Tải bản đầy đủ (.pdf) (162 trang)

Hoàn thiện pháp luật về cạnh tranh trong lĩnh vực quảng cáo ở việt nam hiện nay

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.24 MB, 162 trang )

HỌC VIỆN CHÍNH TRỊ QUỐC GIA HỒ CHÍ MINH

PHẠM ĐỨC HOÀ

HOÀN THIỆN PHÁP LUẬT VỀ CẠNH TRANH
TRONG LĨNH VỰC QUẢNG CÁO
Ở VIỆT NAM HIỆN NAY

LUẬN ÁN TIẾN SĨ
CHUYÊN NGÀNH
LÝ LUẬN VÀ LỊCH SỬ NHÀ NƯỚC VÀ PHÁP LUẬT

HÀ NỘI - 2017


HỌC VIỆN CHÍNH TRỊ QUỐC GIA HỒ CHÍ MINH

PHẠM ĐỨC HOÀ

HOÀN THIỆN PHÁP LUẬT VỀ CẠNH TRANH
TRONG LĨNH VỰC QUẢNG CÁO
Ở VIỆT NAM HIỆN NAY

LUẬN ÁN TIẾN SĨ
CHUYÊN NGÀNH
LÝ LUẬN VÀ LỊCH SỬ NHÀ NƯỚC VÀ PHÁP LUẬT
Mã số: 62 38 01 01

NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC:
PGS.TS. QUÁCH SĨ HÙNG


HÀ NỘI - 2017


LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan đây là công trình nghiên cứu của
riêng tôi; các số liệu, tư liệu được sử dụng trong luận án
là trung thực, có xuất xứ rõ ràng; những phát hiện đưa ra
trong luận án là kết quả nghiên cứu của tác giả luận án.

TÁC GIẢ LUẬN ÁN

Phạm Đức Hoà


MỤC LỤC
Trang
1

MỞ ĐẦU

Chương 1: TỔNG QUAN TÌNH HÌNH NGHIÊN CỨU PHÁP LUẬT
VỀ CẠNH TRANH TRONG LĨNH VỰC QUẢNG CÁO
VÀ NHỮNG VẤN ĐỀ CẦN TIẾP TỤC NGHIÊN CỨU

8

1.1. Tình hình nghiên cứu trong nước

8


1.2. Tình hình nghiên cứu ngoài nước

15

1.3. Đánh giá tổng quan tình hình nghiên cứu và các vấn đề luận án
kế thừa

18

1.4. Những vấn đề cần tiếp tục nghiên cứu

21

Chương 2: CƠ SỞ LÝ LUẬN CỦA VIỆC HOÀN THIỆN PHÁP
LUẬT VỀ CẠNH TRANH TRONG LĨNH VỰC QUẢNG
CÁO

25

2.1. Khái niệm, đặc điểm, nội dung và vai trò của pháp luật về cạnh
tranh trong lĩnh vực quảng cáo

25

2.2. Các tiêu chí đánh giá mức độ hoàn thiện pháp luật về cạnh tranh
trong lĩnh vực quảng cáo

51

2.3. Các yếu tố ảnh hưởng đến việc hoàn thiện pháp luật về cạnh

tranh trong lĩnh vực quảng cáo

58

2.4. Pháp luật về cạnh tranh trong lĩnh vực quảng cáo ở một số nước
trên thế giới và những giá trị có thể tham khảo cho Việt Nam

63

Chương 3: QUÁ TRÌNH PHÁT TRIỂN VÀ THỰC TRẠNG PHÁP
LUẬT VỀ CẠNH TRANH TRONG LĨNH VỰC QUẢNG
CÁO Ở VIỆT NAM HIỆN NAY

78

3.1. Quá trình phát triển của pháp luật về cạnh tranh trong lĩnh vực
quảng cáo ở Việt Nam

78

3.2. Thực trạng pháp luật về cạnh tranh trong lĩnh vực quảng cáo ở
Việt Nam hiện nay

80


Chương 4: QUAN ĐIỂM VÀ GIẢI PHÁP HOÀN THIỆN PHÁP
LUẬT VỀ CẠNH TRANH TRONG LĨNH VỰC QUẢNG
CÁO Ở VIỆT NAM


116

4.1. Quan điểm hoàn thiện pháp luật về cạnh tranh trong lĩnh vực
quảng cáo ở Việt Nam hiện nay

116

4.2. Giải pháp hoàn thiện pháp luật về cạnh tranh trong lĩnh vực
quảng cáo ở Việt Nam hiện nay

124

KẾT LUẬN

146

DANH MỤC CÔNG TRÌNH CỦA TÁC GIẢ ĐÃ CÔNG BỐ LIÊN
QUAN ĐẾN ĐỀ TÀI LUẬN ÁN

149

DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO

150


1

MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài nghiên cứu

Cạnh tranh là quy luật cơ bản của nền kinh tế thị trường, đồng thời là
động lực quan trọng thúc đẩy nền kinh tế phát triển. Để thúc đẩy cạnh tranh,
các doanh nghiệp đã áp dụng nhiều phương thức để truyền tải thông tin sản
phẩm của mình đến khách hàng, trong đó, quảng cáo được xem là hình thức
phổ biến hiện nay. Hoạt động quảng cáo không chỉ đơn thuần là một hành vi
thương mại, mà nó cũng là một biện pháp, một phương thức cạnh tranh không
thể thiếu trong kinh doanh. Những năm gần đây, quảng cáo trở nên thu hút sự
quan tâm rất lớn của các doanh nghiệp và nằm trong khâu chiến lược xúc tiến
hỗn hợp của marketing. Nó hỗ trợ cho hoạt động bán hàng đạt hiệu quả tốt
hơn theo đúng mục tiêu. Tuy nhiên, quảng cáo như thế nào lại là một vấn đề
cần được xem xét trong thời điểm hiện nay.
Thực tế cho thấy, trong lĩnh vực này đã nảy sinh nhiều vấn đề phức tạp
ảnh hưởng đến hoạt động cạnh tranh lành mạnh của các doanh nghiệp thuộc
mọi thành phần kinh tế khác nhau, tác động xấu đến môi trường kinh doanh ở
Việt Nam, như: Nội dung quảng cáo không trung thực, sai lệch nhiều mặt,
dùng những hình ảnh, cử chỉ, lời nói gây phản cảm, vi phạm đạo đức truyền
thống… Việc quảng cáo gian dối, sai sự thật, cạnh tranh không lành mạnh đã
và đang diễn ra khá phổ biến và gây ra nhiều hậu quả khôn lường. Bởi vậy, để
chấn chỉnh, đưa quảng cáo vào chuẩn mực, rất cần đến sự giám sát, điều
chỉnh hiệu quả của pháp luật.
Với tính chất phức tạp và đa dạng, các hành vi cạnh tranh, cạnh tranh
không lành mạnh trong lĩnh vực quảng cáo không nằm ngoài phạm vi điều
chỉnh của Luật Cạnh tranh, được Quốc hội khóa XI thông qua tại kỳ họp thứ 6
tháng 12/2004 và có hiệu lực từ ngày 01/07/2005. Cụ thể, Luật Cạnh tranh
điều chỉnh các hành vi quảng cáo so sánh, quảng cáo bắt chước, quảng cáo


2

gian dối hoặc gây nhầm lẫn và các hoạt động quảng cáo bị pháp luật cấm

khác. Cùng với Luật Cạnh tranh, việc điều chỉnh hoạt động quảng cáo không
lành mạnh còn được thực hiện bởi Luật Thương mại, Luật Bảo vệ người tiêu
dùng, Luật Quảng cáo, Luật Báo chí, Luật Xuất bản, Luật Dược, Luật Chất
lượng sản phẩm, hàng hóa, Luật Kinh doanh Bảo hiểm... và các văn bản
hướng dẫn thi hành. Tuy nhiên, sự trùng lặp và chồng chéo về nội dung giữa
các văn bản pháp luật này đối với các hành vi quảng cáo không lành mạnh đã
và đang gây khó khăn cho việc tổ chức thực thi pháp luật thống nhất trên thực
tế. Trong khi đó, cùng với sự phát triển mạnh mẽ của ngành quảng cáo tại
Việt Nam, tình trạng quảng cáo không lành mạnh đã xuất hiện ngày càng
nhiều làm tổn hại đến lợi ích của Nhà nước, của doanh nghiệp và đặc biệt là
quyền lợi hợp pháp của người tiêu dùng.
Cho đến nay, một số văn bản hướng dẫn thi hành Luật Cạnh tranh năm
2004 được ban hành nhưng không có văn bản nào hướng dẫn việc áp dụng
pháp luật cạnh tranh về chống các hành vi cạnh tranh không lành mạnh, đặc
biệt là các quy định đặc thù để xử lý các hành vi quảng cáo nhằm cạnh tranh
không lành mạnh. Luật Quảng cáo năm 2012 cũng không hướng dẫn cụ thể,
chi tiết về xử lý các hành vi quảng cáo có nội dung cạnh tranh không lành
mạnh. Luật này chỉ quy định các hành vi bị cấm trong hoạt động quảng cáo,
việc xử lý vi phạm trong hoạt động quảng cáo cũng quy định một cách chung
chung. Như vậy, cần nhận định rằng, cho đến nay, chúng ta vẫn chưa có một
cơ chế thống nhất, đồng bộ trong việc xử lý có hiệu quả các hành vi cạnh
tranh không lành mạnh trong lĩnh vực quảng cáo...
Với các phân tích ở trên, việc nghiên cứu nhằm hoàn thiện pháp luật và
cơ chế bảo đảm thi hành pháp luật điều chỉnh các hành vi cạnh tranh gian dối,
không lành mạnh trong lĩnh vực quảng cáo có ý nghĩa quan trọng để vận dụng
trong công cuộc phát triển nền kinh tế, xây dựng môi trường cạnh tranh lành
mạnh trong kinh doanh ở nước ta. Đây là cơ sở để nghiên cứu sinh lựa chọn đề


3


tài “Hoàn thiện pháp luật về cạnh tranh trong lĩnh vực quảng cáo ở Việt
Nam hiện nay” để nghiên cứu và làm Luận án Tiến sĩ luật học của mình tại
Học viện Chính trị Quốc gia Hồ Chí Minh.
2. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu của đề tài
2.1. Mục đích nghiên cứu của đề tài
Mục đích nghiên cứu của luận án là phân tích, làm rõ cơ sở lý luận hoàn
thiện pháp luật về cạnh tranh trong lĩnh vực quảng cáo, đánh giá thực trạng
pháp luật về cạnh tranh trong lĩnh vực quảng cáo ở Việt Nam và đề ra quan
điểm, giải pháp hoàn thiện pháp luật về cạnh tranh trong lĩnh vực quảng cáo ở
Việt Nam hiện nay.
2.2. Nhiệm vụ nghiên cứu của đề tài
- Phân tích khái niệm cạnh tranh trong lĩnh vực quảng cáo, khái niệm
pháp luật về cạnh tranh trong lĩnh vực quảng cáo; làm rõ những đặc điểm, vai
trò và nội dung của pháp luật về cạnh tranh trong lĩnh vực quảng cáo; nghiên
cứu các tiêu chí để xác định mức độ hoàn thiện của pháp luật; các yếu tố ảnh
hưởng đến việc hoàn thiện pháp luật về cạnh tranh trong lĩnh vực quảng cáo ở
Việt Nam. Ở mức độ nhất định, luận án nghiên cứu pháp luật về cạnh tranh
trong lĩnh vực quảng cáo ở một số nước trên thế giới và rút ra những giá trị có
thể tham khảo ở Việt Nam.
- Nghiên cứu, phân tích, đánh giá thực trạng pháp luật về cạnh tranh
trong lĩnh vực quảng cáo ở Việt Nam trong giai đoạn hiện nay để khẳng định
những bước phát triển, những ưu điểm cần phát huy, đồng thời tìm ra những
hạn chế và nguyên nhân dẫn đến thực trạng đó.
- Đề xuất quan điểm và những giải pháp hoàn thiện pháp luật về cạnh
tranh trong lĩnh vực quảng cáo ở Việt Nam hiện nay.
3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu của đề tài
3.1. Đối tượng nghiên cứu



4

Đối tượng nghiên cứu của luận án là những vấn đề lý luận và thực tiễn
của pháp luật về cạnh tranh trong lĩnh vực quảng cáo ở Việt Nam hiện nay.
3.2. Phạm vi nghiên cứu
Về nội dung: Theo kinh nghiệm pháp luật của một số quốc gia trên thế
giới cũng như thực tiễn pháp luật Việt Nam, pháp luật cạnh tranh như tên gọi
hiện nay bao gồm hai chế định chủ yếu là: (i) Pháp luật chống hạn chế cạnh
tranh, kiểm soát độc quyền; và (ii) Pháp luật chống cạnh tranh không lành
mạnh. Điều chỉnh pháp luật cạnh tranh trong lĩnh vực quảng cáo chủ yếu là
nhằm hướng tới mục tiêu chống lại các hành vi quảng cáo nhằm cạnh tranh
không lành mạnh và thuộc phạm vi của chế định pháp luật chống cạnh tranh
không lành mạnh, bởi vậy, để làm sâu sắc hơn nội hàm đề tài nghiên cứu,
trong phạm vi luận án này, tác giả luận án tập trung nghiên cứu về chế định
pháp luật chống cạnh tranh không lành mạnh trong lĩnh vực quảng cáo để đề
xuất quan điểm và giải pháp hoàn thiện pháp luật về cạnh tranh trong lĩnh vực
quảng cáo ở Việt Nam hiện nay nhằm điều chỉnh và kiểm soát hiệu quả các
hành vi cạnh tranh không lành mạnh trong lĩnh vực quảng cáo.
Về không gian và thời gian: Luận án nghiên cứu pháp luật về cạnh tranh
trong lĩnh vực quảng cáo ở Việt Nam chủ yếu từ khi Luật Cạnh tranh năm
2004 được ban hành cho tới nay.
4. Cơ sở lý luận và phương pháp nghiên cứu
4.1. Cơ sở lý luận của đề tài luận án
Cơ sở lý luận của luận án là lý thuyết về kinh tế thị trường có sự quản
lý của Nhà nước; đường lối chính sách của Đảng và Nhà nước về xây dựng và
hoàn thiện thể chế kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, thể hiện
trong văn kiện của Đảng Cộng sản Việt Nam qua các kỳ đại hội, đặc biệt là
đường lối, chính sách về phát triển nền kinh tế thị trường định hướng xã hội
chủ nghĩa, xây dựng môi trường kinh doanh lành mạnh, bình đẳng trong điều
kiện hội nhập kinh tế quốc tế; Chiến lược xây dựng và hoàn thiện hệ thống



5

pháp luật Việt Nam đến năm 2010, định hướng đến năm 2020 theo Nghị
quyết số 48-NQ/TW ngày 24/5/2005 của Bộ Chính trị.
4.2. Phương pháp luận và phương pháp nghiên cứu
Thực hiện luận án này, tác giả vận dụng phương pháp luận của chủ
nghĩa duy vật biện chứng và chủ nghĩa duy vật lịch sử của triết học Mác –
Lênin. Bên cạnh đó, tác giả luận án còn sử dụng những phương pháp nghiên
cứu cụ thể sau đây:
- Phương pháp phân tích và tổng hợp được sử dụng trong các chương 2,
3 và 4 để làm rõ cơ sở lý luận, đánh giá thực trạng và đề xuất quan điểm, giải
pháp hoàn thiện pháp luật về cạnh tranh trong lĩnh vực quảng cáo;
- Phương pháp tiếp cận hệ thống được sử dụng trong các chương 2, 3 và
4 để làm rõ nội dung, vai trò, các tiêu chí đánh giá mức độ hoàn thiện của pháp
luật về cạnh tranh trong lĩnh vực quảng cáo, các yếu tố ảnh hưởng và các điều
kiện bảo đảm hoàn thiện pháp luật về cạnh tranh trong lĩnh vực quảng cáo ở
Việt Nam.
- Phương pháp kết hợp lý luận với thực tiễn, phương pháp lô gíc được sử
dụng ở các chương 2, 3, 4: Luận án nghiên cứu từng vấn đề trong mối quan hệ
chặt chẽ giữa lý luận với thực tiễn, giữa quan điểm, đường lối của Đảng, pháp
luật của Nhà nước với thực tiễn thực hiện pháp luật về cạnh tranh trong lĩnh
vực quảng cáo.
Ba chương của luận án được nghiên cứu trong mối quan hệ lôgíc xuyên
suốt từ cơ sở lý luận đến thực trạng và quan điểm, giải pháp hoàn thiện pháp
luật về cạnh tranh trong lĩnh vực quảng cáo ở Việt Nam hiện nay.
- Phương pháp so sánh được sử dụng trong chương 1 để làm rõ tình hình
nghiên cứu, chỉ ra những vấn đề cần tiếp tục nghiên cứu. Phương pháp này
cũng được sử dụng ở chương 2 để so sánh các pháp luật về cạnh tranh trong

lĩnh vực quảng cáo của một số nước trên thế giới nhằm rút ra các bài học kinh
nghiệm vận dụng cho Việt Nam.


6

5. Những đóng góp mới về mặt khoa học của đề tài
Đây là công trình nghiên cứu một cách có hệ thống và toàn diện về hoàn
thiện pháp luật về cạnh tranh trong lĩnh vực quảng cáo ở Việt Nam hiện nay.
Kết quả nghiên cứu của luận án sẽ có những đóng góp mới về mặt khoa học
như sau:
- Trên cơ sở phân tích một cách toàn diện các quan điểm, quan niệm về
pháp luật về cạnh tranh trong lĩnh vực quảng cáo, luận án đã xây dựng khái
niệm khoa học pháp luật về cạnh tranh trong lĩnh vực quảng cáo, chỉ ra đặc
điểm, vai trò và nội dung của pháp luật về cạnh tranh trong lĩnh vực quảng cáo,
đồng thời, xây dựng các tiêu chí về nội dung và hình thức để xác định mức độ
hoàn thiện của pháp luật về cạnh tranh trong lĩnh vực quảng cáo; phân tích làm
rõ các yếu tố ảnh hưởng đến việc hoàn thiện pháp luật về cạnh tranh trong lĩnh
vực quảng cáo ở Việt Nam hiện nay.
- Phân tích, đánh giá tổng quát thực trạng các quy định pháp luật và
thực trạng áp dụng pháp luật về cạnh tranh trong lĩnh vực quảng cáo ở Việt
Nam, chỉ ra những điểm còn hạn chế, bất cập của pháp luật cũng như trong cơ
chế áp dụng pháp luật và nguyên nhân.
- Từ các nghiên cứu lý luận và thực tiễn, luận án đã đưa ra các quan
điểm và kiến nghị những giải pháp cụ thể nhằm hoàn thiện pháp luật và cơ
chế bảo đảm thi hành pháp luật cạnh trạnh trong lĩnh vực quảng cáo ở Việt
Nam.
6. Ý nghĩa khoa học và thực tiễn của đề tài
- Về mặt khoa học, luận án góp phần làm sáng tỏ thêm các vấn đề lý
luận của pháp luật cạnh tranh trong lĩnh vực quảng cáo phù hợp với điều kiện

thực tiễn của Việt Nam và yêu cầu hội nhập kinh tế quốc tế. Những nghiên
cứu, đề xuất của luận án góp phần đáng kể vào việc hoàn thiện các quy định
của pháp luật canh tranh cũng như cơ chế bảo đảm thi hành pháp luật cạnh
trạnh trong lĩnh vực quảng cáo ở Việt Nam.


7

- Về mặt thực tiễn, kết quả nghiên cứu của luận án sẽ là tài liệu tham
khảo có giá trị trong công tác nghiên cứu lập pháp cũng như thực tiễn thi hành
pháp luật về cạnh trạnh trong lĩnh vực quảng cáo ở Việt Nam hiện nay. Luận
án cũng có thể là tài liệu giảng dạy và học tập trong các cơ sở đào tạo pháp
luật về cạnh trạnh trong lĩnh vực quảng cáo.
7. Bố cục của luận án
Ngoài lời mở đầu, kết luận, danh mục tài liệu tham khảo, luận án được
kết cấu bốn chương:
Chương 1: Tổng quan tình hình nghiên cứu pháp luật về cạnh tranh
trong lĩnh vực quảng cáo và những vấn đề cần tiếp tục nghiên cứu.
Chương 2: Cơ sở lý luận của việc hoàn thiện pháp luật về cạnh tranh
trong lĩnh vực quảng cáo.
Chương 3: Quá trình phát triển và thực trạng pháp luật về cạnh tranh
trong lĩnh vực quảng cáo ở Việt Nam hiện nay.
Chương 4: Quan điểm và giải pháp hoàn thiện pháp luật về cạnh tranh
trong lĩnh vực quảng cáo ở Việt Nam.


8

Chương 1
TỔNG QUAN TÌNH HÌNH NGHIÊN CỨU PHÁP LUẬT

VỀ CẠNH TRANH TRONG LĨNH VỰC QUẢNG CÁO
VÀ NHỮNG VẤN ĐỀ CẦN TIẾP TỤC NGHIÊN CỨU
1.1. TÌNH HÌNH NGHIÊN CỨU TRONG NƯỚC

1.1.1. Nhóm công trình nghiên cứu về xây dựng và hoàn thiện pháp
luật cạnh tranh
Ở Việt Nam, trong quá trình nghiên cứu, xây dựng và hoàn thiện hệ
thống pháp luật nhằm đảm bảo để nền kinh tế vận hành theo cơ chế thị trường
phát triển, đã có một số công trình nghiên cứu bước đầu về pháp luật cạnh
tranh, chống cạnh tranh không lành mạnh, như:
“Chuyên đề về cạnh tranh, chống cạnh tranh bất hợp pháp và kiểm soát
độc quyền” của tác giả Đặng Vũ Huân - Thông tin Khoa học pháp lý của Viện
Nghiên cứu khoa học pháp lý, Bộ Tư pháp, tháng 11/1996 và “Pháp luật về
kiểm soát độc quyền và chống cạnh tranh không lành mạnh ở Việt Nam” sách
tham khảo của TS. Đặng Vũ Huân, Nxb. Chính trị Quốc gia năm 2004. Ở hai
công trình này, tác giả đã làm rõ các khái niệm về cạnh tranh, phân loại các
hành vi cạnh tranh, nhận diện các hành vi cạnh tranh bất hợp pháp và xu thế
cạnh tranh dẫn đến độc quyền; chỉ ra các yêu cầu, định hướng cũng như mô
hình xây dựng pháp luật về chống cạnh tranh không lành mạnh và kiểm soát
độc quyền ở Việt Nam;
“Cạnh tranh và xây dựng pháp luật cạnh tranh ở Việt Nam hiện nay”
sách do PGS.TS. Nguyễn Như Phát và PGS.TS. Trần Đình Hảo làm chủ biên,
Nxb. Công an nhân dân năm 2001. Đây là công trình tập hợp các bài viết của
nhiều tác giả khảo cứu về kinh nghiệm xây dựng và thi hành pháp luật cạnh
tranh ở một số quốc gia trên thế giới; bàn luận về các chế định pháp luật cạnh
tranh như pháp luật về chống hạn chế cạnh tranh, pháp luật chống cạnh tranh


9


không lành mạnh, thiết chế quản lý nhà nước về cạnh tranh… đồng thời gợi
mở một số vấn đề về xây dựng pháp luật cạnh tranh ở Việt Nam;
Bên cạnh đó, cũng nhằm nhận diện và góp phần vào việc xây dựng
pháp luật về cạnh tranh ở Việt Nam, còn có một số công trình khác như: “Xây
dựng pháp luật chống cạnh tranh không lành mạnh ở Việt Nam hiện nay”,
Luận văn Thạc sĩ luật học của tác giả Nguyễn Thị Thu Hiền, Đại học Luật Hà
Nội, năm 2003; “Pháp luật và thiết chế chống cạnh tranh không lành mạnh”
- Chương 25 “Chuyên khảo Luật Kinh tế” của tác giả TS. Phạm Duy Nghĩa
(2004), Nxb. Đại học Quốc gia Hà Nội, (tr. 865 - tr. 883); “Pháp luật chống
cạnh tranh không lành mạnh trong lĩnh vực sở hữu công nghiệp ở Việt Nam Lý luận và thực tiễn”, Luận văn Thạc sĩ luật học của tác giả Nguyễn Vũ
Quỳnh Lâm, năm 2004…;
Sau khi Luật Cạnh tranh của Việt Nam được Quốc hội khóa XI thông
qua tại kỳ họp thứ 6 tháng 12/2004 và có hiệu lực từ ngày 01/07/2005, đã có
thêm nhiều công trình nghiên cứu về vấn đề này nhằm bàn luận thêm về các
chế định của Luật Cạnh tranh và đặt ra các vấn đề cần quan tâm để đưa Luật
này vào cuộc sống như: “Pháp luật cạnh tranh tại Việt Nam”, sách tham khảo
của các tác giả Lê Danh Vĩnh, Hoàng Xuân Bắc, Nguyễn Ngọc Sơn, Nxb. Tư
pháp, Hà Nội, năm 2006; “Đưa pháp luật chống cạnh tranh không lành mạnh
vào cuộc sống” của PGS.TS. Nguyễn Như Phát, Tạp chí Luật học số 6/2006
(tr. 29 – tr. 35)…;
Nhằm phục vụ việc giảng dạy về Luật Cạnh tranh trong các cơ sở giáo
dục đại học, một số giáo trình về pháp luật cạnh tranh cũng được biên soạn
như: “Giáo trình Luật cạnh tranh” của TS. Tăng Văn Nghĩa, Đại học Ngoại
thương Hà Nội, Nxb. Giáo dục, năm 2009; “Giáo trình Luật cạnh tranh” của
Đại học Kinh tế - Luật do PGS – TS Lê Danh Vĩnh chủ biên ấn hành năm
2010; “Giáo trình Luật Cạnh tranh” của Đại học Luật Hà Nội, Nxb. Công an
nhân dân, Hà Nội, năm 2012…


10


“Pháp luật về chống cạnh tranh không lành mạnh ở Việt Nam”, Luận
án Tiến sĩ luật học của tác giả Lê Anh Tuấn, Khoa Luật Đại học Quốc gia Hà
Nội, năm 2008. Đây là công trình nghiên cứu khá toàn diện và sâu sắc về chế
định pháp luật chống cạnh tranh không lành mạnh và đề xuất một số giải pháp
để thực thi chế định này trong bối cảnh Việt Nam chưa có văn bản pháp luật
nào hướng dẫn về thực thi chế định pháp luật chống cạnh tranh không lành
mạnh. Tuy nhiên, các đề xuất của công trình này vẫn là các giải pháp chung,
trong khi đó, cạnh tranh không lành mạnh xuất hiện ở tất cả các lĩnh vực của
nền kinh tế và cho đến nay, tình trạng thiếu văn bản hướng dẫn vẫn đang tồn
tại, gây khó khăn và rất nhiều vướng mắc trong quá trình áp dụng.
Sau 10 năm thực thi Luật Cạnh tranh năm 2004, Cục Quản lý cạnh
tranh, Bộ Công Thương đã thực hiện “Báo cáo rà soát các quy định của Luật
Cạnh tranh Việt Nam” và phối hợp với Cơ quan Hợp tác Quốc tế Nhật Bản
thực hiện “Báo cáo rà soát Luật Cạnh tranh với pháp luật chuyên ngành”.
Qua hai báo cáo này cho thấy, Luật Cạnh tranh của Việt Nam đã trải qua 10
năm thực tiễn áp dụng, bước đầu đã có những chuyển biến trong việc tạo ra
môi trường pháp lý cạnh tranh bình đẳng, ngăn ngừa các hành vi thỏa thuận
hạn chế cạnh tranh, các hành vi cạnh tranh không lành mạnh trên thương
trường. Tuy nhiên, Luật Cạnh tranh cũng đang bộc lộ rất nhiều bất cập trong
nhiều quy định pháp luật, đặc biệt là trong mối quan hệ với các Luật chuyên
ngành. Các báo cáo đã chỉ ra nhiều cơ sở thực tiễn để nghiên cứu nhằm hoàn
thiện các quy định pháp luật cạnh tranh ở Việt Nam hiện nay
Được đánh giá là “Hiến pháp của nền kinh tế thị trường”, nên Luật
Cạnh tranh phải được xem là luật gốc, điều chỉnh các hành vi hạn chế cạnh
tranh và cạnh tranh không lành mạnh của doanh nghiệp trong mọi lĩnh vực
của nền kinh tế. Khoản 1 Điều 5 Luật Cạnh tranh quy định, trường hợp có sự
khác nhau giữa quy định của Luật Cạnh tranh với quy định của Luật khác về
hành vi hạn chế cạnh tranh, cạnh tranh không lành mạnh thì áp dụng quy định



11

của Luật Cạnh tranh. Quy định này là nền tảng pháp lý giúp đảm bảo sự
tương thích, phù hợp và thống nhất của cả hệ thống pháp luật liên quan đến
vấn đề cạnh tranh. Căn cứ trên quy định này, sẽ rất hợp lý và đảm bảo sự phù
hợp, tính thống nhất cao trong cả hệ thống pháp luật nếu những văn bản pháp
luật (kể cả các luật sửa đổi, bổ sung) được ban hành sau khi Luật Cạnh tranh
có quy định dẫn chiếu đến pháp luật cạnh tranh nhằm điều chỉnh các hành vi
hạn chế cạnh tranh hoặc cạnh tranh không lành mạnh trong các ngành, lĩnh
vực cụ thể đó. Hoặc nếu có xây dựng các điều khoản cụ thể trong pháp luật
chuyên ngành nhằm quy định điều chỉnh các hành vi hạn chế cạnh tranh, hành
vi cạnh tranh không lành mạnh thì cần tham khảo các quy định về hành vi, về
hình thức và mức độ xử lý, về thẩm quyền và quy trình xử lý trong pháp luật
cạnh tranh để việc quy định không bị mâu thuẫn, chồng chéo, không có sự
khác biệt. Nếu điều đó được thực hiện, thì không chỉ giữa pháp luật cạnh
tranh và các pháp luật chuyên ngành có sự phù hợp, tương thích mà thông qua
đó đảm bảo sự thống nhất của toàn bộ hệ thống pháp luật, tạo nên một môi
trường pháp lý thống nhất giúp tăng cường và đảm bảo hiệu quả kinh doanh
của các chủ thể trên thị trường.
Có thể nói, thông qua các nghiên cứu lý luận và thực tiễn về pháp luật
cạnh tranh, chống cạnh tranh không lành mạnh đã công bố trong những năm
qua cho thấy, các vấn đề lý luận cơ bản của pháp luật cạnh tranh, chống cạnh
tranh không lành mạnh đã được các tác giả nghiên cứu một cách tương đối có
hệ thống, bắt đầu từ các hành vi hạn chế cạnh tranh, các hành vi cạnh tranh
không lành mạnh, nhu cầu điều chỉnh pháp luật đối với vấn đề cạnh tranh. Ở
các mức độ khác nhau, các công trình nghiên cứu đều thể hiện sự cần thiết
phải có sự can thiệp của Nhà nước đối với hành vi cạnh tranh nói chung và
hành vi cạnh tranh không lành mạnh nói riêng. Sự can thiệp của Nhà nước
bằng pháp luật cần phải điều chỉnh hiệu quả các hành vi cạnh tranh không

lành mạnh để bảo vệ người tiêu dùng, doanh nghiệp và đảm bảo sự công bằng


12

trong nền kinh tế. Từ các nghiên cứu lý luận và thực tiễn, cũng như học hỏi
kinh nghiệm pháp luật quốc tế, các công trình nghiên cứu trên đã xây dựng và
tạo lập được cơ sở lý luận về pháp luật cạnh tranh, chống cạnh tranh không
lành mạnh trong nền kinh tế thị trường ở Việt Nam làm cơ sở cho các công
trình nghiên cứu về sau, cũng như góp phần vào việc nghiên cứu các luận cứ
khoa học để hoàn thiện hệ thống pháp luật về cạnh tranh trong điều kiện nền
kinh tế thị trường ở Việt Nam.
1.1.2. Nhóm công trình nghiên cứu về xây dựng và hoàn thiện pháp
luật cạnh tranh trong lĩnh vực quảng cáo
Các nghiên cứu về điều chỉnh pháp luật đối với các hành vi cạnh tranh
không lành mạnh trong hoạt động quảng cáo cũng đã có nhiều luận văn, luận
án và các bài viết nghiên cứu đề cập như:
“Pháp luật chống cạnh tranh không lành mạnh trong lĩnh vực quảng
cáo” Luận văn Thạc sĩ của tác giả Vũ Vân Anh, Khoa Luật Đại học Quốc gia
Hà Nội, năm 2004; và “Điều chỉnh hoạt động quảng cáo trong khuôn khổ
pháp luật cạnh tranh tại Việt Nam”, Luận văn Thạc sĩ luật học của tác giả
Đoàn Tử Tích Phước, Khoa Luật Đại học Quốc gia Hà Nội, năm 2007;
“Quảng cáo nhằm cạnh tranh không lành mạnh theo Luật Cạnh tranh năm
2004” của tác giả Phùng Bích Ngọc đăng trên Tạp chí Nhà nước và Pháp luật,
số 6/2013, (tr. 54 đến tr. 60)… Ở các công trình nghiên cứu trên, dựa trên các
quy định của Luật Cạnh tranh, các tác giả đã tập trung làm rõ các vấn đề lý
luận về cạnh tranh trong hoạt động quảng cáo, pháp luật cạnh tranh điều chỉnh
quảng cáo trong nền kinh tế thị trường; đánh giá hiện trạng hoạt động quảng
cáo tại Việt Nam; luận giải về vấn đề điều chỉnh pháp luật đối với các hành vi
quảng cáo nhằm cạnh tranh không lành mạnh, từ đó đề xuất các giải pháp thi

hành hiệu quả pháp luật chống cạnh tranh không lành mạnh trong lĩnh vực
quảng cáo, như điều chỉnh khái niệm cạnh tranh không lành mạnh, hoàn thiện


13

thủ tục và trình tự xử lý các vụ việc cạnh tranh, điều chỉnh chức năng nhiệm
vụ của cơ quan cạnh tranh và một số giải pháp khác…
“Pháp luật về chống quảng cáo không trung thực ở Việt Nam và một số
nước trên thế giới” của PGS. TS. Nguyễn Bá Diến, Tạp chí Nhà nước và
Pháp luật, số tháng 10/1997. Bài viết này tác giả đã khái quát về thực trạng
quảng cáo không trung thực ở Việt Nam; kinh nghiệm chống quảng cáo
không trung thực ở một số nước trên thế giới và rút ra bài học trong chống
quảng cáo không trung thực cho Việt Nam.
“Pháp luật về kiểm soát hành vi quảng cáo gây nhầm lẫn tại Việt
Nam”, Luận văn Thạc sĩ luật học của Nguyễn Phương Anh, Khoa Luật Đại
học Quốc gia Hà Nội, năm 2012. Ở Luận văn này, tác giả trình bày một số vấn
đề lý luận của pháp luật về kiểm soát hành vi quảng cáo gây nhầm lẫn; phân
tích thực trạng pháp luật về kiểm soát hành vi quảng cáo gây nhầm lẫn và
thực tiễn áp dụng ở Việt Nam; thiết chế thi hành pháp luật về cạnh tranh và
pháp luật về kiểm soát hành vi quảng cáo gây nhầm lẫn; từ đó, đề xuất một số
giải pháp nhằm tăng cường hiệu lực thi hành pháp luật kiểm soát hành vi
quảng cáo gây nhầm lẫn ở Việt Nam.
“Áp dụng các quy định của Luật Cạnh tranh về quảng cáo so sánh và
một số vấn đề phát sinh trong thực tiễn” của ThS. Nguyễn Thị Trâm, Tạp chí
Kiểm sát, số 9, tháng 05/2007; “Quảng cáo so sánh trong pháp luật cạnh
tranh – một nghiên cứu so sánh luật” của TS. Phan Huy Hồng, Tạp chí Nhà
nước và Pháp luật, số tháng 01/2007; “Quảng cáo dưới góc độ cạnh tranh”,
Cục Quản lý cạnh tranh (Bộ Công thương, NXB. Lao động – Xã hội, Hà Nội,
năm 2008; “Một số vần đề về hành vi quảng cáo so sánh theo pháp luật Việt

Nam hiện nay” của tác giả Trương Hồng Quang, Tạp chí Nhà nước và Pháp
luật số tháng 08/2010…
Các công trình nghiên cứu trên tập trung nghiên cứu để nhận diện và
phân loại các hành vi quảng cáo so sánh và phương thức điều chỉnh của pháp


14

luật cạnh tranh đối với các loại quảng cáo này. Theo các tác giả, một quảng
cáo so sánh cho dù có trung thực, khách quan và đúng đắn đến mức độ nào đi
nữa thì cũng là một hành vi cạnh tranh không lành mạnh và cần được ngăn
cấm bởi pháp luật cạnh tranh. Bởi lẽ, sự so sánh đã đi ngược lại với bản chất
của quảng cáo lành mạnh. Kinh tế học và pháp luật về quảng cáo đều khẳng
định những thông tin đưa ra cho khách hàng trong sản phẩm quảng cáo phải là
những thông tin về hàng hóa, dịch vụ của doanh nghiệp thực hiện quảng cáo.
Mọi hành vi dùng thông tin về sản phẩm cùng loại của người khác để tạo ấn
tượng hoặc để đề cao sản phẩm của mình đều đi ngược lại bản chất của quảng
cáo. Hơn nữa, sự so sánh thể hiện tính chất hoặc mong muốn dựa dẫm vào sản
phẩm của của người khác, nhất là những sản phẩm nổi tiếng. Ví dụ, quảng cáo
cho rằng sản phẩm được quảng cáo có chất lượng không thua gì một sản
phẩm quen thuộc đối với người tiêu dùng hoặc một sản phẩm rất nổi tiếng
trên thị trường. Đồng thời, quảng cáo so sánh còn có thể nhằm đến mục tiêu
hạ thấp uy tín của sản phẩm cùng loại của doanh nghiệp khác trên thị trường
liên quan hòng đề cao vị thế của mình. Vì vậy, pháp luật về cạnh tranh cần
phải xử lý có hiệu quả các hành vi quảng cáo so sánh nhằm bảo đảm môi
trường kinh doanh bình đẳng và lành mạnh…
Sau khi khảo cứu các công trình khoa học đã công bố về xây dựng và
hoàn thiện pháp luật cạnh tranh trong lĩnh vực quảng cáo ở Việt Nam thời
gian qua cho thấy, các công trình này đã tiếp cận nghiên cứu về các hành vi
quảng cáo nhằm cạnh tranh không lành mạnh, bước đầu làm rõ một số vấn đề

lý luận về pháp luật cạnh tranh, chống cạnh tranh không lành mạnh trong lĩnh
vực quảng cáo, đồng thời cũng đã tìm hiểu thực trạng pháp luật và đề ra
phương hướng, quan điểm để hoàn thiện pháp luật trong lĩnh vực này; tăng
cường hiệu lực thi hành pháp luật để kiểm soát hành vi quảng cáo nhằm cạnh
tranh không lành mạnh ở Việt Nam. Tuy nhiên, việc nghiên cứu mới chỉ tập
trung vào việc điều chỉnh pháp luật đối với từng hành vi như quảng cáo so


15

sánh hoặc kiểm soát quảng cáo gây nhầm lẫn… chưa làm rõ bản chất và tính
đặc thù của hoạt động cạnh tranh trong lĩnh vực quảng cáo.
1.2. TÌNH HÌNH NGHIÊN CỨU NGOÀI NƯỚC

Theo pháp luật của các quốc gia và khu vực trên thế giới, vấn đề cạnh
tranh trong lĩnh vực quảng cáo được quan tâm là việc chống lại các hành vi
quảng cáo nhằm cạnh tranh không lành mạnh như quảng cáo so sánh, quảng
cáo gian dối, quảng cáo gây nhầm lẫn nhằm cạnh tranh không lành mạnh.
Pháp luật các nước cũng đã nghiên cứu và thực hiện điều chỉnh đối với các
hành vi này từ rất lâu thông qua các hiệp định, hiệp ước có tính khu vực và
được nội luật hóa trong pháp luật quốc gia. Hiện nay, hành vi quảng cáo nhằm
cạnh tranh không lành mạnh được Liên minh châu Âu điều chỉnh chính thức
bởi các văn bản: Chỉ thị số 84/450/EEC của Hội đồng Liên minh châu Âu
ngày 10/09/1984 về hài hòa các quy phạm pháp luật và quy định hành chính
của các nước thành viên về quảng cáo nhầm lẫn (từ đây gọi tắt là Chỉ thị
84/450/EEC); Chỉ thị số 97/55/EC của Nghị viện châu Âu và Hội đồng Liên
minh châu Âu ngày 06/10/1997 sửa đổi Chỉ thị 84/450/EEC nhằm bổ sung
quy định về quảng cáo so sánh (từ đây gọi tắt là Chỉ thị 97/55/EC); Chỉ thị
2002/65/EC và Chỉ thị 2005/29/EC sửa đổi hai Chỉ thị 84/450/EEC và Chỉ thị
95/77/EC; gần đây nhất là Chỉ thị 2006/114/EC ngày 12/12/2006 của Nghị

viện Châu Âu và Hội đồng Châu Âu hợp nhất các quy định đã được ban
hành và chỉnh sửa rải rác trong các văn bản trước. Đến nay các quốc gia
thành viên châu Âu đều đã nội luật hóa các quy định của hai Chỉ thị nêu trên
vào hệ thống pháp luật của từng quốc gia. Riêng quy định điều chỉnh các
hành vi quảng cáo so sánh đã được pháp luật các quốc gia tiếp nhận gần như
nguyên văn.
Ở Hoa Kỳ, các hành vi quảng cáo so sánh, gian dối hoặc gây nhầm lẫn
thuộc sự điều chỉnh của Đạo luật Lanham. Các hành vi quảng cáo hoặc
marketing thông thường gian dối hoặc gây nhầm lẫn gây thiệt hại cho tiêu


16

dùng nói chung thuộc sự quản lý của Ủy ban Thương mại Liên bang (Federal
Trade Commission – FTC) theo Mục 5 của Đạo Luật về Ủy ban Thương mại
Liên bang (FTC Act). Ủy ban Thương mại Liên bang đã ban hành nhiều quy
tắc nhằm điều chỉnh các hành vi thương mại gian dối hoặc không lành mạnh
mang tính hệ thống. Một số quy tắc có thể kể đến bao gồm: Quy tắc về đặt
hàng qua thư điện tử, Quy tắc về marketing qua điện thoại, Quy tắc không gọi
điện (Do-not-call Rule) và Đạo luật chống thư rác liên bang (CAN–SPAM
Act)… Một vài cơ quan Chính phủ khác của Hoa Kỳ cũng có thẩm quyền xét
xử chuyên biệt đối với một số loại quảng cáo đối với các sản phẩm đặc thù, ví
dụ như thuốc chữa bệnh...
Bên cạnh đó, còn có một số công trình tiểu biểu khác như: “Nghệ thuật
quảng cáo” của tác giả Arrmand Dayan, Nxb. Thế giới, năm 2002; tác phẩm
này khái quát về cách thức đưa thông tin quảng cáo đến công chúng nhưng
cũng cảnh báo những nguy cơ và những vấn đề cần lưu ý để khỏi “phạm
luật”; “Ảnh hưởng của quảng cáo bắt chước với thương hiệu gốc” của GS.
Ouidade Sabi, Đại học Sorbonne (Cộng hòa Pháp). Trong bài viết này, tác giả
đã phân tích về hành vi quảng cáo bắt chước là lấy các hình ảnh của quảng

cáo chính, được biến tấu từ hình ảnh, video, âm thanh để làm hình ảnh nhại.
Quảng cáo bắt chước gây ra nhiều ảnh hưởng tiêu cực tới những quảng cáo
thương hiệu doanh nghiệp có độ tin cậy cao về mặt kinh tế, uy tín… Các hành
vi quảng cáo nhằm cạnh tranh không lành mạnh đều được pháp luật các nước
trên thế giới coi là những hành vi kinh doanh gian dối và áp dụng biện pháp
xử lý một cách hết sức nghiêm khắc. Tại Hoa Kỳ, có những quảng cáo gian
dối đã bị xử phạt tới hàng triệu đôla Mỹ.
Trong bài viết “Quảng cáo so sánh và chính sách cạnh tranh” (Comparative Advertising and Competition Policy) của hai tác giả Francesca
Barigozzi (University of Bologna) và Martin Peitz (International University in
Germany) cho rằng, ở Hoa Kỳ, trong thời gian gần đây, các cơ quan cạnh


17

tranh có xu hướng ủng hộ quảng cáo so sánh nếu đó là những quảng cáo công
bằng, không sai lệch và tăng thông tin cho người tiêu dùng. Bên cạnh đó, bài
viết cũng đưa ra một số phân tích về các quy định của quảng cáo so sánh và
giải thích điều gì làm cho quảng cáo so sánh là hợp pháp? Pháp luật của Mỹ
và Châu Âu quy định thế nào về quảng cáo so sánh? Các nghiên cứu này cũng
đưa ra gợi ý: (i) Về điều kiện để một quảng cáo so sánh được xem là hợp pháp
mà pháp luật Liên minh Châu Âu đặt ra có thể sử dụng được cho quảng cáo
so sánh gián tiếp ở Việt Nam hay không? (ii) Pháp luật cạnh tranh Việt Nam
có thể thừa nhận tính hợp pháp của một quảng cáo so sánh trực tiếp nhưng
đáp ứng một số điều kiện nào đó hay không? Đây là gợi ý có giá trị tham
khảo trong quá trình nghiên cứu để xây dựng các quy định về hành vi quảng
cáo nhằm cạnh tranh không lành mạnh ở Việt Nam.
Qua các công trình nghiên cứu về quảng cáo, pháp luật điều chỉnh các
hành vi quảng cáo gian dối, quảng cáo gây nhầm lẫn và quảng cáo so sánh
của các quốc gia trên thế giới cũng như pháp luật quốc tế, có thể thấy rằng,
thuật ngữ “quảng cáo gây nhầm lẫn”; “quảng cáo bắt chước” xuất hiện khá

phổ biến trong các văn bản quy phạm pháp luật. Các hành vi này được pháp
luật về cạnh tranh các nước điều chỉnh và xem là một dạng hành vi quảng cáo
nhằm cạnh tranh không lành mạnh.
Nghiên cứu kinh nghiệm pháp luật cạnh tranh một số nước cho thấy,
dấu hiệu “gây nhầm lẫn hoặc bắt chước” thuộc dạng hành vi quảng cáo gian
dối hay quảng cáo không trung thực. Năm 2007, Uỷ ban Thương mại Liên
bang Hoa Kỳ (FTC - The Federal Trade Commission) đã ra lệnh phạt các
công ty phân phối 4 loại thuốc giảm cân (Xenadrine EFX, One A Day Weight
Smart, Cortislim và TrimSpa) tổng số tiền 25 triệu USD vì quảng cáo sai sự
thật với những dòng chữ quảng cáo lừa gạt người tiêu dùng như: “Giảm cân
nhanh chóng”; “Giảm nguy cơ mắc bệnh ung thư”… Uỷ ban Thương mại
Liên bang Hoa Kỳ cũng có quyền can thiệp và gỡ bỏ bất kỳ quảng cáo nào


18

gây hiểu lầm cho khách hàng, bởi lẽ, theo Uỷ ban này, tính không trung thực
trong quảng cáo là khả năng gây nhầm lẫn cho người tiêu dùng về sản phẩm.
Đa số các khiếu kiện quảng cáo sai sự thật là của các đối thủ cạnh tranh,
nhưng người tiêu dùng cũng có thể nộp đơn kiện và tòa án sẽ xử lý những
trường hợp cụ thể, mà không theo quy tắc xử lý đơn kiện từ các đối thủ cạnh
tranh.
Ở Cộng hoà Pháp, pháp luật nghiêm cấm mọi hành vi quảng cáo gian
dối. Người cung cấp thông tin quảng cáo gian dối sẽ bị xử lý, còn các kênh
truyền hình có thể bị xử lý về trách nhiệm trong khâu kiểm duyệt thông tin.
Chế tài do Hội đồng quốc gia về quảng cáo áp dụng.
1.3. ĐÁNH GIÁ TỔNG QUAN TÌNH HÌNH NGHIÊN CỨU VÀ CÁC
VẤN ĐỀ LUẬN ÁN KẾ THỪA

1.3.1. Đánh giá tổng quan tình hình nghiên cứu

Cạnh tranh là quy luật cơ bản của nền kinh tế thị trường, đồng thời là
động lực quan trọng thúc đẩy nền kinh tế phát triển. Trong quá trình khẳng
định vị trí của mình trên thương trường, các doanh nghiệp sử dụng nhiều biện
pháp, cách thức và hành vi khác nhau để cạnh tranh nhằm giành được các lợi
thế trong kinh doanh và tối đa hóa lợi nhuận. Tuy nhiên, bên cạnh những
điểm tích cực, cạnh tranh cũng có thể mang lại những tác động tiêu cực đối
với nền kinh tế, nhà sản xuất cũng như người tiêu dùng.
Nhằm nâng cao vị thế của mình trên thị trường, cũng như tiếp thị để
bán hàng hóa, giới thiệu dịch vụ, trong quá trình thực hiện các hoạt động kinh
doanh, doanh nghiệp sử dụng nhiều công cụ khác nhau trong đó có hoạt động
quảng cáo. Quảng cáo là một trong những phương tiện hữu hiệu và thuận lợi
để thông tin về doanh nghiệp, sản phẩm, hàng hóa, dịch vụ có thể đến với
khách hàng và người tiêu dùng. Cùng với sự gia tăng về số lượng quảng cáo,
thì vấn đề cạnh tranh không lành mạnh trong lĩnh vực quảng cáo ngày càng


19

tinh vi và phức tạp, các hành vi quảng cáo so sánh, quảng cáo gây nhầm lẫn…
xuất hiện ngày càng nhiều.
Thời gian qua, các nghiên cứu đối với pháp luật về chống hạn chế cạnh
tranh và cạnh tranh không lành mạnh đã được nhiều nhà khoa học quan tâm
làm rõ, song các nghiên cứu về hành vi cạnh tranh, chống cạnh tranh không
lành mạnh trong lĩnh vực quảng cáo vẫn còn khiêm tốn. Trong khi đó, những
nghiên cứu lý luận và thực tiễn về pháp luật cạnh tranh trong lĩnh vực quảng
cáo sẽ là các cơ sở khoa học vững chắc để các nhà lập pháp hoàn thiện cơ chế
pháp luật và thi hành pháp luật, giúp các cơ quan nhà nước có thẩm quyền,
các doanh nghiệp, người tiêu dùng có được công cụ để chống lại các hành vi
cạnh tranh không lành mạnh trong lĩnh vực quảng cáo một cách hiệu quả.
Qua khảo sát nội dung các nghiên cứu trong và ngoài nước cho thấy,

các nghiên cứu chỉ mới dừng lại ở bình luận các hành vi quảng cáo nhằm
cạnh tranh không lành mạnh bị xử lý theo pháp luật cạnh tranh (tác giả Phùng
Ngọc Bích), hoặc nghiên cứu ở một khía cạnh nào đó của hành vi quảng cáo
so sánh trong pháp luật cạnh tranh (tác giả Phan Huy Hồng, tác giả Trương
Hồng Quang), hoặc pháp luật kiểm soát hành vi quảng cáo gây nhầm lẫn (tác
giả Nguyễn Phương Anh)…
Có công trình đã đề cập về điều chỉnh hoạt động quảng cáo trong khuôn
khổ pháp luật cạnh tranh tại Việt Nam nhưng còn quá sơ lược (tác giả Đoàn Tử
Tích Phước)… Luận án Tiến sĩ luật học về “Pháp luật về chống cạnh tranh
không lành mạnh ở Việt Nam” (của tác giả Lê Anh Tuấn) tập trung vào các
biện pháp nhằm chống hành vi cạnh tranh không lành mạnh và hướng hoàn
thiện pháp luật về cạnh tranh không lành mạnh theo Luật Cạnh tranh năm
2004, nhưng chưa đi sâu vào phân tích, nhận dạng hành vi quảng cáo nhằm
cạnh tranh không lành mạnh mà mới chỉ đưa ra những thông tin chung về đặc
điểm hành vi quảng cáo cạnh tranh không lành mạnh…


20

Có một số nghiên cứu đã đặt ra vấn đề thừa nhận tính hợp pháp của
hành vi quảng cáo so sánh trong pháp luật của Hoa Kỳ hay Liên minh châu
Âu (tác giả Phan Huy Hồng; Francesca Barigozzi và Martin Peitzt trong bài
viết “Quảng cáo so sánh và chính sách cạnh tranh - Comparative
Advertising and Competition Policy”), nhưng chưa làm rõ việc phân định
giới hạn “hợp pháp” của hành vi quảng cáo so sánh và các căn cứ loại trừ
các hành vi này khỏi đối tượng điều chỉnh của pháp luật cạnh tranh.
Về mặt lý luận, việc xử lý các hành vi quảng cáo nhằm cạnh tranh
không lành mạnh thuộc chế định pháp luật chống cạnh tranh không lành mạnh
(một trong hai chế định cơ bản của pháp luật cạnh tranh). Tuy nhiên, quy định
điều chỉnh và xử lý các hành vi quảng cáo nhằm cạnh tranh không lành mạnh

có những đặc thù riêng và hầu như các công trình nghiên cứu đã công bố đều
không làm rõ vấn đề này. Đối với chế tài áp dụng cho hành vi quảng cáo
nhằm cạnh tranh không lành mạnh, bên cạnh các chế tài truyền thống như xử
phạt hành chính hoặc bồi thường theo chế tài dân sự thì pháp luật một số quốc
gia đã đặt ra chế tài hình sự (Luật Cạnh tranh của Canada, Cộng hoà Liên
bang Đức…), một số tác giả cũng đã đặt ra vấn đề vấn đề nên hay không nên
áp dụng chế tài hình sự đối với hành vi này?
Có thể nói, các công trình nghiên cứu về lý luận và thực tiễn của pháp
luật cạnh tranh trong lĩnh vực quảng cáo mặc dù đã đạt được những thành tựu
đáng kể, song chưa có công trình nào đặt vấn đề nghiên cứu toàn diện nhằm
làm rõ khái niệm, đặc điểm, vai trò và nội dung cơ bản của pháp luật về cạnh
tranh trong lĩnh vực quảng cáo, chưa làm rõ được các tiêu chí để xác định mức
độ hoàn thiện của pháp luật, cũng như các yếu tố ảnh hưởng đến việc hoàn
thiện pháp luật về cạnh tranh trong lĩnh vực quảng cáo ở Việt Nam.
Tuy nhiên, kết quả nghiên cứu của các công trình trên đây sẽ là tài liệu
tham khảo bổ ích trong quá trình thực hiện nghiên cứu đề tài “Hoàn thiện
pháp luật về cạnh tranh trong lĩnh vực quảng cáo ở Việt Nam hiện nay”.


×