Tải bản đầy đủ (.docx) (8 trang)

Kết hôn trái pháp luật theo luật hôn nhân và gia đình năm 2014. Căn cứ pháp lý và biện pháp xử lý

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (126.99 KB, 8 trang )

Lời mở đầu
Hôn nhân là sự liên kết giũa nam và nữ nhằm chung sống lâu dài, cùng nhau xây
dựng gia đình và chung sống với nhau một thời gian dài hoặc có thể là cả đời. Sự
liên kết đó được hình thành bằng việc kết hôn. Vì vậy, việc kết hôn đóng vài trò
quan trọng và trở thành một chế định được pháp luật điều chỉnh bằng bộ luật hôn
nhân và gia đình. Ngày nay, khi công nghệ khoa học ngày càng phát triển đồng
thời những tâm sinh lý của con người càng ngày càng phức tạp ,theo đó đã có
những ảnh hưởng xấu đến quan hệ hôn nhân trong đó có việc kết hôn. Vì thế, thời
gian gần đây đang xuất hiện và có xu hướng gia tăng những trường hợp kết hôn
trái pháp luật gây ảnh hưởng xấu đến những đạo đức xã hội cũng như thuần
phong mĩ tục của Việt Nam. Vậy hiện nay luật hôn nhân gia đình năm 2014 đã và
đang có hiệu lực điều chỉnh trực tiếp quan hệ này quy định như thế nào về việc
kết hôn trái pháp luật và có những biện pháp xử lý vấn đề này ra sao?,… những
câu hỏi đó sẽ được tìm hiểu thông qua bài tiểu luận “Kết hôn trái pháp luật theo
luật hôn nhân và gia đình năm 2014. Căn cứ pháp lý và biện pháp xử lý “
Bài viết còn nhiều thiếu sót, mong thầy cô chỉ dẫn, góp ý thêm để bài viết
của em được hoàn thiện hơn. Em xin chân thành cảm ơn!


Nội Dung chính

I.
1.

Lý luận chung về kết hôn trái pháp luật
Thế nào là kết hôn trái pháp luật

Đầu tiên, muốn tìm hiểu kết hôn trái pháp luật là gì? Ta cần tìm hiểu được kết hôn
hợp pháp là gì? Quan hệ hôn nhân gia đình là một quan hệ mà trong đó hai chủ
thể nam và nữ xác lập quan hệ với nhau. Quan hệ này phát triển một cách tự
nhiên giúp đảm bảo sinh tồn và phát triển xã hội, qua nhiều thời kỳ, giai đoạn lịch


sử quan hệ hôn nhân gia đình và đặc biệt trong đó là quyền kết hôn dần dần bị
điều chỉnh bởi các quy tắc, từ những tập quán dần dần trở thành những luật lệ và
theo đó kết hôn trở thành một sự kiện pháp lý mà được tiến hành tại các cơ quan
nhà nước có thẩm quyền nhằm xác định quan hệ vợ chồng giữa nam và nữ. Sự
kiện pháp lý này chỉ được coi là hợp pháp khi hai bên nam nữ tuân thủ quy định
của pháp luật về điều kiện kết hôn và đăng ký kết hôn. Hiện nay, theo luật hôn
nhân gia đình hiện hành thì điều kiện kết hôn được quy định tại điều 8 là:
1. Nam, nữ kết hôn với nhau phải tuân theo các điều kiện sau đây:
a) Nam từ đủ 20 tuổi trở lên, nữ từ đủ 18 tuổi trở lên;
b) Việc kết hôn do nam và nữ tự nguyện quyết định;
c) Không bị mất năng lực hành vi dân sự;
d) Việc kết hôn không thuộc một trong các trường hợp cấm kết hôn theo quy định
tại các điểm a, b, c và d khoản 2 Điều 5 của Luật này.
2. Nhà nước không thừa nhận hôn nhân giữa những người cùng giới tính.
Như vậy có thể thấy rằng việc kết hôn trái pháp luật là khi mà việc kết hôn đó vi
phạm các điều kiện trên. Có thể thấy trong bộ luật hôn nhân và gia đình năm 2014


quy đinh rất rõ ràng về các trường hợp bị coi là kết hôn trái pháp luật là việc xác
lập quan hệ vợ chồng không có đăng ký kết hôn hoặc có đăng ký kết hôn nhưng vi
phạm điều kiện kết hôn do pháp luật quy định, cụ thể là vi phạm một trong những
điều kiện sau: vi phạm điều kiện về độ tuổi; vi phạm điều kiện về yếu tố tự
nguyện; thuộc các trường hợp cấm kết hôn; vi phạm các điệu kiện về đăng ký kết
hôn theo quy định của pháp luật.
2.
a)

Các trường hợp kết hôn trái pháp luật
Vi phạm về độ tuổi


Độ tuổi kết hôn được xây dựng dựa trên các cơ sở khoa học và cơ sở xã hội, căn
cứ vào sự phát triển tâm sinh lí của con người,… nên pháp luật của các quốc gia
trên thế giới quy định về độ tuổi tối thiểu để kết hôn khác nhau. Ở Việt Nam,
trong những năm gần đây, điều kiện kinh tế phát triển đáng kể, chất lượng cuộc
sống của người dân được nâng cao, vì thế độ tuổi dậy thì đối với trẻ em trai và trẻ
em gái đã có những thay đổi nhất định. Vì vậy việc quy định về độ tuổi kết hôn là
rất quan trọng nếu không quy định phù hợp sẽ dẫn đến xu hướng, chưa đến tuổi
kết hôn luật định, đã có quan hệ tình yêu vượt quá giới hạn. Nhiều trường hợp, ở
vào tình trạng phải làm bố, làm mẹ ngoài ý muốn, do đó, phải “cưới chạy, cưới
chui”, kéo theo rất nhiều hệ lụy, tác động tiêu cực tới đời sống hôn nhân và gia
đình.
Theo điểm a, khoản 1, điều 8 luật hôn nhân gia đình năm 2014 thì nam phải từ đủ
20 tuổi trở lên và nữ phải từ đủ 18 tuổi trở lên thì mới thỏa mãn điều kiện cần để
kết hôn. Việc quy định về độ tuổi kết hôn có ý nghĩa rất quan trọng đối với việc
đảm bảo sức khỏe cũng như việc nhận thức về trách nhiệm của người vợ, người
chồng hay tiến xa hơn là trách nhiệm của người làm bố làm mẹ. Đồng thời, qua đó
cũng đảm bảo sức khỏe cho con cái, đảm bảo cho chúng được giáo dục toàn diện.


b)

Vi phạm về sự tự nguyện của hai bên

Việc kết hôn do nam và nữ tự nguyện quyết định, đây là chìa khóa dẫn đến hôn nhân là
sự liên kết gắn bó lâu dài giữa hai bên nhằm xây dựng tổ ấm gia đình, nuôi dạy con cái,
không bên nào được ép buộc lừa dối, không ai được cưỡng ép hoặc cản trở việc kết hôn.
VÌ vạy đển đảm bảo lợi ích cảu vợ chồng, con cái, đẩm bảo hôn nhân bền vững thì pháp
luật quy định các trường hợp sau đây sẽ bị coi là vi phạm điều kiện kết hôn tại điểm b
khoản 1 Điều 8 Luật Hôn nhân và gia đình 2014.
Một bên ép buộc nên buộc bên bị ép buộc đồng ý kết hôn

(ví dụ: đe doạ dùng vũ lực hoặc uy hiếp tinh thần hoặc dùng vật chất…)
• Một bên lừa dối để kết hôn nên bên bị lừa dối đã đồng ý kết hôn
(Ví dụ: có những hành động hoặc lời nói để che đậy sự thật về nhân cách hoặc lý


lịch xấu như không có khả năng sinh lý nhưng cố tình giấu; biết mình bị nhiễm HIV
nhưng cố tình giấu…)
• Một bên hoặc cả hai bên nam và nữ bị người khác cưỡng ép buộc người bị cưỡng
ép kết hôn trái với nguyện vọng của họ.
(ví dụ: bố mẹ của người nữ do nợ của người nam một khoản tiền nên cưỡng ép
người nữ phải kết hôn với người nam để trừ nợ; do bố mẹ của hai bên có hứa hẹn
với nhau nên cưỡng ép con của họ phải kết hôn với nhau…)

Vi phạm điều kiện về sự tự nguyễn xảy ra nhiều ở dân tộc thiểu số bởi các thủ tục
lạc hậu đặc biệt là hủ tục cướp vợ hiện đang bị dư luận, xã hội lên án gay gắt thời
gian gần đây không chỉ vi phạm về kết hôn mà hủ tục này còn xâm hại quyền bất
khả xâm phạm về thân thể.
c)

Vi phạm về kết hôn với người không có năng lực hành vi dân sự

Điều 22 Luật Dân sự 2015 quy định về mất năng lực hành vi dân sự, những người bị
bệnh tâm thần hoặc mắc bệnh khác mà không thể nhận thức, làm chủ được hành vi của
mình mà Toà án đã ra quyết định tuyên bố mất năng lực hành vi dân sự trên cơ sở kết
luận của tổ chức giám định. Theo đó, những người bị Tòa án ra quyết định tuyên bố mất
năng lực hành vi dân sự sẽ không đủ điều kiện kết hôn theo quy định tại điểm c khoản 1


Điều 8 Luật Hôn nhân và gia đình 2014. Khi bị mất năng lực hành vi dân sự, họ sẽ
không thể điều chỉnh được hành vi của mình cũng như đã không đáp ứng được điều kiện

về sự tự nguyện ở trên. Đồng thời, sau khi kết hôn nam, nữ phải thực hiện nghĩa vụ với
vợ, chồng và con cái, nên nếu họ kết hôn sẽ ảnh hưởng đến quyền lợi của những người
liên quan.
 Tóm lại, các trường hợp kết hôn trái pháp luật là các trường hợp vi phạm về điều

kiện kết hôn được quy định tại điểm a, b, c khoản 1 điều 8 luật hôn nhân gia đình
năm 2014 như: điều kiện về độ tuổi kết hôn, sự tự nguyện của nam và nữ, điều
kiện về năng lực hành vi.
Ngoài những điều kiện trên ra thì tại điểm d khoản 1 luật hôn nhân gia đình năm 2014
còn quy định về các trường hợp cấm kết hôn theo quy định tại các điểm a, b, c

và d khoản 2 Điều 5 của Luật này. Mà khi kết hôn thuộc vào các trường hợp
cấm này cũng được coi là kết hôn trái pháp luật. Đó là


Kết hôn do giả tạo

“Kết hôn do giả tạo là việc lợi dụng kết hôn để xuất cảnh, nhập cảnh, cư trú,
nhập quốc tịch Việt Nam, quốc tịch nước ngoài; hưởng chế độ ưu đãi của Nhà
Nước hoặc để đạt được mục đích khác mà không nhằm mục đích xây dựng gia
đình”
Kết hôn là biểu tượng sự liên kết giữa nam và nữ, là tiền đề của cuộc sống gia đình,
sinh con, nuôi dưỡng và thực hiện các chức năng xã hội khác. Nhưng hiện nay,
nhiều cặp đôi đến với nhau không vì tình cảm hay nói cách khác là lập gia đình mà
nhằm mục đích khác như: xuất cảnh, nhập cảnh, nhập quốc tịch,... Như vậy, mặc dù
đã kết hôn với nhau trên thực tế những họ lại không sống chung với nhau để tạo
thành một gia đình. Việc kết hôn giả tạo gây ra nhiều hệ lụy, khi nó làm mất đi tính
chất tốt đẹp của hôn nhân, biến hôn nhân thành phương tiện để hưởng lợi. Trong
nhiều trường hợp, việc kết hôn giả bất thành tạo trở ngại pháp lí lớn sau này
cho đối tượng kết hôn giả và con cái họ.



Cụ thể như trường hợp chị X đã làm thủ tục kết hôn với một người đàn ông
Hàn Quốc nhưng việc xuất cảnh bất thành. Chị này “buông” và sau đó cưới
một người cùng làng, chấp nhận không được làm thủ tục đăng kí kết hôn với
người chồng thực sự vì đang có hôn nhân hợp pháp với người Hàn Quốc.
Thế nhưng khi đứa con sinh ra không được cấp giấy khai sinh do chị X cần có
đơn li hôn với người chồng Hàn Quốc hoặc làm đơn cam đoan con mình sinh
ra ngoài giá thú và chỉ được mang họ mẹ! Việc kết hôn giả của người mẹ vô
hình trung đã xâm phạm tới quyền của đứa trẻ. (nguồn baomoi.com)


Cấm người đang có vợ hoặc có chồng kết hôn

Đây là môt trong những nguyên tắc nền tảng của Luật hôn nhân và gia đình Việt
Nam được xây dựng trên nguyên tắc một vợ một chồng được quy đinh tại khoản 1
điều 2 luật hôn nhân và gia đình năm 2014. Do đó, người nào đang có vợ, có
chồng mà quan hệ hôn nhân chưa chấm dứt đã kết hôn với người khác hoặc
người chưa có vợ, chưa có chồng mà kết hôn với người đã có chồng hoặc đã có vợ
mà quan hệ hôn nhân chưa chấm dứt là kết hôn trái pháp luật.
Đây chính là bản chất tạo nên sự khác biệt cơ bản giữa pháp luật về Hôn nhân và
gia đình của nước ta - một nước xã hội chủ nghĩa so với nhà nước phong kiến hoặc
tư sản. Hiện nay, tại nhiều vùng miền trên toàn quốc vẫn còn xảy ra hiện tượng
người đang có vợ, chồng lại sống chung như vợ, chồng đối với một người khác.
Việc sống chung đó có thể lén lút hoặc công khai. Hiện tượng này không chỉ gây ra
tan vỡ hôn nhân trong nhiều gia đình mà còn ảnh hưởng nhiều đến chế việc xấy
dựng chế độ hôn nhân và gia đình tiến bộ ở nước ta.
 Kết hôn giữa những người cùng dòng máu về trực hệ, những ngƣời có họ trong phạm vi ba đời
hoặc đã từng có quan hệ thích thuộc


Xét về mặt khoa học việc cấm kết hôn giữa những người có quan hệ huyết
thống để nhằm đảm bảo cho sự phát triển khỏe mạnh của con cái, sự phát


triển bền vững và hạnh phúc của gia đình. Theo kết quả nghiên cứu của ngành
khoa học về huyết học và khỏa sát thực tế, những người có quan hệ huyết
thống gần với nhau khi kết hôn và đẻ con thì con sinh ra thường bị bệnh tật và
những dị dạng( ví dụ: bệnh câm, điếc, mù màu, bạch tạng,…)
Xét về yếu tố thuần phong mĩ tục và những quy định về chuẩn mực đạo đức,
văn hóa theo xã hội Việt Nam, việc kết hôn với người có cùng huyết thống làm
cho các mối quan hệ trong gia đình bị vẩn đục, không lành mạnh vì vậy thì việc
cấm những người có quan hệ huyết thống kết hôn với nhau còn có tác dụng
làm lành mạnh các mối quan hệ trong gia đình, phù hợp với đạo đức và truyền
thống từ xưa đến nay của dân tộc Việt Nam.
Tuy nhiên, ở Việt Nam một số dân tộc thiểu số sinh sống ở vùng núi cao rừng
sâu vẫn còn hiện tượng quan hệ cận huyết dẫn tới hệ quả là thoái hóa giống
nòi làm ảnh hưởng xấu đến sự tồn vòng của các dân tộc này. Do đó nhà nước
cần tích cực vận động tuyên truyền để những dân tộc thiểu số trên lấy người
của dân tộc khác hoặc địa phuong khác.


Cấm người là cha nuôi hoặc mẹ nuôi với con nuôi hoặc người đã từng là
cha, mẹ nuôi với con nuôi, cha chồng với con dâu, mẹ vợ với con rể, cha
dượng với con riêng của vợ, mẹ kế với con riêng của chồng kết hôn với nhau

 Kết hôn giữa những người cùng giới tính

Tuy việc kết hôn đồng giới đã được nhiều quốc gia chấp nhận nhưng với Việt
Nam việc chấp nhận kết hôn đồng giới vẫn còn nhiều vướng mắc về cả những
thủ tục pháp lý lẫn thuần phong mĩ tục, chuẩn mực đạo đức xã hội. Ngoài ra,

một trong những chức năng không thể thiếu được của gia đình đó chính là chức năng sinh sản. Mà
chức năng này chỉ có thể được thực hiện bởi hai chủ thể khác nhau về giới tính. Do đó, pháp luật Việt
Nam đã dựa trên căn cứ thực hiện chức năng của gia đình và không thừa nhận kết hôn đồng giới.


Tuy nhiên thì Pháp luật Việt Nam cho phép cá nhân khi có sự nhầm lẫn về giới tính thì có quyền xác
định lại giới tính của mình nhưng không chấp nhận việc chuyển đổi giới tính.



×