Tải bản đầy đủ (.docx) (21 trang)

So sánh và bình luận cơ cấu công ty cổ phần trong Luật doanh nghiệp 2005 và Luật doanh nghiệp 2014

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (181.28 KB, 21 trang )

Lời mở đầu
Ngày 29 tháng 11 năm 2005, Quốc hội đã thông qua Luật doanh nghiệp số
60/2005/QH11 (gọi tắt là Luật Doanh nghiệp 2005). Thực tế đánh giá thi hành
Luật Doanh nghiệp cho thấy, bên cạnh những tác động tích cực của Luật trong việc
tạo lập môi trường kinh doanh thuận lợi, bình đẳng; việc triển khai thực hiện Luật
cũng đã gặp phải không ít vướng mắc, hạn chế đối với việc hoàn thiện và nâng cao
chất lượng môi trường kinh doanh, thúc đẩy huy động vốn, phát triển và mở rộng
kinh doanh của các doanh nghiệp. Chính vì vậy, trên cơ sở tiếp thu những quy định
tiến bộ của Luật Doanh nghiệp 2005, thể chế hóa các vấn đề mới phát sinh từ thực
tiễn, Luật Doanh nghiệp 2014 được Quốc hội khóa XIII thông qua ngày 26 tháng
11 năm 2014 đã ra đời nhằm tháo gỡ những hạn chế, bất cập của Luật cũ, tạo một
môi trường kinh doanh thuận lợi hơn nữa cho các doanh nghiệp, đặc biệt là
Công ty cổ phần, một trong những loại hình công ty xuất hiện sớm nhất trong nền
kinh tế nước nhà.

1


I.

Khái niệm Công ty cổ phần:
Công ty cổ phần là doanh nghiệp có tư cách pháp nhân, trong đó vốn điều lệ được

chia thành nhiều phần bằng nhau (gọi là cố phần) và có từ ba thành viên trở lên (gọi là
cổ đông), các cổ đông chỉ chịu trách nhiệm trong phạm vi số vốn đã góp vào doanh
nghiệp.
(Điều 110 Luật Doanh nghiệp 2014)

II.

Những điểm giống nhau cơ bản về “Cơ cấu tổ chức và quản lý Công ty



`cổ phần” trong Luật Doanh nghiệp 2005 và Luật Doanh nghiệp 2014:
Về cơ bản, “Cơ cấu tổ chức quản lý Công ty cổ phần” trong Luật Doanh nghiệp 2005
và Luật Doanh nghiệp 2014 gồm các bộ phận chủ chốt sau:
1. Đại hội đồng cổ đông:
Đại hội đồng cổ đông gồm tất cả cổ đông có quyền biểu quyết, là cơ quan quyết
định cao nhất của công ty cổ phần. Đại hội đồng cổ đông họp thường niên mỗi năm
một lần. Ngoài cuộc họp thường niên, Đại hội đồng cổ đông có thể họp bất thường. Địa
điểm họp Đại hội đồng cổ đông phải ở trên lãnh thổ Việt Nam. Luật quy định cụ thể về
thẩm quyền triệu tập; danh sách cổ đông có quyền dự họp; chương trình, nội dung cuộc
họp; thủ tục mời dự cuộc họp; điều kiện tiến hành cuộc họp; thể thức tiến hành và biểu
quyết tại cuộc họp; nghị quyết và biên bản cuộc họp.
2. Hội đồng quản trị:
Hội đồng quản trị là cơ quan quản lý công ty, có toàn quyền nhân danh công ty để
quyết định, thực hiện các quyền và nghĩa vụ của công ty không thuộc thẩm quyền của
Đại hội đồng cổ đông. Hội đồng quản trị có từ 03 đến 11 thành viên. Điều lệ công ty
quy định cụ thể số lượng thành viên Hội đồng quản trị. Nhiệm kỳ của thành viên Hội
đồng quản trị, thành viên độc lập Hội đồng quản trị không quá 05 năm và có thể được
bầu lại với số nhiệm kỳ không hạn chế. Số lượng, thời hạn cụ thể của nhiệm kỳ, số
thành viên Hội đồng quản trị phải thường trú ở Việt Nam do Điều lệ công ty quy định.
3. Giám đốc, Tổng giám đốc:

Hội đồng quản trị bổ nhiệm một người trong số họ hoặc thuê người khác làm Giám
đốc hoặc Tổng giám đốc. Giám đốc hoặc Tổng giám đốc là người điều hành công việc
2


kinh doanh hằng ngày của công ty; chịu sự giám sát của Hội đồng quản trị; chịu trách
nhiệm trước Hội đồng quản trị và trước pháp luật về việc thực hiện các quyền và nghĩa
vụ được giao. Nhiệm kỳ của Giám đốc hoặc Tổng giám đốc không quá 05 năm; có thể

được bổ nhiệm lại với số nhiệm kỳ không hạn chế. Tiêu chuẩn và điều kiện của Giám
đốc hoặc Tổng giám đốc áp dụng theo quy định pháp luật và điều lệ công ty.
4. Ban kiểm soát:

Ban kiểm soát có từ 03 đến 05 thành viên, nhiệm kỳ của Kiểm soát viên không quá
05 năm và Kiểm soát viên có thể được bầu lại với số nhiệm kỳ không hạn chế. Các
Kiểm soát viên bầu một người trong số họ làm Trưởng Ban kiểm soát theo nguyên tắc
đa số. Quyền và nghĩa vụ của Trưởng Ban kiểm soát do Điều lệ công ty quy định. Ban
kiểm soát phải có hơn một nửa số thành viên thường trú ở Việt Nam. Trưởng Ban kiểm
soát phải là kế toán viên hoặc kiểm toán viên chuyên nghiệp và phải làm việc chuyên
trách tại công ty, trừ trường hợp Điều lệ công ty quy định tiêu chuẩn khác cao hơn.
Quyền và nghĩa vụ của Ban kiểm soát được quy định cụ thể tại Điều 165 Luật Doanh
nghiệp năm 2014 và Điều 123 Luật Doanh Nghiệp 2005. Ban kiểm soát thực hiện giám
sát Hội đồng quản trị, Giám đốc hoặc Tổng giám đốc trong việc quản lý và điều hành
công ty; Kiểm tra tính hợp lý, hợp pháp, tính trung thực và mức độ cẩn trọng trong
quản lý, điều hành hoạt động kinh doanh; tính hệ thống, nhất quán và phù hợp của công
tác kế toán, thống kê và lập báo cáo tài chính;…

III. Những điểm khác nhau cơ bản về “Cơ cấu tổ chức và quản lý Công ty
cổ phần” trong Luật Doanh nghiệp 2005 và Luật Doanh nghiệp 2014:
TIÊU CHÍ

LUẬT DOANH NGHIỆP 2005

LUẬT DOANH NGHIỆP 2014

3


Bắt buộc phải tổ chức theo một mô

hình duy nhất là mô hình đa hội
đồng.
Công ty cổ phần có Đại hội đồng cổ
đông, Hội đồng quản trị và Giám
đốc hoặc Tổng giám đốc.
Đối với công ty cổ phần có trên
mười một cổ đông là cá nhân hoặc
có cổ đông là tổ chức sở hữu trên
50% tổng số cổ phần của công ty
phải có Ban kiểm soát.
(Điều 95 LDN 2005)
Mô hình
tổ chức và
quản lý

Công ty cổ phần có quyền lựa chọn
tổ chức quản lý và hoạt động theo
một trong hai mô hình đơn hội đồng
hoặc đa hội đồng theo thông lệ quốc
tế:
- Đại hội đồng cổ đông, Hội đồng
quản trị, Ban kiểm soát và Giám
đốc hoặc Tổng giám đốc. Trường
hợp công ty cổ phần có dưới 11
cổ đông và các cổ đông là tổ chức
sở hữu dưới 50% tổng số cổ phần
của công ty thì không bắt buộc
phải có Ban kiểm soát;
- Đại hội đồng cổ đông, Hội đồng
quản trị và Giám đốc hoặc Tổng

giám đốc. Trường hợp này ít nhất
20% số thành viên Hội đồng quản
trị phải là thành viên độc lập và
có Ban kiểm soát.
(Khoản 1 Điều 134 LDN 2014)

4


1. Mời họp Đại hội đồng cổ đông:
Người triệu tập họp phải gửi thông
báo mời họp đến tất cả cổ đông có
quyền dự họp chậm nhất 7 ngày
làm việc trước ngày khai mạc.
(Khoản 1 Điều 100 LDN 2005)

1. Mời họp Đại hội đồng cổ đông:
Người triệu tập họp phải gửi thông
báo mời họp đến tất cả các cổ đông
trong Danh sách cổ đông có quyền
dự họp chậm nhất 10 ngày trước
ngày khai mạc. Nếu doanh nghiệp
có trang thông tin điện tử thì việc
gửi tài liệu họp theo thông báo mời
họp có thể thay thế bằng việc đăng
tải lên trang thông tin điện tử của
công ty.
(Khoản 1 Điều 139 LDN 2014)

2. Về điều kiện tiến hành cuộc họp:

Quy định cuộc họp được tiến hành
khi có số cổ đông dự họp đại diện ít
nhất 65% tổng số phiếu biểu quyết.
Cuộc họp triệu tập lần hai (khi lần
thứ nhất không đủ điều kiện) được
tiến hành khi có số cổ đông dự họp
đại diện ít nhất 51% tổng số phiếu
biểu quyết.
(Khoản 1, 2 Điều 102 LDN 2005)

3. Về điều kiện tiến hành cuộc họp:
Quy định cuộc họp được tiến hành
khi có số cổ đông dự họp đại diện ít
nhất 51% tổng số phiếu biểu quyết.
Ngoài ra, cuộc họp triệu tập lần hai
(khi lần thứ nhất không đủ điều
kiện) được tiến hành khi có số cổ
đông dự họp đại diện ít nhất 33%
tổng số phiếu biểu quyết.
(Khoản 1, 2 Điều 141 LDN 2014)

Đại hội đồng
cổ đông
(Về cuộc họp
Đại hội đồng
cổ đông)

Đại hội đồng

5



cổ đông
(Về cuộc họp 3. Địa điểm họp Đại hội đồng cổ
Đại hội đồng đông:
cổ đông)
Tất cả các cổ đông họp lại tại một
địa điểm trên lãnh thổ Việt Nam.
(Khoản 1 Điều 97 LDN 2005)

4. Thể thức tiến hành họp và biểu
quyết:
ĐHĐCĐ bầu ban kiểm phiếu không
quá 3 người theo đề nghị của chủ
tọa cuộc họp.
(Khoản 2 Điều 103 LDN 2005)

Đại hội đồng
cổ đông
(Về cuộc họp
Đại hội đồng
cổ đông)

3. Địa điểm họp Đại hội đồng cổ
đông:
Trên lãnh thổ Việt Nam.
Bổ sung thêm: Cuộc họp ĐHĐCĐ
có thể tổ chức đồng thời tại nhiều
địa điểm khác nhau và nơi có chủ
tọa tham dự họp được xác định địa

điểm họp ĐHĐCĐ.
(Khoản 1 Điều 136 LDN 2014)

4. Thể thức tiến hành họp và biểu
quyết:
Quy định theo đề nghị của chủ tọa
cuộc họp, ĐHĐCĐ bầu một hoặc
một số người vào ban kiểm phiếu
chứ không giới hạn về số lượng như
trước đây.
(Khoản 2 Điều 142 LDN 2014)
Ngoài ra, bổ sung thêm trường hợp
chủ tọa có quyền hoãn cuộc họp
ĐHĐCĐ khi các phương tiện thông
tin tại địa điểm họp không đảm bảo
cho các cổ đông dự họp tham gia,
thảo luận và biểu quyết.
(Khoản 8 Điều 142 LDN 2014)

6


5. Tỷ lệ biểu quyết ra quyết định
trong cuộc họp:
Ít nhất 75% tổng số phiếu biểu
quyết của tất cả cổ đông dự họp
chấp thuận với các Nghị quyết quan
trọng. Các Nghị quyết khác được
thông qua với ít nhất 65% tổng số
phiếu biểu quyết của tất cả cổ đông

dự họp chấp thuận.
(Khoản 3 Điều 104 LDN 2005)

5. Tỷ lệ biểu quyết ra quyết định
trong cuộc họp:
Ít nhất 65% tổng số phiếu biểu
quyết của tất cả cổ đông dự họp
chấp thuận với các Nghị quyết quan
trọng. Các Nghị quyết khác được
thông qua với ít nhất 51% tổng số
phiếu biểu quyết của tất cả cổ đông
dự họp chấp thuận.
(Điều 144 LDN 2014)

6. Phương thức bầu Hội đồng quản
trị và Ban kiểm soát:
Bắt buộc phải bầu thành viên Hội
đồng quản trị và Ban kiểm soát
theo phương thức bầu dồn phiếu.
(Khoản 3 Điều 104 LDN 2005)

6. Phương thức bầu Hội đồng quản
trị và Ban kiểm soát:
Cho phép bầu bằng phương thức
khác và phải quy định tại điều lệ
công ty, trường hợp Điều lệ công ty
không có quy định khác về biểu
quyết bầu HĐQT và BKS thì phải
thực hiện theo phương thức bầu dồn
phiếu.

(Điều 143 LDN 2014)

7


1. Chủ tịch Hội đồng quản trị:
Chủ tịch Hội đồng quản trị do Đại
hội đồng cổ đông hoặc Hội đồng
quản trị bầu.
Chủ tịch Hội đồng quản trị có thể
kiêm giám đốc hoặc Tổng giám đốc
công ty.
(Khoản 1 Điều 111 LDN 2005)

1. Chủ tịch Hội đồng quản trị:
Hội đồng quản trị bầu một thành
viên của Hội đồng quản trị làm Chủ
tịch Hội đồng quản trị.
Chủ tịch Hội đồng quản trị có thể
kiêm Giám đốc hoặc Tổng giám đốc
công ty trừ trường hợp công ty cổ
phần do Nhà nước nắm giữ trên
50% tổng số phiếu biểu quyết.
(Khoản 1, 2 Điều 152 LDN 2014)

2. Thành viên Hội đồng quản trị:
Không có quy định này.

2. Thành viên Hội đồng quản trị:
Thành viên Hội đồng quản trị công

ty có thể đồng thời là thành viên Hội
đồng quản trị của công ty khác.
(Khoản 1 Điều 151 LDN 2014)

Hội đồng
quản trị

Giám đốc
hoặc Tổng
giám đốc
công ty
( Về hạn chế
của
GĐ/TGĐ)

Giám đốc hoặc Tổng giám đốc
Đã bãi bỏ quy định này.
công ty không được đồng thời làm
Giám đốc hoặc Tổng giám đốc của
doanh nghiệp khác.
(Điều 116 LDN 2005)

8


(Điều 123 LDN 2005)

Bổ sung quyền và nghĩa vụ của
BKS như sau:
Ban Kiểm soát có quyền tham gia

các cuộc họp của Hội đồng thành
viên, các cuộc tham vấn và trao đổi
chính thức và không chính thức của
cơ quan đại diện chủ sở hữu với Hội
đồng thành viên; có quyền chất vấn
Hội đồng thành viên, thành viên Hội
đồng thành viên và Giám đốc hoặc
Tổng giám đốc công ty về các kế
hoạch, dự án hay chương trình đầu
tư phát triển và các quyết định khác
trong quản lý điều hành công ty.
(Điều 165, 166 LDN 2014)

Người đại diện theo pháp luật của
công ty chỉ là một người (Chủ tịch
Hội đồng quản trị hoặc Giám đốc
hoặc Tổng giám đốc).
(Điều 95 LDN 2005)

Đại diện theo pháp luật của công ty
có thể là một hoặc nhiều người.
Trường hợp là nhiều người thì Chủ
tịch Hội đồng quản trị và Giám đốc
hoặc Tổng giám đốc đương nhiên là
người đại diện theo pháp luật của
công ty.
(Khoản 2 Điều 134 LDN 2014)

Ban kiểm
soát

(Về thẩm
quyền và
nghĩa vụ của
BKS)

Người đại
diện theo
pháp luật
của công ty

9


IV. Bình luận một số thay đổi về Công ty cổ phần của Luật Doanh nghiệp
2014 so với Luật Doanh nghiệp 2005:
1. Thay đổi về mô hình tổ chức và quản lý Công ty cổ phần:
Luật Doanh nghiệp 2014 cho phép Công ty cổ phần có quyền lựa chọn tổ chức quản
lý và hoạt động theo một trong hai mô hình Đơn hội đồng hoặc Đa hội đồng theo thông
lệ quốc tế.1
Mô hình tổ chức Công ty cổ phần Đơn hội đồng gồm: Đại hội đồng cổ đông, Hội
đồng quản trị (Gồm thành viên HĐQT điều hành, thành viên HĐQT không điều hành –
thành viên HĐQT độc lập, Ban kiểm toán nội bộ), Giám đốc/Tổng giám đốc.
Mô hình tổ chức Công ty cổ phần Đa hội đồng gồm: Đại hội đồng cổ đông, Hội
đồng giám sát (Ban kiểm soát), Hội đồng quản trị, Giám đốc/Tổng giám đốc.

Mô hình đơn hội đồng
Đại hội đồng cổ đông

Mô hình Đa hội đồng
Đại hội đồng cổ

đông

Hội đồng quản trị

Hội đồng

Hội đồng

(Thành viên HĐQT điều hành;

Quản trị

Giám sát

Thành viên HĐQTT độc lập; Ban kiểm toán nội bộ)

Giám đốc/Tổng giám đốc

Giám đốc/Tổng giám đốc

Luật Doanh nghiệp 2005 chỉ cho phép Công ty cổ phần áp dụng một mô hình duy
nhất là mô hình Đa hội đồng, Ban kiểm soát được Đại hội đồng cổ đông (những người
sở hữu vốn) bầu ra với mục đích giám sát hoạt động của Hội đồng quản trị, Giám
đốc/Tổng giám đốc (những người điều hành hoạt động kinh doanh của công ty). Mô
hình này đã được áp dụng trong nhiều năm qua và đã mang lại hiệu quả nhất định trong
công tác kiểm tra giám sát. Ưu điểm của mô hình này là sự độc lập của Ban kiểm soát
trong mối quan hệ với các cơ quan khác trong cấu trúc quản trị công ty giúp nó thực thi
1 Dự thảo lần 3 Báo cáo đánh giá dự báo tác động dự án Luật Doanh nghiệp sửa đổi – Bộ KH&ĐT T3/2014

10



chức năng của mình một cách trung thực, khách quan nhất có thể. Mặc dù vậy, Ban
kiểm soát được hình thành từ cơ chế bầu, cụ thể là Đại hội đồng cổ đông bầu Kiểm soát
viên theo phương thức bầu dồn phiếu. Do đó việc một cá nhân trở thành Kiểm soát viên
đôi khi sẽ phụ thuộc vào số phiếu do cổ đông hoặc nhóm cổ đông chi phối. Nói cách
khác về cơ bản tương lai, sự nghiệp của Kiểm soát viên hoàn toàn đặt dưới sự thao túng
của một cổ đông hoặc nhóm cổ đông, thậm chí tính gia đình trong các công ty cổ phần
Việt Nam là rất nặng nề. Điều này làm giảm đáng kể tính độc lập, khách quan trong
giám sát. Bên cạnh đó, cơ chế giám sát thông qua Ban kiểm soát về cơ bản chỉ phù
hợp cho những công ty cổ phần có quy mô lớn, số lượng cổ đông nhiều, tính chất hoạt
động phức tạp và ngược lại cơ chế này sẽ làm cồng kềnh cơ cấu, tốn kém chi phí của
công ty thậm chí làm ảnh hưởng đến hoạt động kinh doanh của công ty một cách không
cần thiết. Nhiều trường hợp, Ban kiểm soát hoạt động không hiệu quả và được công ty
lập ra chỉ nhằm mục tiêu tuân thủ quy định của Luật. Sau khi Luật Doanh nghiệp 2014
được ban hành, một số công ty đã giải thể và bãi nhiệm các thành viên Ban kiểm soát.
Ví dụ: Sáng ngày 30/06/2016, Đại hội đồng cổ đông thường niên năm 2016 của
CTCP Chứng khoán Navibank (NVS) đã thông qua việc giải thể Ban kiểm soát và bãi
nhiệm các thành viên Ban kiểm soát nhằm giúp tổ chức của Công ty được gọn nhẹ và
hiệu quả hơn.
Dưới góc nhìn của tính hiệu quả, doanh nghiệp nào cũng vì mục đích lợi nhuận.
Không thể phủ nhận rằng yếu tố tổ chức quản lý là yếu tố mang tính quyết định việc
doanh nghiệp có hay không có lợi nhuận. Vấn đề là tổ chức quản lý như thế nào để
kinh doanh có lợi nhuận thuộc phạm vi quyết định của doanh nghiệp hay của Nhà
nước? Rõ ràng công ty cổ phần do quy mô hoạt động lớn, cổ đông nhiều nên tính chất
hoạt động phức tạp cần thiết pháp luật điều chỉnh sâu, chi tiết. Tuy nhiên, điều này
không đồng nghĩa pháp luật doanh nghiệp quy định áp đặt cho doanh nghiệp một mô
hình quản trị cụ thể trong điều kiện họ hoàn toàn có thể học hỏi kinh nghiệm quản trị từ
các trường phái khác nhau và từ các quốc gia khác nhau với các mô hình khác nhau. Rõ
ràng là không ai có thể khẳng định mô hình Đơn hội đồng hay Đa hội đồng sẽ đem lại

hiệu quả tốt hơn mà việc này chỉ có thể do nhà đầu tư căn cứ vào văn hóa kinh doanh,
11


quy mô, lĩnh vực ngành nghề kinh doanh, tính chất sở hữu để lựa chọn mô hình thích
hợp cho công ty của mình. Chính vì vậy mà Luật Doanh nghiệp 2014 đã cho phép
doanh nghiệp có quyền tự chủ trong việc quyết định mô hình tổ chức doanh nghiệp, hai
mô hình này khác biệt nhau chủ yếu ở cơ chế giám sát.
Nếu trong mô hình Đa hội đồng, cơ chế giám sát các số liệu tài chính, kế toán thực
hiện thông qua Ban kiểm toán thì ở mô hình Đơn hội đồng, cơ chế giám sát các số liệu
được thực hiện thông qua Ban kiểm toán nội bộ và thêm một điều đó chính là cơ chế
giám sát các quyết định của HĐQT, Giám đốc/Tổng giám đốc được thực hiện thông
qua các thành viên HĐQT độc lập. Một hội đồng quản trị, nếu chỉ bao gồm những
người có quan hệ lợi ích bên trong công ty, rất khó có thể đưa ra những quan điểm, ý
kiến khách quan để dẹp đi những lợi ích cá nhân mà đưa ra những quyết định có lợi cho
đa số cổ đông. Vì vậy, thành viên HĐQT độc lập là người không có quan hệ lợi ích với
công ty, không bị ảnh hưởng bởi những suy nghĩ liên quan đến lợi ích riêng tư, nên sẽ
đưa ra những ý kiến khách quan, nhằm vào lợi ích tổng thể của công ty chứ không
nhằm vào lợi ích riêng tư của cá nhân hoặc một nhóm người. Các hãng lớn trên thế giới
như Google, Apple, City Bank... đều rất coi trọng việc bổ nhiệm thành viên HĐQT độc
lập không điều hành vào HĐQT. Mặc dù không qui định các vấn đề về chất lượng các
thành viên này trong luật, tuy nhiên các hãng thường bổ nhiệm các chuyên gia, các
CEO có tên tuổi, có kinh nghiệm và phù hợp với chiến lược mà công ty theo đuổi, như
tập trung vào việc đẩy mạnh công tác marketing thương hiệu, hay nghiên cứu thị
trường cho các sản phẩm mới, tăng lợi thế cạnh tranh trên các thị trường mới… Điều
này giúp tăng giá trị của các hãng, bởi các thành viên này sẽ giúp các hãng đề ra các
chiến lược đúng đắn nhờ vào kinh nghiệm của họ. Nhận thức được điều này, các ngân
hàng hoặc các công ty lớn tại Việt Nam cũng đã quan tâm tới việc bổ nhiệm các thành
viên HĐQT độc lập có tên tuổi vào trong thành phần HĐQT, nhằm tận dụng năng lực
và kinh nghiệm của họ vào việc xây dựng các chiến lược kinh doanh, tìm ra các cách

thức phù hợp nhằm phát huy lợi thế của công ty trước các đối thủ, qua đó làm tăng giá
trị công ty.

12


Ví dụ: - Ngân hàng thương mại cổ phần Eximbank đã bổ nhiệm ông Lawrence
Justin Wolfe (với 22 năm kinh nghiệm làm việc tại Deutsche Bank) là thành viên
HĐQT độc lập của Ngân hàng;
- Ngân hàng thương mại cổ phần Vietinbank đã bầu ông Michael Knight
Ipson (với nhiều năm kinh nghiệm tại ngân hàng bán lẻ tại Hồng Kông International
Bank of Asia) làm thành viên HĐQT độc lập của Ngân hàng;
- Công ty cổ phần FPT cũng bổ nhiệm ông Tomokazu Hamaguchi (Chủ
tịch Hiệp hội Dịch vụ Công nghệ Thông tin Nhật Bản (JISA), Cố vấn cao cấp của NTT
Data Corporation, Giám đốc điều hành tại Công ty Đường sắt JR Higashi Nihon, Giám
đốc điều hành tại công ty IHI) và ông Dan E Khoo (Chủ tịch WITSA, CEO của Công
ty WCIT 2008) là thành viên HĐQT độc lập của Công ty.
2. Thay đổi quy định về cuộc họp Đại hội đồng cổ đông:
Thực tế thực hiện Luật doanh nghiệp 2005 cho thấy nhiều trường hợp doanh nghiệp
đã gặp khó khăn trong triệu tập họp và ra quyết định nếu tuân thủ đúng theo quy định
của Luật về trình tự, thủ tục. Khó khăn này thường gặp ở những công ty lớn với số
lượng cổ đông nhiều. Khó khăn trong triệu tập họp và ra quyết định đã gây nhiều bất
lợi cho doanh nghiệp, như chi phí triệu tập họp: thuê địa điểm họp, chi phí in ấn tài
liệu, chi phí gửi tài liệu cho cổ đông,… hoặc có thể mất cơ hội kinh doanh do chậm trễ
trong ra quyết định kinh doanh. Có nhiều nguyên nhân của bất cập này. Một số công ty
cổ phần, đặc biệt là công ty niêm yết có số lượng cổ đông rất lớn, lên đến hàng nghìn
cổ đông. Trong nhiều trường hợp, phần lớn cổ đông của công ty chưa có ý thức dự họp
đầy đủ khi được triệu tập hoặc không muốn dự họp. Một nguyên nhân khác chính là
hạn chế của quy định liên quan trong Luật Doanh nghiệp. Một số quy định của Luật
doanh nghiệp 2005 về trình tự, thủ tục triệu tập họp và ra quyết định trong công ty đã

không còn phù hợp, tỏ ra lạc hậu so với sự phát triển của công nghệ thông tin, nhất là
khi có internet; do đó, chưa thực sự tạo thuận lợi, giảm chi phí tuân thủ trong quản trị
công ty. Vậy nên luật Doanh nghiệp 2014 đã thay đổi để phù hợp với thực trạng như
sau:
a) Về mời họp Đại hội đồng cổ đông:

13


Luật Doanh nghiệp 2014 đã nới rộng đc thời gian thông báo mời họp đến tất cả các
cổ đông có quyền dự họp giúp cho việc gửi thông báo được hoàn thành cách tốt nhất.
Ngoài ra có thể thay thế việc gửi tài liệu họp theo thong báo mời họp thay bằng việc
đăng tải lên trang thông tin điện tử của công ty là thuận tiện hơn nhiều so với Luật
Doanh nghiệp 2005. Áp dụng công nghệ thông tin và truyền thông mạng vào thực tiễn,
sẽ không tốn thời gian mời cho từng người, nhưng không đảm bảo 100% cổ đông tiếp
nhận được thông tin 1 cách trực tiếp, đúng thời gian cần thiết.
b) Về điều kiện tiến hành cuộc họp:
Theo quy định tại điều 141 Luật Doanh Nghiệp 2014, điều kiện tiến hành họp đại
hội cổ đông chính thức thay đổi theo đúng thông lệ quốc tế giảm tỷ lệ họp từ 65%
( theo luật Doanh Nghiệp 2005) xuống 51% việc này tạo điều kiện thuận lợi cho các
cuộc họp Đại hội đồng cổ đông được tiến hành, theo đúng kế hoạch của doanh nghiệp,
tránh tình trạng phải triệu tập lần thứ 2, lần thứ 3 do không đủ điều kiện.
c) Về địa điểm họp Đại hội đồng cổ đông:
Theo quy định của Luật Doanh nghiệp 2014, địa điểm cuộc họp được thống nhất
chi tiết hơn, “Đại hội đồng cổ đông được tổ chức đồng thời ở nhiều địa điểm khác
nhau” điều này chứng tỏ Luật Doanh nghiệp 2014 đã thừa nhận giá trị pháp lý họp trực
tuyến như họp truyền thống. So với trước đây quy định việc cổ đông được tính là đã
tham dự Đại hội cổ đông theo một trong các hình thức: hoặc là trực tiếp tham dự, hoặc
là ủy quyền cho người khác dự họp, hoặc gửi phiếu biểu quyết bằng thư đảm bảo đến
HĐQT chậm nhất 1 ngày trước khi khai mạc cuộc họp. Trường hợp này trưởng ban

kiểm phiếu có quyền mở phiếu biểu quyết của cổ đông đó. Như vậy, nếu căn cứ theo
Luật hiện tại, thì cho dù các cổ đông có biểu quyết từ xa, làm mọi thủ tục online trên
máy tính thì cuối cùng cổ đông vẫn phải in phiếu biểu quyết, ký tên và gửi thư đảm bảo
về cho HĐQT.
d) Về thể thức tiến hành họp và biểu quyết:
Luật Doanh nghiệp 2014 không hạn chế số lượng người vào ban kiểm phiếu điều
này giúp cho việc kiểm phiếu được diễn ra nhanh chóng, công minh và hiệu quả.
e) Về tỷ lệ ra quyết định trong cuộc họp:
Luật Doanh nghiệp 2005 quy định tỷ lệ biểu quyết thông qua quyết định của công
ty là 65% tổng số phiếu biểu quyết đối với các quyết định thông thường và 75% tổng số
phiếu biểu quyết đối với các quyết định quan trọng. Đánh giá thực tiễn trong việc thực
14


hiện Luật Doanh nghiệp 2005 cho thấy, quy định các tỷ lệ số phiếu bắt buộc tối thiểu
phải có để thông qua quyết định của Đại hội đồng cổ đông Công ty cổ phần là quá cáo
và chưa đạt được mục tiêu là bảo vệ cổ đông thiểu số, mà còn tạo ra sự cứng nhắc, tốn
kém quá mức về thời gian, tiền bạc trong tổ chức họp và ra các quyết định của Đại hội
đồng cổ đông, nhất là các công ty đại chúng; gây bất lợi cho công ty và cổ đông của
công ty nói chung. So với thông lệ chung của quốc tế, yêu cầu về tỷ lệ biểu quyết thông
qua quyết định của Công ty cổ phần còn cao, vì vậy Luật Doanh nghiệp 2014 đã hạ
thấp tỷ lệ biểu quyết thông qua quyết định của công ty, cụ thể là 51% tổng số phiếu
biểu quyết đối với các quyết định thông thường và 65% tổng số phiếu biểu quyết đối
với các quyết định quan trọng. Việc này giúp giảm bớt chi phí cho một số doanh
nghiệp, hạn chế tình trạng doanh nghiệp phải triệu tập họp nhiều lần mới có thể thông
qua quyết định; giảm bớt rủi ro khi mất cơ hội kinh doanh do chậm trễ và khó khăn
trong triệu tập họp, ra quyết định kinh doanh.
f) Về phương thức bầu Hội đồng quản trị và Ban kiểm soát:
Luật Doanh nghiệp 2005 yêu cầu việc biểu quyết bầu thành viên Hội đồng quản trị
và Ban kiểm soát bắt buộc phải thực hiện theo phương thức bầu dồn phiếu, theo đó mỗi

cổ đông có tổng số phiếu biểu quyết tương ứng với tổng số cổ phần sở hữu nhân với số
thành viên được bầu của Hội đồng quản trị hoặc Ban kiểm soát và cổ đông có quyền
dồn hết tổng số phiếu bầu của mình cho một hoặc một số ứng cử viên. Thực tế thực
hiện Luật doanh nghiệp cho thấy, quy định bắt buộc áp dụng nguyên tắc bầu dồn phiếu
đối với bầu thành viên Hội đồng quản trị và Ban kiểm soát công ty cổ phần tuy ở mức
độ nhất định đã góp phần bảo vệ quyền lợi của cổ đông thiểu số, nhưng lại gây ra sự
thiếu kết dính trong hội đồng quản trị; làm cho việc ra quyết định trong một số trường
hợp kéo dài, tốn kém, thậm chí không thông qua được. Theo thông lệ quốc tế, nhiều
quốc gia cho phép doanh nghiệp lựa chọn phương thức bầu thành viên Hội đồng quản
trị theo cách thông thường hoặc dồn phiếu. Do đó, Luật Doanh nghiệp 2014 cho phép
bầu bằng phương thức khác và phải quy định tại điều lệ công ty, trường hợp Điều lệ
công ty không có quy định khác về biểu quyết bầu Hội đồng quản trị và Ban kiểm soát
thì mới phải thực hiện theo phương thức bầu dồn phiếu. Điều này linh hoạt và phù hợp
15


với nhu cầu đa dạng của doanh nghiệp, phù hợp với thực tế và nguyện vọng của đa số
cổ đông.
3. Bãi bỏ quy định Đại hội đồng cổ đông có thể bầu ra Chủ tịch HĐQT:
Theo Khoản 1 Điều 111 Luật Doanh nghiệp 2005 quy định: Chủ tịch Hội đồng quản
trị do Đại hội đồng cổ đông hoặc Hội đồng quản trị bầu ra. Việc quy định Đại hội đồng
cổ đông có thể bầu trực tiếp Chủ tịch Hội đồng quản trị là để Chủ tịch HĐQT đại diện
cho lợi ích chung của đại đa số cổ đông. Còn trường hợp Hội đồng quanrn trị bầu Chủ
tịch Hội đồng quản trị thì Chủ tịch HĐQT là đại diện cho lợi ích của một nhóm thành
viên trong Hội đồng quản trị đã được bầu.
Nếu nghe qua thì chúng ta có thể thấy việc cho phép Đại hội đồng cổ đông bầu trực
tiếp ra Chủ tịch HĐQT là khách quan hơn, tuy nhiên việc này rất dễ phát sinh xung đột
trong quản lý, điều hành hoạt động kinh doanh của công ty. Cụ thể là, Chủ tịch Hội
đồng quản trị lúc này chịu trách nhiệm trực tiếp trước Đại hội đồng cổ đông, chứ không
phải Hội đồng quản trị, là một chức danh tách riêng, có thẩm quyền độc lập. Nhận ra

bất cập như vậy nên Luật Doanh nghiệp 2014 đã bãi bỏ quy định Đại hội đồng cổ đông
cũng có thể bầu ra Chủ tịch Hội đồng quản trị. Luật chỉ cho phép Hội đồng quản trị bầu
ra Chủ tịch HĐQT, như vậy, Chủ tịch HĐQT là một “chức danh thường trực” của Hội
đồng quản trị, đại diện cho Hội đồng quản trị chứ không phải là một chức danh có thẩm
quyền độc lập, tách riêng. Cơ cấu tổ chức quản lý như vậy đảm bảo tính nhất quán
trong việc thông qua và tổ chức thực hiện các quyết định quản lý nội bộ công ty.
4. Bãi bỏ những hạn chế đối với thành viên Hội đồng quản trị và Giám đốc/Tổng
giám đốc công ty:
Việc bãi bỏ điều luật: “Giám đốc hoặc Tổng giám đốc công ty không được đồng
thời làm Giám đốc hoặc Tổng giám đốc của doanh nghiệp khác” và cho phép “Thành
viên Hội đồng quản trị công ty có thể đồng thời là thành viên Hội đồng quản trị của
công ty khác” tạo điều kiện cho các nhà kinh doanh có thể cùng lúc quản lý nhiều công
ty, kinh doanh nhiều lĩnh vực, kiếm thêm nguồn lợi nhuận.
5. Bổ sung thêm về thẩm quyền và nghĩa vụ của Ban kiểm soát:
Luật Doanh nghiệp 2014 quy định cụ thể hơn và bổ sung tăng thêm phạm vi hoạt
động và thẩm quyển của Ban kiểm soát nhằm nâng cao hiệu quả hoạt động của Kiểm

16


soát viên, tăng tính minh bạch hóa và công khai hóa, tạo thuận lợi hơn cho cổ đông
theo dõi, giám sát doanh nghiệp.
6. Thay đổi quy định về người đại diện theo pháp luật:
So với Luật Doanh nghiệp 2005 quy định người đại diện theo pháp lý của Công ty
cổ phần chỉ là một người thì theo Luật Doanh nghiệp 2014 đã mở rộng hơn, cho phép
đại diện của Công ty cổ phần có thể là một hoặc nhiều người. Quy định này sẽ góp
phần tháo gỡ vướng mắc cho doanh nghiệp trong trường hợp người đại diện duy nhất
của doanh nghiệp bất hợp tác, không thực hiện các yêu cầu của thành viên cổ đông
trong quá trình quản lý điều hành doanh nghiệp trong nội bộ cũng như giao dịch với
bên ngoài công ty. Bằng cách có nhiều hơn 1 người đại diện, sự lạm quyền, bất hợp tác

như đã nói trên sẽ bị vô hiệu hóa.
Đồng thời, việc này giúp doanh nghiệp hoàn toàn tự chủ trong việc chọn một người
đại diện hay nhiều người đại diện, phù hợp nhu cầu, quy mô hoạt động của từng doanh
nghiệp. Đối với các doanh nghiệp có quy mô nhỏ thường chỉ cần một người – thường
là người nắm phần lớn vốn Điều lệ là người đại diện theo pháp luật để điều hành hoạt
động kinh doanh là đủ. Tuy nhiên, đối với các doanh nghiệp lớn, có mạng lưới kinh
doanh rộng, việc giao kết và thực hiện các giao dịch được giao cho rất nhiều người như
Giám đốc chi nhánh, trưởng các bộ phận như nhân sự (đối với hợp đồng lao động),
sản xuất (ký kết các hợp đồng thu mua nguyên liệu đầu vào), kinh doanh (ký hợp đồng
bán hàng)…, hệ thống quản lý phức tạp, quy mô hoạt động rộng, trên nhiều ngành,
nhiều lĩnh vực thì việc cho phép có nhiều người đại diện theo pháp luật sẽ tạo cho
doanh nghiệp chủ động hơn trong việc phân phối quản lý, duy trì hoạt động của doanh
nghiệp một cách liên tục không bị gián đoạn. Đây là một quy định cực kỳ thiết thực,
thỏa mãn nhu cầu của nhiều doanh nghiệp hiện nay trong phân phối quản lý doanh
nghiệp.

V.

Thực trạng thi hành pháp luật về Công ty cổ phần: Bất cập, Giải pháp:

1. Về việc cho phép Công ty cổ phần có nhiều hơn một người đại diện:
a) Bất cập:

Quy định mới trong Luật Doanh nghiệp 2014 giúp khắc phục một số vấn đề bất cập
trong thực tiễn nhưng dường như chưa phải tất cả, với việc tồn tại song song từ hai
17


người đại diện theo pháp luật trở lên, sẽ là vướng mắc rất lớn cho doanh nghiệp nếu
xảy ra tình trạng mâu thuẫn giữa các nhóm cổ đông, các người đại diện theo pháp luật

của doanh nghiệp. Tình huống đặt ra là: “Nếu hôm nay, một người đại diện theo pháp
luật ký văn bản với nội dung A, gửi cho các bên có liên quan và cả cơ quan quản lý;
ngày mai, người đại diện theo pháp luật khác gửi một văn bản với nội dung hoàn toàn
trái ngược, thì các bên sẽ tin ai?” Rõ ràng, hoạt động của doanh nghiệp cũng như quyền
lợi của đối tác sẽ bị ảnh hưởng.
Ví dụ: Vụ án tranh chấp quyền đại diện pháp luật của Công ty cổ phần cà phê hòa tan
Trung Nguyên giữa hai vợ chồng ông Đặng Lê Nguyên Vũ và bà Lê Hoàng Diệp Thảo
khiến doanh thu công ty thiệt hại hơn 100 tỷ đồng.
b) Giải pháp:
Với thực tế này, việc cho phép doanh nghiệp có nhiều hơn một đại diện theo pháp
luật là cần thiết, nhưng cần có một người đại diện theo pháp luật là chính, các đại diện
theo pháp luật khác chỉ là ủy quyền trong trường hợp người đại diện theo pháp luật thứ
nhất mất khả năng làm việc, đi vắng khỏi Việt Nam, hoặc các tình huống pháp lý khác
(chẳng hạn bị tạm giam).
2. Về vai trò của Ban kiểm soát:
a) Bất cập:
Thực tế ở Việt Nam, số thành viên Ban kiểm soát thường do chính các thành viên
HĐQT chỉ định. Như vậy, các thành viên Ban kiểm soát không độc lập, họ chỉ là những
người cấp dưới và hoàn toàn phụ thuộc vào các thành viên HĐQT và TGĐ. Điều tra
cho thấy, BKS làm việc chủ yếu theo sáng kiến của các thành viên, theo các nghĩa vụ
thường xuyên của họ, rất ít trường hợp Ban kiểm soát kiểm tra, giám sát hoạt động
quản lý theo yêu cầu của các cổ đông, nhất là cổ đông thiểu số. Do đó, rủi ro mà các cổ
đông phải gánh chịu từ sự "lép vế" của Ban kiểm soát là rất lớn. Với các đặc điểm nói
trên, Ban kiểm soát trên thực tế khó có thể hoàn thành được chức năng, nhiệm vụ như
luật định và trở nên hình thức chứ chưa phải là một thể chế giám sát nội bộ, độc lập,
chuyên môn và chuyên nghiệp để cân bằng lại quyền lực của HĐQT và BGĐ, phục vụ
cho lợi ích tối đa của công ty và cổ đông của công ty.
Ví dụ: Một số vụ án do Ban kiểm soát làm việc kém hiệu quả, gây thất thoát khoản tiền
lớn trong các Công ty cổ phần ở nước ta:
18



- Nguyễn Đức Kiên (Cổ đông sáng lập - Nguyên Phó Chủ tịch HĐQT Ngân hàng Á
Châu) cùng các thành viên thường trực HĐQT Ngân hàng Á Châu bị bắt vì tội thao
túng, chi phối toàn bộ hoạt động quản trị, điều hành ngân hàng ACB, làm thất thoát
hơn 1000 tỷ đồng.
- Hà Văn Thắm (Nguyên Chủ tịch HĐQT Ngân hàng TMCP Oceanbank) và Nguyễn
Văn Hoàn (Nguyên Phó Tổng giám đốc Ngân hàng TMCP Oceanbank) bị bắt với tội
danh vi phạm quy định về cho vay trong hoạt động của các tổ chức tín dụng, làm thất
thoát hơn 500 tỷ đồng.
- Phạm Thanh Tân (cựu Tổng giám đốc Agribank) bị tuyên phạt án 22 năm tù về hai tội
Lợi dụng chức vụ quyền hạn khi thi hành công vụ và Thiếu trách nhiệm gây hậu quả
nghiêm trọng, buộc bồi thường hơn 24 tỷ đồng; Phạm Thị Bích Lượng (cựu Giám đốc
Agribank chi nhánh Nam Hà Nội), nhận hình phạt 30 năm tù cho hai tội danh Vi phạm
quy định về cho vay trong hoạt động của các tổ chức tín dụng và Lạm dụng tín nhiệm
chiếm đoạt tài sản gây thiệt hại hơn 2.000 tỷ đồng.
b) Giải pháp:

Cần thiết phải sắp xếp lại quyền hạn của Ban kiểm soát, tăng cường quyền lực thiết
thực để nó có thể thực hiện chức năng kiểm soát có hiệu quả. Cụ thể, hiện nay cần phải
tăng cường tính độc lập của các kiểm soát viên đối với HĐQT và đối với các cổ đông
chi phối, làm cho các kiểm soát viên chủ yếu là những người đại diện cho các cổ đông
thiểu số. Đồng thời tăng cường trách nhiệm của các kiểm soát viên, buộc họ phải chịu
trách nhiệm liên đới bồi thường thiệt hại trong trường hợp HĐQT, TGĐ/GĐ vi phạm
pháp luật và làm thiệt hại cho công ty.

19


Kết luận

Công ty cổ phần là loại hình doanh nghiệp xuất hiện đầu tiên, tuy nhiên cũng
phức tạp nhất trên thế giới. Loại hình công ty này mới xuất hiện ở Việt Nam trong
vòng gần hai thập kỉ trở lại đây, chúng ta đã học hỏi được rất nhiều từ các mô hình
Công ty cổ phần trên thế giới. Với những đổi mới của văn bản quy phạm pháp luật
mới nhất là Luật Doanh nghiệp 2014, về cơ bản đã tạo điều kiện, khung pháp lý
để các doanh nghiệp áp dụng hình thức Công ty cổ phần có thể hoạt động theo một
hệ thống nhất định. Tuy nhiên pháp luật luôn phát triển theo hướng hoàn thiện,
khắc phục những thiếu sót. Do đó, phát hiện những điểm hạn chế trong quy định về
vấn đề này là điều cần thiết nhằm bảo vệ quyền lợi của tất cả các bên trong nền
kinh tế thị trường, cũng như làm động lực chung cho nền kinh tế phát triển. Mặt
20


khác, trong quá trình áp dụng luật, cũng đòi hỏi nhà quản lý doanh nghiệp linh
hoạt, sáng tạo hợp pháp nhằm quản lý nội bộ công ty một cách hiệu quả nhất.

21



×