Tải bản đầy đủ (.doc) (26 trang)

TÀI LIỆU THAM KHẢO đề CƯƠNG CHI TIẾT ôn THI môn CHÍNH TRỊ học

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (256.89 KB, 26 trang )

ĐỀ CƯƠNG ÔN THI MÔN CHÍNH TRỊ HỌC CHI TIẾT
Câu 1: Những đặc trưng cơ bản của quyền lực chính trị. Nâng cao hiệu lực, hiệu quả thực thi
quyền lực chính trị Nhà nước ta hiện nay – Những vấn đề đặt ra và giải pháp.
Quyền lực chính trị là một phạm trù trung tâm của khoa học chính trị. Khi nói đến quyền lực
và quyền lực chính trị, có nhiều quan điểm và cách tiếp cận khác nhau, nhưng tựu chung lại đều
cho rằng quyền lực chính là năng lực của một chủ thể buộc chủ thể khác phải phục tùng ý chí
của mình, bất kể sự kháng cự và quyền lực chính trị là quyền lực của một giai cấp (hay liên
minh giai cấp) nhằm thực hiện mục tiêu chính trị của mình.
a) Khái niệm Quyền lực chính trị: Quyền lực công: quyền lực chung của cộng đồng, xã hội
Quyền lực chính trị: là quyền lực của một giai cấp (hay liên minh giai cấp) nhằm thực hiện mục
tiêu chính trị của mình. Quyền lực nhà nước: là quyền lực chính trị của một giai cấp được tổ chức
thành nhà nước. QLNN có tính độc quyền cưỡng chế hợp pháp, được xã hội thừa nhận (bộ máy quân
đội và an ninh). Quyền lực chính trị là quyền lực tiềm năng, trong khi quyền lực nhà nước là quyền lực
thực tế
b) Đặc trưng cơ bản của QLCT :QLCT là một tất yếu khách quan trong một giai đoạn phát triển
nhất định của lịch sử
Về xã hội: Con người - phải sống thành cộng đồng, xã hội => mâu thuẫn của việc sống chung
=> Hình thành quyền lực công để giải quyết mâu thuẫn => Tổ chức thành nhà nước
Về kinh tế: Nhu cầu phát triển sản xuất cần phải có sự phân công, phối hợp => Quyền lực. “Từ
nhu cầu tự nhiên phải phối hợp sản xuất, xuất hiện sự cần thiết phải phục tùng một sự chuyên
chế thực sự, bất chấp tổ chức, xã hội là như thế nào” (Ăngghen)
* Quyền lực chính trị mang tính giai cấp: QLCT của giai cấp cầm quyền được tổ chức thành
nhà nước. Ăngghen: QLCT là bạo lực có tổ chức của một giai cấp để đàn áp một giai cấp khác.
Giai cấp nào giữ địa vị thống trị về kinh tế sẽ giữ địa vị thống trị về mặt chính trị
* Quyền lực chính trị mang tính xã hội: Thực thi QLCT của giai cấp thống trị trong XH bao
giờ cũng phải giải quyết được sự tương quan, công bằng nhất định giữa lợi ích của các giai cấp
=> Tránh tạo ra xung đột lợi ích nghiêm trọng giữa các nhóm, giai cấp trong xã hội => tạo sự
bất ổn, khủng hoảng. QLNN là quyền lực công, phục vụ mọi công dân sống trên lãnh thổ quốc
gia (Khế ước xã hội – Nhà nước “của dân, do dân, vì dân”)
* Quyền lực chính trị cần được tập trung đủ mức. Về nguyên tắc, quyền lực cần được tập
trung đủ mức; nếu không, quyết định, mệnh lệnh của người cầm quyền đưa ra khó có thể được


thi hành, hoặc thi hành không triệt để. Thiếu quyền lực có thể dẫn đến những hệ quả tiêu cực:
tính hiệu lực của các quyết định, sự vô trách nhiệm của những người nắm quyền
* Quyền lực chính trị cần phải được kiểm soát.QLNN là quyền lực được người dân ủy nhiệm.
QLNN do một số người nắm giữ, dễ bị các lợi ích cá nhân chi phối. QLNN là ý chí chung của
xã hội, nhưng lại giao cho một số người có khả năng hữu hạn thực hiện, do vậy nó chứa đựng
nguy cơ mắc sai lầm => Quyền lực cần phải được kiểm soát để tránh tình trạng lạm dụng quyền
lực, sử dụng quyền lực sai mục đích, thiếu hiệu quả
c) Nâng cao hiệu lực, hiệu quả thực thi quyền lực CT của NN ta hiện nay,
Thực trạng Dân chủ và sức mạnh đại đoàn kết toàn dân tộc chưa được phát huy đầy đủ
Quyền làm chủ của nhân dân ở một số nơi, trên một vài lĩnh vực còn bị vi phạm. Việc thực
hành dân chủ còn mang tính hình thức; có tình trạng lợi dụng dân chủ gây chia rẽ, làm mất
đoàn kết nội bộ, gây rối, ảnh hưởng đến trật tự, an toàn xã hội. Chủ trương, quan điểm của
Đảng về đại đoàn kết toàn dân tộc, về quyền và lợi ích của các giai cấp, tầng lớp nhân dân chưa
được thể chế đầy đủ thành pháp luật; hoặc đã thể chế hóa nhưng chưa được thực hiện nghiêm
túc; công tác kiểm tra, đôn đốc chưa thường xuyên; giữa chủ trương và tổ chức thực hiện còn
cách biệt. Việc tuyên truyền, vận động, tập hợp, thu hút nhân dân tham gia các phong trào, cuộc


vận động của Mặt trận Tổ quốc, các đoàn thể nhân dân còn hạn chế. Hoạt động của Mặt trận Tổ
quốc và các đoàn thể nhân dân chưa sâu sát các tầng lớp nhân dân và cơ sở.
Xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa chưa theo kịp yêu cầu phát triển kinh tế
và quản lý đất nước. Năng lực xây dựng thể chế, quản lý, điều hành, tổ chức thực thi pháp luật
còn yếu. Tổ chức bộ máy ở nhiều cơ quan còn chưa hợp lý, biên chế cán bộ, công chức tăng
thêm; chức năng, nhiệm vụ của một số cơ quan chưa đủ rõ, còn chồng chéo. Chất lượng đội ngũ
cán bộ, công chức chưa đáp ứng được yêu cầu nhiệm vụ trong tình hình mới của đất nước. Cải
cách hành chính chưa đạt yêu cầu đề ra; thủ tục hành chính còn gây phiền hà cho tổ chức và
công dân. Năng lực dự báo, hiệu lực, hiệu quả quản lý của Nhà nước trên một số lĩnh vực yếu;
phân cấp mạnh nhưng thiếu kiểm tra, kiểm soát; trật tự, kỷ cương xã hội không nghiêm. Cải
cách tư pháp còn chậm, chưa đồng bộ. Công tác điều tra, giam giữ, truy tố, xét xử trong một số
trường hợp chưa chính xác; án tồn đọng, án bị huỷ, bị cải sửa còn nhiều.Công tác phòng, chống

tham nhũng, lãng phí chưa đạt được yêu cầu đề ra. Quan liêu, tham nhũng, lãng phí vẫn còn
nghiêm trọng, với những biểu hiện tinh vi, phức tạp, chưa được ngăn chặn, đẩy lùi, gây bức xúc
xã hội.
Công tác xây dựng Đảng còn nhiều hạn chế, yếu kém, chậm được khắc phục: Công tác nghiên
cứu lý luận, tổng kết thực tiễn chưa làm sáng tỏ được một số vấn đề về đảng cầm quyền, về chủ
nghĩa xã hội và con đường đi lên chủ nghĩa xã hội ở nước ta. Tính chiến đấu, tính thuyết phục, hiệu
quả của công tác tư tưởng còn hạn chế; thiếu sắc bén trong đấu tranh chống âm mưu, thủ đoạn
“diễn biến hòa bình”. Tình trạng suy thoái về chính trị, tư tưởng, đạo đức, lối sống trong một bộ
phận không nhỏ cán bộ, đảng viên và tình trạng tham nhũng, lãng phí, quan liêu, những tiêu cực và
tệ nạn xã hội chưa được ngăn chặn, đẩy lùi mà còn tiếp tục diễn biến phức tạp, cùng với sự phân
hóa giàu nghèo và sự yếu kém trong quản lý, điều hành của nhiều cấp, nhiều ngành làm giảm lòng
tin của nhân dân đối với Đảng và Nhà nước, đe dọa sự ổn định, phát triển của đất nước. Cuộc vận
động “Học tập và làm theo tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh” chưa thực sự đi vào chiều sâu, ở một
số nơi còn mang tính hình thức, hiệu quả chưa cao, làm theo chưa đạt yêu cầu.
Tổ chức của một số cơ quan đảng, nhà nước và tổ chức chính trị - xã hội chưa thực sự tinh
gọn, hiệu quả; chức năng, nhiệm vụ, mối quan hệ chưa rõ ràng. Việc đổi mới công tác cán bộ
còn chậm; thiếu cơ chế, chính sách cụ thể để thực sự phát huy dân chủ trong công tác cán bộ,
phát hiện và sử dụng người tài; chậm đổi mới cơ chế, phương pháp và quy trình đánh giá, bổ
nhiệm, miễn nhiệm, từ chức đối với cán bộ; đánh giá cán bộ vẫn là khâu yếu. Tình trạng chạy
chức, chạy quyền, chạy tội, chạy bằng cấp, huân chương chưa được khắc phục. Công tác cán bộ
thiếu tầm nhìn xa. Chất lượng đào tạo, bồi dưỡng cán bộ thấp. Môi trường làm việc, chính sách
cán bộ chưa tạo được động lực để khuyến khích, thu hút, phát huy năng lực, sự cống hiến của
cán bộ; chưa cổ vũ ý chí phấn đấu vươn lên, sự gắn bó, tận tụy của cán bộ đối với công việc.
Năng lực lãnh đạo và sức chiến đấu của không ít tổ chức đảng còn thấp; công tác quản lý
đảng viên chưa chặt chẽ, sinh hoạt đảng chưa nền nếp, nội dung sinh hoạt nghèo nàn, tự phê
bình và phê bình yếu. Việc xây dựng tổ chức cơ sở đảng trong doanh nghiệp tư nhân, doanh
nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài còn chậm, vai trò của tổ chức đảng ở đây mờ nhạt. Động cơ
phấn đấu vào Đảng của một số người có biểu hiện lệch lạc, cơ hội. Việc xử lý, sử dụng và quản
lý cán bộ, đảng viên có vấn đề lịch sử chính trị còn phiến diện, thiếu chặt chẽ. Việc xem xét,
giải quyết những vấn đề chính trị hiện nay của cán bộ, đảng viên còn lúng túng. Nhiều cấp uỷ,

tổ chức đảng chưa quan tâm chỉ đạo đúng mức công tác này.
Nhiều cấp uỷ, tổ chức đảng chưa làm tốt công tác kiểm tra, giám sát và thi hành kỷ luật
đảng, chất lượng và hiệu quả kiểm tra, giám sát chưa cao; chưa coi trọng việc kiểm tra, giám sát
thực hiện đường lối, chủ trương, chỉ thị, nghị quyết, thi hành Điều lệ Đảng, kiểm tra, giám sát
phòng ngừa tiêu cực và phát huy nhân tố tích cực. Nhiều khuyết điểm, sai lầm của đảng viên và
tổ chức đảng chậm được phát hiện. Tình trạng thiếu trách nhiệm, cơ hội, suy thoái đạo đức, lối


sống vẫn diễn ra khá phổ biến trong một bộ phận cán bộ, đảng viên. Kỷ luật, kỷ cương ở nhiều
tổ chức đảng không nghiêm. Sự đoàn kết, nhất trí ở không ít cấp uỷ chưa tốt.
Một số tổ chức đảng, chính quyền, mặt trận và đoàn thể nhân dân chưa quan tâm đúng mức công
tác dân vận. Nội dung, phương thức vận động, tập hợp quần chúng vẫn nặng tính hành chính. Phương
thức lãnh đạo của Đảng đối với Nhà nước, Mặt trận Tổ quốc và các đoàn thể chính trị - xã hội
trên một số nội dung chưa rõ, chậm đổi mới. Chức năng, nhiệm vụ của đảng đoàn, ban cán sự
đảng chưa được xác định rõ ràng, cụ thể nên hoạt động còn lúng túng. Phong cách, lề lối làm
việc đổi mới chậm; hội họp vẫn nhiều. Nguyên tắc tập trung dân chủ còn bị vi phạm, ảnh hưởng
đến sự đoàn kết, thống nhất trong Đảng.- Phát huy dân chủ xã hội chủ nghĩa
d) Những vấn đề đặt ra và giải pháp: : Tiếp tục xây dựng và hoàn thiện nền dân chủ xã hội
chủ nghĩa, bảo đảm tất cả quyền lực nhà nước thuộc về nhân dân; mọi đường lối, chủ trương
của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước đều vì lợi ích của nhân dân; cán bộ, công chức
phải hoàn thành tốt chức trách, nhiệm vụ được giao, tôn trọng nhân dân, tận tụy phục vụ nhân
dân. Nâng cao ý thức về quyền và nghĩa vụ công dân, năng lực làm chủ, tham gia quản lý xã
hội của nhân dân. Có cơ chế cụ thể để nhân dân thực hiện trên thực tế quyền làm chủ trực tiếp.
Thực hiện tốt hơn Quy chế dân chủ ở cơ sở và Pháp lệnh thực hiện dân chủ ở xã, phường, thị
trấn. Phát huy dân chủ, đề cao trách nhiệm công dân, kỷ luật, kỷ cương xã hội; phê phán và
nghiêm trị những hành vi vi phạm quyền làm chủ của nhân dân, những hành vi lợi dụng dân
chủ để làm mất an ninh, trật tự, an toàn xã hội; chống tập trung quan liêu, khắc phục dân chủ
hình thức. Quan tâm hơn nữa việc chăm lo hạnh phúc và sự phát triển tự do, toàn diện của con
người, bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của con người, tôn trọng và thực hiện các điều ước
quốc tế về quyền con người mà Việt Nam ký kết.

* Vận dụng: Đẩy mạnh xây dựng nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa việt nam - Nâng cao
nhận thức về xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Tiếp tục đẩy mạnh việc xây
dựng và hoàn thiện Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa, bảo đảm Nhà nước ta thực sự là
của nhân dân, do nhân dân và vì nhân dân, do Đảng lãnh đạo; thực hiện tốt chức năng quản lý
kinh tế, quản lý xã hội; giải quyết đúng mối quan hệ giữa Nhà nước với các tổ chức khác trong
hệ thống chính trị, với nhân dân, với thị trường. Nâng cao năng lực quản lý và điều hành của
Nhà nước theo pháp luật, tăng cường pháp chế xã hội chủ nghĩa và kỷ luật, kỷ cương. Nhà nước
chăm lo, phục vụ nhân dân, bảo đảm quyền, lợi ích chính đáng của mọi người dân. Nghiên cứu
xây dựng, bổ sung các thể chế và cơ chế vận hành cụ thể để bảo đảm nguyên tắc tất cả quyền
lực nhà nước thuộc về nhân dân và nguyên tắc quyền lực nhà nước là thống nhất, có sự phân
công, phối hợp và kiểm soát giữa các cơ quan trong việc thực hiện quyền lập pháp, hành pháp
và tư pháp. Nâng cao vai trò và hiệu lực quản lý kinh tế của Nhà nước phù hợp với yêu cầu phát
triển kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa. Tiếp tục hoàn thiện hệ thống pháp luật, cơ
chế, chính sách để vận hành có hiệu quả nền kinh tế và thực hiện tốt các cam kết quốc tế, bảo
vệ lợi ích quốc gia, dân tộc.
Khẩn trương nghiên cứu, sửa đổi, bổ sung Hiến pháp năm 1992 (đã được sửa đổi, bổ sung
năm 2001) phù hợp với tình hình mới. Tiếp tục xây dựng, từng bước hoàn thiện cơ chế kiểm
tra, giám sát tính hợp hiến, hợp pháp trong các hoạt động và quyết định của các cơ quan công
quyền.
- Tiếp tục đổi mới tổ chức, hoạt động của bộ máy nhà nước
Đổi mới tổ chức và hoạt động của Quốc hội, bảo đảm Quốc hội thực sự là cơ quan đại biểu cao
nhất của nhân dân, cơ quan quyền lực nhà nước cao nhất. Hoàn thiện cơ chế bầu cử đại biểu
Quốc hội để cử tri lựa chọn và bầu những người thực sự tiêu biểu vào Quốc hội. Nâng cao chất
lượng đại biểu Quốc hội, tăng hợp lý số lượng đại biểu chuyên trách; có cơ chế để đại biểu
Quốc hội gắn bó chặt chẽ và có trách nhiệm với cử tri. Cải tiến, nâng cao chất lượng hoạt động
của Hội đồng Dân tộc và các uỷ ban của Quốc hội, chất lượng hoạt động của đại biểu Quốc hội


và đoàn đại biểu Quốc hội. Nghiên cứu, giao quyền chất vấn cho Hội đồng Dân tộc và các uỷ
ban của Quốc hội. Tiếp tục phát huy dân chủ, tính công khai, đối thoại trong thảo luận, hoạt

động chất vấn tại diễn đàn Quốc hội.
Tiếp tục đổi mới và nâng cao chất lượng công tác xây dựng pháp luật, trước hết là quy trình
xây dựng luật, pháp lệnh; luật, pháp lệnh cần quy định cụ thể, tăng tính khả thi để đưa nhanh
vào cuộc sống. Thực hiện tốt hơn nhiệm vụ quyết định và giám sát các vấn đề quan trọng của
đất nước, nhất là các công trình trọng điểm của quốc gia, việc phân bổ và thực hiện ngân sách;
giám sát hoạt động của các cơ quan tư pháp, công tác phòng, chống quan liêu, tham nhũng, lãng
phí. Nghiên cứu xác định rõ hơn quyền hạn và trách nhiệm của Chủ tịch nước để thực hiện đầy đủ
chức năng nguyên thủ quốc gia, thay mặt Nhà nước về đối nội, đối ngoại và thống lĩnh các lực lượng
vũ trang; quan hệ giữa Chủ tịch nước với các cơ quan thực hiện quyền lập pháp, hành pháp và tư
pháp.
Tiếp tục đổi mới tổ chức và hoạt động của Chính phủ theo hướng xây dựng nền hành chính
thống nhất, thông suốt, trong sạch, vững mạnh, có hiệu lực, hiệu quả; tổ chức tinh gọn và hợp
lý; tăng tính dân chủ và pháp quyền trong điều hành của Chính phủ; nâng cao năng lực dự báo,
ứng phó và giải quyết kịp thời những vấn đề mới phát sinh. Xác định rõ chức năng, nhiệm vụ, quyền
hạn, trách nhiệm, tổ chức của các bộ, cơ quan ngang bộ; khắc phục tình trạng bỏ trống hoặc trùng lắp
về chức năng, nhiệm vụ giữa các bộ, ngành. Tổng kết, đánh giá việc thực hiện chủ trương sắp xếp các
bộ, sở, ban, ngành quản lý đa ngành, đa lĩnh vực để có chủ trương, giải pháp phù hợp. Thực hiện phân
cấp hợp lý cho chính quyền địa phương đi đôi với nâng cao chất lượng quy hoạch và tăng cường thanh
tra, kiểm tra, giám sát của trung ương, gắn quyền hạn với trách nhiệm được giao.
Đẩy mạnh cải cách hành chính, nhất là thủ tục hành chính; giảm mạnh và bãi bỏ các loại thủ
tục hành chính gây phiền hà cho tổ chức và công dân. Nâng cao năng lực, chất lượng xây dựng
và tổ chức thực hiện các cơ chế, chính sách. Đẩy mạnh xã hội hoá các loại dịch vụ công phù
hợp với cơ chế kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa. Đẩy mạnh việc thực hiện Chiến
lược cải cách tư pháp đến năm 2020, xây dựng hệ thống tư pháp trong sạch, vững mạnh, bảo vệ
công lý, tôn trọng và bảo vệ quyền con người. Hoàn thiện chính sách, pháp luật về hình sự, dân
sự, thủ tục tố tụng tư pháp và về tổ chức bộ máy các cơ quan tư pháp, bảo đảm tính khoa học,
đồng bộ, đề cao tính độc lập, khách quan, tuân thủ pháp luật của từng cơ quan và chức danh tư
pháp. Đổi mới hệ thống tổ chức toà án theo thẩm quyền xét xử, bảo đảm cải cách hoạt động xét
xử là trọng tâm của cải cách hoạt động tư pháp; mở rộng thẩm quyền xét xử của toà án đối với
các khiếu kiện hành chính. Viện kiểm sát được tổ chức phù hợp với hệ thống tổ chức toà án,

bảo đảm tốt hơn các điều kiện để viện kiểm sát nhân dân thực hiện hiệu quả chức năng thực
hành quyền công tố và kiểm sát các hoạt động tư pháp; tăng cường trách nhiệm công tố trong
hoạt động điều tra, gắn công tố với hoạt động điều tra. Sắp xếp, kiện toàn tổ chức và hoạt động
của cơ quan điều tra theo hướng thu gọn đầu mối; xác định rõ hoạt động điều tra theo tố tụng và
hoạt động trinh sát trong đấu tranh phòng, chống tội phạm. Tiếp tục đổi mới và kiện toàn các tổ
chức bổ trợ tư pháp. Nâng cao trình độ chuyên môn, nghiệp vụ và đạo đức nghề nghiệp của đội
ngũ cán bộ tư pháp và bổ trợ tư pháp. Tăng cường các cơ chế giám sát, bảo đảm sự tham gia
giám sát của nhân dân đối với hoạt động tư pháp. Tiếp tục đổi mới tổ chức hoạt động của chính
quyền địa phương. Nâng cao chất lượng hoạt động của hội đồng nhân dân và uỷ ban nhân dân
các cấp, bảo đảm quyền tự chủ và tự chịu trách nhiệm trong việc quyết định và tổ chức thực
hiện những chính sách trong phạm vi được phân cấp. Nghiên cứu tổ chức, thẩm quyền của
chính quyền ở nông thôn, đô thị, hải đảo. Tiếp tục thực hiện thí điểm chủ trương không tổ chức
hội đồng nhân dân huyện, quận, phường.
- Xây dựng đội ngũ cán bộ, công chức trong sạch, có năng lực đáp ứng yêu cầu trong tình hình
mới. Rà soát, bổ sung, hoàn thiện quy chế quản lý cán bộ, công chức; phân định rõ chức năng,
nhiệm vụ, trách nhiệm và thẩm quyền của mỗi cán bộ, công chức; tăng cường tính công khai,


minh bạch, trách nhiệm của hoạt động công vụ. Nâng cao chất lượng đội ngũ cán bộ, công chức
cả về bản lĩnh chính trị, phẩm chất đạo đức, năng lực lãnh đạo, chỉ đạo, điều hành, quản lý nhà
nước. Có chính sách đãi ngộ, động viên, khuyến khích cán bộ, công chức hoàn thành nhiệm vụ
và có cơ chế loại bỏ, bãi miễn những người không hoàn thành nhiệm vụ, vi phạm kỷ luật, mất
uy tín với nhân dân. Tổng kết việc thực hiện “nhất thể hoá” một số chức vụ lãnh đạo Đảng, Nhà
nước để có chủ trương phù hợp. Thực hiện bầu cử, bổ nhiệm lại chức vụ lãnh đạo theo hướng
cấp trưởng giới thiệu cấp phó để cấp có thẩm quyền xem xét, quyết định.
- Tích cực thực hành tiết kiệm, phòng ngừa và kiên quyết chống tham nhũng, lãng phí
Phòng và chống tham nhũng, lãng phí, thực hành tiết kiệm là nhiệm vụ vừa cấp bách, vừa lâu
dài. Mọi cán bộ lãnh đạo của Đảng, Nhà nước, Mặt trận Tổ quốc, các đoàn thể nhân dân từ
trung ương đến cơ sở và từng đảng viên, trước hết là người đứng đầu phải gương mẫu thực hiện
và trực tiếp tham gia đấu tranh phòng, chống tham nhũng, lãng phí. Tiếp tục hoàn thiện thể chế

và đẩy mạnh cải cách hành chính phục vụ phòng, chống tham nhũng, lãng phí, tập trung vào
các lĩnh vực dễ xảy ra tham nhũng, lãng phí. Nghiên cứu phân cấp, quy định rõ chức năng cho
các ngành, các cấp trong phòng, chống tham nhũng. Chú trọng các biện pháp phòng ngừa tham
nhũng, lãng phí. Thực hiện chế độ công khai, minh bạch về kinh tế, tài chính trong các cơ quan
hành chính, đơn vị cung ứng dịch vụ công, doanh nghiệp nhà nước. Công khai, minh bạch về
cơ chế, chính sách, các dự án đầu tư, xây dựng cơ bản, mua sắm từ ngân sách nhà nước, huy
động đóng góp của nhân dân, quản lý và sử dụng đất đai, tài sản công, công tác tiếp nhận, bổ
nhiệm cán bộ. Thực hiện có hiệu quả việc kê khai và công khai tài sản, thu nhập của cán bộ,
công chức theo quy định. Cải cách chính sách tiền lương, thu nhập, chính sách nhà ở bảo đảm
cuộc sống cho cán bộ, công chức để góp phần phòng, chống tham nhũng. Hoàn thiện các quy
định trách nhiệm của người đứng đầu khi để cơ quan, tổ chức, đơn vị xảy ra tham nhũng, lãng
phí. Xử lý đúng pháp luật, kịp thời, công khai cán bộ tham nhũng; tịch thu, sung công tài sản
tham nhũng, tài sản có nguồn gốc từ tham nhũng. Xây dựng chế tài xử lý những tổ chức, cá
nhân gây thất thoát, lãng phí lớn tài sản của Nhà nước và nhân dân. Tăng cường công tác kiểm
toán, thanh tra, kiểm tra, giám sát của các cơ quan chức năng. Có cơ chế khuyến khích và bảo
vệ những người đấu tranh chống tham nhũng, lãng phí, tiêu cực; đồng thời kỷ luật nghiêm
những người bao che, cố tình ngăn cản việc chống tham nhũng, lãng phí hoặc lợi dụng việc tố
cáo tham nhũng để vu khống, làm hại người khác, gây mất đoàn kết nội bộ.Tôn vinh những tấm
gương liêm chính. Tổng kết, đánh giá cơ chế và mô hình tổ chức cơ quan phòng, chống tham
nhũng để có chủ trương, giải pháp phù hợp. Coi trọng và nâng cao vai trò của các cơ quan dân
cử, của Mặt trận Tổ quốc, các đoàn thể nhân dân, các phương tiện thông tin đại chúng và của
nhân dân trong việc giám sát cán bộ, công chức, phát hiện, đấu tranh chống tham nhũng, lãng
phí; cổ vũ, động viên phong trào tiết kiệm trong sản xuất và tiêu dùng.
Câu 2. Các nhân tố bảo đảm cho việc giành, giữ và thực thi quyền lực chính trị. Quyền lực chính
trị của Đảng Cộng sản Việt Nam đối với xã hội hiện nay – Những vấn đề đặt ra và giải pháp.
Đấu tranh cho quyền chính trị, giành, giữ và thực thi quyền lực chính trị là vấn đề trung tâm
của đời sống chính trị, là hoạt động cơ bản của chủ thể quyền lực, tạo lập các nhân tố cơ bản
đảm bảo cho việc giành, giữ và thực thi quyền lực chính trị là vấn đề quan trọng nhất của các
giai cấp, các chinh Đảng trong xã hội đương đại. Đó cũng là vấn đề hệ trọng trong sự nghiệp
xây dựng Tổ quốc Việt Nam XHCN hiện nay, khi toàn bộ quyền lực đã thuộc về nhân dân lao

động dưới sự lãnh đạo của Đảng.
Có nhìều quan điểm khác nhau về quyền lực, nhà xã hội học người Anh B.Rulxen cho rằng:
“quyền lực là khả năng tạo ra những sản phẩm một cách có chủ ý”. Các nhà chính trị học và xã
hội học Mỹ cho rằng : “ Quyền lực là cái mà nhờ đó người khác phải phục tùng”( RĐan). “
Quyền lực là khả năng đạt tới kết quả nhờ một hành động phối hợp” (LXlipxơn); “Quyền lực là
cái buộc người khác phải hành động heo ý của ta” (A.Tốp phơ lê). Bách khoa triết học Liên Xô


cũ định nghĩa : “Quyền lực là khả năng thực hịen ý chí ” ( của chủ thể) tác động đếnhành vi và
phẩm hạnh của chủ thể (đối tượng) nhờ vào một phương tiện nào đó như uy tín, sức
mạnh..Trong xã hội được tổ chức thành Nhà nước, quyền lực bao gồm ba loại quyền lực công,
quyền lực chính trị, quyền lực Nhà nước.
Quyền lực công ( hay còn gọi là quyền lực xã hội ) là loại quyền lực này sinh từ một nhu cầu
chung nào đó của cộng đồng, nhờ vậy mà cộng đồng có được tổ chức, trật tự. Quyền lực công
cơ bản không mang tính giai cấp. Nếu có thì tính dân tộc nổi trội hơn tính giai cấp. Mặc dù nội
dung của quyền lực công không mang tính giai cấp, xong người thực hiện nó lại chi phối bởi
giai cấp. Ăngghen chỉ rõ : “ Khi nào giai cấp chính trị không thi hành tốt quyền lực xã hội,
quyền lực công thì chính nó không còn là giai cấp thống trị”.
Từ khái niệm quyền lực các nhà lý luận Matxit đã đi đến định nghĩa quyền lực chính trị : “
quyền lực chính trị là quyền lực của một giai cấp hoặc liên minh giai cấp, liên minh đảng phái,
nó nói lên khả năng thực tế của giai cấp, của Đảng phái đó trong việc thực hiện ý chí của mình
trong chính trị và các chuẩn mực pháp quyền . Nhờ đó mà lợi ích của giai cấp, của liên minh
giai cấp, liên minh đảng phái đó được hiện thực hoá”.
Quyền lực chính trị biểu hiện ở nhiều hình thức khác nhau ( quyền lực giai cấp, quyền lực
liên minh giai cấp, quyền lực liên minh đảng phái). Quyền lực chính trị thể hiện y chí của giai
cấp và bảo vệ lợi ích giai cấp thông qua cương lĩnh, đường lối, điều lệ của Đảng phái của tính
giai cấp. Nó là cái thống nhất biểu hiện ra bên ngoài, nhưng trong quan hệ nội tại có thể chứa
đựng sự khác biệt mâu thuẫn. Quyền lực chính trị thường biểu hiện ra bằng sức mạnh của các tổ
chức mang tính giai cấp, mang tính đảng phái.
Quyền lực Nhà nước là một bộ phận của quyền lực chính trị, đó là quyền lực chính trị của

giai cấp cầm quyền. Quyền lực Nhà nước có mọi đặc trưng của quyền lực Nhà nước là nó có
thể thực hiện một loạt những biện pháp mang tính cưỡng chế trên quy mô toàn xã hội vì nó
nhân danh lợi ích chung, lợi ích xã hội
a) Các nhân tố bảo đảm cho việc giành, giữ và thực thi QLCT: Một giai cấp để giành, giữ
và thực thi QLCT cần có các nhân tố: Phải có chính sách đúng: Xác định rõ mục tiêu, cách
thức đạt mục tiêu, lực lượng thực hiện, những giải pháp cơ bản. Chính sách phải phù hợp với xã
hội, truyền thống và sự phát triển của dân tộc..Phải có hệ thống tổ chức (HTCT): Phải xây dựng
được một đảng chính trị vững mạnh => giành chính quyền => xây dựng bộ máy nhà nước đủ
năng lực thực hiện các mục tiêu phát triển.. Phải tuyển lựa được những con người chính trị cho
giai cấp mình: Lựa chọn được những người tài, tinh hoa thực sự, cơ chế tuyển lựa dân chủ,
khoa học; đào tạo, bồi dưỡng…Có phương thức và nghệ thuật hoạt động chính trị. Tuyên
truyền, nâng cao nhận thức, phát huy tính tích cực chính trị . Huy động xã hội: dân chủ tham
gia, tạo sự đồng thuận
b) Quyền lực chính trị của Đảng Cộng sản Việt Nam đối với xã hội hiện nay. Ở Việt Nam
hiện nay, quyền lực chính trị thuộc về nhân dân lao động mà nòng cốt là khôi liên minh công
nhân- nông dân và tầng lớp tri thức dưới sự lãnh đạo của Đảng cộgn sản Việt Nam . Quỳen lực
thuộc về nhân dân lao động nói lên nội dung thực chất của quan hệ quyền lực chính trị trong xã
hội XHCN dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản, vừa là điều kiện cầnt thíet để thực hiện quyền
lực thuộc về nhân dân lao động . Tuy nhiên, đó mới chỉ là khả năng, để khả năng này trở thành
hiện thực tức là đưa nó vào cuộc sống thì nó phải được thông qua những nội dung, quy chế,
những nguyên tắc … Nó còn thông qua những tổ chức bộ máy để hành sự, những nội quy, quy
chế, quy tắc đó . Tổng hợp các yếu tố đo lại,, ta gọi đó là cơ chế thực thi quyền lực chính trị .
Trong xã hội tồn tại nhìeu lực lượng chính trị khác nhau. Vì vậy cũng tồn tại nhiều loại hình
thực thi quyền lực chính trị khác nhau. Ở đây chúng ta chỉ đề cập đén cơ chế thực thi quyền lực
chính trị của giai cấp cầm quyền. Nghiên cứu lý luận về cơ chế hực thi quyền lực chính trị của
giai cấp cầm quyền ta thấy : Từ khái niệm cơ ché được coi như là cách thức đó là một quá trình


nào đó được diễn ra và được thực hiện ( quan niệm dưới góc độ khoa học tư nhiên.) Khái niệm
cơ chế xâm nhập vào khoa học kỹ thuật được diễn ra và đuợc hiện thực hoá. Quá trình chính trị

ở đây là quá trình hiện thực hoá các ý chí, quyền lực của một lực lượng chính trị nhất định, đó
chính là giai cấp cầm quyền. Các nhà lý luận chính trị Mát xít đề cập đến hai phương diện hợp
thành của cơ chế thưc thi quyền lực chính trị của giai cấp cầm quyền đó là cơ chế nội dug và cơ
chế thực thể .Quyền lực chính trị của giai cấp cầm quyền xét về phưong diện nội dung được tạo
thành bởi bốn nhân tố và được sắp xếp theo một trật tự thống nhất bao gồm :
Thứ nhất, mục tiêu chính trị của giai cấp cầm quyền được thể hiện trong đường lối, cương
lĩnh , chiến lược của Đảng chính trị cầm quyền.
Thứ hai, hệ thống hiến pháp, pháp luật với tư cách là cụ thể hoá mục tiêu chính trị thành
những văn bản pháp quy biến cái rốn trở thành cái mang hình thức phổ biến.
Thứ ba, quá trình tổ chức thực hiện hiến pháp, pháp luật, nghị định, thực chất cải biến xã hội,
cải biến hiện thực theo mô hình, mục tiêu đã lựa chọn.
Thứ tư, quá trình kiểm tra và xử lý việc tổ chức thực hiện hiến pháp, pháp luật, nghị định.
Quyền lực chính trị của giai cấp cầm quyền xét về phương diện thực thể, trước hết được tạo
bởi bốn tổ chức bộ máy, đảm nhận các chức năng tương ứng trong cơ chế nội dung bao gồm:
Đảng cầm quyền ( co thể là đảng tư sản hay vô sản); Quốc hội hay hội nghị ( cơ quan lập pháp),
chính phủ ( cơ quan hành pháp); các cơ quan tư pháp ( toà án, Viện kiểm soat, các cơ quan điều
tra).
Ngoài ra, trong thể chế chính trị dân chủ, các tổ chức chính trị xã hội cũng trở thành một
nhân tố tham gia vào cơ chế thực thể. Vào hệ thống chính trị ở đây được hiểu là sự cấu thành từ
Nhà nước như các tổ chức Quôc hội, Chính phủ , tư pháp tồn tại nư nhân tố thứ nhất vì các tổ
chức chính trị- xã hội là nhân tố thứ hai.
Giới nghiên cứu lý luận chính trị Mát xít quan tâm đến tính hiệu quả và phương pháp đánh
giá hiệu quả của cơ chế thực thi quyền lực chính trị của giai cấp cầm quỳen bàn về hệ tieu chí
xem xét và đánh giá hiệu quả của cơ chế này, các nhà nghiên cứu đã nêu rõ các tiêu chí cơ bản
gồm:
Một là, cơ chế đó phải góp phầNhà nước duy trì, bảo đảm quyền lãnh đạo hay kiểm soát xã
hội của Đảng cầm quyền, giai cấp cầm quyền.
Hai là góp phần giữ vững ổn định chính trị- xã hội. thực chất cơ chế đó góp phần đảm bảo an
ninh quốc gia và trật tự an toàn xã hội .
Ba là, cơ chế đó phải góp phần hoàn thành các nhiệm vụ, các chỉ tiêu phát triển, kinh tế, văn

hoá, xã hội trong từng thòi kỳ để đạt tới mục tiêu cuối cùng.
Để xem xét đánh giá chất lượng, hiêu quả hoàn thiện cơ chế thực thi khi quyền lực chính trị
của giai cấp cầm quyền có thể áp dụng phương pháp phân tích hệ thống (hay còn gọi là phương
pháp hệ thống cấu trúc). Phương pháp này được đúc kết trên cơ sở lý thuyết điều khiển học.
Nội dung của phương pháp này là xem xét mọi sự vật, hiện tượng đang tồn tại hiện hữu, tồn tại
với tư cách là một hệ thống. Hẹ thống này bao giờ cũng có cấu trúc và đảm đương những chức
năng nhất định.
Chất lượng và hiệu quả của cơ chế nội dung phụ thuộc vào tính đúng đắn và tính khả thi của
mục tiêu chính trị, tức là năng lực hoạch định chính sách của Đảng cầm quyền, phụ thuộc vào
tính đầy đủ, đồng bộ, khoa học và ổn định tương đối của hệ thống híen pháp, pháp luật, nghị
định (thể hiện trình độ, năng lực của các cơ quan thuộc Chính phủ . (Bộ máy hành pháp từ
Trung ương đến cơ sở), phụ thuộc vào tính kịp thời, chính xác trong việc phát hiện vấn đề với
tính nghiêm minh trong việc xử lý.
Chất lượng và hiệu quả của cơ chế thực thể phụ thuộc vào sự phân định chức năng thẩm quyền
của các nhân tố cấu thành cơ che: đảng , Nhà nước các tổ chức chính trị- xã hội. Sự phân định
này phải đảm bảotính đối lập tương đối của các tổ chức với chức năng thẩm quyền giữa các


nhân tố. Đối với Đảng thì phân định chức năng thẩm quyền của Bộ chính trị, ban chấp hành
Trung ương, Uỷ ban kỉem tra. Đối Nhà nước thì phân định chức năng thẩm quyền của các cơ
quan lập pháp, hành pháp và tư pháp. Đối với các tổ chức chính trị- xã hội thì phân định chức
năng thẩm quyền của người thủ lĩnh, người đại diện tổ chức.
Xã hội đương đại đang tồn tại hai hệ thống tổ chức quyền lực chính trị khác nhau tưong
ứng với hai chế độ xã hội khác nhau, đó là hệ thống tổ chức quyền lực chính trị trong xã hội tư
bản chủ nghĩa và hệ thống tổ chức quyền lực chính trị trong xã hội xã hội chủ nghĩa . Đặc trưng
hệ thống tổ chức quyền lực chính trị trong xã hội TBCN là quyền lực chính trị của giai cấp cầm
quyền là giai cấp tư sản. Thiết ché duy trì quyền lực chính trị là các tổ chức xã hội với tư cách
giai cấp tư sản, Nhà nước của giai cấp tư sản cầm quyền….. Ngoài ra còn có các lực lượng
chính trị đối lập ( các đảng đối lập và các tổ chức chính trị đối trọng của quyền lực giai cấp tư
sản). Xét về bản chất, hệ thống tổ chức quyền lực chính trị của các nước XHCN phản ánh các

thể chế nhất nguyên chính trị. về mặt kết cấu hệ thống tổ chức quyền lực chính trị ở các nước
XHCN bao gồm : Đảng cộng sản cầm quyền, Nhà nước của giai cấp công nhân và nhân dân lao
động, các tổ chức chính trị- xã hội vừa là tổ chức đại diện cho cá nhân, lợi ích đồng thời cũng là
công cụ, thông qua đó quyền lực chính trị của Đảng cầm quyền được nối dài.
Ở nước ta hiện nay, quyền làm chủ của nhân dân cũng được thực hiện thông qua một hệ
thống tổ chức quyền lực chính trị bao gồm: Đảng cộng sản Việt Nam, Nhà nước Cộng hoà
XHCN Việt Nam, MTTQ và các đoànt hể nhân dân ( các tổ chức chính trị - xã hội ). Tổng thể
các tổ chức trong hệ thống đó được gọi là hệ thống chính trị. Hệ thống chính trị của chúng ta
hiện nay hoạt động theo cơ chế Đảng lãnh đạo, Nhà nước quản lý, nhân dân làm chủ.
Đảng cộng sản Việt Nam là đội tiên phong của giai cấp công nhân và nhân dân lao động
Việt Nam, đại biểu trung thành của giai cấp công nhân, nhân dân lao động và của cả dân tộc
theo chủ nghĩa Mác- Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, là lực lượng lãnh đạo Nhà nước và xã hội .
mục tiêu của Đảng và cách mạng là giải phonp con người, mang lại hạnh phúc thực sự cho
nhân dân và ngoài lợi ích của nhân dân, của dân tộc, Đảng không còn lợi ích nào khác. Mọi chủ
trương đường lối của đảng đều là kết quả phản ánh khát quát nhu cầu lợi ích chính đáng của
nhân dân .
Nhà nước là công cụ để thể chế hoá và thực hiện quyền lực chính trị của nhân dân lao
động , đồng thời thông qua Nhà nước và nhân dân lao động được tổ chưc lại để có sức mạnh
nhằm thực hiện vai trò là chủ thể đích thực của xã hội. Đối tượng mà quyền lực chính trị hướng
tới trong Nhà nước ta là sự áp đặt ý chí của nhân dân vì mục tiêu độc lập dân tộc và CNXH, cơ
chế chính trị xã hội mà đó “ dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh ”. Nước
ta là một nước dân chủ, bao nhiêu lợi ích đèu vì dân, bao nhiêu quyền lực đều là của dân, chính
quyền từ xã đến chính phủ, trung ương đều do dân cử ra, là tư tưởng được Hồ Chí Minh đè cập
khi nói đén vai trò chủ thể của nhân dân đối với quyền lực Nhà nước . Các cơ quan Nhà nước
và các cá nhân tự nó không có quyền mà chỉ được uỷ quyền từ dân. Là một Nhà nước của dân,
nhân dân là người có quyền tối cao trong việc tham gia vào công việc quản lý của Nhà nước, cò
quyền giám sát , phê phán, bãi miễn cán bộ Nhà nước phải có trách nhiệm phục vụ nhân dân,
đem lại quyền lọi cho nhân dân, khơi dậy động lực sáng tạo cho mọi quyết định quan trọng đều
phải có phán quyết của dân và ý nguyện đó phải được thể chế hoá bằng một cơ chế hoàn thiện ,
những biện pháp có tính khả thi.

Các đoàn thể chính trị- xã hội của nhân dân là cầu nối giữa Đảng, Nhà nước và Nhà nước,
là nơi đại diện cho ý chí đoàn kết và nguyện vọng chân chính cua nhân dân, là tổ chức có vai
trò quan trọng trong việc phối hợp với chinh quyền chăm lo bảo vệ các lọi ích, các nguyện vọng
chính đáng của các tầng lớp nhân dân. Nó có vị trí to lớn trong việc nâng cao quyền lực của
nhân dân và củng cố cơ sở chính trị- xã hội của Đảng ta, nó góp phần vào việc tham gia quản lý


Nhà nước và xã hội, tham gia kiểm tra, giám sát ho¹t ®éng của các cơ quan Nhà nước, tuyên
truyền nhân dân tham gia xây dựng và bảo vệ Tổ quốc.
Hiệu quả của việc thực thi quyền lực chính trị của nhân dân lao động phụ thuộc vào sự
hoàn thiện của cac nhân tố trong cấu trúc nêu trên và phụ thuộc vào tính đồng bộ trong mối
quan hệ qua lại của các nhân tốc đó trong khi vận hành. Do đó, thực chất của việc đổi mới và
phát triển hệ thống chính trị, thực hiện đúng cơ chế Đảng lãnh đạo, Nhà nước quản lý, nhân dân
lao động làm chủ dựa trên cơ sở khối liên minh công – nông- trí thức là nhằm thực hiện dân chủ
XHCN.
Đổi mới hệ thống chính trị ở nước ta là một yêu cầu khách quan, nhưng đổi mới hệ thống
chính trị ở nước ta không phải là thay đổi chế độ chính trị, là phủ nhận những nguyên lý Mát xít
về hệ thống chính trị hay chạy theo cơ chế chính trị tư sản. Đổi mới hệ thống chính trị phải đảm
bảo thận trọng từng bước vững chắc , không gây rối loạn và tổn hại đến ché độ XHCN, phải ổn
định chính trị, phải nâng cao năng lực và sức chíen đấu của Đảng, tăng cường hiệu lực quản lý
và điều hành của Nhà nước, đồng thời phát huy tính tích cực của các đoàn thể nhân dân. Nhận
thức được vấn đề này, đảng ta đã có những biện pháp đổi mới rất đáng kể đối với hệ thống
chính trị. Đảng đã được củng cố cả về chính trị, tư tưởng và tổ chức. vai trò lãnh đạo của Đảng
trong xã hội ngày càng tăng. Nhà nước tiếp tục được xây dựng theo hướng nhà nước pháp
quyền, của dân, do dân, vì dân. Mặt trận tỏ quốc, các đoàn thể chính trị- xã hội từng bước đổi
mới nội dung, phưong thức hoạt động đem lại hiệu quả thiết thực. Quyền làm chủ của nhân dân
trên các lĩnh vực kinh tế, xã hội , văn hoá ngày càng được phát huy.
Tuy vậy, hệ thống chính trị của nước ta còn bộc lộ nhiều hạn chế . năng lưc lãnh đạo của
Đảng , hiệu lực quản lý điều hành của Nhà nước, hoạt động của các đoàn thể chính trị- xã hội
chưa nâng lên kịp thời với đòi hỏi của tình hình mới. Bộ máy tổ chức của tất cả các nhân tố cấu

thành hệ thống quyền lực của nhân dân còn cồng kềnh, chưa tinh giảm, gọn nhẹ, nhiều đầu mối,
khâu vào trọng yếu chưa phân định rõ ràng nhiệm vụ, chức năng giữa Đảng và Nhà nước, chất
lượng và hiệu quả hoạt động thấp, nạn quan liêu cửa quyền “ hành dân là chính” vẫn còn trong
các cơ quan Nhà nước. Quyền dân chủ của nhân dân chưa được phát huy, đôi lúc đôi chỗ còn bị
vi phạm … năng lực và phẩm chất của đội ngũ chưa tương xứng với yêu cầu của nhiệm vụ.
Không ít đảng viên phai nhạt lý tưởng cách mạng, tha hoá về phẩm chất đạo đức, làm mất lòng
tự trọng một bộ phận quần chung nhân dân , làm giảm sức chiến đấu của Đảng. Thực trạng này
do nhiều nguyên nhân, song nguyên nhân chủ yếu là chưa quán triệt sâu sắc quan điểm của
Đảng. Thực trạng này do nhiều nguyên nhân , song nguyên nhân chủ yếu là chưa quán triệt sâu
sắc quan điểm của Đảng về hệ thống chính trị trong điều kiện một đảng cầm quyền, chậm tổng
kết thực tiễn và nghiên cứu khoa học về tổ chức . Việc tổ chức chỉ đạo thực hiện các Nghị
quyết về tổ chức bộ máy không nhất quán, thiếu kiên quyết để. Để khắc phục nguyên nhân của
thực trạng trên, nhịệm vụ quan trọng và cấp bách đặt ra cho đất nước ta hiện nay là phải đổi
mới hệ thống chính trị và thực hiện dân chủ dưới đời sống xã hội. Muốn vậy, chúng ta cần phải
thực hiện các giải pháp cơ bản sau :
Thứ nhất : Tổ chức sự thống nhất trong Đảng về nhận thức , ý chí, hành động, kiên trì đấu
tranh hòng đẩy lùi bốn nguy cơ đảng viên phải nói và làm theo nghị quyết, thực hiện đúng
cương lĩnh, điều lệ Đảng, pháp luật Nhà nước ; Đảy mạnh công tác tổng kết thực tiễn và nghiên
cứu lý luận, tiếp tục làm rõ hơn những vấn đè bức xúc do thực tiễn đặt ra, làm rõ hơn mô hình
và con đường đi lên CNXH ở nước ta. Đổi mới công tác giáo dục trong Đảng, pháp luật của
Nhà nước, tăng cường giáo dục , rèn luyện phẩm chất đạo đức, lối sống của cán bộ , đảng viên .
Tập trung chỉ đạo cuộc đấu tranh chống tham nhũng, lãnh phí, quan liêu có hiệu quả. Thực hiện
đúng nguyên tắc tập trung dân chủ, ché độ phê bình và tự phê bình trong Đảng,củng cố tổ chức,
tăng cường sức chíen đấu và năng lãnh đạo của các tổ chức cơ sở Đảng, sắp xếp tổ chức thực
hiện nghị quyết của Đảng.


Thứ hai : Tiếp tục xây dựng và hoàn thiện Nhà nước pháp quyền xã hội XHCN. Về quan
điểm chỉ đạo: làm cho Nhà nước luôn giữ bản chất cách mạng và khoa học thực sự là Nhà nước
cỷa dân, do dân, vì dân .Quyền lực Nhà nước là thống nhất đồng thời có sự phân công, phối

hợp giữa các cơ quan Nhà nước trong việc thực hiện các quyền lập pháp, hành pháp, tư pháp.
Thực hiện nguyên tắc tập trung dân chủ trong tổ chức, hoạt động của bộ máy Nhà nước. Từng
bước xây dựng và hoàn thiện dân chủ XHCN trên cơ sở ttăng cường pháp chế XHCN, giữ
nghiêm kỷ cương xã hội, chuyên chính với mọi hành động xúc phạm tới lợi ích của tổ quốc và
của nhân dân.
Về phương hướng và giải pháp:
Thứ nhất: Cần thực hiện dân chủ hoá tổ chức và hoạt động của Nhà nước, bảo đảm quyền
lực Nhà nước thuộc về nhân dân . Để phát huy dân chủ trong tổ chức hoạt động của Nhà nước
điều quan trọng hàng đầu là phải nâng cao chất lượng dân chủ đại diện, mở rộng và có cơ chế
thực hiện chế độ dân chủ trực tiếp một cách thiết thực , đúng hướng và hiệu quả . nhân dân thực
hiện quyền làm chủ của mình trước hết thông qua Quốc hội và Hội đồng nhân dân các cấp. Vì
vậy đòi hỏi phải đẩy mạnh việc cải thiện tổ chức hoạt động của Quốc hội và HĐND các cấp.
Bên cạnh đó cần xây dựng thiết kế cụ thể đó là bảo đảm cho nhân dân trực tiếp bày tỏ ý kiến và
nguyện vọng của mình trong việc đấu tranh bảo vệ các quyền và lợi ích hợp pháp của chính bản
thân họ trong việc tham gia xây dựng, quản lý Nhà nước và xã hội. Cần thực hiện tót quy ché
dân chủ , kịp thời giải quyết các khiếu kiện của dân.
Thứ hai, tiếp tục cải cách thể chế và phương thức hoạt động của Nhà nước. Tiếp tục đổi
mới tổ chức , hoạt động của Quốc hội, trọng tâm là tăng cường côgn tác lập pháp, xây dựng
chương trình dài hạn về công tác lập pháp, hoàn thịen hệ thống pháp luật, đổi mới quy trình ban
hành và hướng dẫnthi hành luật, tíếp tục hoàn thiện cơ ché bầu cử, kiện toàn các uỷ ban của
Quốc Hội, Đảng, đại biểu Quốc hội chuyên trách.
Tiếp tục cải cách nền hành chính Nhà nước, điều chỉnh chức năng và cải tiến phương thức
hoạt động của Chính phủ theo hướng phát triển thống nhất quản lý vĩ mô, thực hiện các
nhiệmvụ chính trị, kinh tế, văn hoá , xã hội quốc hội, an ninh và dối ngoại trong cả nước của
các Bộ, cơ quan ngang Bộ, giảm thiểu tối đa các cơ quan thuộc Chính phủ và Thủ tướng, thực
hiện tinh giảm bộ máy và đầu mối cải cách đồng bộ tren các mặt thẻ chế hành chính, tổ chức bộ
máy và đội ngũ cán bộ, công chức hành chính.
Tiếp tục cải cách tô chức nâng cao chất lượng và hoạt động của các cơ quan tư pháp. Nâng
cao tinh thần trách nhiệm của cơ quan và cán bộ tư pháp trong côngtác điều tra, bắt giam, giữ,
truy tố ,xét xử, thi hành án , không để xảy ra những trường hợp oan sai. Đối với Viên kiểm sát

nhân dân cần tập trung thực hiện tốt chức năng công tố và kiểm soát hoạt động tư pháp. Đối với
Toà án nhân dân cần sắp xếp lại, phân địnhhợp lý thẩm quyền của toà án các cấp. Đối với cơ
quan điều tra và cơ quan thi hành án cần được tổ chức lại theo hướng gọn đầu mối.
Thứ ba,, Đổi mới tổ chức và phương thức hoạt động của các tổ chức chính trị- xã hội ở
nước ta trong thời kỳ đổi mới : Đa dạng hoá các hình thức tập hợp quần chúng phù hợp với đìều
kiện , đặc điểm tâm lý, nhu cầu và lợi ích của các tầng lớp trong cơ cấu xã hội, dân cư, mở rộng
các tổ chức và hoạt động tự quản của nhân dân dưới nhiều hình thức phong phú; Đẩy mạnh việc
tuyên truyền các chủ trương chính sách của Đảng và Nhà nước đối với người dân; vận động
nhân dân thực hiện các nhiệm vụ kinh tế- xã hội, an ninh quốc phòng; thúc đẩy việc thực hiện
quy chế dân chủ ở cơ sở, phản ánh ý thức của nhân dân về xây dựng Đảng và chính quyền,
tham gia hoà giải các mâu thuẫn trong nội bộ nhân dân; đổi mới cơ chế đảm bảo kinh phí hoạt
động của các tổ chức chính trị- xã hội, đặc biệt là ở cấp cơ sở. Phát huy chủ động sáng tạo của
các tổ chức chính trị- xã hội trong việc tạo nguồn và sử dụng kinh phí; hoàn thiện các quy định
về hội phí, đoàn phí, phụ cấp, sự lãnh đạo của Đảng là nguyên tắc quan trọng đảm bảo cho việc
đổi mới tổ chức và phương thức hoạt động của các tổ chức chính trị- xã hội.


Quỏ trỡnh thc thi quyn lc chớnh tr ca ng ta hin nay thc cht l quỏ trỡnh thc hin
dõn ch XHCN. Quỏ trỡnh ny ó v ang tip tc c hon thin nguyờn tc quyn lc thuc
v tay nhõn dõn lao ng tr thnh hnh ng chung cho ton xó hi, tng bc c hin thc
hoỏ
Câu 3. V trớ, vai trũ chc nng ca cỏc b phn cu thnh h thng chớnh tr. i mi,
nõng cao hiu lc, hiu qu hot ng ca h thng chớnh tr nc ta hin nay Nhng
vn t ra v gii phỏp.
Hệ thống chính trị của mỗi quốc gia là một cấu trúc của xã hội bao gồm các tổ chức
chính trị đặc trng của xã hội (Nhà nớc, các đảng phái chính trị, các tổ chức chính trị xã
hội, các đoàn thể, phong trào chính trị) tồn tại và hoạt động trong khuôn khổ pháp luật
chính thức hiện hành, cùng với tổng thể các MQH ràng buộc gắn kết các tổ chức đó thành
một chỉnh thể, thông qua đó giai cấp cầm quyền thực hiện quyền lực chính trị của mình
trong xã hội

a) H thng chớnh tr l gỡ? Trong mi xó hi cú giai cp, quyn lc ca ch th cm
quyn c thc hin bng mt h thng thit ch v t chc chớnh tr nht nh. ú l h
thng chớnh tr. H thng chớnh tr l mt chnh th cỏc t chc chớnh tr trong xó hi bao gm
cỏc ng chớnh tr, Nh nc v cỏc t chc chớnh tr - xó hi hp phỏp c liờn kt vi nhau
trong mt h thng t chc nhm tỏc ng vo cỏc quỏ trỡnh ca i sng xó hi, cng c,
duy trỡ v phỏt trin ch ng thi phự hp vi li ớch ca ch th giai cp cm quyn. H
thng chớnh tr xut hin cựng vi s thng tr ca giai cp, Nh nc v thc hin ng li
chớnh tr ca giai cp cm quyn, do ú h thng chớnh tr mang bn cht giai cp ca giai cp
cm quyn.
Trong ch ngha xó hi, giai cp cụng nhõn v nhõn dõn lao ng l ch th thc s ca
quyn lc, t mỡnh t chc v qun lý xó hi, quyt nh ni dung hot ng ca h thng
chớnh tr xó hi ch ngha. nc ta, giai cp cụng nhõn v nhõn dõn lao ng l ch th chõn
chớnh ca quyn lc. Bi vy, h thng chớnh tr nc ta l c ch, l cụng c thc hin quyn
lm ch ca nhõn dõn lao ng di s lónh o ca ng. H thng chớnh tr nc ta hin
nay bao gm: ng Cng sn Vit Nam, Nh nc Cng ho xó hi ch ngha Vit Nam, Mt
trn T quc Vit Nam, on Thanh niờn Cng sn H Chớ Minh, Hi Liờn hip Ph n Vit
Nam, Tng Liờn on Lao ng Vit Nam, Hi Nụng dõn Vit Nam, Hi Cu chin binh Vit
Nam v cỏc t chc chớnh tr-xó hi hp phỏp khỏc ca nhõn dõn c thnh lp, hot ng trờn
c s liờn minh gia giai cp cụng nhõn vi giai cp nụng dõn v i ng trớ thc lm nn tng,
di s lónh o ca ng Cng sn Vit Nam, thc hin v m bo y quyn lm ch
ca nhõn dõn
b) V trớ, vai trũ:Trong hệ thống chính trị, các bộ phận cấu thành có vị trí vai trò
không ngang bằng nhau do chức năng khác nhau của nó quy định. Nhà nớc là trung tâm của
hệ thống chính trị có vị trí độc quyền kiểm soát lãnh thổ, thay mặt toàn xã hội thực hiện
chính sách đối nội và đối ngoại, làm luật và các hoạt động điều tiết xã hội. NN là trung
tâm của hệ thống chính trị, do đó mọi lợi ích của các giai cấp, các lực lợng xã hội muốn hiện
thực hoá đều phảI thông qua NN. NN đợc tổ chức thành 3 cơ quan quyền lực: lập pháp, hành
pháp và bt pháp và hệ thống chính quyền địa phơng. Co quan hành pháp có thể là các nghị
viện hoặc quốc hội tuỳ thuộc vào thể chế chính trị của mỗi nớc. Cơ quan hành pháp có chức
năng thực thi quyền hành pháp và thờng đợc gọi là chính phủ, tuỳ thuộc vào mô hình NN

cộng hoà tổng thống hay hay cộng hoà đại nghị mà đứng đầu cơ quan hành pháp là tổng
thống hay thủ tớng. Cơ quan t pháp có chức năng bảo vệ hiến pháp và pháp luật thông qua các
hoạt động xét xử mọi hành vi vi phạm hiến pháp và pháp luật; giảI thích hiến pháp và pháp
luậtNh vậy NN có chức năng tạo dựng khôn khổ pháp lý; đảm bảo sự ổn định của môI tr-


ờng xã hội; cung cấp các dịch vụ hàng hoá công; xoá đói giảm nghèo, bảo vệ các nhóm dễ bị
tổn thơng; bảo vệ môI trơng, bản sắc văn hoá dân tộc
nc ta hin nay, giai cp cụng nhõn v nhõn dõn lao ng ang l ch th chõn chớnh
ca quyn lc. Vỡ vy, h thng chớnh tr di s lónh o ca ng l cụng c thc hin quyn
lm ch ca nhõn dõn lao ng. H thng chớnh tr ca nc ta gm nhiu t chc, mi t chc
cú v trớ, vai trũ khỏc nhau do chc nng, nhim v ca tng t chc, nhng cựng tỏc ng vo
cỏc quỏ trỡnh phỏt trin kinh t - xó hi nhm m bo quyn lc ca nhõn dõn.
a. ng Cng sn Vit Nam: ng Cng sn Vit Nam - i tiờn phong ca giai cp
cụng nhõn, i biu trung thnh li ớch giai cp cụng nhõn, nhõn dõn lao ng v ca c dõn
tc. ng l mt b phn ca h thng chớnh tr nhng li l ht nhõn lónh o ca ton b h
thng chớnh tr. Vai trũ lónh o ca ng th hin trờn nhng ni dung ch yu sau:
ng ra Cng lnh chớnh tr, ng li, chin lc, nhng quan im, ch trng phỏt trin
kinh t-xó hi; ng thi ng l ngi lónh o v t chc thc hin Cng lnh, ng li ca
ng.
ng lónh o xó hi ch yu thụng qua Nh nc v cỏc on th qun chỳng. ng li, ch
trng, quan im ca ng c Nh nc tip nhn, th ch hoỏ c th bng phỏp lut v
nhng ch trng, chớnh sỏch, k hoch, chng trỡnh c th. Vỡ vy, ng luụn quan tõm n
vic xõy dng Nh nc v b mỏy ca Nh nc, ng thi kim tra vic Nh nc thc hin
cỏc Ngh quyt ca ng. ng lónh o xó hi thụng qua h thng t chc ng cỏc cp v
i ng cỏn b, ng viờn ca ng. ng lónh o cụng tỏc cỏn b bng vic xỏc nh ng
li, chớnh sỏch cỏn b, la chn, b trớ, gii thiu cỏn b cú tiờu chun vo cỏc c quan lónh
o ca Nh nc v cỏc on th qun chỳng v cỏc t chc chớnh tr - xó hi.
Ngoi ra, ng lónh o bng phng phỏp giỏo dc, thuyt phc v nờu gng, lm cụng tỏc
vn ng qun chỳng, lónh o thc hin tt quy ch dõn ch...

b. Nh nc:Nh nc l tr ct ca h thng chớnh tr nc ta, l cụng c t chc thc
hin ý chớ v quyn lc ca nhõn dõn, thay mt nhõn dõn, chu trỏch nhim trc nhõn dõn
qun lý ton b hot ng ca i sng xó hi. ú chớnh l Nh nc ca nhõn dõn, do nhõn
dõn v vỡ nhõn dõn. Mt khỏc, Nh nc chu s lónh o ca giai cp cụng nhõn, thc hin
ng li chớnh tr ca ng. ng lónh o Nh nc thc hin v m bo y quyn lm
ch ca nhõn dõn.
Nh vy, Nh nc xó hi ch ngha va l c quan quyn lc, va l b mỏy chớnh tr, hnh
chớnh, va l t chc qun lý kinh t, vn hoỏ, xó hi ca nhõn dõn. Quyn lc Nh nc l
thng nht, cú s phõn cụng v phi hp cht ch gia cỏc c quan trong vic thc hin cỏc
quyn lp phỏp, hnh phỏp v t phỏp.
c).Quc hi l c quan i din cao nht ca nhõn dõn, c quan quyn lc Nh nc cao nht
ca nc Cng ho xó hi ch ngha Vit Nam. Quc hi do nhõn dõn trc tip bu ra, Quc hi l c
quan duy nht cú quyn lp ra Hin phỏp v lut phỏp (lp hin v lp phỏp). Quc hi quyt nh
nhng chớnh sỏch c bn v i ni, i ngoi, nhim v phỏt trin kinh t-xó hi, nhng nguyờn tc
ch yu v t chc v hot ng ca b mỏy Nh nc, v quan h xó hi v hot ng ca cụng dõn.
Quc hi thc hin quyn giỏm sỏt ti cao vi ton b hot ng ca Nh nc.Vi ý ngha ú,
Quc hi c gi l c quan lp phỏp. Chớnh ph l c quan chp hnh ca Quc hi, c quan
hnh chớnh cao nht ca nc Cng ho xó hi ch ngha Vit Nam. Chớnh ph thng nht
qun lý vic thc hin cỏc nhim v chớnh tr, kinh t, vn hoỏ, xó hi, an ninh, quc phũng v
i ngoi ca Nh nc. Chớnh ph l c quan chp hnh, chu trỏch nhim trc Quc hi v
phi bỏo cỏo cụng tỏc vi Quc hi. Trờn ý ngha ú, Chớnh ph c gi l c quan hnh
phỏp.


Cơ quan tư pháp gồm: Toà án, Viện kiểm sát và các cơ quan điều tra. Đây là những cơ
quan được lập ra trong hệ thống tổ chức Nhà nước để xử lý những tổ chức và cá nhân vi phạm
pháp luật, đảm bảo việc thực thi pháp luật một cách nghiêm minh, chính xác.
Toà án các cấp là cơ quan nhân danh Nhà nước, thể hiện thái độ và ý chí của Nhà nước
trước các vụ án thông qua hoạt động độc lập và chỉ tuân theo pháp luật. Toà án là cơ quan duy
nhất có quyền áp dụng chế tài hình sự, không ai bị coi là có tội và phải chịu hình phạt khi chưa

có bản án kết tội của toà án đã có hiệu lực pháp luật.
Để đảm bảo pháp luật được chấp hành nghiêm chỉnh, đảm bảo việc xét xử đúng người đúng tội,
Viện kiểm sát nhân dân được tổ chức thành hệ thống, tập trung thống nhất và độc lập thực hiện thẩm
quyền của mình đối với các cơ quan khác của Nhà nước. Thực hiện các quyền khởi tố, kiểm sát các
hoạt động điều tra, truy tố...Với ý nghĩa đó, các tổ chức Toà án, Viện kiểm sát được gọi là cơ quan tư
pháp.Nhà nước thực hiện quản lý xã hội bằng pháp luật, đồng thời coi trọng giáo dục nâng cao ý thức
chấp hành pháp luật của nhân dân. Vì vậy, cần tăng cường pháp chế xã hội chủ nghĩa.
c. Mặt trận Tổ quốc và các tổ chức chính trị-xã hội...
Đây là những tổ chức chính trị-xã hội hợp pháp được tổ chức để tập hợp rộng rãi các tầng lớp
nhân dân theo nguyên tắc tự nguyện, tự quản đại diện cho lợi ích của nhân dân, tham gia vào hệ thống
chính trị, tuỳ theo tính chất, tôn chỉ, mục đích của mình nhằm bảo vệ quyền lợi dân chủ của nhân dân.
Mặt trận Tổ quốc Việt Nam, các đoàn thể nhân dân có vai trò rất quan trọng trong sự nghiệp đại
đoàn kết toàn dân tộc để xây dựng và bảo vệ đất nước; phát huy dân chủ, nâng cao trách nhiệm
công dân của các hội viên, đoàn viên, giữ gìn kỷ cương phép nước, thúc đẩy công cuộc đổi mới,
thắt chặt mối quan hệ giữa nhân dân với Đảng và Nhà nước
Mặt trận Tổ quốc Việt Nam, các đoàn thể nhân dân là cơ sở chính trị của chính quyền
nhân dân, nơi thể hiện ý chí và nguyện vọng; phát huy khả năng tham gia bầu cử Quốc hội và
Hội đồng Nhân dân; tuyên truyền vận động nhân dân thực hiện đường lối, chính sách của Đảng
và Nhà nước; thực hiện giám sát của nhân dân với cán bộ, công chức và giải quyết những mâu
thuẫn trong nội bộ nhân dân.
Các tổ chức chính trị - xã hội của nhân dân có nhiệm vụ giáo dục chính trị tư tưởng, động
viên và phát huy tính tích cực xã hội của các tầng lớp nhân dân, góp phần thực hiện nhiệm vụ
chính trị; chăm lo bảo vệ lợi ích chính đáng và hợp pháp của nhân dân; tham gia vào công việc
quản lý Nhà nước, quản lý xã hội, giữ vững và tăng cường mối liên hệ mật thiết giữa Đảng,
Nhà nước và nhân dân, góp phần thực hiện và thúc đẩy quá trình dân chủ hoá và đổi mới xã
hội, thực hiện cơ chế Đảng lãnh đạo, Nhà nước quản lý, nhân dân làm chủ.
Hệ thống chính trị ở nước ta được tổ chức theo một hệ thống từ Trung ương đến cơ sở. Cơ sở
phân cấp theo quản lý hành chính gồm có xã, phường, thị trấn. Hệ thống chính trị ở cơ sở bao gồm: Tổ
chức cơ sở Đảng, Hội đồng Nhân dân xã, phường; Uỷ ban Nhân dân xã, phường; Mặt trận Tổ quốc xã,
phường và các tổ chức chính trị-xã hội khác như: Đoàn Thanh niên Cộng sản Hồ Chí Minh, Hội Phụ

nữ, Hội Nông dân, Hội Cựu chiến binh xã, phường, thị trấn… Tất cả các tổ chức trên đều có vị trí, vai
trò và nhiệm vụ được quy định trong Luật Tổ chức của hệ thống chính trị ở nước ta.
Hệ thống chính trị ở cơ sở có vai trò rất quan trọng trong việc tổ chức và vận động nhân dân
thực hiện đường lối, chính sách của Đảng, pháp luật của Nhà nước, tăng cường đại đoàn kết
toàn dân tộc, phát huy quyền làm chủ của nhân dân, huy động mọi khả năng phát triển kinh tếxã hội, tổ chức cuộc sống của cộng đồng dân cư.
c) Chức năng của hệ thống chính trị: Xác định mục tiêu chung của hệ thống. Xác định
cách thức đạt mục tiêu. Lựa chọn người lãnh đạo cho hệ thống. Bảo vệ sự tồn tại, kỷ luật, kỷ
cương của hệ thống. Phản hồi, điều chỉnh, thích nghi và phát triển của hệ thống . Chức năng của
nhà nước + Tạo dựng khuôn khổ pháp lý + Đảm bảo sự ổn định của môi trường + Cung cấp
dịch vụ hàng hóa công + Xóa đói, giảm nghèo, bảo vệ nhóm dễ bị tổn thương+ Bảo vệ môi
trường, văn hóa, bản sắc dân tộc


d) Bản chất và đặc điểm của hệ thống chính trị ở nước ta là gì?
- Bản chất: Dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam, đội tiên phong của giai cấp
công nhân Việt Nam, nhân dân ta đã đứng lên làm cách mạng, giành lấy quyền lực và tổ chức
ra hệ thống chính trị của mình. Vì vậy, hệ thống chính trị ở nước ta có những bản chất sau:
Một là,hệ thống chính trị ở nước ta mang bản chất của giai cấp công nhân, nghĩa là các tổ
chức trong hệ thống chính trị đều đứng vững trên lập trường quan điểm của giai cấp công nhân.
Từ đó đã quy định chức năng, nhiệm vụ, phương hướng hoạt động của toàn bộ hệ thống chính
trị, đảm bảo quyền làm chủ của giai cấp công nhân và nhân dân lao động.
Hai là, bản chất dân chủ của hệ thống chính trị ở nước ta thể hiện trước hết ở chỗ: Quyền
lực thuộc về nhân dân với việc Nhà nước của nhân dân, do nhân dân và vì nhân dân, dưới sự
lãnh đạo của Đảng - đội tiên phong của giai cấp công nhân, đại biểu trung thành lợi ích của giai
cấp công nhân, nhân dân lao động và của cả dân tộc, thiết lập sự thống trị của đa số nhân dân
với thiểu số bóc lột.
Ba là bản chất thống nhất không đối kháng của hệ thống chính trị ở nước ta. Bản chất đó
dựa trên cơ sở chế độ công hữu về tư liệu sản xuất chủ yếu, về sự thống nhất giữa những lợi ích
căn bản của giai cấp công nhân, nhân dân lao động và toàn thể dân tộc.
- Đặc điểm của hệ thống chính trị ở nước ta hiện nay:: Một là,các tổ chức trong hệ thống

chính trị ở nước ta đều lấy chủ nghĩa Mác-Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh làm nền tảng tư tưởng
và kim chỉ nam cho hành động. Các quan điểm và nguyên tắc của chủ nghĩa Mác-Lênin, tư
tưởng Hồ Chí Minh đều được tổ chức trong hệ thống chính trị ở nước ta vận dụng, ghi rõ trong
hoạt động của từng tổ chức.
Hai là,hệ thống chính trị ở nước ta đặt dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam.
Đảng là một tổ chức trong hệ thống chính trị nhưng có vai trò lãnh đạo các tổ chức trong hệ
thống chính trị. Trong điều kiện cụ thể ở nước ta, do những phẩm chất của mình - Đảng là đại
biểu cho ý chí và lợi ích thống nhất của các dân tộc; do truyền thống lịch sử mang lại và do
những thành tựu rất to lớn đạt được trong hoạt động thực tiễn cách mạng Việt Nam dưới sự
lãnh đạo của Đảng... làm cho Đảng ta trở thành Đảng chính trị duy nhất có khả năng tập hợp
quần chúng lao động đông đảo để thực hiện lý tưởng của Đảng, nhân dân tự nguyện đi theo
Đảng, thừa nhận vai trò lãnh đạo của Đảng trong thực tế. Đây là đặc trưng cơ bản của hệ thống
chính trị ở nước ta.
Ba là,hệ thống chính trị ở nước ta được tổ chức và hoạt động theo nguyên tắc tập trung
dân chủ. Nguyên tắc này được tất cả các tổ chức trong hệ thống chính trị ở nước ta thực hiện.
Việc quán triệt và thực hiện nguyên tắc tập trung dân chủ là nhân tố cơ bản đảm bảo cho hệ
thống chính trị có được sự thống nhất về tổ chức và hành động nhằm phát huy sức mạnh đồng
bộ của toàn hệ thống cũng như của mỗi tổ chức trong hệ thống chính trị.
Bốn là,hệ thống chính trị bảo đảm sự thống nhất giữa bản chất giai cấp công nhân và tính
nhân dân, tính dân tộc rộng rãi.
Đây là đặc điểm khác biệt căn bản của hệ thống chính trị ở nước ta với hệ thống chính trị
của các nước tư bản chủ nghĩa, thể hiện tính ưu việt của chế độ xã hội chủ nghĩa, sự thống nhất
lợi ích giữa giai cấp công nhân, nhân dân lao động cũng như cả dân tộc, vì mục tiêu dân giàu,
nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh.
d) Vị trí, vai trò, nhiệm vụ của các tổ chức chính trị trong hệ thống chính trị ở nước ta.
Ở nước ta hiện nay, giai cấp công nhân và nhân dân lao động đang là chủ thể chân chính
của quyền lực. Vì vậy, hệ thống chính trị dưới sự lãnh đạo của Đảng là công cụ thực hiện quyền
làm chủ của nhân dân lao động. Hệ thống chính trị của nước ta gồm nhiều tổ chức, mỗi tổ chức
có vị trí, vai trò khác nhau do chức năng, nhiệm vụ của từng tổ chức, nhưng cùng tác động vào
các quá trình phát triển kinh tế - xã hội nhằm đảm bảo quyền lực của nhân dân.



- Đảng Cộng sản Việt Nam: Đảng Cộng sản Việt Nam - đội tiên phong của giai cấp công
nhân, đại biểu trung thành lợi ích giai cấp công nhân, nhân dân lao động và của cả dân tộc.
Đảng là một bộ phận của hệ thống chính trị nhưng lại là hạt nhân lãnh đạo của toàn bộ hệ thống
chính trị. Vai trò lãnh đạo của Đảng thể hiện trên những nội dung chủ yếu sau:
Đảng đề ra Cương lĩnh chính trị, đường lối, chiến lược, những quan điểm, chủ trương
phát triển kinh tế-xã hội; đồng thời Đảng là người lãnh đạo và tổ chức thực hiện Cương lĩnh,
đường lối của Đảng.Đảng lãnh đạo xã hội chủ yếu thông qua Nhà nước và các đoàn thể quần
chúng. Đường lối, chủ trương, quan điểm của Đảng được Nhà nước tiếp nhận, thể chế hoá cụ
thể bằng pháp luật và những chủ trương, chính sách, kế hoạch, chương trình cụ thể. Vì vậy,
Đảng luôn quan tâm đến việc xây dựng Nhà nước và bộ máy của Nhà nước, đồng thời kiểm tra
việc Nhà nước thực hiện các Nghị quyết của Đảng.Đảng lãnh đạo xã hội thông qua hệ thống tổ
chức Đảng các cấp và đội ngũ cán bộ, đảng viên của Đảng. Đảng lãnh đạo công tác cán bộ bằng
việc xác định đường lối, chính sách cán bộ, lựa chọn, bố trí, giới thiệu cán bộ có đủ tiêu chuẩn
vào các cơ quan lãnh đạo của Nhà nước và các đoàn thể quần chúng và các tổ chức chính trị xã hội.Ngoài ra, Đảng lãnh đạo bằng phương pháp giáo dục, thuyết phục và nêu gương, làm
công tác vận động quần chúng, lãnh đạo thực hiện tốt quy chế dân chủ...
- Nhà nước:Nhà nước là trụ cột của hệ thống chính trị ở nước ta, là công cụ tổ chức thực
hiện ý chí và quyền lực của nhân dân, thay mặt nhân dân, chịu trách nhiệm trước nhân dân để
quản lý toàn bộ hoạt động của đời sống xã hội. Đó chính là Nhà nước của nhân dân, do nhân
dân và vì nhân dân. Mặt khác, Nhà nước chịu sự lãnh đạo của giai cấp công nhân, thực hiện
đường lối chính trị của Đảng. Đảng lãnh đạo Nhà nước thực hiện và đảm bảo đầy đủ quyền làm
chủ của nhân dân.
Như vậy, Nhà nước xã hội chủ nghĩa vừa là cơ quan quyền lực, vừa là bộ máy chính trị,
hành chính, vừa là tổ chức quản lý kinh tế, văn hoá, xã hội của nhân dân. Quyền lực Nhà nước
là thống nhất, có sự phân công và phối hợp chặt chẽ giữa các cơ quan trong việc thực hiện các
quyền lập pháp, hành pháp và tư pháp.Quốc hội là cơ quan đại diện cao nhất của nhân dân, cơ
quan quyền lực Nhà nước cao nhất của nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam. Quốc hội do
nhân dân trực tiếp bầu ra, Quốc hội là cơ quan duy nhất có quyền lập ra Hiến pháp và luật pháp
(lập hiến và lập pháp). Quốc hội quyết định những chính sách cơ bản về đối nội, đối ngoại,

nhiệm vụ phát triển kinh tế-xã hội, những nguyên tắc chủ yếu về tổ chức và hoạt động của bộ
máy Nhà nước, về quan hệ xã hội và hoạt động của công dân.Quốc hội thực hiện quyền giám
sát tối cao với toàn bộ hoạt động của Nhà nước.Với ý nghĩa đó, Quốc hội được gọi là cơ quan
lập pháp. Chính phủ là cơ quan chấp hành của Quốc hội, cơ quan hành chính cao nhất của nước
Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam.Chính phủ thống nhất quản lý việc thực hiện các nhiệm
vụ chính trị, kinh tế, văn hoá, xã hội, an ninh, quốc phòng và đối ngoại của Nhà nước. Chính
phủ là cơ quan chấp hành, chịu trách nhiệm trước Quốc hội và phải báo cáo công tác với Quốc
hội. Trên ý nghĩa đó, Chính phủ được gọi là cơ quan hành pháp.
Cơ quan tư pháp gồm: Toà án, Viện kiểm sát và các cơ quan điều tra. Đây là những cơ
quan được lập ra trong hệ thống tổ chức Nhà nước để xử lý những tổ chức và cá nhân vi phạm
pháp luật, đảm bảo việc thực thi pháp luật một cách nghiêm minh, chính xác.Toà án các cấp là
cơ quan nhân danh Nhà nước, thể hiện thái độ và ý chí của Nhà nước trước các vụ án thông qua
hoạt động độc lập và chỉ tuân theo pháp luật. Toà án là cơ quan duy nhất có quyền áp dụng chế
tài hình sự, không ai bị coi là có tội và phải chịu hình phạt khi chưa có bản án kết tội của toà án
đã có hiệu lực pháp luật.Để đảm bảo pháp luật được chấp hành nghiêm chỉnh, đảm bảo việc xét
xử đúng người đúng tội, Viện kiểm sát nhân dân được tổ chức thành hệ thống, tập trung thống
nhất và độc lập thực hiện thẩm quyền của mình đối với các cơ quan khác của Nhà nước. Thực
hiện các quyền khởi tố, kiểm sát các hoạt động điều tra, truy tố...Với ý nghĩa đó, các tổ chức
Toà án, Viện kiểm sát được gọi là cơ quan tư pháp. Nhà nước thực hiện quản lý xã hội bằng


pháp luật, đồng thời coi trọng giáo dục nâng cao ý thức chấp hành pháp luật của nhân dân. Vì
vậy, cần tăng cường pháp chế xã hội chủ nghĩa.
- Mặt trận Tổ quốc và các tổ chức chính trị-xã hội: Đây là những tổ chức chính trị-xã hội
hợp pháp được tổ chức để tập hợp rộng rãi các tầng lớp nhân dân theo nguyên tắc tự nguyện, tự
quản đại diện cho lợi ích của nhân dân, tham gia vào hệ thống chính trị, tuỳ theo tính chất, tôn
chỉ, mục đích của mình nhằm bảo vệ quyền lợi dân chủ của nhân dân.Mặt trận Tổ quốc Việt
Nam, các đoàn thể nhân dân có vai trò rất quan trọng trong sự nghiệp đại đoàn kết toàn dân tộc
để xây dựng và bảo vệ đất nước; phát huy dân chủ, nâng cao trách nhiệm công dân của các hội
viên, đoàn viên, giữ gìn kỷ cương phép nước, thúc đẩy công cuộc đổi mới, thắt chặt mối quan

hệ giữa nhân dân với Đảng và Nhà nước.Mặt trận Tổ quốc Việt Nam, các đoàn thể nhân dân là
cơ sở chính trị của chính quyền nhân dân, nơi thể hiện ý chí và nguyện vọng; phát huy khả năng
tham gia bầu cử Quốc hội và Hội đồng Nhân dân; tuyên truyền vận động nhân dân thực hiện
đường lối, chính sách của Đảng và Nhà nước; thực hiện giám sát của nhân dân với cán bộ, công
chức và giải quyết những mâu thuẫn trong nội bộ nhân dân.Các tổ chức chính trị - xã hội của
nhân dân có nhiệm vụ giáo dục chính trị tư tưởng, động viên và phát huy tính tích cực xã hội
của các tầng lớp nhân dân, góp phần thực hiện nhiệm vụ chính trị; chăm lo bảo vệ lợi ích chính
đáng và hợp pháp của nhân dân; tham gia vào công việc quản lý Nhà nước, quản lý xã hội, giữ
vững và tăng cường mối liên hệ mật thiết giữa Đảng, Nhà nước và nhân dân, góp phần thực
hiện và thúc đẩy quá trình dân chủ hoá và đổi mới xã hội, thực hiện cơ chế Đảng lãnh đạo, Nhà
nước quản lý, nhân dân làm chủ.Hệ thống chính trị ở nước ta được tổ chức theo một hệ thống từ
Trung ương đến cơ sở. Cơ sở phân cấp theo quản lý hành chính gồm có xã, phường, thị trấn.
Hệ thống chính trị ở cơ sở bao gồm: Tổ chức cơ sở Đảng, Hội đồng Nhân dân xã,
phường; Uỷ ban Nhân dân xã, phường; Mặt trận Tổ quốc xã, phường và các tổ chức chính trịxã hội khác như: Đoàn Thanh niên Cộng sản Hồ Chí Minh, Hội Phụ nữ, Hội Nông dân, Hội
Cựu chiến binh xã, phường, thị trấn… Tất cả các tổ chức trên đều có vị trí, vai trò và nhiệm vụ
được quy định trong Luật Tổ chức của hệ thống chính trị ở nước ta.
Hệ thống chính trị ở cơ sở có vai trò rất quan trọng trong việc tổ chức và vận động nhân
dân thực hiện đường lối, chính sách của Đảng, pháp luật của Nhà nước, tăng cường đại đoàn
kết toàn dân tộc, phát huy quyền làm chủ của nhân dân, huy động mọi khả năng phát triển kinh
tế-xã hội, tổ chức cuộc sống của cộng đồng dân cư.
e) Vì sao phải tiếp tục đổi mới hệ thống chính trị? Trong những năm qua, hệ thống chính
trị ở nước ta đã có những đổi mới đáng kể: Đảng đã được củng cố cả về chính trị, tư tưởng, tổ
chức; vai trò lãnh đạo của Đảng trong xã hội ngày càng tăng; Nhà nước tiếp tục được xây dựng
và hoàn thiện theo hướng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa, của dân, do dân và vì dân;
Mặt trận Tổ quốc, các đoàn thể chính trị-xã hội từng bước đổi mới nội dung và phương thức
hoạt động, đem lại hiệu quả thiết thực; quyền làm chủ của nhân dân trên các lĩnh vực kinh tế, xã
hội, chính trị, văn hoá, tư tưởng được phát huy...
Bên cạnh đó, hệ thống chính trị ở nước ta còn bộc lộ nhiều nhược điểm: Năng lực và hiệu
quả lãnh đạo của Đảng, hiệu quả quản lý, điều hành của Nhà nước, hiệu quả hoạt động của các
đoàn thể chính trị-xã hội chưa nâng lên kịp với đòi hỏi của tình hình nhiệm vụ mới. Bộ máy

Đảng, Nhà nước, đoàn thể chậm được sắp xếp lại cho tinh giản và nâng cao chất lượng, còn
nhiều biểu hiện quan liêu, vi phạm quyền dân chủ của nhân dân. Công tác tuyển chọn, bồi
dưỡng, thay thế, trẻ hoá, chuẩn bị cán bộ kế cận còn lúng túng, chậm trễ. Năng lực và phẩm
chất của đội ngũ cán bộ của hệ thống chính trị chưa tương xứng với yêu cầu của nhiệm vụ. Một
bộ phận cán bộ, đảng viên phai nhạt lý tưởng cách mạng, tha hoá về phẩm chất đạo đức, sức
chiến đấu của một số tổ chức cơ sở Đảng chưa cao.
Hệ thống chính trị ở cơ sở hiện nay còn nhiều mặt yếu kém, bất cập trong công tác lãnh
đạo, quản lý, tổ chức thực hiện và vận động quần chúng. Tình trạng tham nhũng, quan liêu, mất


đoàn kết nội bộ, vừa vi phạm quyền làm chủ của dân, vừa không giữ đúng kỷ cương, phép nước
xảy ra ở nhiều nơi, có những nơi nghiêm trọng. Chức năng, nhiệm vụ của các bộ phận trong hệ
thống chính trị chưa được xác định rành mạch, tránh nhiệm không rõ; nội dung và phương thức
hoạt động chậm đổi mới, còn nhiều biểu hiện của cơ chế tập trung quan liêu, bao cấp. Đội ngũ
cán bộ cơ sở ít được đào tạo, bồi dưỡng; chính sách đối với cán bộ cơ sở còn chắp vá.Để tiếp
tục đổi mới và nâng cao chất lượng hệ thống chính trị ở cơ sở, cần tập trung giải quyết mấy vấn
đề cơ bản và bức xúc sau đây:
Một là, xác định rõ chức năng, nhiệm vụ của từng tổ chức trong hệ thống chính trị, đồng
thời xây dựng mối quan hệ đoàn kết, phối hợp giữa các tổ chức dưới sự lãnh đạo của Đảng bộ,
chi bộ cơ sở; đổi mới nội dung và phương thức hoạt động hướng vào phục vụ dân, sát với dân,
được dân tin cậy.
Hai là, thực hành dân chủ thực sự trong nội bộ các tổ chức của hệ thống chính trị ở cơ sở
theo nguyên tắc tập trung dân chủ và phát huy quyền làm chủ của nhân dân trên cơ sở thực hiện
quyền dân chủ trực tiếp, phát huy quyền làm chủ đại diện, quy định cụ thể việc thực hiện quyền
của dân giám sát tổ chức và cán bộ ở cơ sở và kịp thời thay thế người không đủ tín nhiệm. Phát
huy dân chủ phải đi liền với củng cố và nâng cao kỷ luật, kỷ cương theo pháp luật.
Ba là, xây dựng đội ngũ cán bộ ở cơ sở có năng lực tổ chức và vận động nhân dân thực hiện
đường lối của Đảng, pháp luật của Nhà nước, công tâm, thạo việc, tận tuỵ với dân, biết phát huy sức
dân, không tham nhũng, không ức hiếp dân; trẻ hoá đội ngũ, chăm lo công tác đào tạo, bồi dưỡng, giải
quyết hợp lý và đồng bộ chính sách đối với cán bộ cơ sở.Trước yêu cầu mới ngày càng cao của sự

nghiệp cách mạng, sự nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước, cùng với đổi mới nền kinh tế,
từng bước đổi mới kiện toàn hệ thống chính trị là đòi hỏi khách quan, yêu cầu cấp bách.
f) Đổi mới nâng cao hiệu quả của HTCt.
Nội dung, phương hướng cơ bản nhằm đổi mới, kiện toàn hệ thống chính trị? Việc đổi
mới hệ thống chính trị phải hướng vào việc thực hiện mục tiêu chủ yếu là nhằm thực hiện tốt
dân chủ xã hội chủ nghĩa, phát huy quyền làm chủ của nhân dân. - Đổi mới tổ chức và phương
thức lãnh đạo của Đảng. Để thực hiện vai trò lãnh đạo của Đảng trong tình hình mới, cần tập
trung làm tốt những vấn đề sau:
Một là,nâng cao nhận thức và thực hiện đúng vai trò hạt nhân chính trị và trình độ lãnh
đạo của tổ chức Đảng ở các cấp để phát huy tính chủ động, sáng tạo và tinh thần trách nhiệm
của các tổ chức trong hệ thống chính trị trong việc thực hiện đường lối của Đảng.
Hai là,đổi mới phương thức lãnh đạo của Đảng cần nâng cao nhận thức và có quan niệm
đúng đắn về sự lãnh đạo toàn diện của Đảng. Trước hết là việc đổi mới, việc ra Nghị quyết và
chỉ đạo thực hiện các Nghị quyết của Đảng. Phát huy dân chủ trong sinh hoạt Đảng, giữ vững
đoàn kết thống nhất trong Đảng. Tăng cường công tác kiểm tra, thực hiện nghiêm túc nguyên
tắc tập trung dân chủ và quy chế làm việc; tăng cường công tác giáo dục rèn luyện nâng cao
phẩm chất đạo đức cách mạng của cán bộ, đảng viên của Đảng...
- Đổi mới và nâng cao hiệu quả quản lý của Nhà nước. Để Nhà nước làm nhiệm vụ quản
lý và lãnh đạo xã hội, cần làm tốt một số vấn đề sau Phát huy mạnh mẽ vai trò của hệ thống
chính quyền Nhà nước trong việc mở rộng và thực hiện dân chủ, hoàn thiện cơ chế dân chủ,
thực hiện tốt quy chế dân chủ ở cơ sở, cụ thể hoá phương châm dân biết, dân bàn, dân làm, dân
kiểm tra. Chăm lo xây dựng, kiện toàn bộ máy của Nhà nước từ Trung ương đến cơ sở, có cơ
cấu gọn nhẹ, hoạt động có hiệu quả, đội ngũ cán bộ có phẩm chất và năng lực với tinh thần
trách nhiệm cao. Hoạt động của cơ quan Nhà nước phải đặt nhiệm vụ phục vụ nhân dân lên trên
hết, giải quyết đúng đắn và nhanh chóng các công việc có liên quan trực tiếp đến đời sống của
nhân dân. Giáo dục cán bộ, công chức Nhà nước xây dựng và thực hành phong cách "Trọng
dân, gần dân, hiểu dân, học dân và có trách nhiệm với dân", "Nghe dân nói, nói dân hiểu, làm
dân tin"...Xây dựng cơ chế và biện pháp để kiểm tra, kiểm soát, ngăn ngừa và trừng trị tệ quan



liêu, tham nhũng, lộng quyền, xâm phạm quyền làm chủ của nhân dân; ngăn chặn và khắc phục
tình trạng dân chủ hình thức, dân chủ cực đoan, đồng thời nghiêm trị những hoạt động phá hoại
gây rối...Thực hiện nghiêm túc nguyên tắc tập trung dân chủ trong tổ chức và trong sinh hoạt
của bộ máy Nhà nước.
- Đổi mới và kiện toàn các đoàn thể chính trị-xã hội. Những năm qua các tổ chức chính
trị-xã hội, các đoàn thể quần chúng nhân dân đã phát huy vai trò của mình trong công cuộc xây
dựng và bảo vệ Tổ quốc. Đáp ứng yêu cầu của thời kỳ phát triển mới, các tổ chức chính trị - xã
hội cần được đổi mới toàn diện theo hướng sau đây: Nâng cao hơn nữa nhận thức của toàn xã
hội về vị trí, vai trò của Mặt trận Tổ quốc Việt Nam các cấp và các đoàn thể quần chúng. Đẩy
mạnh và nâng cao chất lượng hoạt động của các đoàn thể nhân dân, các tổ chức xã hội nghề
nghiệp... các tổ chức quần chúng…Đổi mới nội dung và phương thức hoạt động của Mặt trận
Tổ quốc Việt Nam và các tổ chức chính trị - xã hội theo hướng mở rộng và đa dạng hoá các
hình thức tập hợp quần chúng nhân dân, đáp ứng yêu cầu và chăm lo lợi ích thiết thực, chính
đáng và hợp pháp của nhân dân. Mặt trận Tổ quốc Việt Nam, các đoàn thể nhân dân tập trung
hướng mạnh về cơ sở. Lãnh đạo thực hiện tốt quy chế dân chủ, đảm bảo quyền làm chủ của
nhân dân, ngăn chặn và chống mọi hành động vi phạm quyền làm chủ của nhân dân. Tăng
cường công tác giáo dục chính trị tư tưởng, đổi mới hình thức tuyên truyền, vận động nhân dân;
gắn hoạt động của các tổ chức đoàn thể quần chúng trong việc thực hiện các nhiệm vụ phát
triển kinh tế-xã hội, an ninh, quốc phòng... với việc nâng cao đời sống vật chất và tinh thần của
nhân dân.
Vì sao phải tiếp tục đổi mới hệ thống chính trị?( thực tiễn)
Trong những năm qua, hệ thống chính trị ở nước ta đã có những đổi mới đáng kể: Đảng đã
được củng cố cả về chính trị, tư tưởng, tổ chức; vai trò lãnh đạo của Đảng trong xã hội ngày
càng tăng; Nhà nước tiếp tục được xây dựng và hoàn thiện theo hướng Nhà nước pháp quyền
xã hội chủ nghĩa, của dân, do dân và vì dân; Mặt trận Tổ quốc, các đoàn thể chính trị-xã hội từng
bước đổi mới nội dung và phương thức hoạt động, đem lại hiệu quả thiết thực; quyền làm chủ của
nhân dân trên các lĩnh vực kinh tế, xã hội, chính trị, văn hoá, tư tưởng được phát huy... Bên cạnh đó, hệ
thống chính trị ở nước ta còn bộc lộ nhiều nhược điểm: Năng lực và hiệu quả lãnh đạo của Đảng, hiệu
quả quản lý, điều hành của Nhà nước, hiệu quả hoạt động của các đoàn thể chính trị-xã hội chưa nâng
lên kịp với đòi hỏi của tình hình nhiệm vụ mới. Bộ máy Đảng, Nhà nước, đoàn thể chậm được sắp xếp

lại cho tinh giản và nâng cao chất lượng, còn nhiều biểu hiện quan liêu, vi phạm quyền dân chủ của
nhân dân. Công tác tuyển chọn, bồi dưỡng, thay thế, trẻ hoá, chuẩn bị cán bộ kế cận còn lúng túng,
chậm trễ. Năng lực và phẩm chất của đội ngũ cán bộ của hệ thống chính trị chưa tương xứng với yêu
cầu của nhiệm vụ. Một bộ phận cán bộ, đảng viên phai nhạt lý tưởng cách mạng, tha hoá về phẩm chất
đạo đức, sức chiến đấu của một số tổ chức cơ sở Đảng chưa cao.
Hệ thống chính trị ở níc ta hiện nay còn nhiều mặt yếu kém, bất cập trong công tác lãnh
đạo, quản lý, tổ chức thực hiện và vận động quần chúng. Tình trạng tham nhũng, quan liêu, mất
đoàn kết nội bộ, vừa vi phạm quyền làm chủ của dân, vừa không giữ đúng kỷ cương, phép nước
xảy ra ở nhiều nơi, có những nơi nghiêm trọng. Chức năng, nhiệm vụ của các bộ phận trong hệ
thống chính trị chưa được xác định rành mạch, tránh nhiệm không rõ; nội dung và phương thức
hoạt động chậm đổi mới, còn nhiều biểu hiện của cơ chế tập trung quan liêu, bao cấp. Đội ngũ
cán bộ cơ sở ít được đào tạo, bồi dưỡng; chính sách đối với cán bộ còn chắp vá.
Để tiếp tục đổi mới và nâng cao chất lượng hiÖu qu¶ ho¹t ®éng cña hệ thống chính trị cần tập
trung giải quyết mấy vấn đề cơ bản và bức xúc sau đây:
xác định rõ chức năng, nhiệm vụ của từng tổ chức trong hệ thống chính trị, đồng thời xây
dựng mối quan hệ đoàn kết, phối hợp giữa các tổ chức dưới sự lãnh đạo của Đảng bộ, chi bộ cơ
sở; đổi mới nội dung và phương thức hoạt động hướng vào phục vụ dân, sát với dân, được dân
tin cậy.


thực hành dân chủ thực sự trong nội bộ các tổ chức của hệ thống chính trị ở cơ sở theo nguyên
tắc tập trung dân chủ và phát huy quyền làm chủ của nhân dân trên cơ sở thực hiện quyền dân
chủ trực tiếp, phát huy quyền làm chủ đại diện, quy định cụ thể việc thực hiện quyền của dân
giám sát tổ chức và cán bộ ở cơ sở và kịp thời thay thế người không đủ tín nhiệm. Phát huy dân
chủ phải đi liền với củng cố và nâng cao kỷ luật, kỷ cương theo pháp luật.
xây dựng đội ngũ cán bộ có năng lực tổ chức và vận động nhân dân thực hiện đường lối của
Đảng, pháp luật của Nhà nước, công tâm, thạo việc, tận tuỵ với dân, biết phát huy sức dân,
không tham nhũng, không ức hiếp dân; trẻ hoá đội ngũ, chăm lo công tác đào tạo, bồi dưỡng,
giải quyết hợp lý và đồng bộ chính sách đối với cán bộ.
Trước yêu cầu mới ngày càng cao của sự nghiệp cách mạng, sự nghiệp công nghiệp hoá,

hiện đại hoá đất nước, cùng với đổi mới nền kinh tế, từng bước đổi mới kiện toàn hệ thống
chính trị là đòi hỏi khách quan, yêu cầu cấp bách..Nội dung, phương hướng cơ bản nhằm đổi
mới, kiện toàn hệ thống chính trị. Việc đổi mới hệ thống chính trị phải hướng vào việc thực hiện
mục tiêu chủ yếu là nhằm thực hiện tốt dân chủ xã hội chủ nghĩa, phát huy quyền làm chủ của nhân
dân
Một là; Đổi mới tổ chức và phương thức lãnh đạo của Đảng.Để thực hiện vai trò lãnh đạo
của Đảng trong tình hình mới, cần tập trung làm tốt những vấn đề sau: Một là, nâng cao nhận thức và
thực hiện đúng vai trò hạt nhân chính trị và trình độ lãnh đạo của tổ chức Đảng ở các cấp để phát huy
tính chủ động, sáng tạo và tinh thần trách nhiệm của các tổ chức trong hệ thống chính trị trong việc
thực hiện đường lối của Đảng. Hai là, đổi mới phương thức lãnh đạo của Đảng cần nâng cao
nhận thức và có quan niệm đúng đắn về sự lãnh đạo toàn diện của Đảng. Trước hết là việc đổi
mới, việc ra Nghị quyết và chỉ đạo thực hiện các Nghị quyết của Đảng. Phát huy dân chủ trong
sinh hoạt Đảng, giữ vững đoàn kết thống nhất trong Đảng. Tăng cường công tác kiểm tra, thực
hiện nghiêm túc nguyên tắc tập trung dân chủ và quy chế làm việc; tăng cường công tác giáo
dục rèn luyện nâng cao phẩm chất đạo đức cách mạng của cán bộ, đảng viên của Đảng...
Hai là; Đổi mới và nâng cao hiệu quả quản lý của Nhà nước. Để Nhà nước làm nhiệm
vụ quản lý và lãnh đạo xã hội, cần làm tốt một số vấn đề sau: Phát huy mạnh mẽ vai trò của hệ
thống chính quyền Nhà nước trong việc mở rộng và thực hiện dân chủ, hoàn thiện cơ chế dân
chủ, thực hiện tốt quy chế dân chủ ở cơ sở, cụ thể hoá phương châm dân biết, dân bàn, dân làm,
dân kiểm tra. Chăm lo xây dựng, kiện toàn bộ máy của Nhà nước từ Trung ương đến cơ sở, có
cơ cấu gọn nhẹ, hoạt động có hiệu quả, đội ngũ cán bộ có phẩm chất và năng lực với tinh thần
trách nhiệm cao. Hoạt động của cơ quan Nhà nước phải đặt nhiệm vụ phục vụ nhân dân lên trên
hết, giải quyết đúng đắn và nhanh chóng các công việc có liên quan trực tiếp đến đời sống của
nhân dân. Giáo dục cán bộ, công chức Nhà nước xây dựng và thực hành phong cách "Trọng
dân, gần dân, hiểu dân, học dân và có trách nhiệm với dân", "Nghe dân nói, nói dân hiểu, làm
dân tin"... Xây dựng cơ chế và biện pháp để kiểm tra, kiểm soát, ngăn ngừa và trừng trị tệ quan
liêu, tham nhũng, lộng quyền, xâm phạm quyền làm chủ của nhân dân; ngăn chặn và khắc phục
tình trạng dân chủ hình thức, dân chủ cực đoan, đồng thời nghiêm trị những hoạt động phá hoại
gây rối...Thực hiện nghiêm túc nguyên tắc tập trung dân chủ trong tổ chức và trong sinh hoạt của bộ máy Nhà nước.
Ba là; Đổi mới và kiện toàn các đoàn thể chính trị-xã hội.

Những năm qua các tổ chức chính trị-xã hội, các đoàn thể quần chúng nhân dân đã phát huy vai trò
của mình trong công cuộc xây dựng và bảo vệ Tổ quốc. Đáp ứng yêu cầu của thời kỳ phát triển
mới, các tổ chức chính trị - xã hội cần được đổi mới toàn diện theo hướng sau đây: Nâng cao hơn
nữa nhận thức của toàn xã hội về vị trí, vai trò của Mặt trận Tổ quốc Việt Nam các cấp và các đoàn
thể quần chúng. Đẩy mạnh và nâng cao chất lượng hoạt động của các đoàn thể nhân dân, các tổ
chức xã hội nghề nghiệp... các tổ chức quần chúng.. Đổi mới nội dung và phương thức hoạt động
của Mặt trận Tổ quốc Việt Nam và các tổ chức chính trị - xã hội theo hướng mở rộng và đa dạng
hoá các hình thức tập hợp quần chúng nhân dân, đáp ứng yêu cầu và chăm lo lợi ích thiết thực,


chính đáng và hợp pháp của nhân dân..Mặt trận Tổ quốc Việt Nam, các đoàn thể nhân dân tập
trung hướng mạnh về cơ sở. Lãnh đạo thực hiện tốt quy chế dân chủ, đảm bảo quyền làm chủ của
nhân dân, ngăn chặn và chống mọi hành động vi phạm quyền làm chủ của nhân dân. Tăng cường
công tác giáo dục chính trị tư tưởng, đổi mới hình thức tuyên truyền, vận động nhân dân; gắn hoạt
động của các tổ chức đoàn thể quần chúng trong việc thực hiện các nhiệm vụ phát triển kinh tế-xã
hội, an ninh, quốc phòng... với việc nâng cao đời sống vật chất và tinh thần của nhân dân.
Câu 4. Đảng cầm quyền và phương thức lãnh đạo của Đảng cầm quyền trong các nền dân
chủ tư sản và dân chủ xã hội chủ nghĩa. Đổi mới phương thức lãnh đạo của Đảng đối với
hệ thống chính trị nước ta hiện nay – Những vấn đề đặt ra và giải pháp.
Đảng cầm quyền là đảng phải nắm, giữ chính quyền trong tay và lãnh đạo chính quyền.
Với nghĩa như trên, “đảng cầm quyền” là đảng có số đảng viên chiếm đa số trong quốc hội, là
lực lượng chi phối toàn bộ hoạt động, chính sách của chính quyền, nắm giữ những cương vị chủ
chốt nhất của bộ máy quyền lực nhà nước. Như vậy, “đảng cầm quyền” là một khái niệm thuộc
khoa học chính trị, liên quan trực tiếp tới quyền lực chính trị và phương thức tổ chức thực hiện
quyền lực đó. Khái niệm này cho biết một đảng chính trị đại diện cho một giai cấp nào đó đang
nắm giữ chính quyền nhà nước, điều hành, quản lý mọi hoạt động của xã hội phù hợp với lợi
ích giai cấp mình. Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội (bổ
sung, phát triển năm 2011) ghi: “Đảng Cộng sản Việt Nam là Đảng cầm quyền, lãnh đạo Nhà
nước và xã hội”. Điều lệ Đảng Cộng sản Việt Nam cũng ghi: “Đảng Cộng sản Việt Nam là
Đảng cầm quyền, tôn trọng và phát huy quyền làm chủ của nhân dân, chịu sự giám sát của

nhân dân; dựa vào nhân dân để xây dựng Đảng; đoàn kết và lãnh đạo nhân dân tiến hành sự
nghiệp cách mạng”1.
Đảng Cộng sản cầm quyền? Đó là Đảng Cộng sản lãnh đạo cách mạng trong điều kiện
có chính quyền. Nội dung hoạt động của Đảng khác căn bản với thời kỳ chưa giành chính
quyền. Sau khi giành được chính quyền rồi, Đảng Cộng sản là người chịu trách nhiệm cao nhất
trước sự phát triển của dân tộc, trở thành người lãnh đạo toàn xã hội, lãnh đạo mọi lĩnh vực của
đời sống xã hội (kinh tế, chính trị, văn hóa, tư tưởng, tổ chức, quốc phòng - an ninh, đối
ngoại...) và lãnh đạo mọi tổ chức trong hệ thống chính trị xã hội chủ nghĩa, trong đó chủ yếu
lãnh đạo Nhà nước và các tổ chức chính trị xã hội. Vấn đề đặt ra đối với Đảng cầm quyền là
phải vươn tới tầm cao mới về trí tuệ, bản lĩnh, đạo đức, phẩm chất để có thể lãnh đạo xây dựng
thành công chủ nghĩa xã hội.
Về lý luận: Chủ nghĩa Mác - Lênin khẳng định: “Vấn đề cơ bản của mọi cuộc cách mạng
là vấn đề chính quyền... Việc giai cấp vô sản đoạt lấy chính quyền mới chỉ là bước đầu của
những cải biến cách mạng. Công cuộc xây dựng xã hội mới bao trùm suốt cả một thời kỳ lịch
sử những cải biến xã hội một cách triệt để”2. Điều này có nghĩa sau khi phát động nhân dân lao
động vùng lên đánh đổ chính quyền phản động, Đảng của giai cấp vô sản phải thiết lập chính
quyền mới để tiến hành những cải biến cách mạng. Muốn làm được điều này, Đảng phải một
mình cầm quyền đất nước. Lý luận về đảng cầm quyền của giai cấp công nhân, hay nói cách
khác là Đảng Cộng sản cầm quyền là một vấn đề còn mới mẻ. C. Mác và Ph.Ăngghen trong tác
phẩm “Tuyên ngôn Đảng Cộng sản” năm 1848 đã nói đến việc giai cấp vô sản mỗi nước phải
thành lập chính đảng độc lập của mình, tiến hành cách mạng bạo lực “Trước hết phải giành lấy
chính quyền, phải xây dựng nên một giai cấp dân tộc, phải tự mình trở thành dân tộc”3. Công
xã Pari là một sự kiện lịch sử vĩ đại, nó thể nghiệm trong thực tế hành động cách mạng để thực
hiện sứ mệnh lịch sử của giai cấp công nhân. Công xã đã thể hiện mình như một Nhà nước vô
. Điều Lệ Đảng Cộng sản Việt Nam, Nxb Chính trị Quốc gia 2011, tr.5.
. Từ điển triết học, Nxb. TB, M, 1975; Bản dịch tiếng Việt, Nxb.TB và Nxb ST, M, 1986, tr.64-65.
3
. C.Mác - Ph.Ăngghen, Tuyển tập, tập 1, tr. 565, NXB Sự thật, H, 1980.
1
2



sản đầu tiên, song nó chỉ tồn tại được 72 ngày, một thời gian quá ngắn, chưa đủ kinh nghiệm để
có thể rút ra những kết luận về Đảng Cộng sản cầm quyền. V.I.Lênin - lãnh tụ thiên tài, nhà lý
luận xuất sắc của giai cấp công nhân Nga và cả thế giới đã có những đóng góp quan trọng vào
việc xây dựng lý luận Đảng Cộng sản cầm quyền. Trong các tác phẩm: “Nhà nước và cách
mạng”, “Chủ nghĩa Mác và vấn đề Nhà nước”, “Thà ít mà tốt”... V.I.Lênin đã trình bày một hệ
thống quan điểm, tư tưởng lý luận về Nhà nước kiểu mới. Người nhấn mạnh tầm quan trọng
của vấn đề nhà nước trong cách mạng xã hội chủ nghĩa. Nói về sự lãnh đạo của Đảng đối với
Nhà nước kiểu mới, V.I.Lênin đã chỉ rõ đó là chính đảng mác xít của giai cấp vô sản, Đảng
Cộng sản luôn giữ vai trò lãnh đạo: “Chỉ có chính đảng của giai cấp công nhân, tức là Đảng
Cộng sản mới có thể tập hợp, giáo dục, tổ chức đội tiên phong của giai cấp vô sản và của tất
cả quần chúng nhân dân lao động, chỉ có đội tiên phong ấy mới có thể chống lại những dao
động tiểu tư sản... lãnh đạo giai cấp đó về mặt chính trị và thông qua giai cấp đó mà lãnh đạo
tất cả quần chúng. Nếu không thế, thì không thể thực hiện được chuyên chính vô sản được”4.
Chủ tịch Hồ Chí Minh - Người sáng lập và rèn luyện Đảng Cộng sản Việt Nam đã quan
tâm đặc biệt tới Đảng Cộng sản cầm quyền, tới việc xây dựng Đảng ta trở thành đảng lãnh đạo
chính quyền thực sự của dân, do dân và vì dân. Trong Di chúc để lại cho toàn Đảng, toàn dân
và toàn quân ta, Người nói: “Đảng ta là Đảng cầm quyền, mỗi đảng viên và cán bộ phải thực
sự thấm nhuần đạo đức cách mạng, thực sự cần, kiệm, liêm, chính, chí công vô tư. Phải giữ gìn
Đảng ta thật trong sạch, phải xứng đáng là người lãnh đạo, là người đầy tớ thật trung thành
của nhân dân...”5. Như vậy, nền tảng để mọi hoạt động của Đảng Cộng sản Việt Nam diễn ra
đúng quy luật và hợp lòng dân, hợp với thời đại là chủ nghĩa Mác - Lê-nin, tư tưởng Hồ Chí
Minh. Dù thế giới có đổi thay thế nào, cái bất biến về lý luận cầm quyền đó của Đảng không
thể thay đổi. Điều đó không hề mâu thuẫn với việc Đảng chủ động không ngừng tiếp thu những
lý thuyết tinh hoa và tiến bộ khác trên thế giới một cách cầu thị, không kỳ thị và xa lánh những
lý thuyết khác, thậm chí cả những lý thuyết không phù hợp với mình... để làm giàu lý thuyết về
sự cầm quyền của mình. Chỉ có như thế, Đảng mới thực sự có điều kiện và mở ra nhiều cơ hội,
khả năng trong việc trung thành và phát triển chủ nghĩa Mác - Lê-nin, tư tưởng Hồ Chí Minh
hợp với xu thế phát triển của thời đại, không ngừng làm phong phú và sự phù hợp lý luận cầm

quyền của mình. “Đảng Cộng sản cầm quyền” là sự kiện bước ngặt đánh dấu sự chuyển biến
của giai đoạn cách mạng, từ cách mạng dân tộc dân chủ sang cách mạng xã hội chủ nghĩa ở
nước ta. Đây là giai đoạn chính quyền đã thuộc về nhân dân, quyền lực nhà nước do nhân dân
ủy quyền dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản, quyền lực đó được sử dụng để trấn áp kẻ thù và
tổ chức xây dựng xã hội mới - xã hội xã hội chủ nghĩa.Từ những nội dung trên, chúng ta nhận
thức rằng: Đảng cầm quyền là Đảng Cộng sản Việt Nam tiếp tục lãnh đạo sự nghiệp cách mạng
trong điều kiện có quyền lực nhà nước và Đảng lãnh đạo trực tiếp, toàn diện Nhà nước của
dân, do dân và vì dân. Suy rộng ra là lãnh đạo toàn bộ hệ thống chính trị nước ta để thực hiện
mục tiêu độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội.
Từ nhận thức đó, Đảng lãnh đạo Nhà nước của dân, do dân, vì dân nói riêng, lãnh đạo hệ
thống chính trị nói chung là vì nhân dân làm chủ, để nhân dân làm chủ và cho nhân dân làm
chủ một cách toàn diện, triệt để và sâu sắc. Đảng không phải là cơ quan quyền lực nhà nước,
nhưng Đảng có quyền lực về chính trị, quyền lực về tư tưởng chính trị, quyền lực về tổ chức bộ
máy và nhân sự, quyền lực về kiểm tra... đối với toàn bộ hệ thống chính trị, Đảng tự nguyện và
phải hoạt động trong khuôn khổ của Hiến pháp và pháp luật do Nhà nước xây dựng dưới sự
lãnh đạo của Đảng. Các quyền đó được dân tộc trao cho Đảng, vì sự phát triển bền vững của đất
nước, chứ Đảng không tự nhận lấy cho mình. Điều đó cũng tự nhiên như nhân dân ủy thác cho
Nhà nước quyền lực của mình, và khi cần, nói như Chủ tịch Hồ Chí Minh "có thể đuổi Chính
. V.I.Lênin toàn tập, tập 43, tr. 112 - 113, NXB Tiến bộ, M, 1978.
. Hồ Chí Minh toàn tập, tập 12, tr. 491 Nxb Chính trị quốc gia, H, 2000

4
5


phủ đi", nếu Chính phủ không làm trọn trách nhiệm với nhân dân. Về cơ sở thực tiễn: Từ kinh
nghiệm bản thân cũng như kinh nghiệm thành công và thất bại của các Đảng Cộng sản cầm
quyền khác, Đảng Cộng sản Việt Nam rút ra kết luận quan trọng, đó là: Đường lối cách mạng
đúng đắn là nhân tố quyết định để giữ vững vai trò Đảng Cộng sản duy nhất cầm quyền. Đường
lối cách mạng Việt Nam gương cao ngọn cờ độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội, đó là con

đường cách mạng vô sản mà lãnh tụ Nguyễn Ái Quốc đã chọn từ thập kỷ 20 của thế kỷ XX và
Đảng ta kiên định lãnh đạo toàn dân đi theo. Đường lối cách mạng Việt Nam chủ trương giữ
vững độc lập, chủ quyền, toàn vẹn lãnh thổ của đất nước, thực hiện mục tiêu cao cả: Dân giàu,
nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh. Quá trình hoạch định đường lối cách mạng, Đảng
luôn nêu cao tinh thần độc lập, tự chủ và sáng tạo, không giáo điều, bảo thủ, trì trệ hoặc chủ
quan, nóng vội. Đảng luôn xuất phát từ cơ sở lý luận của chủ nghĩa Mác-Lênin và tư tưởng Hồ
Chí Minh và thực tiễn đất nước cùng nhận định về thời cuộc để đề ra đường lối lãnh đạo phù
hợp với từng.
Phương thức Đảng cầm quyền chính là toàn bộ phương pháp và cách thức cầm quyền của
Đảng, nó phải luôn thay đổi theo sự biến đổi của thực tế cách mạng. Nhưng dù thay đổi thế nào
cũng không được làm tổn hại tới mục tiêu cầm quyền của Đảng, quyền là chủ và làm chủ của
nhân dân. Cơ chế vận hành của hệ thống chính trị Việt Nam được xác định là: “Đảng lãnh đạo,
Nhà nước quản lý, nhân dân làm chủ”, theo đó ta hiểu Đảng lãnh đạo Nhà nước nhưng không
điều hành xã hội thay Nhà nước; Nhà nước quản lý xã hội nhưng không xa rời sự lãnh đạo của
Đảng. Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội (bổ sung, phát
triển năm 2011) nói rõ phương thức lãnh đạo của Đảng: “Đảng lãnh đạo xã hội bằng cương
lĩnh, chiến lược, các định hướng về chính sách và chủ trương công tác; bằng công tác tuyên
truyền, thuyết phục, vận động, tổ chức kiểm tra và bằng hành động gương mẫu của đảng viên.
Đảng giới thiệu những đảng viên ưu tú có đủ năng lực và phẩm chất vào hoạt động trong các cơ
quan lãnh đạo chính quyền và các đoàn thể. Đảng không làm thay công việc của các tổ chức
khác trong hệ thống chính trị”. Một thực tế là đất nước ta từng trải qua hai cuộc chiến tranh giải
phóng chống Pháp, chống đế quốc Mỹ và một số cuộc chiến tranh bảo vệ Tổ quốc ở biên giới
Tây - Nam và biên giới phía Bắc. Do đó những năm trước 1975 và một số năm sau đó là một thời
kỳ lịch sử đặc biệt, “Đảng ta phải áp dụng những phương thức lãnh đạo đặc biệt, với các biện pháp
chính trị cứng rắn, quyết đoán. Đảng lãnh đạo Nhà nước bằng các nguyên tắc lãnh đạo trực tiếp,
tuyệt đối và toàn diện, nhằm thống nhất cao độ sự lãnh đạo chính trị và thực hành chính trị, buộc toàn
Đảng, toàn dân phải hy sinh một phần các quyền dân chủ cho mục tiêu trước mắt lớn hơn là độc lập,
thống nhất nước nhà. Đặc điểm lãnh đạo của Đảng đối với Nhà nước thể hiện ở sự hòa quyện, không
phân biệt rõ chức năng Đảng lãnh đạo Nhà nước và chức năng Nhà nước quản lý xã hội, Đảng với
Nhà nước dường như là một. Đảng đóng vai trò tổng chỉ huy và tổ chức toàn bộ công cuộc kháng

chiến và kiến quốc. Do đó, đường lối, chủ trương của Đảng không dừng lại ở các nguyên tắc chung
mà thường rất cụ thể, bao quát các chức năng của Nhà nước”6. Đến Hiến pháp năm 1992, mối quan
hệ giữa Đảng và Nhà nước có những thay đổi quan trọng. Hiến pháp quy định: “Nhà nước Cộng hòa
xã hội chủ nghĩa Việt Nam là Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa của nhân dân, do nhân dân, vì
nhân dân. Tất cả quyền lực Nhà nước thuộc về nhân dân mà nền tảng là liên minh giữa giai cấp công
nhân với giai cấp nông dân và đội ngũ trí thức”. Đảng hoạt động trong khuôn khổ hiến pháp và pháp
luật. Đảng không quyết định trực tiếp mọi công việc và Đảng không phải là cấp trên của Nhà nước.
Quyền lực Nhà nước được tập trung. Tình trạng Đảng bao biện làm thay cơ quan Nhà nước, can thiệp
vào chức năng của cơ quan Nhà nước, dùng phương pháp mệnh lệnh, áp đặt đối với cơ quan Nhà nước
được khắc phục. Thuật ngữ “Nhà nước pháp quyền” được Đại hội lần thứ VIII của Đảng, năm 1996

. Nguyễn Hữu Đổng (chủ biên): Đảng và các tổ chức chính trị xã hội trong hệ thống chính trị Việt Nam hiện nay, Nxb. Chính trị
Quốc gia, H, 2009, tr.118-119.
6


nhắc lại: “Tăng cường pháp chế xã hội chủ nghĩa, xây dựng Nhà nước pháp quyền Việt Nam. Quản lý
xã hội bằng pháp luật, đồng thời coi trọng giáo dục, nâng cao đạo đức”.
Như vậy, trước đây khi Đảng ta chưa giành được chính quyền, phương thức lãnh đạo của
Đảng là lãnh đạo nhân dân lao động giành lấy quyền lực nhà nước, lập nên Nhà nước của dân,
do dân, vì dân và Đảng trực tiếp lãnh đạo bộ máy nhà nước đó để tiếp tục hoàn thành sự nghiệp
độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội qua hơn 67 năm cầm quyền, nhất là hiện nay, cùng với
phương thức cơ bản đó, Đảng tiếp tục tìm tòi và phát triển các phương thức lãnh đạo, quản lý
xã hội, tổ chức, huy động lực lượng quần chúng bằng các biện pháp hành chính, pháp lý thông
qua bộ máy Nhà nước của dân, do dân, vì dân để thực hiện mục tiêu đó. Mối quan hệ giữa mục
tiêu cầm quyền với phương thức cầm quyền của Đảng là mối quan hệ giữa cái bất biến với cái
khả biến, giữa mục tiêu và phương tiện. Phương thức cầm quyền chủ yếu của Đảng hiện nay là
xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam và sử dụng Nhà nước ta như một
công cụ quyền lực pháp lý, một phương tiện có hiệu lực pháp lý để tổ chức và quản lý xã hội
mới, huy động mọi tiềm lực và sức mạnh của toàn xã hội nhằm thực hiện thắng lợi những

nhiệm vụ do thực tiễn cách mạng đặt ra theo đường lối chính trị của Đảng.
Từ xuất phát nhận thức và thực tiễn hiện nay, về nguyên tắc, phương thức lãnh đạo của
Đảng đối với Nhà nước phải trực tiếp, toàn diện nhưng có trọng điểm, trên cơ sở phân định rõ
ràng chức năng, nhiệm vụ của Đảng và Nhà nước. Về phương châm thực hiện phương thức
lãnh đạo có thể là nhất thể hóa sự lãnh đạo của Đảng và quản lý của Nhà nước; cũng có thể là
Đảng "hóa thân" sự lãnh đạo của mình trong sự quản lý của Nhà nước, trên từng phương diện
của đời sống kinh tế - xã hội. Theo đó, Nhà nước đổi mới chức năng, nhiệm vụ của mình theo
hướng xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa trên nền tảng xây dựng một xã hội
công dân. Cùng với đó, không ngừng xây dựng Mặt trận Tổ quốc, các đoàn thể chính trị - xã
hội vững mạnh trên cơ sở đổi mới chức năng, nhiệm vụ, vị thế và vai trò của các tổ chức này
trong hệ thống chính trị nước ta. Các tổ chức chính trị - xã hội phải được xem xét với tư cách là
những chủ thể chính trị cấu thành hệ thống chính trị nước ta.
d) Những vấn đề thực tiễn và giải pháp để nâng cao vai trò của Đảng cầm quyền ở Việt
Nam.
Thực tiễn qua hơn 82 năm lãnh đạo cách mạng và xây dựng chủ nghĩa xã hội, để xứng
đáng là Đảng Cộng sản duy nhất cầm quyền, trong điều kiện xây dựng Nhà nước pháp quyền
như ở nước ta hiện nay, Đảng phải đổi mới và hoàn thiện phương thức lãnh đạo, nhất là phương
thức lãnh đạo Nhà nước. Phương thức đó phải đáp ứng yêu cầu nâng cao năng lực lãnh đạo và
sức chiến đấu của Đảng, phát huy hiệu lực, hiệu quả quản lý của Nhà nước, tính tích cực, chủ
động, sáng tạo của Mặt trận, các đoàn thể nhân dân... Đảng hoạt động trong khuôn khổ Hiến
pháp và pháp luật, không làm thay công việc của Nhà nước và các tổ chức khác trong hệ thống
chính trị. Đây là một trong những bài học lớn về xây dựng Đảng mà Đại hội XI đã chỉ ra, đồng
thời cũng là giải pháp đầu tiên xây dựng và phát huy vai trò của Đảng cầm quyền.
Hai là, phải hết sức coi trọng công tác tư tưởng và lý luận, nâng cao trình độ lý luận
chính trị cho toàn Đảng, đấu tranh làm thất bại mọi luận điệu phản động, mọi âm mưu “diễn
biến hòa bình”, đấu tranh phê phán những biểu hiện “tự diễn biến”, “tự chuyển hóa” trong nội
bộ, đồng thời phải hết sức coi trọng kiện toàn tổ chức Đảng từ Trung ương đến cơ sở. Sự lãnh
đạo của Đảng trong sự nghiệp xây dựng chủ nghĩa xã hội hiện nay phải tiếp tục dựa trên nền
tảng tư tưởng chủ nghĩa Mác - Lênin, hệ tư tưởng khoa học nhất, tiến bộ nhất, “chân chính
nhất”, “chắc chắn nhất” (Lời Hồ Chí Minh), phải vận dụng một cách sáng tạo vào điều kiện cụ

thể của nước ta và xu thế phát triển của thời đại. Để thực hiện tốt vấn đề này, Đảng cần phải
khắc phục triệt để chủ nghĩa giáo điều, chủ nghĩa kinh nghiệm, duy ý chí cũng như đấu tranh
chống chủ nghĩa cơ hội tiềm ẩn nguy cơ phản bội xã hội chủ nghĩa, phản bội lại giai cấp công
nhân, đi ngược lại lợi ích của nhân dân lao động.


Ba là, phải xây dựng Đảng, làm cho Đảng luôn xứng đáng là một Đảng cách mạng chân
chính, vững mạnh cả về chính trị, tư tưởng và tổ chức, có bản lĩnh chính trị vững vàng, tránh
được những sai lầm về đường lối, không bị phân liệt về tư tưởng và tổ chức, có quan hệ mật
thiết với nhân dân. Đảng phải xây dựng cho được đội ngũ đảng viên ưu tú, nêu tấm gương sáng
trong nhân dân về đạo đức, lối sống trong sạch và lành mạnh, có kỷ luật nghiêm minh, xứng
đáng với lòng tin yêu của nhân dân. Phải thật sự phát huy dân chủ trong sinh hoạt Đảng, thực
hiện đúng nguyên tắc tập trung dân chủ, chống quan liêu, bè phái, cục bộ địa phương... Đặc
biệt, chúng ta phải quyết tâm xây dựng Đảng theo tinh thần Nghị quyết Trung ương 4 (khóa
XI): “Kiên quyết đấu tranh ngăn chặn, đẩy lùi tình trạng suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo
đức, lối sống của một bộ phận không nhỏ cán bộ, đảng viên, nhất là lãnh đạo, quản lý các cấp
để nâng cao năng lực lãnh đạo, sức chiến đấu của Đảng, củng cố niềm tin của nhân dân đối với
Đảng”, khẳng định vai trò và vị thế của Đảng ta trong sự nghiệp lãnh đạo cách mạng Việt Nam.
Bốn là, Đảng lãnh đạo, xây dựng Nhà nước. Nhà nước là vấn đề căn bản của mọi cuộc
cách mạng, nên cần phải xây dựng Nhà nước đủ mạnh, đảm bảo quyền lực chính trị của nhân
dân lao động, tức là xây dựng nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa, Nhà nước thực sự của
dân, do dân và vì dân, trung thành với lợi ích của nhân dân, bảo vệ dân, động viên được đông
đảo quần chúng nhân dân tham gia vào quản lý Nhà nước. Muốn vậy phải tiến hành chống quan
liêu, tham nhũng, làm cho Nhà nước trở nên trong sạch, vững mạnh, đủ sức quản lý, điều hành
đất nước đi đúng quỹ đạo do Đảng cầm quyền đề ra.
Năm là, Đảng xây dựng và phát triển kinh tế - văn hóa phải theo quy luật khách quan,
chăm lo cải thiện đời sống vật chất, tinh thần cho nhân dân, chăm lo phát triển nguồn lực con
người, vì giải phóng con người là mục tiêu cao cả của chủ nghĩa xã hội. Cùng với đó là Đảng
phải xây dựng khối đại đoàn kết toàn dân. Cách mạng là sự nghiệp của quần chúng, sự thành
bại của cách mạng là dân có bảo vệ, ủng hộ hay không. Vì vậy, phải chăm lo và phát triển khối

đại đoàn kết toàn dân, trong đó nòng cốt là liên minh giai cấp công nhân với giai cấp nông dân
và tầng lớp trí thức. Đây là cơ sở xã hội của Đảng và Nhà nước ta, là nguồn gốc sức mạnh
quyết định sự bền vững hay sụp đổ của chế độ. Bài học “lấy dân làm gốc” do Chủ tịch Hồ Chí
Minh chủ trương vẫn còn nguyên giá trị đối với việc chăm lo xây dựng và củng cố khối đại
đoàn kết toàn dân của Đảng Cộng sản Việt Nam trong giai đoạn cách mạng hiện nay.
Tóm lại: Đảng Cộng sản cầm quyền, trước hết là Đảng có quyền lực trên thực tế. Quyền
lực đó thể hiện trực tiếp ở vai trò lãnh đạo của Đảng đối với Nhà nước, các tổ chức, đoàn thể
trong hệ thống chính trị và toàn xã hội. Đảng cầm quyền có nghĩa là Đảng hoạt động công khai,
hợp pháp, địa vị pháp lý của Đảng được pháp luật khẳng định, bảo vệ. Vai trò lãnh đạo của
Đảng được thể chế hóa thành luật và được ghi vào Hiến pháp - bộ luật cơ bản, cao nhất của Nhà
nước, được Nhà nước và xã hội thừa nhận. Những thành tựu của cách mạng dân tộc dân chủ và
xây dựng chủ nghĩa xã hội, đặc biệt là thành tựu to lớn của hơn 25 năm đổi mới đã chứng thực
tính đúng đắn của đường lối cách mạng do Đảng ta vạch ra và sự trưởng thành về năng lực lãnh
đạo của Đảng đối với Nhà nước và xã hội. Đảng Cộng sản cầm quyền đã, sẽ và mãi là nhân tố
quyết định mọi thắng lợi của sự nghiệp cách mạng Việt Nam, thực hiện thành công mục tiêu
“dân giàu, nước mạnh, xã hội dân chủ, công bằng, văn minh” và để Đảng ta luôn giữ vững vai trò
Đảng cầm quyền./.

Câu 5. Chức năng, vai trò của các tổ chức chính trị xã hội. Nâng cao vai trò của các tổ
chức chính trị - xã hội ở Việt Nam hiện nay - Những vấn đề đặt ra và giải pháp.
Trong xã hội hiện đại, sự tham gia của người dân vào các hoạt động chính trị xã hội được
coi như một biểu hiện của cách thức thực hiện quyền tự do dân chủ của mỗi công dân. Các
quyền tự do dân chủ của người dân, ở mức độ nào đó được thông qua các tổ chức chính trị - xã
hội. Các tổ chức chính trị - xã hội trong xã hội hiện đại, mà tiêu biểu là phương Tây có tên gọi


khụng ging nhau. ú l cỏc t chc c lp ra mt cỏch t nguyn ca ngi dõn, nm ngoi
nh nc. Cỏc t chc ny cú v trớ quan trng v trc tip tỏc ng, nh hng n chớnh
quyn thc hin nhng mc tiờu ca mt nhúm xó hi no ú.
Chc nng ca cỏc t chc chớnh tr - xó hi gm Chc nng i din. B sung v thay th

nh nc mt s lnh vc nht nh. Chc nng vn ng hnh lang, gõy ỏp lc. Chc nng
phn bin, giỏm sỏt chớnh quyn. V trớ, vai trũ ca cỏc t chc chớnh tr - xó hi, th hin Trong
xó hi hin i, mi h thng chớnh tr, cỏc t chc chớnh tr - xó hi l c s ca cỏc ng phỏi, ca
nh nc, l cu ni gia nhõn dõn vi chớnh quyn. Cỏc t chc chớnh tr - xó hi cú vai trũ to ln
trong i sng chớnh tr - xó hi, chỳng kt ni cỏc li ớch v iu tit cỏc mõu thun, cỏc xung t
trong xó hi. Cỏc t chc chớnh tr - xó hi khụng ch l ch da, hp tỏc vi nh nc, m nú
cũn l c s kim ch, i trng i vi nh nc, gi cho vic thc thi quyn lc nh nc tr
nờn cõn bng trong xó hi. Cỏc t chc chớnh tr - xó hi ỏp ng yờu cu phi tp trung hoỏ
quyn lc nh nc, chuyn mt b phn quyn lc nh nc cho s t qun cho cng ng, xó
hi, lm cho nh nc hot ng ngy cng hiu qu.
V Cỏc t chc chớnh tr - xó hi Vit Nam. Các tổ chức chính trị xã hội và các nhóm lợi
ích: đây là các tổ chức của công dân, những ngời có chung mục tiêu và muốn gây ảnh hởng
đến chính sách công. Trong XH hiện đậi vai trò của các tổ chức CTXH rất lớn và không
ngừng tăng lên đây là bộ phận quan trọng của XH công dân tích cực cùng NN và hệ thống
chính trị hiện thực hoá các lợi ích, cân bằng mối quan hệ giữa NN và XH, các tổ chức này
là cơ sở XH của các đảng chính trị, có ảnh hởng mạnh mẽ quan trọng trong việc hoạch định
chính sách của NN và khuynh hớng chính trị của các đảng. Chức năng chủ yếu của các tổ
chức này là đại diện biểu đạt lợi ích của các thành viên trong nhóm, bổ sung cho sự đại diện
của cácnghị sĩ; chức năng tuyên truyền giáo dục vận động cung cấp thông tin, chia sẻ thông
tinQuan nim v cỏc t chc chớnh tr - xó hi trong h thng chớnh tr Vit Nam. H thng chớnh tr
Vit Nam hin nay gm 3 b phn: Nh nc Cng ho xó hi ch ngha Vit Nam, ng Cng
sn Vit Nam, Mt trn T quc v cỏc t chc chớnh tr - xó hi. Cỏc t chc chớnh tr - xó hi
Vit Nam gm 6 t chc: Mt trn T quc Vit Nam,.Tng Liờn on lao ng Vit Nam. on
Thanh niờn cng sn H Chớ Minh. Hi Nụng dõn Vit Nam. Hi Liờn hip ph n Vit Nam. Hi
Cu chin binh Vit Nam. Cỏc t chc chớnh tr - xó hi Vit Nam hu ht t chc thnh bn cp:
Trung ng, cp tnh, cp huyn, cp xó c im ca cỏc t chc chớnh tr - xó hi Vit Nam. Do
ng Cng sn Vit Nam t chc v lónh o. c t chc rng khp theo cỏc cp hnh chớnh t
Trung ng n c s. Thng cú chc nng chớnh tr ni tri hn chc nng xó hi (nht l trong
giai on u).V V trớ, Cỏc t chc chớnh tr - xó hi cú v trớ quan trng, l mt trong 3 b phn
cu thnh h thng chớnh tr Vit Nam. Cỏc t chc chớnh tr - xó hi l c s chớnh tr ca chớnh

quyn nhõn dõn; l ni phỏt huy quyn lm ch ca nhõn dõn.V Chc nngcú Chc nng i in,
bo v li ớch ca cỏc thnh viờn, hi viờn. Tp hp xõy dng khi i on kt ton dõn, tng cng
s nht trớ v chớnh tr v tinh thn trong nhõn dõn. Tuyờn truyn vn ng nhõn dõn thc hin quyn
lm ch, thc hin ng li ca ng, chớnh sỏch, phỏp lut Nh nc. Tham gia xõy dng v
cng c chớnh quyn nhõn dõn. Giỏm sỏt v phn bin xó hi. Tham gia phỏt trin tớnh hu ngh,
hp tỏc vi cỏc nc trờn th gii. Cú vai trũ Tp hp, xõy dng khi i on kt ton dõn to s
ng thun xó hi thc hin nhng mc tiờu, nhim v cỏch mng ca ng. i in, bo v li
ớch v phỏt huy quyn lm ch ca nhõn dõn* Thc trng hot ng? Gii phỏp nõng cao vai trũ
ca cỏc t chc chớnh tr - xó hi hin nay. Tip tc i mi phng thc lónh o ca ng i vi
Mt trn T quc v cỏc t chc chớnh tr - xó hi. Tng cng s phi hp ca Nh nc i vi
cỏc t chc chớnh tr - xó hi. Tip tc i mi b mỏy cỏn b v phng thc hot ng ca cỏc t
chc chớnh tr - xó hi .Tng cng s lónh o ca ng i vi vic i mi ni dung,
phng thc hot ng ca Mt trn T quc Vit Nam v cỏc on th chớnh tr-xó hi trong
thi k y mnh cụng nghip hoỏ, hin i hoỏ t nc v hi nhp quc t . Nõng cao nhn


×