Tải bản đầy đủ (.doc) (29 trang)

SỰ PHÁT TRIỂN của NHIỆM vụ sãn SÀNG CHIẾN đấu bảo vệ tổ QUỐC và NHỮNG vấn đề đặt RA đối với CÔNG tác ĐẢNG CÔNG tác CHÍNH TRỊ TRONG QUÂN đội HIỆN NAY

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (221.33 KB, 29 trang )

SỰ PHÁT TRIỂN CỦA NHIỆM VỤ SẴN SÀNG CHIẾN ĐẤU BẢO VỆ TỔ
QUỐC VÀ NHỮNG VẪN ĐỀ ĐẶT RA ĐỐI VỚI CTĐ, CTCT TRONG
QUÂN ĐỘI HIỆN NAY
Ðược Ðảng và Chủ tịch Hồ Chí Minh trực tiếp tổ chức, lãnh đạo, giáo dục
và rèn luyện; sự đùm bọc, giúp đỡ của nhân dân, HƠN 70 năm qua, Quân đội ta
đã đoàn kết cùng nhân dân cả nước đánh thắng thực dân Pháp và đế quốc Mỹ
xâm lược, hoàn thành vẻ vang sự nghiệp giải phóng dân tộc, đưa đất nước ta
bước vào kỷ nguyên độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội. Từ nhân dân mà ra, vì
nhân dân mà chiến đấu, Quân đội ta đã không ngừng trưởng thành, lớn mạnh,
thật sự là lực lượng chính trị, lực lượng chiến đấu trung thành, tin cậy của Ðảng,
Nhà nước và nhân dân.
Trong bối cảnh quốc tế và trong nước có cơ hội, thuận lợi, có khó khăn,
thách thức đan xen, những năm qua, Quân đội ta đã quán triệt sâu sắc đường lối
quân sự của Ðảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước, vượt qua nhiều khó
khăn, thách thức, hoàn thành xuất sắc nhiệm vụ được giao. Toàn quân trở thành
khối đoàn kết, thống nhất, kiên định mục tiêu, lý tưởng chiến đấu vì độc lập tự
do của Tổ quốc, vì chủ nghĩa xã hội; chấp hành nghiêm túc các mệnh lệnh và
chế độ sẵn sàng chiến đấu; thường xuyên theo dõi, nắm chắc tình hình, nhất là
trên các hướng chiến lược; làm tốt vai trò tham mưu cho Ðảng, Nhà nước về
lĩnh vực quốc phòng, an ninh. Phối hợp các lực lượng làm thất bại âm mưu, thủ
đoạn "diễn biến hòa bình", gây bạo loạn lật đổ; ngăn chặn, xử lý kịp thời và có
hiệu quả các hành vi xâm phạm chủ quyền và lợi ích quốc gia, thật sự là lực
lượng nòng cốt cùng toàn dân giữ vững độc lập, chủ quyền, thống nhất toàn vẹn
lãnh thổ của Tổ quốc, bảo vệ Ðảng, Nhà nước, nhân dân, thành quả cách mạng
và chế độ Xã hội chủ nghĩa, giữ vững môi trường hòa bình, ổn định để phát triển
đất nước. Quân đội tham gia tích cực và có hiệu quả các chương trình phát triển
kinh tế - xã hội, hoạt động xóa đói, giảm nghèo, đền ơn đáp nghĩa, xây dựng cơ
sở chính trị địa phương, đời sống văn hóa mới, nhất là ở vùng sâu, vùng xa, biên
giới, hải đảo; là lực lượng chủ lực trong phòng tránh, khắc phục hậu quả thiên
tai, cứu hộ, cứu nạn, rà phá bom, mìn, khắc phục hậu quả chiến tranh... Có thể



2
nói, ở đâu có khó khăn, nguy nan, thì ở đó có Quân đội. Hình ảnh, phẩm chất
cao đẹp của "Bộ đội Cụ Hồ" luôn được giữ vững và tỏa sáng trong lòng nhân
dân. Kết quả đó đã đóng góp xứng đáng vào sự nghiệp xây dựng, bảo vệ Tổ
quốc Việt Nam Xã hội chủ nghĩa. Đồng thời cũng khẳng định vai trò quan trọng
của hoạt động CTĐ, CTCT trong nhiệm vụ sẵn sàng chiến đấu bảo vệ Tổ quốc
của quân đội trong HƠN 70 năm qua.
Trong những năm tới, tình hình thế giới, khu vực tiếp tục có những diễn
biến phức tạp, khó lường. Các thế lực thù địch đẩy mạnh chiến lược "diễn biến
hòa bình" để chống phá cách mạng nước ta. Nhất là mỗi khi chúng ta chuẩn bị
tiến hành Đại hội Đảng các cấp; các kỳ họp của Ban chấp hành Trung ương; bầu
cử Quốc hội, Hội đồng nhân dân các cấp; tiến hành cải cách đổi mới về chính
trị, kinh tế, văn hóa, xã hội, quốc phòng và an ninh; kỷ niệm các ngày lễ lớn của
dân tộc, của Đảng, của đất nước hoặc khi xảy ra các “điểm nóng”, các sự kiện
phức tạp, nhạy cảm… là các thế lực thù địch luôn tìm cách đẩy mạnh các hoạt
động chống phá ta trên tất cả các lĩnh vực của đời sống xã hội. Chúng coi chống
phá về Chính trị tư tưởng và văn hóa là “khâu đột phá”; về kinh tế là “mũi
nhọn”; triệt để lợi dụng chiêu bài "dân chủ", "nhân quyền", "tự do tôn giáo" để
làm “ngòi nổ”; lấy con đường ngoại giao để “hỗ trợ”; lấy quân sự để “răn đe”;
khi điều kiện và thời cơ cho phép, “diễn biến hòa bình” kết hợp với Bạo loạn lật
đổ, can thiệp vũ trang và phát động chiến tranh xâm lược để lật đổ thể chế Chính
trị xã hội XHCN nước ta, thiết lập thể chế Chính trị Tư bản chủ nghĩa, lệ thuộc
vào chủ nghĩa đế quốc… Trước thực tế nêu trên, để thực hiện thắng lợi sự
nghiệp đổi mới CNH, HĐH đất nước, nhiệm vụ bảo vệ Tổ quốc đòi hỏi ngày
càng cao đã và đang đặt ra với quân đội ta phải không ngừng nâng cao chất
lượng tổng hợp, trình độ sẵn sàng chiến đấu và sức mạnh chiến đấu, hoàn thành
xuất sắc mọi nhiệm vụ mà Đảng, Nhà nước và nhân dân giao phó. Vì vậy,
nghiên cứu
NỘI DUNG



3
1. Tính tất yếu khách quan của nhiệm vụ sẵn sàng chiến đấu bảo vệ
Tổ quốc và yêu cầu CTĐ, CTCT.
1.1. Tính tất yếu khách quan của nhiệm vụ sẵn sàng chiến đấu bảo vệ
Tổ quốc xã hội chủ nghĩa
Sẵn sàng chiến đấu là trạng thái của lực lượng vũ trang và từng đơn vị, bảo
đảm trong mọi tình huống và bất kỳ lúc nào cũng có thể bắt đầu hoạt động tác
chiến, hoàn thành thắng lợi mọi nhiệm vụ được giao. Việc nâng cao trình độ sẵn
sàng chiến đấu và sức mạnh chiến đấu bảo vệ vững chắc Tổ quốc xã hội chủ
nghĩa là tất yếu khách quan, là nhiệm vụ cơ bản, thường xuyên, đồng thời là
nhiệm vụ cấp thiết của quân đội trong tình hình hiện nay. Khẳng định vị trí, vai
trò của nhiệm vụ SSCĐ bảo vệ Tổ quốc xuất phát từ những cơ sở lý luận, thực
tiễn sau:
Thứ nhất, từ quan điểm của Chủ nghĩa Mác – Lê nin, tư tưởng Hồ Chí
Minh về bảo vệ Tổ quốc xã hội chủ nghĩa.
Kế thừa và vận dụng sáng tạo quan điểm của C. Mác và Ph. Ăng-ghen về
vũ trang quần chúng để bảo vệ thành quả cách mạng của giai cấp vô sản. V.I.
Lê-nin đã nói: trong điều kiện đảng cộng sản đã nắm được quyền lãnh đạo xã
hội, nhiệm vụ bảo vệ tổ quốc xã hội chủ nghĩa có nội dung toàn diện, với mục
tiêu bảo vệ bao gồm: bảo vệ độc lập dân tộc và chủ quyền quốc gia; bảo vệ
thành quả cách mạng và công cuộc xây dựng chủ nghĩa xã hội; bảo vệ sự ổn
định và phát triển đất nước trên tất cả các lĩnh vực chính trị, kinh tế, văn hóa, xã
hội; bảo vệ môi trường hòa bình và hạnh phúc của nhân dân. Chính vì vậy,
Người đã khẳng định: “Không cầm vũ khí bảo vệ nước cộng hoà xã hội chủ
nghĩa thì chúng ta không thể tồn tại được. Giai cấp thống trị không bao giờ
nhường quyền cho giai cấp bị trị. Nhưng giai cấp bị trị phải chứng minh trên
thực tế rằng, họ không những có khả năng lật đổ bọn bóc lột, mà còn có khả
năng tổ chức, huy động hết thảy để tự bảo vệ lấy mình”1. Khi giành được chính

quyền, Đảng Cộng sản trở thành Đảng cầm quyền, do đó Đảng phải tập trung
lãnh đạo toàn dân nỗ lực xây dựng chủ nghĩa xã hội, chăm lo xây dựng quốc
1

V.I. Lênin, Toàn tập, Nxb Tiến bộ, Mátxcơva, 1977, tập 38, tr 165- 166.


4
phòng, an ninh của đất nước, xây dựng lực lượng vũ trang hùng mạnh, luôn luôn
cảnh giác sẵn sàng chiến đấu bảo vệ vững chắc Tổ quốc xã hội chủ nghĩa trong
mọi tình huống V.I.Lênin cũng đã dạy: “Dù thế nào đi chăng nữa, chúng ta vẫn
phải giữ cho Hồng quân của chúng ta trong tư thế sẵn sàng chiến đấu và tăng
cường năng lực chiến đấu cho Hồng quân lên”2.
Kế thừa những tư tưởng của chủ nghĩa Mác – Lê nin, Chủ tịch Hồ Chí
Minh khẳng định: bảo vệ Tổ quốc là sự gắn bó chặt chẽ giữa mục tiêu độc lập
dân tộc và CNXH, là sự thống nhất nội dung dân tộc, nội dung giai cấp và nội
dung thời đại. Người chỉ rõ, nhân dân ta chiến đấu hy sinh chẳng những vì độc
lập, tự do của riêng mình mà còn vì độc lập, tự do và hoà bình trên thế giới.
Đồng thời luôn nhất quán quan điểm: phát huy sức mạnh tổng hợp trong nhiệm
vụ bảo vệ Tổ quốc XHCN. Đó là sức mạnh của toàn dân tộc, toàn dân, của từng
người dân, của các cấp, các ngành từ Trung ương đến cơ sở, là sức mạnh của các
nhân tố chính trị, quân sự, kinh tế, văn hoá xã hội, sức mạnh truyền thống với
hiện tại, sức mạnh dân tộc với sức mạnh thời đại. Chính vì vậy, khi đến thăm
cán bộ, chiến sĩ đại đoàn 308 tại Đền Hùng, Hồ Chí Minh đã căn dặn: “Các vua
Hùng đã có công dựng nước, Bác cháu ta phải cùng nhau giữ lấy nước” 3. Ý chí
giữ nước của Người rất sâu sắc và kiên quyết. Trong lời kêu gọi toàn quốc
kháng chiến ngày 19 -12 - 1946, Người nói: chúng ta thà hi sinh tất cả chứ nhất
định không chịu mất nước, nhất định không chịu làm nô lệ. Ngay sau khi Cách
mạng tháng Tám năm 1945 thành công, trước sự uy hiếp của thực dân đế quốc,
Hồ Chí Minh đã cùng Đảng đề ra nhiều biện pháp thiết thực, cụ thể để giữ vững

chính quyền nhân dân chuẩn bị cho kháng chiến lâu dài.
Trong cuộc kháng chiến chống Mĩ cứu nước, Hồ Chí Minh đã chỉ ra một
chân lí rằng: “Không có gì quý hơn độc lập tự do”. “Hễ còn một tên xâm lược
trên đất nước ta, thì ta còn phải tiếp tục chiến đấu quét sạch nó đi”, trước khi đi
xa, trong bản di chúc Người căn dặn: “Cuộc kháng chiến chống Mĩ cứu nước có
thể còn kéo dài, đồng bào ta có thể phải hi sinh nhiều của nhiều người. Dù sao
2

3

V.I. Lênin, Toàn tập, Nxb Tiến bộ, Mátxcơva, 1977, tập 42, tr 159.
Hồ Chí Minh, Biên niên tiểu sử, tập 5, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội. 1995, tr.553.


5
chúng ta phải quyết tâm đánh thắng giặc Mĩ đến thắng lợi hoàn toàn”. Đồng
thời, Người còn chỉ rõ: “Chúng ta phải ra sức xây dựng quân đội ta thành một
quân đội nhân dân hùng mạnh, một quân đội cách mạng tiến lên chính quy và
hiện đại để giữ gìn hoà bình, bảo vệ Tổ quốc” 4. Những quan điểm đó đã khẳng
định ý chí quyết tâm giải phóng dân tộc, bảo vệ Tổ quốc là tư tưởng xuyên suốt
trong cuộc đời hoạt động của Chủ tịch Hồ Chí Minh.
Thực tiễn lịch sử cách mạng vô sản của các nước trên thế giới, lịch sử
cách mạng Việt Nam dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam đã chứng
minh tính đúng đắn, khoa học, cách mạng của học thuyết Mác- Lênin, tư tưởng
Hồ Chí Minh về quy luật xây dựng chủ nghĩa xã hội phải đi đôi với bảo vệ vững
chắc Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa.
Thứ hai, xuất phát từ truyền thống dựng nước đi đôi với giữ nước của dân
tộc Việt Nam.
Có thể nói, từ rất sớm, cha, ông ta đã nhận thức được mối quan hệ biện
chứng, gắn bó giữa dựng nước phải đi đôi với giữ nước. Đó chính là tư tưởng

“quốc phú, binh cường”, “cử quốc nghênh địch”, “thái bình nên gắng sức, non
sông vững ngàn thu”... Ngay từ thời kì Văn Lang, khi bắt đầu đặt nền móng xây
dựng một quốc gia độc lập Tổ tiên ta đã có ý thức phải giữ gìn lấy quốc gia ấy.
Thục Phán, An Dương Vương vừa động viên trăm họ phát triển cây lúa nước,
đồng thời lại vừa huy động toàn dân đắp thành Cổ Loa, sửa sang giáo mác, rèn
đúc tên đồng để sẵn sàng bảo vệ đất nước. Trong những năm dài Bắc thuộc, ý
chí đánh giặc cứu nước và giữ nước chẳng những không bị tàn lụi mà trái lại, nó
đã ngày càng phát triển cao hơn.
Bước vào thời kì Đại Việt, khi nền độc lập nước nhà được khôi phục và
củng cố, tư tưởng “dựng nước đi đôi với giữ nước” đã phát triển lên một bước
mới tạo thành nền tảng bền vững làm phong phú thêm chủ nghĩa yêu nước Việt
Nam. Vào thời nhà Lý, “thế nước”, “thế lực” của nước Đại Việt đã khá vững
mạnh. Công cuộc “kiến quốc” và “thủ quốc” không ngừng được tăng cường.
4

Hồ Chí Minh, Toàn tập, tập 9, Nxb CTQG, H. 1996, tr 272


6
Nhờ đó nhà Lý tạo nên thế vững, lực mạnh và đã thực hiện được chiến
lược “Tiên phát chế nhân”, phá tan âm mưu câu kết quân sự Tống - Chăm, đánh
bại chiến tranh xâm lược của quân Tống trong thời gian tương đối ngắn.
Nhà Trần sau hơn 30 năm xây dựng (1226-1257), nhờ có chính sách đúng
đắn trên cơ sở một nền văn hoá quân sự độc đáo của dân tộc và nỗ lực của toàn
dân, nên lực nước được tăng cường thêm sức mạnh, thế nước được phát triển
thêm vững chắc. Đó là điều kiện cơ bản để dân tộc ta ba lần đại thắng quân
Nguyên-Mông xâm lược. Trần Quốc Tuấn, Vị tướng quốc lừng danh, nhà quân
sự kiệt xuất đã khẳng định kế sách giữ nước là: “Khoan thư sức dân để làm kế
sâu rễ bền gốc, đó là thượng sách giữ nước”.
Thời nhà Lê, sau những chiến thắng Chi Lăng, Xương Giang lừng lẫy,

nước Đại Việt bước vào thời kì xây dựng mới. Những tư tưởng tiến bộ của
Nguyễn Trãi đã giúp triều Lê dựng nên Nhà nước phong kiến Đại Việt hưng
thịnh nhất trong lịch sử dân tộc ta thời trung đại. Song ngay khi đất nước hưng
thịnh, vua Lê Thái Tổ đã nhắc nhở cháu con: “Lo giữ nước ngay từ lúc nước
chưa nguy”. Khi đi kiểm tra đất Hoà Bình (vùng chợ Bờ), Lê Thái Tổ đã cho
khắc vào bia đá: “Biên phòng cần có phương lược tốt/ Giữ nước nên có kế dài lâu”.
Lời của vua Lê Thái Tổ như một phương hướng chiến lược giữ nước lâu
bền, nhắc nhủ muôn đời cho các thế hệ con cháu mai sau. Kế thừa những kinh
nghiệm truyền thống lịch sử và căn cứ vào điều kiện thực tiễn của thời đại mới,
Chủ tịch Hồ Chí Minh và Đảng ta đã xác định: “Dựng nước đi đôi với giữ nước”
là quy luật tồn tại và phát triển của dân tộc Việt Nam.
Trong kháng chiến chống Pháp, Chủ tịch Hồ Chí Minh và Đảng ta đã kịp
thời đề ra chủ trương “vừa kháng chiến vừa kiến quốc”. Thực hiện chủ trương
ấy, chúng ta đã ra sức xây dựng căn cứ địa cách mạng Việt Bắc, xây dựng các
khu du kích ở vùng tạm chiếm, xây dựng vùng tự do ở khu IV, khu V, đồng
bằng Nam Bộ… làm căn cứ cung cấp sức người sức của cho kháng chiến lâu dài
và phát triển chiến tranh nhân dân, đưa cuộc kháng chiến tiến đến thắng lợi.
Trong kháng chiến chống Mỹ, Đảng ta đã lãnh đạo toàn quân, toàn dân thực


7
hiện thắng lợi đồng thời hai chiến lược cách mạng: Xây dựng chủ nghĩa xã hội ở
miền Bắc và ra sức đấu tranh giải phóng miền Nam thống nhất Tổ quốc.
Bước vào thời kì cách mạng mới, kế thừa truyền thống lịch sử của dân tộc
và phát triển sáng tạo qui luật “dựng nước đi đôi mới giữ nước”, Đảng Cộng sản
Việt Nam nhất quán lãnh đạo quân dân cả nước thực hiện hai nhiệm vụ chiến
lược: Xây dựng chủ nghĩa xã hội và bảo vệ vững chắc Tố quốc xã hội chủ nghĩa.
Để phát huy sức mạnh tổng hợp cho sự nghiệp dựng nước và giữ nước,
cha ông ta đã nhất quán thực hiện kế sách: Đoàn kết bên trong, hoà hiếu bên
ngoài. Kế sách này đã được tiến hành một cách sáng tạo trong từng thời kì lịch sử.

Từ những kinh nghiệm lịch sử trong quá trình đấu tranh dựng nước và giữ
nước cho chúng ta thấy, tuy nước ta đã hoàn toàn độc lập nhưng việc củng cố và
bảo vệ nền độc lập của nước ta vẫn là một nhiều vụ chiến lược. Độc lập dân tộc
gắn liền với chủ nghĩa xã hội; xây dựng thành công chủ nghĩa xã hội mới bảo vệ
được vững chắc độc lập dân tộc và có giữ vững độc lập dân tộc mới xây dựng
được chủ nghĩa xã hội. Dưới sự lãnh đạo của Đảng, quán triệt tư tưởng Hồ Chí
Minh: dựng nước đi đôi với giữ nước là quy luật tồn tại và phát triển. Ngày nay
chúng ta đặt nhiệm vụ xây dựng đất nước lên hàng đầu, nhưng không bao giờ
mất cảnh giác, chệch phương hướng, tách rời bảo vệ độc lập dân tộc với bảo vệ
chế độ xã hội chủ nghĩa, tách rời dựng nước với giữ nước trên tất cả các mặt
chính trị ngoại giao, kinh tế, văn hoá, thương mại tài chính, quốc phòng, an ninh
và đối ngoại.
Dựng nước đi đôi với giữ nước là quy luật tất yếu, khách quan đối với sự
tồn tại và phát triển của dân tộc ta trong suốt tiến trình lịch sử. Ngày nay, trong
giai đoạn cách mạng mới, sự vận đông, phát triển của quy luật này, có những nội
dung mới, đa dạng và phức tạp hơn. Vì vậy, thực hiện thắng lợi hai nhiệm vụ
chiến lược xây dựng và bảo vệ vững chắc Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa là
vấn đề hết sức quan trọng và cấp bách đối với đất nước ta, nhân dân ta, nhằm
chuẩn bị tốt hành trang giữ vững và phát huy bản sắc văn hoá dân tộc, vững
bước tiến lên trong thời kỳ mới.


8
Thứ ba, xuất phát từ tư duy mới của Đảng về nhiệm vụ bảo vệ Tổ quốc
Qua 28 năm đổi mới, tư duy về bảo vệ Tổ quốc đã có sự phát triển và đổi
mới mạnh mẽ. Chúng ta ngày càng nhận thức sâu sắc, đầy đủ và toàn diện hơn
về nhiệm vụ bảo vệ Tổ quốc trong thời bình. Sự phát triển và đổi mới tư duy về
bảo vệ Tổ quốc của Đảng trong thời kỳ mới được đánh dấu từ Đại hội VI và tiếp
tục qua các kỳ Đại hội tiếp theo của Đảng, nhất là được xác định rất rõ tại Đại
hội IX và Nghị quyết TW8 khoá IX về Chiến lược bảo vệ Tổ quốc trong tình

hình mới, Đại hội X, sau đó Đại hội XI tiếp tục bổ sung và khẳng định: “Bảo vệ
vững chắc độc lập, chủ quyền, thống nhất, toàn vẹn lãnh thổ; giữ vững chủ
quyền biển đảo, biên giới, vùng trời; bảo vệ Đảng, Nhà nước, nhân dân và chế
độ xã hội chủ nghĩa; giữ vững ổn định chính trị, trật tự, an toàn xã hội; chủ
động ngăn chặn, làm thất bại mọi âm mưu, hoạt động chống phá của các thế
lực thù địch và sẵn sàng ứng phó với các mối đe dọa an ninh phi truyền thống
mang tính toàn cầu, không để bị động, bất ngờ trong mọi tình huống. Tiếp tục
mở rộng quan hệ hợp tác quốc tế trong lĩnh vực quốc phòng, an ninh”5.
Những quan điểm lý luận sâu sắc và toàn diện về mục tiêu, nhiệm vụ bảo
vệ Tổ quốc Việt Nam XHCN là kết quả của quá trình phát triển tư duy của Đảng
ta từ khi đổi mới đến nay. Là bước phát triển đột phá quan trọng so với trước
đây. Nếu như từ Đại hội VII trở về trước hai mặt của nội dung bảo vệ Tổ quốc
XHCN, mặt tự nhiên – lịch sử được nhấn mạnh hơn so với mặt chính trị - xã hội
thì từ Đại hội VIII trở đi hai mặt tự nhiên – lịch sử và chính trị - xã hội trong nội
dung bảo vệ Tổ quốc XHCN được đặt trong mối quan hệ thống nhất chặt chẽ
với nhau hơn. Đảng ta nhận thức rõ hơn mối quan hệ thống nhất chặt chẽ giữa
các mặt, các nội dung trong mục tiêu bảo vệ Tổ quốc Việt Nam XHCN, mở rộng
nội dung bảo vệ Tổ quốc Việt Nam XHCN trong điều kiện Việt Nam đổi mới,
mở cửa đẩy mạnh CNH, HĐH đất nước và hội nhập kinh tế quốc tế mà vẫn giữ
vững độc lập dân tộc, bảo vệ được thành quả của CNXH, là vấn đề đặc biệt hệ
trọng đặt ra đối với Đảng, Nhà nước và nhân dân trong thời kỳ mới. Đồng thời,
5

ĐCSVN, Văn kiện Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ XI, Nxb CTQG, H. 2011, tr.233


9
coi giữ vững môi trường hòa bình, ổn định bền vững để phát triển đất nước là
vấn đề mang tính nguyên tắc.
Về phương thức đấu tranh bảo vệ Tổ quốc Việt Nam XHCN, trước đây

Đảng ta chưa đề cập một cách cụ thể và rõ ràng về phương thức đấu tranh bảo vệ
Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa , nhưng tư tưởng về phương thức đấu tranh
bảo vệ Tổ quốc XHCN cũng được ẩn chứa trong các nội dung khác. Tại Đại hội
Đảng lần thứ VIII, Đảng ta mới nêu vấn đề: “Xây dựng vững chắc thế trận quốc
phòng toàn dân kết hợp chặt chẽ với thế trận an ninh nhân dân; quán triệt chặt chẽ
tư tưởng cách mạng tiến công, tích cực, chủ động, sẵn sàng đánh bại mọi âm mưu
và hành động chống phá ta”. Quan điểm nhấn mạnh đến phương thức đấu tranh vũ
trang, phương thức đấu tranh phi vũ trang chưa được đề cập chính thức. Từ Đại hội
Đảng lần thứ IX, Đại hội Đảng lần thứ X cho đến nay, phương thức đấu tranh phi
vũ trang ngày càng giữ vị trí quan trọng trong nhận thức và tổ chức thực tiễn, được
Đảng ta nhìn nhận một cách đầy đủ và cụ thể hơn. Đại hội Đảng lần thứ XI phát
triển luận điểm về phương thức bảo vệ Tổ quốc Việt Nam XHCN trong tình hình
mới bằng phương thức đấu tranh vũ trang, đấu tranh phi vũ trang và sự kết hợp cả
hai phương thức đó. Ngoài việc phát triển luận điểm “ thực hiện bảo vệ Tổ quốc từ
xa”. Đảng ta xác định “ tự bảo vệ ” là phương thức hữu hiệu để bảo vệ từng con
người, từng tổ chức và bảo vệ bảo vệ Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa. “ Tự bảo
vệ” không chỉ đơn thuần nằm trong phạm trù bảo vệ chính trị nội bộ, vì điều đó sẽ
làm giảm đi ý nghĩa, tầm quan trọng của vấn đề, không phù hợp với thực tiễn. Mà
“tự bảo vệ” là một vấn đề cơ bản, nội dung cốt lõi của sự nghiệp bảo vệ Tổ quốc
Việt Nam XHCN trong tình hình mới.
Về sức mạnh bảo vệ Tổ quốc Việt Nam XHCN trong thời kỳ mới, theo
quan điểm của Đảng ta được nhìn nhận trên 3 phương diện chính là:
Thứ nhất: Đó là phát huy sức mạnh tổng hợp của nguồn lực nội sinh, của
khối đại đoàn kết dân tộc Việt Nam; của cả hệ thống chính trị xã hội xã hội chủ
nghĩa, do Đảng cộng sản Việt Nam lãnh đạo; của tiềm lực và thế trận quốc


10
phòng và an ninh; của sự kết hợp kinh tế - xã hội với quốc phòng và an ninh
trong các chiến lược, quy hoạch, kế hoạch xây dựng, phát triển đất nước.

Thứ hai: Đó là phát huy sức mạnh tổng hợp của cả nguồn lực bên trong và
bên ngoài, kết hợp sức mạnh dân tộc với sức mạnh thời đại; kết hợp hoạt động
quốc phòng và an ninh với hoạt động đối ngoại.
Thứ ba: Đó còn là sức mạnh của nền quốc phòng toàn dân và nền an ninh
nhân dân không ngừng được củng cố, tăng cường ngay từ trong thời bình, bảo
đảm đủ sức ngăn ngừa chiến tranh, giữ vững môi trường hòa bình, ổn định cho
công cuộc xây dựng, phát triển đất nước; đồng thời, sẵn sàng đánh thắng chiến
tranh xâm lược có sử dụng vũ khí công nghệ cao của địch.
Như vậy, với quan điểm toàn diện và sâu sắc về sức mạnh tổng hợp trên
đây của Đảng ta, mở ra khả năng rộng lớn, khai thác triệt để các nguồn lực bao
gồm cả nguồn lực vật chất và tinh thần, cả nguồn lực hiện có và tiềm tàng, cả
nguồn lực kết tinh của quá khứ và nguồn lực mới của tương lai cho sự nghiệp
bảo vệ Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa.
Thứ tư, xuất phát từ âm mưu, thủ đoạn chống phá của kẻ thù
Thời gian qua, nước ta tổ chức nhiều sự kiện chính trị, kinh tế, văn hóa, xã
hội, quốc phòng, an ninh và đối ngoại sâu rộng, đặc biệt là triển khai thực hiện
Nghị quyết Trung ương 4- khóa XI; Quốc hội tổ chức nhiều kỳ họp quan trọng;
các hoạt động đối ngoại của Đảng, Nhà nước và nhân dân ta diễn ra sâu rộng
trên mọi bình diện quốc tế và khu vực... Cay cú trước những thành công đó, các
thế lực thù địch đã tìm mọi cách chống phá chúng ta một cách quyết liệt. Âm
mưu của chúng là nhằm vào các địa bàn vùng đồng bào dân tộc thiểu số, vùng
sâu, vùng xa- biên giới, nhất là các tỉnh Tây Nguyên, Tây Bắc, Tây Nam Bộ với
những thủ đoạn tinh vi, xảo nguyệt. Các vụ xảy ra hồi đầu năm 2001 và tháng 4
năm 2004 tại các tỉnh Tây Nguyên, gần đây là các tỉnh Tây Bắc như Mường Nhé
(Điện Biên) đã chứng minh điều đó. Địch lợi dụng mê tín dị đoan đến mức
cuồng tín của một số người theo đạo Tin lành trong vùng đồng bào dân tộc thiểu
số; bọn phản động bên ngoài cùng với bọn xấu tại địa phương đã ngầm cấu kết


11

chặt chẽ với nhau lừa bịp, mê hoặc quần chúng, hình thành một tổ chức phản
động, từng bước tổ chức phát triển lực lượng, tuyên truyền ảnh hưởng, kích
động chia rẽ dòng họ, dòng tộc, khống chế và vô hiệu hoá vai trò lãnh đạo của
cấp uỷ, chính quyền địa phương để khi có thời cơ và điều kiện thực hiện ý đồ
chính trị của chúng.
Thủ đoạn hoạt động chính của chúng là: Tung tin thất thiệt, tuyên truyền
xuyên tạc; tạo dựng nhân cốt, tạo dựng ngọn cờ. Tuyển chọn người vào tổ chức
“Hội” chặt chẽ, có chọn lọc. Tích cực chuẩn bị cơ sở vật chất cần thiết bằng các
thủ đoạn mê tín dẫn tới mê muội để lừa gạt, chiếm đoạt, kết hợp mê hoặc với
cường chế, kết hợp giữa thuyết phục với tung tin để răn đe. Từng bước hoàn
thiện các tổ chức dưới sự điều hành của bọn tay chân phản động núp dưới hình
thức mê tín dị đoan (vua, trời, nhà nước Đề Ga, nhà nước H’Mông). Tuyên
truyền kích động, lôi kéo nội bộ gia đình, dòng họ và nội bộ chính quyền địa
phương. Khi bị lộ, chúng sẵn sàng có phương án đối phó với chính quyền, đồng
thời sẵn sàng thủ tiêu, tàn sát, thanh trừng lẫn nhau để bịt đầu mối và trấn áp
quần chúng…
Quân đội là công cụ sắc bén, là lực lượng chính trị trung thành, tin cậy
của Đảng, Nhà nước và nhân dân. Để hoàn thành tốt nhiệm vụ mà Đảng, Nhà
nước và nhân dân giao phó, đòi hỏi quân đội và các đơn vị phải thường xuyên
cảnh giác đối với mọi âm mưu và hành động “Diễn biến hoà bình”, bạo loạn lật
đổ hoặc gây chiến tranh xâm lược của chủ nghĩa đế quốc và các thế lực thù địch.
Không một chút lơi lỏng nhiệm vụ sẵn sàng chiến đấu bảo vệ Tổ quốc, kiên
quyết ngăn chặn và đập tan mọi âm mưu, thủ đoạn của kẻ thù bảo vệ vững chắc
Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa.
Thứ năm, xuất phát từ thực trạng nhiệm vụ SSCĐ bảo vệ Tổ quốc của
quân đội
Quán triệt nghị quyết Trung ương 8- khóa IX “về chiến lược bảo vệ Tổ
quốc trong tình hình mới”, nghị quyết Đại hội IX, X, XI và nghị quyết Đại hội
Đảng bộ quân đội lần thứ IX. Và đặc biệt, vừa qua Đảng ta đã tiến hành Hội



12
nghị Ban chấp hành Trung ương Đảng lần thứ 8 (Khóa XI) đã thảo luận, đánh
giá kết quả 10 năm thực hiện Nghị quyết trung ương 8 (khóa IX) về Chiến lược
bảo vệ Tổ quốc trong tình hình mới. Trong những năm qua, Đảng bộ Quân đội
đã lãnh đạo toàn quân kiên định mục tiêu chiến đấu, xác định rõ đối tượng, đối
tác, thường xuyên cảnh giác duy trì tốt chế độ thường trực SSCĐ, tổ chức luyên
tập thành thạo các phương án SSCĐ, kịp thời đấu tranh ngăn chặn, đấu tranh
làm thất bại nhiều âm mưu và hoạt động chống đối, phá hoại bằng các biện pháp
vũ trang và phi vũ trang... không để bị động về chiến lược ... ngăn chặn và đẩy
lùi các hoạt động vi phạm quy chế biên giới, xâm phạm chủ quyền và lợi ích
quốc gia; các cấp ủy, chi bộ ở các đơn vị trong toàn quân luôn làm tốt công tác
giáo dục, quán triệt nâng cao nhận thức trách nhiệm chính trị cho cán bộ, chiến sĩ
trong quá trình thực hiện nhiệm vụ SSCĐ. Từ đó tạo được ý chí quyết tâm cao, biết
khắc phục khó khăn, vươn lên hoàn thành tốt nhiệm vụ, dù ở bất cứ điều kiện, hoàn
cảnh nào; xây dựng cho cán bộ, chiến sĩ có phẩm chất chính trị - tinh thần và tâm
lý bền vững, ý thức thường trực sẵn sàng chủ động ứng phó thắng lợi trước
những âm mưu “diễn biến hoà bình”, bạo loạn lật đổ của địch, có niềm tin vào
khả năng đánh thắng địch. Đồng thời, không ngừng học tập, nắm vững và làm
chủ vũ khí, khí tài trang bị, chấp hành nghiêm các chế độ quy định về bảo quản,
sử dụng vũ khí trang bị kỹ thuật trong ngày, trong tuần và định kỳ; chế độ lau
chùi bảo quản sau khi luyện tập, tuần tra, canh gác… thực hiện đúng quy định
về dự trữ linh kiện khí tài, lương thực, thực phẩm và các yêu cầu bảo đảm khác
cho nhiệm vụ SSCĐ. Bảo vệ nghiêm ngặt các kho dự trữ chống sự phá hoại của
địch, đề phòng hoả hoạn, chống ẩm ướt và tình trạng sử dụng tuỳ tiện…
Những thành tích và ưu điểm điểm trên đây của Quân đội đã góp phần
cùng cả nước bảo vệ vững chắc độc lập chủ quyền và toàn vẹn lãnh thổ của Tổ
quốc, đập tan nhiều âm mưu phá hoại của kẻ thù, tạo môi trường chính trị xã hội
ổn định và lành mạnh làm cơ sở để phát triển kinh tế thực hiện thắng lợi sự
nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước.



13
Tuy nhiên trước yêu cầu xây dựng và bảo vệ Tổ quốc trong tình hình mới,
thì việc thực hiện nhiệm vụ SSCĐ của Quân đội vẫn còn bộc lộ những yếu kém
và khuyết điểm nổi lên là:
Một số cấp ủy, tổ đảng chưa thực sự phát huy được vai trò của mình trong
lãnh đạo, tổ chức thực hiện nhiệm vụ SSCĐ ở đơn vị; chưa thực sự nghiên cứu,
nắm vững những nội dung, yêu cầu trong chỉ thị, hướng dẫn của trên cũng như
tình hình thực tiễn của đơn vị mình nên quá trình lãnh đạo, chỉ đạo, tổ chức thực
hiện nhiệm vụ SSCĐ còn lúng túng, chất lượng, hiệu quả không cao. Việc chuẩn
bị nghị quyết lãnh đạo nhiệm vụ SSCĐ còn phiến diện, chưa dựa trên kết quả
quán triệt sâu sắc chỉ thị, nghị quyết của cấp trên về SSCĐ, chưa phân tích chính
xác tình hình thực tế đơn vị và các chủ trương, biện pháp lãnh đạo còn chung
chung, có chỗ còn có biểu hiện thiếu quan tâm tới công tác nâng cao chất lượng
lãnh đạo. Quá trình triển khai thực hiện nghị quyết lãnh đạo nhiệm vụ SSCĐ có
chỗ mới dừng lại ở việc giáo dục nhận thức, chưa có biện pháp phát huy vai trò
gương mẫu của đội ngũ đảng viên, chưa quan tâm xây dựng đội ngũ cán bộ để
có đủ năng lực chỉ huy đơn vị làm nhiệm vụ SSCĐ, còn mắc bệnh phô trương,
hình thức, giáo điều, quan liêu, hành chính… nói chưa đi đôi với làm.
Việc tổ chức luyên tập các phương án SSCĐ ở một số đơn vị còn mang
tính hình thức, lý luận không gắn với thực tiễn; duy trì chế độ trực ban, trực
chiến, tuần tra, canh gác ở một số đơn vị còn bị buông lỏng, thiếu kiểm tra sâu
sát. Vì vậy, khi có tình huống sảy ra còn lúng túng, bị động, chưa có phương án
sư lý kịp thời; ở những mức độ khác nhau vẫn còn một số cán bộ, chiến sĩ nhận
thức chưa đầy đủ, đúng đắn, dẫn tới có biểu hiện hoài nghi về ý nghĩa đích thực
của việc bảo vệ Tổ quốc gắn liền với bảo vệ Đảng, bảo vệ chế độ còn có sự so
đo tính toán thiệt hơn khi thực hiện nhiệm vụ…
Trước những những thực trạng trên, đồng thời trước yêu cầu của nhiệm vụ
sẵn sàng chiến đấu bảo vệ Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa được đặt ra cho

toàn quân nói chung và các đơn vị quân đội nói riêng là phải luôn nhận thức sâu
sắc nhiệm vụ và ý nghĩa của nhiệm vụ; phải chuẩn bị đầy đủ về mọi mặt (kể cả


14
con người, tổ chức và trang bị) để có thể đáp ứng được mọi tình huống chiến
đấu có thể xảy ra trong bất kỳ thời gian và hoàn cảnh nào. Khi có lệnh của cấp
trên có thẩm quyền, nhanh chóng chuyển được toàn bộ hoạt động của đơn vị từ
trạng thái sẵn sàng chiến đấu thường xuyên lên trạng thái sẵn sàng chiến đấu cao
hơn theo mệnh lệnh một cách trọn vẹn nhất và có thể bước vào thực hiện nhiệm
vụ có hiệu quả được ngay. Đồng thời, tiến hành hoạt động CTĐ, CTCT phải
linh hoạt, sáng tạo, thường xuyên đổi mới nội dung, hình thức, phương pháp cho
phù hợp với đặc điểm nhiệm vụ của từng đơn vị.
1.2. Yêu cầu CTĐ, CTCT trong nhiệm vụ sẵn sàng chiến đấu bảo vệ Tổ quốc
Trình độ sẵn sàng chiến đấu và sức mạnh chiến đấu của mỗi đơn vị quân
đội được tạo nên bởi kết quả tổng hợp của nhiều yếu tố, bao gồm: con người có
trình độ giác ngộ chính trị cao; có kỹ năng chiến đấu thành thạo; có ý thức tổ
chức kỷ luật nghiêm, tinh thần chiến đấu dũng cảm, tác phong linh hoạt; tổ chức
biên chế của đơn vị đúng qui định, hoạt động đúng chức năng, có hiệu quả; tình
trạng vũ khí, khí tài, trang bị kỹ thuật của đơn vị luôn ở tư thế được chuẩn bị sẵn
sàng thực hiện nhiệm vụ. Do vậy, để đảm bảo cho đơn vị cơ sở luôn luôn sẵn
sàng chiến đấu, CTĐ, CTCT phải tập trung thực hiện tốt những yêu cầu nhiệm
vụ chủ yếu sau đây:
Thứ nhất, lãnh đạo, chỉ đạo xây dựng đơn vị vững mạnh toàn diện, trong
đó lấy xây dựng về chính trị làm cơ sở; giáo dục rèn luyện cho bộ đội có phẩm
chất chính trị vững vàng, tinh thần, tâm lý bền vững, có tính tổ chức, tính kỷ luật
cao và có ý thức thường trực sẵn sàng chiến đấu.
Thứ hai, xây dựng và phát huy vai trò lãnh đạo của cấp uỷ, tổ chức đảng,
trách nhiệm tổ chức thực hiện của đội ngũ cán bộ; vai trò xung kích của tổ chức
đoàn thanh niên trong thực hiện nhiệm vụ sẵn sàng chiến đấu của đơn vị.

Thứ ba, lãnh đạo chặt chẽ việc xây dựng, luyện tập các phương án sẵn
sàng chiến đấu, phòng chống bạo loạn lật đổ và vũ trang xâm lược của kẻ thù,
không ngừng nâng cao trình độ, khả năng chiến đấu của bộ đội.


15
Thứ tư, lãnh đạo chặt chẽ việc duy trì chấp hành nghiêm các chế độ, quy
định về sẵn sàng chiến đấu; gắn mọi hoạt động sinh hoạt hàng ngày của bộ đội
với nhiệm vụ sẵn sàng chiến đấu.
Thứ năm, lãnh đạo thực hiện nhiệm vụ sẵn sàng chiến đấu của đơn vị với
chủ động phối hợp với địa phương và các lực lượng liên quan tham gia xây dựng
cơ sở địa phương vững mạnh toàn diện, giữ vững ổn định chính trị, kịp thời
ngăn ngừa và đập tan những âm mưu và hành động chống phá của kẻ thù.
Trong thời kỳ mới, toàn quân và toàn dân ta dưới sự lãnh đạo của Đảng
đang tập trung mọi nỗ lực cho sự nghiệp đổi mới, công nghiệp hoá, hiện đại hoá
đất nước, nhưng chúng ta không một phút lơi lỏng nhiệm vụ bảo vệ Tổ quốc. Sự
nghiệp bảo vệ Tổ quốc xã hội chủ nghĩa trong điều kiện mới đòi hỏi phải có một
chiến lược tổng hợp, kết hợp chặt chẽ giữa xây dựng với bảo vệ, quá trình xây
dựng phải gắn với bảo vệ, phát huy sức mạnh của cả hệ thống chính trị, của cả
kinh tế- quốc phòng- an ninh- đối ngoại... Kiên quyết đánh bại âm mưu “diễn
biến hoà bình” bạo loạn lật đổ của chủ nghĩa đế quốc và các thế lực thù địch,
đồng thời có kế hoạch chủ động, sẵn sàng ứng phó thắng lợi với mọi tình huống.
2. Một số giải pháp tăng cường CTĐ, CTCT trong nhiệm vụ sẵn sàng
chiến đấu bảo vệ Tổ quốc của quân đội.
Trong những năm tới, tình hình thế giới, khu vực tiếp tục có những diễn
biến phức tạp, khó lường. Đất nước ta đang đứng trước thời cơ lớn và cả những
thách thức không nhỏ. Kinh tế thế giới tuy có dấu hiệu phục hồi nhưng vẫn tiềm
ẩn những yếu tố mất ổn định; hoà bình, hợp tác và phát triển là xu thế lớn, chiến
tranh thế giới khó có khả năng xảy ra, nhưng nguy cơ các cuộc chiến tranh cục
bộ, xung đột vũ trang, xung đột sắc tộc, tôn giáo, tranh chấp lãnh thổ, tài nguyên

và khủng bố vẫn gia tăng; các quốc gia phải đối phó với nhiều vấn đề mang tính
toàn cầu như biến đổi khí hậu, đói nghèo, các đại dịch, tội phạm và thảm hoạ
thiên nhiên khác. Đặc biệt, những năm gần đây, khủng hoảng kinh tế - tài chính
thế giới đang đẩy nhiều nền kinh tế vốn hùng mạnh vào tình trạng suy thoái; nợ
công, nợ chính phủ ở nhiều nước vượt quá ngưỡng an toàn làm cho kinh tế đình


16
đốn, phá sản. Khu vực Bắc Phi, Trung Đông có những diễn biến mau lẹ, gây đảo
lộn mạnh; tình hình kinh tế, chính trị của một số nước ở khu vực Châu Á, Đông
Nam Á có những diễn biến phức tạp; các thế lực thù địch tăng cường kích động,
phá hoại, chia rẽ tình đoàn kết hữu nghị Việt Nam - Lào - Cam-pu-chia...
Đối với nước ta, mục tiêu xuyên suốt, nhất quán của các thế lực thù địch
là nhằm xoá bỏ vai trò lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam, thay đổi chế độ
chính trị ở nước ta, đưa Việt Nam đi theo ý đồ, quỹ đạo của họ. Vì vậy, các thế
lực phản động, thù địch luôn đẩy mạnh chiến lược "diễn biến hoà bình", tăng
cường sử dụng các biện pháp "tấn công mềm", tập trung làm chuyển biến về
chính trị tư tưởng, thúc đẩy "tự diễn biến", "tự chuyển hoá", kích động, chia rẽ,
đòi phi chính trị hoá quân đội, hạ thấp, phủ nhận vai trò, uy tín lãnh đạo của
Đảng; xoá bỏ mục tiêu, lý tưởng, con đường đi lên chủ nghĩa xã hội mà Đảng,
Bác Hồ và nhân dân ta đã lựa chọn. Trên hướng Biển Đông, các hoạt động xâm
phạm chủ quyền, lãnh thổ của nước ta từ phía Trung quốc - nhất là việc Trung
quốc hạ đặt trái phép giàn khoan hải dương nước sâu 981 trong vùng đặc quyền
kinh tế và thềm lục địa nước ta vừa qua làm cho tình hình an ninh, an toàn hàng
không, hàng hải trên Biển Đông và khu vực Châu Á Thái Bình Dương ngày
càng phức tạp tiềm ẩn nhiều nguy cơ khó lường. Tất cả tình hình đó đòi hỏi
chúng ta phải luôn luôn tỉnh táo, cảnh giác, không ngừng chăm lo, củng cố, tăng
cường sức mạnh quốc phòng, kết hợp chặt chẽ nhiệm vụ xây dựng CNXH và
bảo vệ Tổ quốc xã hội chủ nghĩa…
Thực tế đó đòi hỏi các đơn vị trong toàn quân cần phải tập trung nâng cao

sức mạnh chiến đấu, sẵn sàng chiến đấu thắng lợi trong mọi tình huống. Chính
vì vậy, để nâng cao chất lượng, hiệu quả trong thực hiện nhiệm vụ sẵn sàng
chiến đấu, CTĐ, CTCT cần tập trung vào các giải pháp sau:
2.1. Tăng cường sự lãnh đạo, chỉ đạo, hướng dẫn của cấp ủy, tổ chức
đảng, cán bộ chủ trì, cơ quan chức năng các cấp đối với CTĐ, CTCT trong
nhiệm vụ SSCĐ.


17
Đây là giải pháp rất quan trọng, thực hiện tốt giải pháp này có ý nghĩa
trực tiếp quyết định khả năng sẵn sàng chiến đấu của từng đơn vị cũng như toàn
quân. Nội dung, biện pháp trên đây được xác định xuất phát từ vị trí, vai trò,
chức năng nhiệm vụ của tổ chức đảng các cấp, của đội ngũ cán bộ chủ trì, cơ
quan chức năng các cấp trong quân đội; từ kinh nghiệm thực tiễn và thực trạng
thực hiện nhiệm vụ sẵn sàng chiến đấu của các chủ thể đó, đồng thời còn do yêu
cầu đòi hỏi nhiệm vụ sẵn sàng chiến đấu ngày cao trong tình hình hiện nay.
Thực tiễn xây dựng, chiến đấu của quân đội ta đã chứng minh rõ nét là
nếu đơn vị nào mà cấp uỷ, tổ chức đảng, cán bộ chủ trì, cơ quan chức năng ở đó
quan tâm lãnh đạo đúng đắn nhiệm vụ sẵn sàng chiến đấu thì đơn vị không xẩy
ra lúng túng, bị động; trình độ và khả năng sẵn sàng chiến đấu của cán bộ, chiến
sĩ được nâng cao; đơn vị bước vào chiến đấu tốt trong mọi tình huống và giành
được nhiều thắng lợi.
Trong giai đoạn cách mạng hiện nay, để nâng cao hiệu quả hoạt động CTĐ,
CTCT trong nhiệm vụ SSCĐ thì phải làm tốt một số vấn đề cơ bản sau đây:
Thứ nhất, đối với các cấp ủy, chi bộ
Các cấp ủy, chi bộ trước hết phải xác định nhiệm vụ lãnh đạo nhiệm vụ
sẵn sàng chiến đấu vừa là chức năng, vừa là nhiệm vụ cơ bản của mình. Từ nhận
thức đúng đắn phải được biểu hiện bằng hành động, băng những việc làm cụ thể
thiết thực, mà điều cốt lõi đối với các tổ chức đảng là năng lực tiếp thu nghị
quyết, chỉ thị của cấp trên; năng lực ra nghị quyết lãnh đạo của cấp mình và việc

tổ chức triển khai thực hiện nghị quyết.
Muốn xác định đúng những chủ trương, biện pháp trong nghị quyết thì
từng tổ chức đảng, cấp uỷ đảng phải quán triệt tốt phương hướng nhiệm vụ mà
nghị quyết của cấp trên đề ra, coi đây là cơ sở nền tảng quan trọng nhất, đồng
thời căn cứ tình hình nhiệm vụ và những đặc điểm liên quan đến việc thực hiện
nhiệm vụ sẵn sàng chiến đấu của đơn vị. Những chủ trương, biện pháp (nghị
quyết) lãnh đạo nhiệm vụ sẵn sàng chiến đấu phải cụ thể thiết thực, đặt ra những
yêu cầu phấn đấu cao nhưng không xa rời thực tế; vừa đúng ý định của cấp trên,


18
vừa phù hợp với hoàn cảnh mọi mặt của đơn vị và xu thế phát triển của nhiệm
vụ và tình hình khách quan. Quá trình sinh hoạt thảo luận để ra nghị quyết lãnh
đạo phải chấp hành nguyên tắc tập trung dân chủ, tập thể lãnh đạo, cá nhân phụ
trách; tự phê bình và phê bình, kiên quyết đấu tranh khắc phục những biểu hiện
độc đoán, gia trưởng, coi thường vai trò tập thể.
Sau khi thống nhất chủ trương, biện pháp lãnh đạo nhiệm vụ sẵn sàng
chiến đấu, các tổ chức đảng, cấp uỷ đảng phải nhanh chóng triển khai thực hiện
nghiêm nghị quyết đề ra. Cần phân công rõ ràng cho đảng viên, cấp uỷ viên.
Quá trình thực hiện nhiệm vụ các tổ chức đảng phải thường xuyên làm tốt công
tác kiểm tra để kịp thời phát hiện những bất cập trong nghị quyết, những biến
đổi của tình hình hoặc sai sót, lệch lạc trong thực hiện chức trách nhiệm vụ của
đảng viên cũng như quần chúng để bổ sung, uốn nắn làm cho nghị quyết thêm
sát đúng, hiệu quả trong thực tiễn càng cao; hoặc thông qua công tác kiểm tra để
đánh giá kết quả thực hiện của từng đơn vị, từng cá nhân đối với nhiệm vụ sẵn
sàng chiến đấu làm cơ sở bình xét khen thưởng gương điển hình từ đó nhân rộng
điển hình tiên tiến.
Thứ hai, đối với tổ chức chỉ huy
Trong quân đội, người chỉ huy các cấp được Đảng, Nhà nước, quân đội,
cấp trên giao cho quyền quản lí, chỉ huy điều hành mọi hoạt động của bộ đội

trong đơn vị thuộc quyền. Đồng thời chính trong quá trình đó, người chỉ huy
phải phát huy cao độ vai trò, trách nhiệm, năng lực cá nhân của mình trước tổ
chức đảng, trên cơ sở mệnh lệnh chỉ thị, phương hướng, nhiệm vụ cấp trên giao
và từ nghị quyết của cấp ủy đảng cấp mình, cùng tình hình thực tiễn đơn vị
người chỉ huy phân tích nhận định, từ đó cụ thể hoá thành những mệnh lệnh, chỉ
thị, kế hoạch để chỉ đạo toàn bộ các hoạt động của bộ đội trong đơn vị mình,
trong đó có cả hoạt động CTĐ, CTCT trong nhiệm vụ SSCĐ ở đơn vị...
Từ chức năng, nhiệm vụ và mối quan hệ của người chỉ huy với người cán
bộ chủ trì CTĐ,CTCT ở đơn vị cơ sở, cho thấy vai trò của tổ chức chỉ huy (đặc
biệt là vai trò của người chỉ huy) có ý nghĩa rất to lớn đối với việc nâng cao chất


19
lượng hoạt động CTĐ, CTCT trong nhiệm vụ SSCĐ ở đơn vị cơ sở. Thực tiễn ở
các đơn vị trong quân đội ta chứng tỏ đơn vị nào thường xuyên giữ vững và phát
huy được vai trò của tổ chức chỉ huy (nhất là vai trò của người chỉ huy) đối với
CTĐ,CTCT trng nhiệm vụ SSCĐ thì ở đấy chất lượng hiệu quả CTĐ,CTCT
được củng cố và tăng cường, mối quan hệ giữa tổ chức chỉ huy và tổ chức đảng
luôn được giữ vững, đơn vị luôn hoàn thành tốt mọi nhiệm vụ được giao. Ngược
lại, ở đơn vị nào vai trò của người chỉ huy không được phát huy hoặc thậm chí
gia trưởng, độc đoán, tranh giành quyền lực, áp đặt, tham quyền cố vị, đặc
quyền đặc lợi, thu vén cá nhân, thì làm cho nội bộ đơn vị mất đoàn kết, uy tín
chất lượng đội ngũ cán bộ quân sự và chính trị bị suy giảm rõ rệt...
Để phát huy vai trò người chỉ huy trong nâng cao hiệu quả hoạt động
CTĐ, CTCT trong nhiệm vụ SSCĐ ở đơn vị cơ sở, yêu cầu trước tiên đối với
người chỉ huy các cấp là cần có nhận thức đúng đắn, đầy đủ hơn về vị trí, vai trò
hoạt động CTĐ,CTCT trong nhiệm vụ SSCĐ. Đồng thời, thấy rõ trách nhiệm,
cương vị của mình trước tổ chức, là người chịu trách nhiệm chỉ huy, quản lý mọi
mặt hoạt động đơn vị, từ đó bản thân mỗi người chỉ huy phải thường xuyên nêu
cao tinh thần trách nhiệm, chịu khó học tập để không ngừng nâng cao trình độ

năng lực tiến hành CTĐ,CTCT nói chung và trong nhiệm vụ SSCĐ nói riêng
trong đơn vị. Mặt khác, mỗi người chỉ huy phải tự giác rèn luyện bản thân
mình có tác phong làm việc khoa học, mọi việc làm theo kế hoạch; đồng thời
hàng ngày phải thường xuyên đi sâu bám sát cơ sở, phát huy dân chủ, biết lắng
nghe những ý kiến hay của cấp dưới, của quần chúng. Bản thân người chỉ huy
phải có đức tính cầu thị, quyết đoán, dám nhận và sửa chữa khuyết điểm khi
mình có lỗi... Mỗi người chỉ huy phải thực sự là tấm gương sáng, mẫu mực, tiêu
biểu về mọi mặt, đây sẽ là một biện pháp sát thực, gần gũi, trực tiếp góp phần
nâng cao hoạt động CTĐ, CTCT trong nhiệm vụ SSCĐ ở đơn vị cơ sở.
Người chỉ huy các cấp, cần thường xuyên duy trì và giữ vững mối quan hệ
đoàn kết, tôn trọng lẫn nhau giữa các thành viên trong ban chỉ huy và với cán
bộ, chiến sĩ trong đơn vị. Đồng thời, trong từng thời gian, người chỉ huy cần duy


20
trì có nề nếp các chế độ hoạt động, công tác của đơn vị, đặc biệt các chế độ sinh
hoạt, hội họp, giao ban, phản ánh, kiểm tra. Chính qua những hoạt động thực
tiễn này, cũng sẽ là biện pháp trực tiếp bồi dưỡng nâng cao hoạt động CTĐ,
CTCT trong nhiệm vụ SSCĐ ở đơn vị cơ sở trong tình hình hiện nay.
Thứ ba, đối với cơ quan chính trị
Là cơ quan đảm nhiệm CTĐ,CTCT ở trong mỗi đơn vị cơ sở. Cơ quan
chính trị các cấp trong quân đội hoạt động đặt dưới sự lãnh đạo trực tiếp của
đảng uỷ cùng cấp và sự chỉ đạo trực tiếp của cơ quan chính trị cấp trên. Cơ quan
chính trị có chức năng cơ bản, làm tham mưu giúp cho cấp ủy đảng đề ra những
chủ trương, biện pháp về CTĐ,CTCT và trực tiếp tiến hành CTĐ,CTCT trong
phạm vi đơn vị đảm nhiệm.
Để phát huy vai trò của cơ quan chính trị đối với việc nâng cao hoạt động
CTĐ, CTCT trong nhiệm vụ SSCĐ ở đơn vị cơ sở, cơ quan chính trị các cấp
cần thường xuyên được củng cố, kiện toàn về chất lượng, số lượng. Cán bộ
trong cơ quan chính trị phải có kiến thức toàn diện, có kinh nghiệm tiến hành

CTĐ, CTCT, nhất là trong nhiệm vụ SSCĐ, thực sự là những chuyên gia giỏi
trên từng lĩnh vực công tác. Trong từng thời gian, từng nhiệm vụ, cơ quan chính
trị các cấp cần nhận thức rõ và thực hiện tốt nhiệm vụ, chức trách, nắm chắc các
chủ trương nghị quyết, chỉ thị, mệnh lệnh của cấp trên; đánh giá đúng thực trạng
tình hình mọi mặt đơn vị; nắm chắc điểm mạnh, điểm yếu của từng người cán bộ
và cả đội ngũ cán bộ đơn vị; nắm vững những yếu tố (kinh tế, xã hội, chính trị...)
đang tác động đến nhận thức, hành động và tình cảm của người cán bộ... Để kịp
thời đề xuất với cấp ủy, người chỉ huy xây dựng những chủ trương, biện pháp
lãnh đạo sát đúng để xây dựng đội ngũ cán bộ, xây dựng đơn vị vững mạnh toàn
diện, hoàn thành tốt mọi nhiệm vụ cấp trên giao.
Cơ quan chính trị các cấp cần thường xuyên duy trì thành nền nếp có chất
lượng công tác kiểm tra, hướng dẫn, giúp đỡ cán bộ các cấp hoàn thành tốt chức
năng nhiệm vụ của mình, kiểm tra việc chấp hành và thực hiện kế hoạch tự học
tập; tu dưỡng rèn luyện của đội ngũ cán bộ, đảng viên đơn vị. Hiện nay, cơ quan


21
chính trị các cấp cần duy trì có chất lượng chế độ hội họp, giao ban, phản ánh sơ
kết rút kinh nghiệm việc tiến hành CTĐ,CTCT trong nhiệm vụ SSCĐ trong từng
thời gian ở mỗi đơn vị.
2.2. Nâng cao nhận thức, trách nhiệm, năng lực của chủ thể và các lực
lượng tham gia hoạt động CTĐ, CTCT trong nhiệm vụ SSCĐ.
Đây là một trong những giải pháp quan trọng hàng đầu nhằm phát huy
đầy đủ vai trò, trách nhiệm, năng lực, phương pháp tác phong của các chủ thể
lãnh đạo, chỉ đạo, lực lượng nòng cốt, chuyên trách khi tiến hành CTĐ,CTC
trong nhiệm vụ SSCĐ. Thực tiễn cho thấy nhận thức có vai trò rất quan trọng đối
với hoạt động thực tiễn của con người, nhận thức không chỉ định hướng mà còn chỉ
đạo hoạt động thực tiễn của con người. Nhận thức đúng sẽ tạo cho từng chủ thể ,
từng lực lượng có những chuyển biến về trách nhiệm, cả trong lãnh đạo, chỉ đạo,
phát huy vai trò của mọi tổ chức, mọi lực lượng trong quá trình thực hiện nhiệm vụ

SSCĐ. Ngược lại, nếu nhận thức không đầy đủ, không đúng đắn hoạt động CTĐ,
CTCT trong nhiệm vụ SSCĐ sẽ không phát huy được vai trò trách nhiệm của chủ
thể, các lực lượng trong lãnh đạo, chỉ đạo, thiếu những chủ trương biện pháp lãnh
đạo đồng bộ, tổ chức thực hiện nhiệm vụ SSCĐ sẽ bị động, lúng túng, nhất là trong
sử lý các tình huống sảy ra. Vì thế nâng cao nhận thức, trách nhiệm của các chủ
thể, các lực lượng tham gia hoạt động CTĐ, CTCT trong nhiệm vụ SSCĐ là một
trong những giải pháp quan trọng hàng đầu, quyết định đến chất lượng, hiệu quả
thực hiện nhiệm vụ SSCĐ ở các đơn vị hiện nay.
Để nâng cao nhận thức, trách nhiệm của các chủ thể, các lực lượng tham
gia hoạt động CTĐ, CTCT trong nhiệm vụ SSCĐ cần tập trung vào một số nội
dung, biện pháp sau:
Một là, quán triệt cho chủ thể và lực lượng tham gia nhận rõ vai trò, yêu
cầu, nội dung của CTĐ, CTCT trong SSCĐ
Thường xuyên quán triệt sâu sắc Nghị quyết Trung ương 8 (Khóa IX) và
sự phát triển của Nghị quyết Trung ương 8 (Khóa XI) “về chiến lược bảo vệ Tổ
quốc trong tình hình mới”, chỉ lệnh sẵn sàng chiến đấu số 82/CL-BQP ngày


22
14/11/2006 của Bộ trưởng Bộ Quốc phòng, quan điểm của Đảng về tăng cường
quốc phòng, an ninh, bảo vệ vững chắc Tổ quốc Việt Nam XHCN theo tinh thần
Đại hội IX, X, XI, làm cho các chủ thể, các lực lượng nhận thức đúng đắn, đầy
đủ vai trò, yêu cầu, nội dung của CTĐ,CTCT trong SSCĐ và việc nâng cao hiệu
lực CTĐ,CTCT trong SSCĐ nói riêng và đối với sự nghiệp xây dựng, chiến đấu
của quân đội và từng đơn vị nói chung. Trên cơ sở đó các chủ thể, các lực lượng
tham gia hoạt động CTĐ, CTCT phải xác định trách nhiệm, nâng cao trình độ,
năng lực để xem xét, xử lý đúng đắn mọi sự tác động theo hướng bảo đảm cho
hoạt động CTĐ,CTCT luôn bám sát các đối tượng và tình hình thực tiễn, đồng
thời bảo đảm cho các đối tượng dù trong hoàn cảnh nào và có những đặc điểm gì
cũng đều phải thống nhất tuân thủ đường lối, quan điểm của Đảng, nhiệm vụ của

quân đội, được cụ thể hoá phù hợp với phạm vi, quyền hạn của mình.
Mỗi chủ thể, mỗi lực lượng không chỉ có nhận thức đúng, trách nhiệm cao
mà còn phải có năng lực tốt, bảo đảm cho hoạt động CTĐ,CTCT trong SSCĐ
tác động cán bộ, chiến sĩ một cách có hiệu quả nhất. Qua đó, nhằm nâng cao tinh
thần cảnh giác cách mạng và ý thức thường trực sẵn sàng chiến đấu cho cán bộ,
chiến sĩ, làm cho họ có phẩm chất chính trị- tinh thần và tâm lý bền vững, ý thức
thường trực sẵn sàng ứng phó thắng lợi với mọi tình huống. CTĐ, CTCT quán
triệt sâu sắc yêu cầu nhiệm vụ bảo vệ Tổ quốc và xây dựng đất nước; phương
hướng xây dựng quân đội nhân dân cách mạng, chính quy, tinh nhuệ, từng bước
hiện đại, lấy xây dựng chính trị làm cơ sở. Thường xuyên nâng cao ý chí quyết
tâm, tinh thần cảnh giác cách mạng, ý thức thường trực sẵn sàng chiến đấu của
cán bộ, chiến sĩ. Toàn bộ hoạt động CTĐ, CTCT phải tập trung vào việc xây
dựng cho bộ đội về phẩm chất chính trị- tinh thần, bản lĩnh chiến đấu, rèn luyện ý
chí, tinh thần, tư tưởng, tình cảm, tâm lý, tính năng động sáng tạo trong thực hiện
nhiệm vụ sẵn sàng chiến đấu. Kiên quyết khắc phục những biểu hiện không nhạy
bén, lơ là, thiếu cảnh giác sẵn sàng chiến đấu.
Hai là, bồi dưỡng kiến thức, kỹ năng kinh nghiệm tiến hành CTĐ, CTCT


23
Thường xuyên bồi dưỡng kiến thức, kỹ năng kinh nghiệm tiến hành CTĐ,
CTCT để đội ngũ cán bộ chủ trì lãnh đạo, chỉ huy, quản lý và các lực lượng
tham gia thấy rõ vai trò trách nhiệm là lực lượng cốt cán trong các hoạt động
lãnh đạo, chỉ đạo, điều hành đơn vị, trong tổ chức thực hiện nhiệm vụ và nâng
cao hiệu lực CTĐ,CTCT trong SSCĐ. Vì vậy để nâng cao hiệu lực CTĐ,CTCT
trong SSCĐ phải bồi dưỡng kiến thức, kỹ năng kinh nghiệm tiến hành CTĐ,
CTCT cho các chủ thể, các lực lượng. Đó không chỉ là yêu cầu khách quan mà còn
là một nội dung cơ bản, rất quan trọng nhằm nâng cao hiệu quả hoạt động
CTĐ,CTCT trong SSCĐ.
Nội dung bồi dưỡng cần tập trung vào nghiên cứu nắm vững đường lối,

quan điểm của Đảng, nghị quyết, chỉ thị của cấp trên, tình hình mọi mặt của đơn
vị, đề xuất với đảng ủy những nội dung, biện pháp sát, đúng lãnh đạo thực hiện
thắng lợi nhiệm vụ và tiến hành CTĐ,CTCT trong SSCĐ. Bồi dưỡng nâng cao
phẩm chất, năng lực của chủ thể và các lực lượng tham gia hoạt động CTĐ,
CTCT trong nhiệm vụ SSCĐ. Trên cơ sở bồi dưỡng toàn diện cần chú ý nâng
cao năng lực quán triệt cụ thể hoá nghị quyết, chỉ thị của cấp trên và đảng ủy cấp
mình thành kế hoạch CTĐ,CTCT và triển khai thực hiện; bồi dưỡng phương
pháp nắm, phân tích, đánh giá đúng đắn mọi âm mưu diễn biến của địch, của
tình hình làm cơ sở xử lý kịp thời, chính xác những vấn đề nảy sinh. Nâng cao
năng lực đấu tranh trên mặt trận chính trị, tư tưởng hiện nay cũng như đấu tranh
chống mọi biểu hiện tiêu cực, thoái hoá trong quân đội nói chung và từng đơn vị
nói riêng. Nâng cao năng lực tuyên truyền, vận động nhân dân và tổ chức làm
công tác dân vận, góp phần giữ vững mối quan hệ máu thịt giữa quân đội với
nhân dân, giữ vững ổn định chính trị của đất nước và địa bàn đóng quân.
Hình thức bồi dưỡng là thông qua hoạt động lãnh đạo, sinh hoạt chính
quyền, sinh hoạt các tổ chức, thông qua hội nghị giao ban, sơ tổng kết CTĐ,
CTCT trong nhiệm vụ SSCĐ để giáo dục quán triệt, tạo sự thống nhất về nhận
thức, phát huy tinh thần trách nhiệm, tính tích cực, chủ động của các chủ thể,
các lực lượng đối với hoạt động CTĐ, CTCT trong nhiệm vụ SSCĐ. Đồng


24
thời, thông qua quá trình hoạt động bồi dưỡng phát huy sức mạnh của mọi tổ
chức, mọi lực lượng, kết hợp công tác tư tưởng với công tác tổ chức và chính
sách, có bước đánh giá chính xác nhận thức, trách nhiệm của từng tổ chức, lực
lượng, từng cá nhân để có biện pháp cổ vũ, động viên, biểu dương, kịp thời,
qua đó phát hiện khắc phục những biểu hiện nhận thức lệch lạc, không đầy đủ,
đúng đắn trong công tác này.
2.3. Tiếp tục đổi mới nội dung, hình thức, biện pháp nhằm nâng cao
chất lượng CTĐ, CTCT trong nhiệm vụ SSCĐ

Đây là giải pháp cơ bản, bảo đảm tính đúng đắn, khoa học nhằm nâng cao
hiệu lực CTĐ,CTCT trong nhiệm vụ SSCĐ. Đồng thời, là điều kiện cơ bản bảo
đảm CTĐ,CTCT trong nhiệm vụ SSCĐ luôn có nội dung, hình thức phù hợp,
thiết thực, kịp thời, là cơ sở để phát huy hiệu lực trên thực tế.
Trong tình hình hiện nay, cùng với sự vận động nhanh chóng của yêu cầu
nhiệm vụ và thực tiễn thì sự bùng nổ thông tin với cường độ ngày càng lớn đòi hỏi
phải thường xuyên chú ý đổi mới nội dung, hình thức, biện pháp CTĐ,CTCT trong
nhiệm vụ SSCĐ. Nếu không sẽ lạc hậu, không thể nâng cao được hiệu lực
CTĐ,CTCT trong nhiệm vụ SSCĐ. Với lý do đó việc đổi mới nội dung, hình thức,
biện pháp CTĐ,CTCT còn là yêu cầu cách bách hiện nay.
Việc đổi mới nội dung, hình thức, biện pháp CTĐ,CTCT phải đạt được
yêu cầu về tính hiệu quả cao khi tác động vào từng đối tượng; làm chuyển biến
đối tượng và củng cố tính vững chắc của sự chuyển biến đó. Đổi mới phải dựa
trên cơ sở giữ vững các nguyên tắc tiến hành CTĐ,CTCT trong nhiệm vụ SSCĐ,
trước hết phải bảo đảm tính đúng đắn của nội dung, hình thức, luôn theo kịp với
sự phát triền của tình hình và gắn với điều kiện, hoàn cảnh, đối tượng cụ thể
trong từng thời gian; tạo thêm được môi trường thuận lợi để nâng cao hiệu lực
CTĐ,CTCT trong nhiệm vụ SSCĐ. Quá trình thực hiện cần tập trung vào những
biện pháp sau:
Thứ nhất, Cấp ủy, cán bộ chủ trì, cơ quan chính trị, cán bộ chính trị từng
cấp phải thường xuyên nắm vững yêu cầu nhiệm vụ chính trị và dự kiến sự phát


25
triển tình hình; nắm vững đặc điểm các đối tượng trong phạm vi phụ trách để
xác định chính xác nhiệm vụ CTĐ,CTCT trong nhiệm vụ SSCĐ, xác định
những nội dung, hình thức, biện pháp tiến hành cụ thể sát với yêu cầu nhiệm vụ,
tình hình thực tiễn và từng đối tượng; không nên gò ép, cứng nhắc. Cần đi vào
nghiên cứu bảo đảm tính sát thực, kịp thời của nội dung, hình thức kết hợp với
cập nhật những thông tin mới; làm cho nội dung ngày càng sâu sắc, đầy đủ hơn,

hình thức, biện pháp ngày càng hấp dẫn hơn và đạt đến trình độ nghệ thuật hoạt
động, bảo đảm tính thuyết phục, qua đó nâng cao hiệu lực CTĐ,CTCT trong
nhiệm vụ SSCĐ phù hợp với thực tiễn quân đội và đơn vị.
Thứ hai, Quan tâm lãnh đạo, chỉ đạo, kiểm tra, đôn đốc việc đổi mới nội
dung, hình thức, biện pháp CTĐ,CTCT trong nhiệm vụ SSCĐ trong phạm vi
đơn vị mình. Cơ quan chính trị, cán bộ chính trị cần chủ động nghiên cứu, đề
xuất với lãnh đạo, chỉ huy theo yêu cầu đổi mới; tích cực hướng dẫn, kiểm tra
thực hiện đến từng đối tượng; theo dõi, nắm chắc tình hình, kịp thời giúp lãnh
đạo, chỉ huy rút kinh nghiệm, bảo đảm cho quá trình đổi mới được liên tục và
ngày càng đáp ứng tốt hơn các yêu cầu đề ra. Các chủ thể khác cần đề cao trách
nhiệm thực hiện việc đổi mới nội dung, hình thức CTĐ,CTCT trong nhiệm vụ
SSCĐ dưới sự lãnh đạo, chỉ đạo của cấp ủy, cán bộ chủ trì, sự hướng dẫn của cơ
quan chính trị; có kế hoạch hoạt động phù hợp với cương vị, chức trách được
giao, góp phần tích cực vào kết quả chung.
Thứ ba, Cần thống nhất ở các cấp quan niệm về đổi mới nội dung, hình
thức, biện pháp CTĐ,CTCT, không nhất thiết phải có nội dung, hình thức, biện
pháp khác những gì chúng ta đang làm mới là đổi mới (nếu khác mà đúng đắn
và đem lại hiệu qủa thì tốt); nhưng điều quan trọng là những gì chúng ta đang
làm phải thường xuyên phù hợp và đáp ứng với yêu cầu thực tiễn ở từng nơi và
từng đối tượng. Trên cơ sở đó từng cấp, từng đơn vị cần chú trọng phát huy tốt
tính chủ động, linh hoạt, sáng tạo của các chủ thể CTĐ,CTCT ở đơn vị mình,
nhất là trong trong nhiệm vụ SSCĐ. Các hoạt động đổi mới cần bảo đảm huy


×