Đạo giáo
trong thơ Lý Bạch rất rõ, ở Vương Duy chất phật rõ hơn còn Đỗ Phủ thì chất nhân
văn từ hiện theo đời sống là chủ đề chính. Ta thấy thơ đường có màu sắc rất riêng,
có lẽ khó gặp ở một trào lưu văn học Phương tây nào có một loại thơ như thế. Cái
tôi với tính chất “phi cá thể”, ước lệ trong thơ đường khá phổ biến. Tuy vậy, ta vẫn
không loại trừ những ngoại lệ. Dù như vậy ta cũng vẫn phải gọi ra mấy nét có tính
chất thi pháp của Đường thi:
- Đề tài thường trang trọng, thi ý thường nhiều tầng nghĩa gợi một màu sắc trí tuệ.
- Ngôn ngữ Đường thi thường mang tính khái quát cao chứ rất ít đi vào miêu tả
chi tiết.


- Trong quá trình thể hiện, thơ Đường thường thể hiện những nguyên tắc rất chặt
chẽ tạo sự hài hoà kì thú. Mặt khác, nó lại sử dụng vần (nhất, tam, ngũ bất luận;
nhị, tứ, lục phân minh), trên cơ sở những tiểu đối: Đối thanh, đối ý.
- Thể cách luật trong thơ Đường là qui tắc kết hợp luật bằng trắc để tạo ra một sự
hài âm, “niêm” là sự kết dính hàng dọc tạo được sư êm ái, chất trí tuệ và “nỗi
buồn thiên cổ” trong thơ Đường.
Vì vậy, khi dạy và học thơ Đường nếu chúng ta đặt được tác phẩm vào những nét tiêu
biểu của thi pháp thơ Đường thì rất có thuận lợi khi khai thác giúp học sinh tiếp nhận,
cảm và hiểu nó một cách sâu sắc hơn. Một trong những vấn đề đáng quan tâm nhất của
dạy và học phát triển hiện nay là đi “từ khái quát đến cụ thể”. Trước đến nay dạy và học
thơ Đường chúng ta thường chủ yếu khám phá cấu trúc: đề, thực, luận, kết (đối với thể
thất ngôn bát cú) hoặc: khai, thừa, chuyển, hợp (đối với thể thất ngôn tứ tuyệt). Nhưng
trên thực tế của khối lượng đồ sộ những bài thơ đường, nó thể hiện cả một trào lưu thơ ca

độc đáo: ý tứ, đề tài của trào lưu này thể hiện cả một ý chí sáng tạo. Thi ý thường nhiều
tầng nghĩa. Luật bằng trắc: 1-8, 2- 3, 4-5, 6-7. Sự đối ngẫu thường diễn ra ở các câu 3-4,
5-6 ngoài đối thanh “bằng”, “trắc”, còn có tới 24 loại đối thuận, nghịch, tương thành,
tương phản… mà người giáo viên dạy văn cần quan tâm khai thác trong dạy và học, giúp
học sinh hiểu đến cạn kiệt những tầng ý nghĩa trong thi tứ và thi ý của từng câu thơ
Đường theo đặc trưng thi pháp, thể loại.
3, Kết quả đạt đươc:
Sau khi vận dụng những kinh nghiệm này vào thực tế giảng dạy, tôi đã mạnh dạn thực
nghiệm đối với khối 6 (ở lớp 6B và 6A), khối 8 (lớp 8D và 8E), còn ở khối 7 và khối 9 tôi
chưa có điều kiện áp dụng. Để biết được kết quả của việc vận dụng “kinh nghiệm trong
dạy-học các thể loại văn học nước ngoài”. Tôi đã tiến hành khảo sát ở các tiết văn học của
khối 6, khối 8 . Cách khảo sát được tiến hành như ở phần: Điều tra thưc trạng trước khi
nghiên cứu. Kết quả khảo sát như sau:


Khối
6
7

Lớp
6a
6b
8d
8e

Sĩ số
40
40
39
41


6
4
4
7

Giỏi
15
10
10
17

10
11
13
14

khá
25
27.5
33
34

Trung bình
21 52.5
20 50
17 44
15 36

3

5
5
5

Yếu
7.5
8
13
12

Với kết quả khảo sát như trên, tôi nhận thấy rằng những biện pháp và hình thức dạy-học các
tác phẩm văn học nước ngoài đã góp phần phục vụ hữu ích và góp phần nâng cao hiệu quả, chất
lượng của các giờ dạy-học tác phẩm văn học nước ngoài. Phần lớn học sinh nắm chắc và nắm
sâu kiến thức bài hoc, hiểu và cảm thụ sâu sắc những giá trị đặc sắc về nghệ thuật, nội dung của
các tác phẩm văn, thơ nước ngoài. Có kỹ năng tìm hiểu, khám phá, phân tích những tác phẩm
văn chương nước ngoài theo đặc trưng, thể loại.
III, Bài học kinh nghiệm.
Qua thời gian nghiên cứu cùng các đồng nghiệp của mình áp dụng đề tài này vào giảng dạy
phần văn học nước ngoài trong chương trình ngữ văn 7 và 8, tôi thấy đây là những kinh
nghiệm tốt để giúp người giáo viên dạy văn khi đứng trước những tác phẩm văn học nước
ngoài có thể tự tin và chủ động trong khai thác, phân tích và tiếp cận các tác phẩm văn
chương đó để ngày càng nâng cao chất lượng, hiệu quả của các tiết dạy-học văn. Để có
được kết quả cao khi thực hiện đề tài này, bản thân tôi rút ra một số kinh nghiệm sau:
* Với giáo viên:
- Giáo viên phải thực sự là người yêu nghề, yêu văn chương, có kiến thức sâu sắc về lịch
sử, văn hoá, phong tục tập quán, quan niệm thẩm mỹ của các dân tộc đã sản sinh ra những tác
phẩm mà mình sẽ trực tiếp giảng dạy.
- Có ý thức tìm đọc và hiểu đúng, hiểu trọn vẹn các tác phẩm văn chương nước ngoài phải
dạy.
- Nắm chắc hệ thống phương pháp dạy-học tác phẩm văn chương theo loại thể, đặc biệt là các

tác phẩm văn chương nước ngoài.


*Với học sinh:
- Các em phải là những bạn đọc thưc sự say mê, yêu thích văn học đặc biệt là các tác phẩm văn
chương nước ngoài.
- Mỗi học sinh luôn có ý thức đọc trước tác phẩm, tự tìm hiểu hệ thống câu hỏi qua phần đọc
hiểu văn bản.
- Mỗi học sinh luôn có ý thức tự rèn luyện các kỹ năng phân tích, tìm hiểu các yếu tố ngôn ngữ,
nhân vật trong các tác phẩm văn chương nước ngoài. Vận dụng tốt những kinh nghiệm trên,
theo tôi kết quả các giờ học văn phần văn học nước ngoài mới có kết quả cao. Đồng thời khắc
phục được tình trạng lười học, chán học và ngại học bộ môn do quan niệm phần văn học này là
khó của học sinh.
IV. Những vấn đề kiến nghị.
Hiện nay chất lượng dạy và học văn đang thu hút sư chú ý quan tâm của dư luận xã hội và các
bậc phụ huynh học sinh. Trong chương trình văn học được giảng dạy ở tất cả các trường THCS,
phần văn học nước ngoài chiếm một khối lượng không nhỏ bao gồm các tác giả tác phẩm của
nhiều nền văn học khác nhau trên thế giới. Việc giảng dạy phần văn học nước ngoài thường gặp
khó khăn về nguồn tư liệu, về cách tiếp nhận và việc khai thác tìm hiểu các giá trị thẩm mĩ của
các tác phẩm văn học. Vì vậy để nâng cao chất lượng các giờ dạy và học văn, đặc biệt là phần
văn học nước ngoài. Tôi mạnh dạn nêu một số kiến nghị sau:
+Tăng cường bồi dưỡng kiến thức lịch sử văn hoá, văn học, ngoại ngữ cho giáo viên dạy
văn.
+ Khẩn trương bổ sung nguồn tư liệu mới có liên quan đến tác phẩm (cho đến nay rất ít thầy
cô được đọc tác phẩm trọn vẹn, nhưng đã dạy đoạn trích mấy năm nay).
+ Nên giới thiêu các tác phẩm trọn vẹn để minh hoạ bằng đoạn trích chứ không nên trích
giảng. Từ đó tiến tới phân tích minh hoạ tiêu biểu.


+ Với các giáo viên đứng lớp cần tạo cho việc chiếm lĩnh thơ, văn nước ngoài bằng những biện

pháp khác nhau với từng loại cụ thể của từng tác giả khác nhau, tránh sự áp đặt

Phần III: KẾT LUẬN
Tác phẩm văn chương nước ngoài là tiếng nói tâm tình, là cuộc đời của những con
người sống rất xa ta về không gian và thời gian nhưng lai có cùng một nhịp đập trái tim
với chúng ta. Ta phải vận dụng cả những tình cảm và hiểu biết nhiều khi tưởng như
không dính dáng đến tác phẩm một cách linh hoạt, sáng tạo để đưa các em đến những bến
bờ xa lạ của thế giới văn học nhân loại, để nâng cao tầm nhìn, tầm suy nghĩ của các em.
Có như thế, việc dạy học tác phẩm văn chương nước ngoài mới có hiệu quả và góp phần
nâng cao chất lượng bộ môn. Để dạy - học tốt phần văn học này, giáo viên cần phải có
một vốn hiểu biết rộng rãi, vốn sống, vốn ngoại ngữ, sự am hiểu các nền văn minh, văn
hoá thế giới và đặc biệt là tấm lòng say mê văn chương để có thể khám phá những tinh
hoa văn hoá thế giới. Trên đây là phần trình bày bản Sáng kiên kinh nghiêm của tôi,
trong bản viết này còn nhiều hạn chế không tránh khỏi so suất. Kính mong sự đóng góp ý
kiến của các đồng chí để cá nhân tôi có sự tiếp thu thêm những tri thức và kinh nghiêm
mới về vấn đề nêu trên.
Tôi xin chân thành cám ơn!
Hồng Dương, ngày 19 tháng 04 năm 2017

Phạm Thị Thu Hằng


Mục lục
Phần I: Đặt vấn đề
Phần II: Giải quyết vấn đề I.
Điều tra thực trạng trước khi nghiên cứu.
1. Hình thức và nội dung khảo sát .
2. kết quả khảo sát.
II. Những công việc thức tế đã làm và kết quả đạt được.
1. Những nguyên tắc chung.

2. Những công việc thực tế đã làm.
3. Kết quả đạt được.
III. Bài học kinh nghiệm.
IV. Những vấn đề kiến nghị.
Phần III:Kết luận




×