Tải bản đầy đủ (.pdf) (104 trang)

Hệ Thống Chính Trị Huyện Tam Nông, Tỉnh Phú Thọ Xử Lý Điểm Nóng Chính Trị Xã Hội Hiện Nay

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (10.65 MB, 104 trang )

?^->^-
?E/X
-r]Np
@FT  _A +1 =d =Y A _1 4 T4GA3.47A4 TQ9
.O4YeA_b`=d061@AHA3.4tA4TQ9 46
@Š‰—‚nRRs˜Šs‚qmsu‚sŠˆvm—†s‹’˜‚
 @Š‰—‚nRz“z‹™‚R‘Œz“nw•€‚‚qmsu‚sŠˆv ‘fsw

_gwŠˆƒ mgs˜Šs‚qmsu‚sŠˆvŠˆ…‚qw˜m‘Œz“nw•€‚‚q.su‚sŠˆv
 bfsw

-r|}Np
 061@AHA3.47A4 TQ9  b46 4YeA T@AIA3
O4ZT4J T4.TQ)A3_A4\D3_A+1 + TQ 

Asoq’–‹ŠŠhmn‚qn–‚nw•€‚‚q.T b4 s‹’˜‚Tg€A„‚q
Šx‚sOsŽTs

  Tsm Šˆš‚qs˜Šs‚q msu‚sŠˆv s‹’˜‚Ug€A„‚q ‘Œ z“ nw•€ ‚‚q
.su‚sŠˆv bfsw 

Csoq—‚nRn›Šˆg

-r~Np@FTS36'6O4*,(64J.<4A346@_;62AA349
+2A A3.K46 Y PY!_6.b`=d061@AHA3.47A4TQ9 b
46T@AIA346AAe
@Š‰ qwiw †sh†n•‚j‚qmg…sw˜‹‡‹izf‚snš…nwww˜mc[z“
nw•€‚‚q.T b4Tg€A„‚qsw˜‚‚g’
 @Š‰lkwsmyw‚s ‚qsw˜€n•‚j‚qmg…sw˜‹‡‹izf‚snš…nww
w˜m‘Œz“nw•€‚‚q.V b4 Vg€A„‚qsw˜‚‚g’



@Š‰yw–‚‚qsvnR‘‹—Š
W&8>{”XW5"?:5#L
WM?W$W>XœBa%B


DANH MỤC CÁC CHỮ VIET TẮT
CCB

Cựu chiên binh

CNH, HĐH

Công nghiệp hóa, hiện đại hóa

CNXH

Chủ nghĩa xã hội

CQCS

Chính quyền cơ sở

CT - XH

Chính trị - xã hội

ĐNCT-XH

Điểm nóng Chính tri - xã hội


HĐND

Hội đồng nhân dân

HTCT

Hệ thống chính trị

KT - XH

Kinh tế - xã hội

MTTQ

Mặt trận Tổ quốc

Nxb

Nhà xuất bản

TB CN

Tu bản chủ nghĩa

TCCSĐ

Tổ chức cơ sở đảng

TSVM


Trong sạch vững mạnh

Tr

Trang

UBND

ủ y ban nhân dân

VH - XH

Văn hóa - xã hội

XHCN

Xã hội chủ nghĩa


1

MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài
Trong quá trình phát triển của xã hội, nhất là trong xã hội có giai cấp,
vấn đề ổn định chính trị - xã hội là tiền đề, là điều kiện cho sự phát triển xã
hội. Nói cách khác, ổn định chính trị - xã hội là điều kiện tất yếu, hàng đầu,
quyết định, thể hiện mức độ phát triền bền vững của xã hội. Đối với nước ta một nước đang phát triển, đẩy mạnh hội nhập và giao lưu quốc tế, tiến hành
sự nghiệp đổi mới, để đạt tới mục tiêu CNXH thì một trong những nhiệm vụ
quan trọng hàng đầu là phát triển kinh tế - xã hội phải được tiến hành đồng
thời với ổn định chính trị - xã hội. Nước ta lại là nước nông nghiệp, nông thôn

có vai trò và vi trí to lớn trong phát triển kinh tế - xã hội; đồng thời có vai trò,
vi trí đặc biệt trong ổn định chính trị - xã hội của quốc gia. Thực hiện chủ
trương, quan điểm và mục tiêu đó, trong những năm qua, từ một nước nghèo
và đầy khó khăn cả trong kinh tế và xã hội, nước ta đã vượt lên vi thế quan
trọng trên trường quốc tế; vừa thực hiện hội nhập quốc tế để phát triển kinh
tế, xã hội vừa giữ vững độc lập chủ quyền, an ninh quốc gia; giữ vững ổn
dinh chính tri - xã hội.
Trong quá trình thực hiện công cuộc đổi mới và hội nhập theo định
hướng XHCN, nhất là đẩy mạnh công nghiệp hoá, hiện đại hoá nông nghiệp,
nông thôn, toàn Đảng toàn dân ta tuy đã và đang giành được những thành tựu
quan trọng có ý nghĩa lịch sử, nhưng bên cạnh đó cũng đang gặp những khó
khăn, thách thức, và điều quan trọng là đang bộc lộ không it nhũng yếu kém,
khuyết điểm và nguy cơ tụt hậu trên nhiều lĩnh vực. An ninh chính trị - xã hội
quốc gia được giữ vững, tuy nhiên, sự bất ổn định chính trị - xã hội trong nội
bộ đất nước đang có những diễn biến phức tạp. Sự lộn xộn trong an ninh chính
trị - xã hội ở khu vực nông thôn dường như ngày càng nhiều thêm, hình thành
những điểm nóng xã hội (ĐNXH) và điểm nóng chính trị - xã hội (ĐNCT-XH).


2

Những năm gần đây, tình hình ĐNXH và ĐNCT-XH diễn biến phức
tạp. Từ những vấn đề thuần tuy về nông nghiệp, nông thôn, điểm nóng đã lan
sang các đô thị, khu công nghiệp, vấn đề tôn giáo và gần đây liên quan không
nhỏ tới vấn đề giải phóng mặt bằng gây ra nhiều hậu quả tác hại, làm cản trở
không nhỏ tới sự phát triển kinh tế - xã hội địa phương, đặc biệt là tạo ra sự
bất bình và giảm lòng tin của quần chúng nhân dân vào sự lãnh đạo của Đảng,
Nhà nước và tạo ra những sơ hở nếu không được phòng ngừa thì dễ dàng bi
kẻ địch và những phần tử xấu lợi dụng kích động, tạo nên các vụ gây rối, gây
bạo

loạn
về chính tri.•


Đối với huyện Tam Nông là một huyện thuần nông, trong những năm
gần đây điểm nóng chính trị- xã hội đã được Đảng bộ và chính quyền địa
phương kiểm soát, hiện đang có xu hướng giảm, nhưng vẫn tiềm ẩn nhiều
nguy cơ mất ổn định CT - XH, nếu không có các biện pháp hữu hiệu thì các
điểm nóng chính trị- xã hội dễ gây trở ngại không nhỏ cho sự nghiệp phát
triển kinh tế - xã hội ở huyện và ở tỉnh.
Đứng trước tình hình trên, từ Trung ương đến địa phương đã có nhiều
chủ trương, nghị quyết để giải quyết vấn đề này và đã đạt được những kết quả
ban đầu, nhưng đồng thời cũng đang đứng trước những bất cập không nhỏ cả
về lý luận và thực tiễn, đặc biệt là sự lãnh đạo, chỉ đạo của các cấp đối với
việc giải quyết các điểm nóng chính trị- xã hội trên địa bàn huyện.
Từ những căn cứ trên, tác giả thấy cần thiết lựa chọn đề tài “Hệ thống
chỉnh tri huyện Tam Nông, tỉnh Phú Thọ xử lý điểm nóng CT - XH hiện
nay” làm luận văn Thạc sỳ Chính trị học.
2. Tình hình nghiên cứu có liên quan đến đề tài
Vấn đề điểm nóng chính trị- xã hội ở nước ta nói chung và ở Tam Nông,
Phú Thọ đã được nêu ra cách đây hàng chục năm dưới nhiều tên gọi và cách tiếp
cận khác nhau như an ninh nông thôn, điểm nóng xã hội và điểm nóng CT - XH.


3

Viện Chính trị học, Học viện Chính trị - Hành chính Quốc gia Ho Chí
Minh (nay là Học viện chính trị Quốc gia Hồ Chí Minh) đã có đề tài tổng kết
thực tiễn về xử lý những điểm nóng CT - XH. UBND huyện Tam Nông đã
tiến hành sơ kết tình hình thực hiện Chỉ thị 21 -CT/TW của Bộ Chính trị và

Chỉ thị số 11 của Ban Thường vụ Tỉnh uỷ về tăng cường công tác đảm bảo an
ninh nông thôn. Các ngành, các cấp, các báo, tạp chí cũng có nhiều so kết
đánh giá ở những mức độ, góc cạnh khác nhau.
Một số học viên sau đại học, cử nhân, cao cấp lý luận chính trị đã co
nhiều đề tài nghiên cứu khác nhau về vấn đề này. Học viên cao học Nguyễn
Thị Mai Anh nghiên cứu đề tài: Điểm nóng chính tri xã hội ở nông thôn đồng
bằng Sông Hồng; Cử nhân Nguyễn Xuân Nghinh đã nghiên cứu đề tài: Điểm
nóng chính trị - xã hội huyện Tam Thanh; Các học viên cao cấp chính trị Trần
Như Nhận đã nghiên cứu đề tài: An ninh nông thôn huyện Tam Nông; Lê
cứu
Văn Vĩnh nghiên cứu đề tài an ninh nông thôn huyện Tam Nông; v.v..
Các đề tài nghiên cứu nêu trên nhìn chung đã phản ánh khái quát được
tình hình diễn biến điểm nóng chính trị - xã hội, chỉ ra được quy mô, tính
chất, thành phần, hậu quả tác hại của các điểm nóng đó ở các giai đoạn khác
nhau, trên nhiều địa bàn trong cả nước, trong đó có huyện Tam Nông, tỉnh
Phú Thọ. Mặt khác các đề tài đã khẳng định được những ưu điểm, hạn chế,
nguyên nhân, tính chất, bài học kinh nghiệm, bước đầu đề xuất được phương
châm, nguyên tắc, quy trình, phương hướng giải quyết điểm nóng chính trị xã hội. Có thể nói, ở các mức độ khác nhau, các đề tài đó đã góp phần nâng
cao nhận thức, trách nhiệm đối với các cấp, các ngành và góp phần phòng
ngừa, giải quyết tốt hơn những điểm nóng chính trị - xã hội.
Tuy nhiên, lĩnh vực mà các đề tài nghiên cứu là vấn đề mới, nên việc
nghiên cứu, tổng kết để đưa ra những khả năng dự tính, dự báo và phòng ngừa


4

cho sát thực là rất khó khăn. Đặc biệt cac đề tài chưa đi sâu nghiên cứu phân
tích vai trò, phương châm, phương pháp lãnh đạo, chỉ đạo của hệ thống chỉnh
trị xử lỷ điểm nong CT - XH hiện nay, trong đó có huyện Tam Nông, tỉnh Phủ
Thọ. Mặt khác, các đề tài mới đi sâu vào đề xuất những vấn đề về quy trình

chung, nhưng những bước đi và kỹ thuật cụ thể và đặc biệt là những vấn đề có
tính đặc thù cần chú ý về phương pháp trong phòng ngừa, trong quá trình
thanh tra, kiểm tra, kết luận giải quyết điểm nóng, giải quyết hậu thanh tra
v.v. chưa được làm rõ nên khi vận dụng kết quả nghiên cứu của những đề tài
trên đi vào giải quyết điếm nóng chính trị - xã hội không tránh khỏi những
lúng túng bất cập.
3. Mục
đích và nhiệm
vu• nghiên
cứu


O
3.1. Mục đích nghiên cứu
Trên co sở luận giải, làm rõ những vấn đề lý luận cơ bản và thực trạng
sự lãnh đạo của hệ thống chính trị huyện trong giải quyết vấn đề này, luận văn
đề xuất một số bài học kinh nghiệm và kiến nghị để nâng cao hiệu quả lanh
đạo của hệ thống chính tri huyện đối với việc xử lý điểm nóng CT - XH ở địa
bàn huyện Tam Nông, tỉnh Phú Thọ.
3.2. Nhiệm vụ nghiên cứu
Để đạt được mục đích trên, luận văn phải thực hiện các nhiệm vụ sau:
Một là: Luận rõ thêm những vấn đề lý luận cơ bản về khái niệm hệ
thống chính trị và quy trình xử lý điểm nóng CT - XH ở cấp huyện.
Hai là: Đánh giá thực trạng và những vấn đề đặt ra trong sự lãnh đạo
của hệ thống chính trị huyện đối với việc xử lý điểm nóng CT - XH ở huyện
Tam Nông, tỉnh Phú Thọ.
Ba là: De xuất một số bài học kinh nghiệm và kiến nghị chủ yếu nhằm
nâng cao hiệu quả sự lãnh đạo của Đảng bộ, chính quyền huyện đối với việc
xử lý điểm nóng CT - XH ở huyện Tam Nông, tỉnh Phú Thọ hiện nay.



5

4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
- Luận văn tập trung nghiên cứu lý luận một số vấn đề về hệ thống
chính tri, điểm nóng CT - XH điển hinh đã và đang xảy ra ở huyện Tam
Nông, tỉnh Phú Thọ từ 2010 đến nay.
- Luận văn nghiên cứu việc hệ thống chính tri xử lý điểm nóng CT XH thời gian qua.
5. Cơ sở lý luận và phương pháp nghiên cứu
- Lý luận và phương pháp luận của chủ nghĩa Mác-Lê nin, tu tưởng Hồ
Chí Minh và quan điểm của Đảng ta về xử lý điểm nóng CT - XH.
- Luận văn thực hiện bởi các phương pháp nghiên cứu cụ thể như lịch
sử - logic, phân tích - tổng hợp, khái quát hoá, lý luận gắn với thực tiễn.
- Luận văn kế thừa những kết quả nghiên cứu có liên quan đã được công bố.
De tài thuộc lĩnh vực Khoa học xã hội nhân văn mang tính tổng họp,
nội dung liên quan đến nhiều lĩnh vực khoa học như chính trị học, Nhà nước
và Pháp luật, xây dựng Đảng, do đó đề tài coi trọng các giải pháp nghiên cứu
như: giải pháp liên ngành, phương pháp hệ thống-cấu trúc. Đồng thời, sử
dụng các phương pháp cụ thể như kết họp lô-gíc và lịch sử, phương pháp
phân tích tống hợp, phương pháp khái quát hoá vào việc nghiên cứu và trình
bày những vấn đề co bản của đề tài.
Tất cả những giải pháp nghiên cứu cụ thể trên đều được vận dụng trên
co sở phương pháp luận duy vật biện chứng và duy vật lịch sử.
6. Đóng góp mói về khoa học của luận văn
- Luận văn góp phần luận giải về mặt lý luận, phân tích những nét thực
trạng chủ yếu của điểm nóng CT - XH và sự lãnh đạo của hệ thống chính tri
huyện về vấn đề này.
- De xuất một số bài học kinh nghiệm và kiến nghị nhằm nâng cao hiệu
quả sự lãnh đạo của hệ thống chính trị huyện về việc xử lý điểm nóng CT XH hiện nay.



6

7. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn của luận văn
Ket quả nghiên cứu của luận văn góp phần cung cấp cơ sở lý luận và thực
tiễn cho việc tiếp tục hoàn thiện cơ chế, chính sách tăng cuờng sự lãnh đạo của
hệ thống chính trị nói chung và hệ thống chính trị huyện Tam Nông, tỉnh Phú
Thọ nói riêng về vấn đề xử lý điểm nóng CT - XH ở cấp huyện hiện nay.
8. Ket cấu của luân văn
Ngoài phần mở đầu, kết luận và danh mục tài liệu tham khảo, nội dung
của luận văn gồm 3 chuong, 9 tiết.


7

Chương 1
MỘT SỐ VẤN ĐÈ LÝ LUẬN VÈ HỆ THỐNG CHÍNH TRỊ CẤP HUYỆN
VÀ XỬ LÝ ĐIỂM NÓNG CHÍNH TRỊ - XÃ HỘI
1.1. Một số vấn đề về hệ thống chính trị cấp huyện
1.1.1. Một số khái niệm về cơ cẩu tồ chức của hệ thống chỉnh trị
cap huyện
* Hệ thống:
Hệ thống là tập họp các phần tử tương tác được tổ chức nhằm thực hiện
một mục đích xác định. Áp dụng định nghĩa này vào các tổ chức ta cần chính
xác hoá một số khái niệm: Các phần tử ở đây tập họp các phương tiện vật chất
và nhân lực; tổ chức tạo thành một hệ thống mở, nghĩa là liên hệ với một môi
trường. Một số phần tử của hệ thống có sự tương tác với bên ngoài (cung ứng,
thương mại, v.v...); các tổ chức đều là những hệ thống sống và phát triển, vi
vậy mặt động là co bản.
Hệ thống là tập hợp nhiều yếu tố, đơn vi cùng loại hoặc cùng chức năng có

quan hệ hoặc liên hệ với nhau chặt chẽ, làm thành một thể thống nhất [47, tr.563].
* Chính trị:
Chính trị là tất cả những hoạt động, những vấn đề gắn với quan
hệ giai cấp, dân tộc, quốc gia và các nhóm xã hội xoay quanh một vấn đề
trung tâm đó là vấn đề giành, giữ và sử dụng quyền lực nhà nước.
Chính trị là quan hệ giữa các giai cấp, các quốc gia, các dân tộc, các lực
lượng xã hội trong việc giành, giữ và thực thi quyền lực Nhà nước [49, tr.8].
* Hệ thống chính trị (HTCT):
Hệ thống chính trị là một bộ phận kiến trúc thượng tầng xã hội, bao
gồm các tổ chức, các thiết chế có quan hệ với nhau về mặt mục đích, chức
năng trong việc thực hiện, tham gia thực hiện quyền lực chính trị hoặc đưa ra
các quyết dinh chính trị.


8

Hệ thống chính trị bao gồm các tổ chức, các thiết chế với tư cách là chủ
thể của các quyết định chính trị. Hệ thống có tính hợp pháp, là hệ thống tổ
chức được Hiến pháp, pháp luật quy định, được xã hội, Nhà nước thừa nhận,
không đối lập với Nhà nước, pháp luật, chế độ chính trị hiện hành. Các to
chức, thiết chế trong hệ thống có mục địch, chức năng thực hiện, tham gia
thực hiện quyền lực nhà nước, quyền lực chính trị; thực hiện hoặc tham gia
vào các quyết định chính trị, vào việc thực hiện các chính sách quốc gia.
Hệ thống chính trị là một chỉnh thể các tổ chức chính trị hợp pháp trong
xã hội, bao gồm các đảng chính trị, nhà nước và các tổ chức chính trị - xã hội
được liên kết với nhau trong một hệ thống tổ chức, nhằm tác động vào các
quá trình của đời sống xã hội; củng cố, duy trì và phát triển chế độ chính trị
phù hợp với lợi ích của giai cấp cầm quyền [4, tr. 137].
* Hệ thống chính trị Việt Nam:
Bao gồm Đảng Cộng sản Việt Nam, Nhà nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa

Việt Nam và các tổ chức chính trị - xã hội có tính chất, vi trí, vai trò, chức năng
khác nhau, nhưng có quan hệ chặt chẽ, gắn bó với nhau, tạo thành một thể thống
nhất. Sự thống nhất của các thành viên đa dạng, phong phú về tổ chức, phương
thức hoạt động trong HTCT đã tạo điều kiện để phát huy sức mạnh tổng hợp và
tạo ra sự cộng hưởng sức mạnh trong toàn bộ hệ thống [4, tr. 139].
* Hệ thống chính trị cơ sở:
Trong mọi xã hội có giai cấp, quyền lực của chủ thể cầm quyền được
thực hiện bằng một hệ thống thiết chế và tổ chức chính trị nhất định, đó là hệ
thống chính trị.
Hệ thống chỉnh trị cơ sở (bao gồm hệ thong chỉnh trị cấp huyện, thị,
thành phố trực thuộc tỉnh và xã, phường, thi tran) là tổng thể các cơ quan, tổ
chức nhà nước, đảng phai, đoàn thể xã hội, nói chung là cac lực lượng tham
gia và mối quan hệ giữa các lực lượng đỏ, chỉ phối sự tồn tại và phát triển


9

đời sống chính trị của một địa phương, một quốc gia, thể hiện bản chat của
chế độ chính trị của quốc gia, con đường phát triển của xã hội. (Theo Từ điển
Luật học của Viện pháp ly - Bộ tư phap do Nhà xuất bản Tư phap và Nhà xuất
bản Từ điển bách khoa phoi họp ban hành)
Hệ thống chính trị cơ sở bao gồm tổ chức đảng, chính quyền, MTTQ và
các đoàn thể nhân dân. Mỗi tổ chức có vi trí, vai trò, chức năng, nhiệm vụ
khác nhau, dưới sự lãnh đạo của TCCSĐ cùng tác động vào quá trình phát
triển kinh tế - xã hội, nhằm đạt các mục tiêu, chỉ tiêu đề ra, đảm bảo quyền lợi
của Nhân dân ở co sở [4, tr. 140].
1.1.2. Vị trí, chức năng, nhiệm vụ của hệ thống chính trị cấp huyện
L 1.2.1. Vị trí, vai trò của hệ thong chỉnh trị cấp huyện
*


Vị trí, vai trò của tổ chức cơ sở đảng

To chức co sở đảng có vi trí, vai trò là cấp tổ chức cuối cùng trong hệ
thống tổ chức bốn cấp của Đảng, là co sở để xây dựng nên toàn bộ hệ thống tổ
chức của Đảng, là cấp tổ chức sâu rộng nhất.
Tổ chức co sở đảng là nơi trực tiếp thực hiện và cụ thể hóa đường lối,
chủ trương, chính sách của Đảng, đồng thời cũng là nơi kiểm nghiệm và góp
phần quan trọng vào việc hình thành phát triển đường lối, chủ trương, chính
sách của Đảng thông qua những kinh nghiệm thực tiễn phong phú của đội
ngũ đảng viên và quần chúng nhân dân; nơi trực tiếp tiến hành các hoạt động
xây dựng nội bộ Đảng; nơi thường xuyên thực hành các nguyên tắc tổ chức và
sinh hoạt của Đảng; nơi xuất phát để cử ra cơ quan lãnh đạo các cấp của
Đảng; là cầu nối giữa Đảng với quần chúng nhân dân, là một mắt khâu
trọng yếu để duy trì mối liên hệ Đảng với dân - Nen tảng sức mạnh của
Đảng [43, tr. 14]..
*

Vi tri, vai trò của chính quyền

Chính quyền gồm có HĐND và UBND. Cụ thể như sau:


10

Hội đồng nhân dân: Điều 113, Hiến pháp nước Cộng hòa xã hội chủ
nghĩa Việt Nam năm 2013 quy định như sau:
Vi tri, vai trò của HĐND : “HĐND là cơ quan quyền lực nhà nước ở địa
phương, đại diện cho ý chí, nguyện vọng và quyền làm chủ của Nhân dân, do
Nhân dân địa phương bầu ra, chịu trách nhiệm trước Nhân dân địa phương và
cơ quan nhà nước cấp trên” [44, tr. 46].

Xuất phát từ vi trí, vai trò của HĐND, HĐND có vai trò là cơ quan đại
diện cho ý chí, nguyện vọng và quyền làm chủ của Nhân dân địa phương.
Tính đại diện thể hiện ở chỗ HĐND gồm những đại biểu do Nhân dân bầu
theo nguyên tắc phổ thông, bình đẳng, trực tiếp và bỏ phiếu kín; các đại biểu
HĐND thay mặt Nhân dân thực hiện quyền lực nhà nước.
Uỷ ban nhăn dãn: Điều 114, Hiến pháp nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa
Việt Nam năm 2013 quy định như sau:
Vi trí, vai trò của UBND: “UBND ở cấp chính quyền địa phương do HĐND
cùng cấp bầu, là cơ quan chấp hành của HĐND, cơ quan hành chính Nhà nước ở địa
phương, chịu trách nhiệm trước HĐND và cơ quan nhà nước cấp trên”. [33, tr. 47].
*

Vị trí, vai trò của Mặt trận Tổ quốc và các đoàn thể nhân dân

Mặt trận Tổ quốc và các đoàn thể nhân dân là các tổ chức chính trị xã hội hợp pháp được tổ chức để tập hợp rộng rãi các tầng lớp nhân dân
theo nguyên tắc tự nguyện, tự quản đại diện cho lợi ích của Nhân dân, tham
gia vào HTCT, tùy theo tính chất, tôn chỉ, mục đích của mình nhằm bảo vệ
quyền lợi của Nhân dân.
Mặt trận To quốc và các đoàn thể nhân dân có vai trò rất quan trọng
trong việc củng cố sự đoàn kết trong cộng đồng dân cư; phát huy dân chủ,
nâng cao trách nhiệm công dân của các hội viên, đoàn viên, giữ gin kỷ cương
phép nước, thúc đẩy công cuộc đổi mới, thắt chặt mối quan hệ giữa Nhân dân
với TCCSĐ và chính quyền cơ sở.


1.1.2.2. Chức năng của hệ thong chính tri cấp huyện
Chức năng của tổ chức cơ sở Đảng: TCCSĐ là hạt nhân lãnh đạo toàn
diện HTCT co sở, chỉ đạo, phối họp chặt chẽ các tổ chức trong HTCT, là tổ
chức bảo đảm cho mọi hoạt động ở cơ sở theo đúng định hướng chính trị của
Đảng; đảng viên phải nêu cao tinh thần gương mẫu, gắn bó với Nhân dân, tiêu

biểu cho lực lượng tiến bộ nhất ở cơ sở; làm tốt công tác phát triển đảng viên
và đưa những người không đủ tư cách đảng viên ra khỏi Đảng; đổi mới phương
thức lãnh đạo của TCCSĐ đối với HTCT: Đổi mới việc ra nghị quyết; xây
dựng, thực hiện quy chế làm việc; đổi mới phương thức, cách thức lãnh đạo;
xây dựng quy hoạch gắn với đào tạo, sử dụng cán bộ lãnh đạo cấp ủy cơ sở.
Mặt khác, đối với HTCT cơ sở: TCCSĐ vừa là thành viên của MTTQ, đồng
thời là tổ chức lãnh đạo MTTQ.
Chức năng của HĐND: “HĐND quyết định những vấn đề của địa
phương do luật định; giám sát việc tuân theo Hiến pháp và pháp luật ở địa
phương và việc thực hiện nghị quyết của HĐND” [33, tr. 46].
Chức nang của UBND: “UBND tổ chức việc thi hành Hiến pháp và
pháp luật ở địa phương; to chức thực hiện nghị quyết của HĐND và thực hiện
các nhiệm vụ do các cơ quan nhà nước cấp trên giao” [33, tr. 47].
ủ y ban nhân dân chỉ đạo, điều hành hoạt động quản lý Nhà nước ở địa
phương, đảm bảo sự chỉ đạo, quản lý thống nhất bộ máy hành chính Nhà nước từ
Trung ương tới các cơ sở. UBND cấp trên chỉ đạo hoạt động của UBND cấp dưới
trực tiếp.
Chức năng của Mặt trận Tổ quốc và các đoàn thể nhân dân: “Mặt trận
Tổ quốc và các đoàn thể nhân dân là cơ sở chính trị của chính quyền nhân
dân, nơi thể hiện ý chí và nguyện vọng của Nhân dân; hiệp thương, giới
thiệu đại biểu, tham gia bầu cử Quốc hội và HĐND; tuyên truyền vận
động Nhân dân thực hiện đường lối, chủ trương của Đảng, chính sách,


12

pháp luật của Nhà nước và địa phương; thực hiện giám sát, phản biện xã
hội của Nhân dân với cán bộ, công chức và giải quyết những mâu thuẫn
trong nội bộ Nhân dân” [33, tr. 48].
1.1.2.3. Nhiệm vụ hoạt động của hệ thong chỉnh trị cấp huyện

*

Phương thức hoạt động của tổ chức cơ sở đảng

Tổ chức cơ sở đảng lãnh đạo, hoạt động thông qua các nghị quyết của
tổ chức đảng, từ nghị quyết Đại hội Đảng đến nghị quyết chi bộ co sở: Đổi
mới cách ra nghị quyết, nội dung nghị quyết sát với điều kiện cụ thể của địa
phương trong từng giai đoạn, đặc biệt là những vấn đề mà thực tiễn bức xúc
của Nhân dân đã và đang đặt ra được giải quyết kịp thời. Quá trình chuẩn bi
nghị quyết được bám sát thực tiễn của từng bộ phận, nắm vững tâm tư, tình
cảm, nguyện vọng của Nhân dân thông qua nắm tình hình từ các tổ chức đảng
và các tổ chức trong HTCT. Quán triệt lời dạy của Chủ tịch Hồ Chí Minh:
“Giữ chặt mối liên hệ với dân chúng và luôn lắng tai nghe ý kiến của dân
chúng, đó là nền tảng lực lượng của Đảng và nhờ đó mà Đảng thắng lợi. Vi
vậy, cách xa dân chúng, không liên hệ chặt chẽ với dân chúng, cũng như đứng
lo lửng giữa trời, nhất định thất bại” [12, tr. 286].
Tổ chức co sở đảng lãnh đạo, hoạt động thông qua các phương pháp
giáo dục, thuyết phục, lãnh đạo thông qua công tác vận động quần chúng
Nhân dân tham gia xây dựng Đảng và quản lý Nhà nước: TCCSĐ lấy giáo
dục, thuyết phục đảng viên và Nhân dân làm chính, hiểu được các trạng thái
tư tưởng, trình độ chính trị và đặc điểm nhận thức của quần chúng nhân dân.
Thể hiện qua nhiệm vụ của công tác dân vận của TCCSĐ. Cụ thể như sau:
Công tác dân vận của TCCSĐ luôn hiểu sâu sát tình hình Nhân dân, kịp thời
giải quyết những vấn đề Nhân dân đặt ra; giáo dục, động viên Nhân dân thực
hiện các nhiệm vụ chính trị của đơn vi và phát triển KT - XH ở địa phương;
tổ chức, động viên Nhân dân tham gia xây dựng Đảng, xây dựng chính


13


quyên; lãnh đạo, chỉ đạo tô chức hoạt động của MTTQ và các đoàn thê nhân
dân; phát huy vai trò của chi ủy, chi bộ và đội ngũ đảng viên.
*

Phương thức tổ chức, hoạt động của chính quyền

Phương thức tổ chức, hoạt động của HĐND:
Hoạt động của Chủ tịch, Phó Chủ tịch HĐND (Thuờng trực HĐND): Triệu
tập và chủ tọa các kỳ họp của HĐND; đôn đốc, kiểm tra UBND cùng cấp và các
cơ quan nhà nước khác ở địa phương thực hiện các nghị quyết của HĐND; giám
sát việc thực hiện pháp luật tại địa phương; tiếp dân, đôn đốc, kiểm tra và xem xét
tình hình giải quyết các kiến nghị, khiếu nại tố cáo của công dân; trình HĐND bỏ
phiếu tín nhiệm đối với người giữ chức vụ do HĐND bầu theo đề nghị của ủy
ban MTTQ Việt Nam cùng cấp; phối họp với UBND quyết định việc đưa ra
HĐND hoặc đưa ra cử tri bãi nhiệm đại biểu HĐND phạm sai lầm theo đề nghị
của Thường trực ủ y ban MTTQ Việt Nam cùng cấp; báo cáo về hoạt động của
HĐND và UBND cùng cấp lên HĐND và UBND cấp trên trực tiếp; giữ mối liên
hệ và phối họp công tác với Ban Thường trực ủ y ban MTTQ Việt Nam cùng cấp,
mỗi năm hai lần thông báo cho Thường trực ủ y ban MTTQ Việt Nam cùng cấp
về hoạt động của HĐND [21, tr.08]..
Các đại biểu HĐND: Tham dự đầy đủ các kỳ họp, phiên họp của
HĐND, tham gia thảo luận và biểu quyết các vấn đề thuộc nhiệm vụ, quyền
hạn của HĐND; liên hệ chặt chẽ với cử tri ở đơn vi bầu ra mình, chịu sự giám
sát của cử tri, thu thập, tiếp nhận và phản ánh trung thực ý kiến, nguyện vọng,
kiến nghị của cử tri, bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của cử tri; báo cáo với
cử tri kết quả của kỳ họp, phổ biến và giải thích các nghị quyết của HĐND, vận
động và cùng Nhân dân thực hiện các nghị quyết đó.
Phương thức tổ chức, hoạt động của UBND:
Thảo luận tập thể và quyết định theo da số các vấn đề sau: Chương trình
làm việc của UBND; kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội, dự toán ngân sách,



14

quyết toán ngân sách hàng năm và quỳ dự trữ của địa phuong trình HĐND; kế
hoạch đầu tu, xây dựng các công trình trọng điểm trình HĐND; kế hoạch huy
động nhân lực, tài chính để giải quyết các vấn đề cấp bách của địa phuong trình
HĐND; các biện pháp thực hiện nghị quyết của HĐND về kinh tế - xã hội;
thông qua báo cáo của UBND truớc HĐND; đề án thành lập mới, sáp nhập,
giải thể các co quan chuyên môn thuộc UBND và việc thành lập mới, nhập,
chia, điều chỉnh địa giới hành chính ở địa phương [53, tr. 10]..
Phương thức tổ chức, hoạt động của MTTQ:
Hoạt động thông qua sự phối hợp và thống nhất hành động giữa các
thảnh viên trong MTTQ, các thành viên đều có quyền trình bày ý kiến của
mình, không dùng mệnh lệnh, áp đặt. Khi phối hợp và thống nhất hành động,
các thành viên thỏa thuận với nhau về chương trình hành động chung và có
nghĩa vụ phối hợp, giúp đỡ nhau để thực hiện chương trình hành động đã
được thỏa thuận, đồng thời các tổ chức thành viên của MTTQ vẫn giữ tính
độc lập của tổ chức mình; thực hiện Quy chế hoạt động với chính quyền và
các đoàn thể nhân dân; chính quyền tạo điều kiện để MTTQ và các đoàn thể
nhân dân thực hiện chức năng, nhiệm vụ theo pháp luật quy định; hướng dẫn
hoạt động tự quản của nhân dân thông qua Ban công tác Mặt trận ở khu dân
cư và vận động các cá nhân tiêu biểu [48, tr. 16]..
Phương thức tổ chức, hoạt động của các đoàn thể nhân dân:
Tổ chức vận động, thuyết phục quần chúng tạo ra phong trào cách
mạng sôi nổi, thiết thực; khắc phục bệnh quan liêu, hành chính, nặng về giải
thích, hô hào chung chung, không phù hợp đối tượng, không sát thực tiễn, cơ
sở...; sâu sát với hoàn cảnh, tâm tư, nguyện vọng, đời sống, tình cảm của
đoàn viên, hội viên, tham gia đề xuất, kiến nghị với chính quyền, các cấp ủy
đảng trong việc thực hiện chế độ, chính sách liên quan đến quần chúng;

hướng mọi hoạt động về co sở, tập trung sức xây dựng đoàn thể ở co sở vững


15

mạnh và phát huy tính năng động, sáng tạo và quyền chủ động của các đoàn
thể nhân dân.
1.1.3.

Vai trò của hệ thống chỉnh trị cấp huyện trong việc xử lý điểm

nóng chính trị - xã hội
Sự ổn định chính trị -xã hội trong thời đại ngày nay không chỉ phụ
thuộc vào tiềm lực kinh tế, quân sự, mà còn phụ thuộc vào sự trong sạch của
nền tảng tinh thần xã hội, vào truyền thống văn hoá tốt đẹp của dân tộc, vào
sự đúng đắn của các quyết sách chính trị trên tất cả các lĩnh vực của đời sống
xã hội... ổn định chính trị - xã hội nói một cách khái quát là giai cấp cầm
quyền phải giữ vững tăng cuờng được quyền lực chính trị của mình, nhà nước
của giai cấp đó phải mạnh và có hiệu lực, luật pháp phải nghiêm minh, chế độ
xã hội đã xác lập phải được giữ vững. Sự ổn định chính tri - xã hội nhìn
chung được khái quát qua các tiêu chí thể hiện vai trò cơ bản sau:
Một là: thể chế chính trị không bi rối loạn, hoạt động của các bộ phận
trong đó nhịp nhàng theo một hướng thống nhất đáp ứng yêu cầu của đời sống
thực tiễn.
0

Hai là: có sự thống nhất giữa đường lối của Đảng cầm quyền và những
chủ trương, chính sách của Nhà nước trên các lĩnh vực chính trị, kinh tế, văn
hoá, xã hội...
Ba là: bản thân Nhà nước của giai cấp cầm quyền nói riêng và xã hội

nói chung có khả năng ngăn chặn và đập tan mọi hoạt động chống phá của các
thế lực đối lập.
Bổn là: ổn định chính trị - xã hội cũng là quá trình bảo đảm giữ vững
vai trò lãnh đạo (hay kiểm soát) xã hội của chính đảng của giai cấp cầm
quyền.
Nói chung, thực chất của việc ổn định chính trị -xã hội là khả năng chủ
động trong mọi tình huống của thể chế chính trị. Bản chất của on định chính


16

trị -xã hội không chỉ đối lập với khủng hoảng, rối loạn đổ vỡ, mà còn đối lập
với sự trì trệ, ngưng đọng. Với nghĩa đó thì ổn định chính trị -xã hội là sự ổn
định của một hệ thống đang liên tục vận động và biến đổi trong các quỹ đạo
được xác định là phù hợp với quy luật vận động, phát triển của đời sống xã
hội. Đó là ổn định động gắn với sự phát triển, nhằm phát triển, sự ổn định này
không phải vi mục đích tự thân, mà ổn định chỉ là điều kiện cho sự phát triển,
còn phát triển mới là mục đích. Đó là một quá trình thống nhất biện chứng,
diễn ra liên tục trong không gian và thời gian, kết quả là đưa lại sự phát triển
xã hội bền vững.
Nghiên cứu Văn kiện Đại hội x , XI, XII chúng ta càng hiểu rõ hơn
những quan điểm cơ bản của Đảng về bảo vệ an ninh quốc gia, trật tự an
toàn xã hội trong giai đoạn mới. Đảng ta đã khẳng định những luận điểm
rất cơ bản chỉ đạo sự nghiệp bảo vệ an ninh, trật tự an toàn xã hội. Sự kết
hợp từ bên trong giữa an ninh với quốc phòng, an ninh với kinh tế, văn hoá,
xã hội, những tu tưởng chiến lược chỉ đạo cũng như giải quyết đúng đắn
mối quan hệ giữa bên ngoài và bên trong, giữa tấn công tội phạm, xây dựng
thế trận an ninh nhân dân, xây dựng lực lượng công an nhân dân trong tình
hinh mới.
Hơn lúc nào hết, cần khẳng định xây dựng đất nước phải gắn chặt với

bảo vệ Tổ quốc, bảo vệ Tổ quốc gắn liền với bảo vệ chế độ, chiến thắng giặc
ngoài gắn liền với đánh bại thù trong. Kinh nghiệm một số nước vừa qua cho
thấy củng cố vững chắc nền tảng an ninh quốc gia, trật tự an toàn xã hội bảo
đảm cho sự bền vững của chế độ mà sự tồn tại, bền vững của chế độ không
chỉ phụ thuộc vào những yếu tố quân sự mà chủ yếu là những yếu tố chính trị,
kinh tế và xã hội. Sự khủng hoảng về kinh tế, chính trị, tư tưởng dẫn tới sự
sụp đổ chính là do tác động của thế lực phản động bên trong, được sự tiếp tay
của thế lực đế quốc phản động bên ngoài.


17

1.2. Một số vấn đề lý luận về xử lý điểm nóng chính trị - xã hội
1.2.1. Điểm nóng xã hội
De cắt nghĩa điểm nóng xã hội, các nhà chính trị học đã đi từ xung đột
và khái niệm xung đột là sự va chạm, xung khắc về lợi ích, ý kiến, quan điểm,
sự bất đồng nghiêm trọng, sự tranh cãi gay gắt, sự đấu tranh phức tạp với các
cấp độ khác nhau, từ các phía trong các quan hệ xã hội nào đó, độc lập hoặc
thù địch. Những xung đột xã hội, xung đột chính trị - xã hội ở mức cao gọi là
những điểm nóng chính trị - xã hội. Như vậy, điểm nóng xã hội, chính trị - xã
hội có nguồn gốc từ xung đột xã hội, xung đột chính trị - xã hội. Các xung đột
xã hội phát sinh nếu không được giải toa và không được quản lý tốt sẽ trở
thành điểm nóng xã hội, điểm nóng chính trị - xã hội.
Đối với nước ta, cụm từ điểm nóng đã từng xuất hiện trong thời kỳ
khủng hoảng kinh tế - xã hội và đang tiếp tục diễn ra trong giai đoạn thực
hiện công cuộc đổi mới. Vào những năm 80 - 90 của thế kỷ x x , khi tình hình
khiếu nại, tố cáo diễn ra phức tạp, căng thẳng, như khiếu nại, tố cáo đông
người, vượt cấp thì khái niệm điểm nóng được dùng khá rộng rãi trong đời
sống xã hội. Tuy nhiên, ở các lĩnh vực khác nhau, ở các địa phương khác
nhau, có nhiều ý kiến khác nhau về thuật ngữ này. Ngành Công an gọi những

vấn đế điểm nóng xã hội là vấn đề an ninh nông thôn; số đông cơ quan nhà
nước thế hiện trong các văn bản quản lý nhà nước gọi là điểm nóng; trong các
địa phương, không it địa phương thậm chí còn cho rằng địa phương mình
không có điểm nóng và không được gọi là điểm nóng, Mặc dù có những
quan niệm khác nhau, nhưng về cơ bản, các địa phương, các ngành đều thừa
nhận là có những thực tế tồn tại giống nhau và luôn nêu cao ý thức, trách
nhiệm để phòng ngừa, và giải quyết, đó là tình trạng khiếu kiện đông người,
khiếu kiện vượt cấp, các hành vi quá khích, gây rối, chống người thi hành
công vụ có thể lây lan và vượt ra ngoài quy định của pháp luật. Điều đó chứng


18

tở rằng điểm nóng đã và đang là một thực tế tồn tại cần được hiểu một cách
thực chất nội dung và đi đến thống nhất về khái niệm.
Có quan điểm cho rằng, điểm nóng xã hội là nơi tập trung mâu thuẫn
cao độ cần được giải quyết, hoặc nơi diễn ra tình hình xung đột căng thẳng.
Bên cạnh những quan niệm về điểm nóng theo nghĩa rộng này, tác giả Nhị Lê
đưa ra quan điểm cho rằng điểm nóng xã hội diễn ra ở một lĩnh vực hay một
địa bàn dân cu nhất định, điểm nóng là một khái niệm chỉ nơi xẩy ra đấu tranh
trong nội bộ nhân dân ở mức cao, thậm chí gay gắt về một vấn đề xã hội nào
đó. Điểm nóng xã hội là một trạng thái có vấn đề diễn ra trên một địa bàn nhất
định, từ quy mô thôn, xóm trở lên, vượt quá giới hạn giải quyết tại chỗ, đòi
hỏi cấp bách phải có sự tham gia giải quyết, chỉ đạo của các cấp uỷ đảng,
chính quyền và sự can thiệp của các cơ quan pháp luật, từ cấp cơ sở trở lên.
Từ chuyên ngành Thanh tra, tác giả Trần Hồng Châu lại cho rằng, điểm
nóng xã hội là nơi xảy ra khiếu kiện có đông người, tham gia khiếu kiện với
nội dung phức tạp, khó giải quyết, mâu thuẫn trong nội bộ đến mức gay gắt,
diễn biến tình hình căng thẳng làm mất ổn định đời sống cộng đồng, làm rối
loan, vô hieu su lãnh đao, điều hành của các tổ chức chính tri• - xã

hôi và



s







s

chính quyền sở tại.
Từ thực tế tình hình Thái Bình năm 1998, dưới góc nhìn từ nguyên
nhân kinh tế, tác giả Nguyễn Văn Tài xác định, điểm nóng xã hội là sự kiện
xã hội có số đông người tham gia việc tranh chấp lợi ích kinh tế - xã hội trong
một địa bàn dân cu, làm ảnh hưởng nghiêm trọng tới sản xuất, kỷ cương, nếp
sống văn hoá của đời sống xã hội cộng đồng.
Trong cuốn "Từ điển bách khoa Công an nhân dân", xuất bản năm
mem
triển vững chắc về chính trị, kinh te, tu tưởng, văn hoá, xã hội ở nông thôn;
các to chức đảng, chính quyền, đoàn thể quần chúng hoạt động có hiệu quả,


19

không để xảy ra các vụ việc phức tạp gây mất ổn định ở nông thôn. Theo cách
v


hiểu này, an ninh

v /

*

A

v /

A Ax /

A. A

w

VA A

v y

A A

t

A

A A ^

v y


A A

^

9

nong thôn ôn định vững chăc và
r

phát triển, vi vậy cùng với Đảng và Nhà nước, ngành Công an đã hết sức
chú trọng nhiệm vụ đảm bảo an ninh nông thôn và coi đó là một bộ phận
quan trọng của an ninh quốc gia. Trong một đề tài nghiên cứu khoa học
của Công an Nam Định về giải pháp đảm bảo an ninh nông thôn tỉnh Nam
Định đã có quan niệm về điểm nóng liên quan đến an ninh nông thôn, là
một địa bàn, một khu vực dân cu mà ở đó đã và đang tồn tại mâu thuẫn
nội bộ nhân dân có diễn biến phức tạp, kéo dài, được đẩy lên đến mức
bùng nổ hoặc sắp bùng nổ thành các cuộc tranh chấp, gây rối trật tự an
ninh, gây hậu quả rất xấu về chính trị, xã hội.
Năm 2000, khi nghiên cứu tình hình một số điểm nóng ở nông thôn,
Ban Nội chính Trung ương cho rằng, điểm nóng ở cơ sở nông thôn là hiện tượng
chính trị - xã hội xẩy ra trên địa bàn thôn xã, bắt nguồn từ những mâu thuẫn nội
bộ kéo dài, dẫn đến tranh chấp, xung đột gay gắt, lôi cuốn đông người tham gia,
có nhiều hành vi cực đoan, quá khích, vi phạm pháp luật nghiêm trọng, hoạt
động của tổ chức đảng, chính quyền cơ sở giảm sút hoặc tê liệt, gây mất ổn định
về an ninh, trật tự xã hội và đời sống nhân dân địa phương [57, tr.02]..
Sau khi nghiên cứu, tổng kết tình hình ở một số địa bàn trọng điểm,
như Đồng Nai, Thái Bình, Huế, Đắc Lắc v.v., tác giả Lưu Văn Sùng cùng
Viện Khoa học Chính trị, Học viện Chính trị - Hành chính Quốc gia Hồ
Chí Minh đã đưa ra khái niệm: “Điểm nóng xã hội là đời sống xã hội

trong trạng thái không bình thường, bất on định, rối loạn, diễn ra sự xung
đột, chống đối giữa các lực lượng với hành vi không còn tự kiềm chế
được, đã vượt ra ngoài khuôn khổ của pháp luật và chuẩn mực văn hoá,
đạo đức; diễn ra tại một điểm, trong một thời gian nhất định và có khả
năng lan toa sang nơi khác. So với các quan niệm trên, thì quan niệm của


20

Viện Chính trị học đã khái quát được những vấn đề cơ bản nhất cả về hình
thức và nội dung của điểm nóng xã hội. Từ các quan niệm trên, đối chiếu với
thực tế điểm nóng ở nước ta, chúng tôi có thể khái quát khái niệm điểm nóng
xã hội
ở một
số đặc
điểm như:



- v ề hình thức, điểm nóng xã hội xuất hiện sự khiếu nại, tố cáo đông
người, vượt cấp, biểu tình, bãi công, bãi khoá v.v. kể cả kéo đến nhà đồng chí
lãnh đạo, các trụ sở của co quan đảng, chính quyền các cấp. Không dừng lại ở
việc đưa đơn khiếu nại, tố cáo mà các hành vi quá khích vượt ra ngoài khuôn
khổ pháp luật ngày càng gia tăng từ đề nghị đến đòi hỏi, yêu sách rồi gây rối,
chống người thi hành công vụ, bắt giữ cán bộ, huy hoại tài sản.v.v...
- v ề số lượng, điểm nóng xã hội có số người, ngày càng đông, thành
phần tham gia da dạng, ngoài số người có nguyện vọng chính đáng đòi hỏi
giải quyết chế độ, chính sách, đảm bảo công bằng xã hội thì có một số không
it quần chúng nhân dân bi kích động, ngộ nhận, một số khác a dua, đặc biệt là
có sự chủ động tích cực kích động của số người co mâu thuẫn, khúc mắc cá

nhân, một số đối tượng hình sự, một số tiêu cực bất mãn, công thần tham gia
đế trả thù cá nhân, vi vậy số này thường gây ra những hoạt động quá khích và
là ngòi nổ cho những vụ vi phạm pháp luật xảy ra và đương nhiên đó cũng là
nhân tố làm cho điếm nóng đã nóng lại càng nóng lên.
- v ề tính chất, các điểm nóng xã hội ngày càng phức tạp, phản ánh
những mâu thuẫn nội bộ được hội tụ từ lâu không được giải quyết kịp thời, trở
thành mâu thuẫn của số đông nhưng lại đòi hỏi phải giải quyết kịp thời.
Những vấn đề đề cập trong khiếu kiện thường là những vấn đề bức xúc trong
xã hội, ke cả vấn đề về sự lãnh đạo của cấp uỷ, đảng, chính quyền.
- v ề nội dung, phần lớn là những khiếu kiện phạm vi rộng, thời gian
dài, bao gồm cả những sự việc trong lịch sử để lại và có những vấn đề hết sức
nhạy cảm trong chính trị như tôn giáo, dân tộc, nhân quyền, chính sách
thương binh, gia đình liệt sỹ, người có công với cách mạng, vấn đề đất đai.


21

Như vậy, dù cách gọi điểm nóng xã hội như thế nào, hoặc là vấn đề an
ninh nông thôn hay là sự khiếu kiện đông người, khiếu kiện vượt cấp hay
điểm nóng, chúng đều phản ánh bản chất vấn đề đó là sự mâu thuẫn quyền lợi
trong xã hội, sự bất ổn trong xã hội đòi hỏi phải được giải quyết kịp thời nếu
không dễ chuyển hoá từ vấn đề nội bộ, vấn đề xã hội thành vấn đề chính trị
1.2.2. Điểm nóng CT - XH
Khi xảy ra điểm nóng xã hội, nếu không giải quyết kip thời, hoặc là
để bi địch, phần tử xấu lợi dụng kích động quần chúng chĩa mũi nhọn đấu
tranh với chính quyền, những trường hợp đó đã làm cho điểm nóng xã hội
trở thành điểm nóng chính trị - xã hội. Các công trình nghiên cứu của Viện
Chính trị học, Học viện Chính trị - Hành chính Quốc gia Hồ Chí Minh đã
đưa ra khái niệm điểm nóng chính trị - xã hội. Theo đó, điểm nóng chính trị
- xã hội là điểm nóng xã hội diễn ra trong lĩnh vực chính trị- xã hội. Khi mà

sự chống đối của đám đông quần chúng của lực lượng đối lập đã hướng trực
tiếp vào những người nắm quyền lực chính trị, cơ quan quyền lực và thể chế
chính sách của chính quyền Nhà nước 135, tr.38]..
Trong thực tế cho thấy điểm nóng chính trị - xã hội có nguồn gốc từ
điểm nóng xã hội; nhưng không có nghĩa là tất cả các điểm nóng xã hội đều
phát triển thành điểm nóng chính trị - xã hội. Điểm nóng xã hội chỉ có thể trở
thành điểm nóng chính trị - xã hội khi nó không được giải quyết kịp thời, dut
điểm hoặc xử lý sai. Một số điểm nóng xã hội phát triển lên mức độ cao hơn
thành điểm nóng chính trị - xã hội như mâu thuẫn, tranh chấp trong nội bộ
nhân dân nếu không có biện pháp giải quyết đúng, kịp thời, dẫn tới khiếu tố
vượt cấp, đông người, có hành vi quá khích, trở thành cuộc đấu tranh của bộ
phận nông dân chống đối chính quyền. Do đó để hạn chế phát sinh điểm nóng
chính trị - xã hội thì chúng ta phải hạn chế điểm nóng xã hội xẩy ra và giải
quyết tốt các điểm nóng xã hội khi nó đã xảy ra.


22

Điểm nóng xã hội và điểm nóng chính trị xã hội thường phát sinh vào
thời kỳ khủng hoảng kinh tế - xã hội hoặc khủng hoảng chính trị - xã hội. Chỉ
riêng trong thời kỳ khủng hoảng thời kỳ kinh tế - xã hội ở nước ta vào cuối
những năm 70, những năm 80 của thế kỷ trước đã phát sinh trên 3000 điểm
nóng, trong đó có một số điểm nóng chính trị - xã hội. Trong thời kỳ đổi mới,
do nhiều nguyên nhân khách quan và chủ quan, điểm nóng xã hội và điểm
nóng chính trị - xã hội tiếp tục xảy ra. Đáng chú ý là tình hình mâu thuẫn,
khiếu nại, tố cáo đông người, vượt cấp, phức tạp ở một số nơi; có sự xung đột
căng thẳng giữa người dân với người dân, giữa nhân dân với cán bộ chính
quyền địa phương. Do đó, để hạn chế và ngăn ngừa việc xảy ra, điểm nóng
chính trị - xã hội, chúng ta cần tập trung giải quyết tốt những tranh chấp về
mặt dân sự, giải quyết kịp thời những khiếu kiện của nhân dân, không để các

thế lực thù địch lợi dụng kích động, chống phá.
Tuy nhiên, điểm nóng chính trị - xã hội có nổ ra hay không, mức độ,
tính chất như thế nào, điều đó còn phụ thuộc vào nhiều yếu tố khách quan,
chủ quan, đặc biệt là chủ thể cầm quyền. Neu chủ thể cầm quyền có giải pháp
đúng, quần chúng nhân dân có giác ngộ và nhận thúc đúng thì kể cả khi xảy ra
khủng hoảng kinh tế - xã hội vẫn có thể không phát sinh điểm nóng chính trị xã hội hoặc nếu có xảy ra điểm nóng chính tri - xã hội thì tác hại của nó cũng
không lớn. Ngược lại, nếu chủ thể cầm quyền áp dụng giải pháp sai, di ngược
lòng dân, thì không nhung làm cho khủng hoảng kinh tế - xã hội thêm trầm
trọng, mà còn rất khó tránh khỏi nổ ra điểm nóng chính trị - xã hội.
v ề nhận thức, chúng ta phải thừa nhận rằng, sự tồn tại của các điểm
nóng chính trị - xã hội ở nước ta trong những năm qua là một thực tế khách
quan, có tính lịch sử. Trong mọi hoạt động của xã hội, nhất là khi cơ chế,
chính sách, pháp luật chưa hoàn thiện, thì các mâu thuẫn phát sinh đụng chạm
đến lợi ích của một số cá nhân, tổ chức là điều không thể tránh khỏi. Neu giải


×