Tải bản đầy đủ (.pdf) (52 trang)

Khảo cứu cộng đồng người mông theo đạo tin lành qua một số nghi lễ (tóm tắt trích đoạn)

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (914.8 KB, 52 trang )

ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
TRƢỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC XÃ HỘI VÀ NHÂN VĂN
-------------------------------------

HOÀNG THỊ THÚY

KHẢO CỨU CỘNG ĐỒNG NGƢỜI MÔNG
THEO ĐẠO TIN LÀNH QUA MỘT SỐ NGHI LỄ
Chuyên ngành: Tôn giáo học
Mã số: 60 22 03 09

LUẬN VĂN THẠC SĨ TÔN GIÁO HỌC

NGƢỜI HƢỚNG DẪN KHOA HỌC: PGS. TS NGUYỄN QUANG HƢNG

Hà Nội – 2016


LỜI CẢM ƠN
Luận văn được hoàn thành dựa trên những tài liệu, tư liệu từ đề tài:
“Đời sống tôn giáo, tín ngưỡng của đồng bào Mông ở Việt Nam: Hiện trạng
và giải pháp” do PGS. TS Nguyễn Quang Hưng chủ trì nhóm nghiên cứu,
Trường Đại học KHXH & NV (Đại học Quốc gia Hà Nội) là cơ quan chủ trì.
Em xin trân trọng cảm ơn những giúp đỡ quý giá về mặt tài liệu, những
chuyến điền dã của đề tài, đặc biệt là sự giúp đỡ, động viên, chỉ bảo tận tình
của thầy hướng dẫn PGS. TS Nguyễn Quang Hưng. Em xin chân thành cảm
ơn thầy!
Em cũng xin gửi lời cảm ơn đến tất cả các thầy cô đã giảng dạy tại Bộ
môn Tôn giáo học nói riêng và Khoa Triết, trường Đại học Khoa học Xã hội
và Nhân nói chung đã giúp em có được những tri thức chuyên ngành quý giá.
Cảm ơn gia đình, bạn bè, những người đã luôn theo sát, giúp đỡ, động


viên em trong cuộc sống.
Xin trân trọng cảm ơn!


LỜI CAM ĐOAN

Tôi xin cam đoan đây là công trình nghiên cứu của riêng tôi. Các số
liệu, kết quả nêu trong luận văn là trung thực và có xuất xứ rõ ràng.

Tác giả luận văn

Hoàng Thị Thúy


MỤC LỤC
MỞ ĐẦU .......................................................................................................... 1
1. Lý do chọn đề tài ........................................................................................... 1
2. Tình hình nghiên cứu .................................................................................... 2
3. Mục đích, nhiệm vụ nghiên cứu .................................................................... 7
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu ................................................................. 7
5. Cơ sở lý luận và phương pháp nghiên cứu ................................................... 8
6. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn của Luận văn ................................................... 8
7. Bố cục của luận văn ...................................................................................... 8
NỘI DUNG....................................................................................................... 9
Chƣơng 1: KHÁI QUÁT VỀ HIỆN TRẠNG ĐỜI SỐNG TÔN GIÁO,
TÍN NGƢỠNG CỦA NGƢỜI MÔNG .......................................................... 9
1.1. Vài nét về cộng đồng ngƣời Mông .......................................................... 9
1.1.1. Lịch sử tộc người Mông và quá trình di cư vào Việt Nam ..................... 9
1.1.2. Về tổ chức xã hội, dòng họ và gia đình cùng với đời sống văn hóa vật
chất, tinh thần và những giá trị biểu hiện đặc trưng ...................................... 13

1.2. Vài nét về cộng đồng Mông theo Tin lành ở Việt Nam............................. 19
1.2.1. Khái quát chung về đạo Tin lành và quá trình du nhập đạo Tin lành vào
cộng đồng người Mông ở Tây Bắc. ................................................................. 19
1.2.2. Hiện trạng ............................................................................................. 26
1.2.3 Nguyên nhân của sự cải đạo .................................................................. 30
Tiểu kết chƣơng 1 .......................................................................................... 40
Chƣơng 2. ẢNH HƢỞNG CỦA ĐẠO TIN LÀNH ĐỐI VỚI VĂN HÓA
TRUYỀN THỐNG CỦA NGƢỜI MÔNG QUA KHẢO CỨU MỘT SỐ
NGHI LỄ ........................................................................................................ 41
2.1 Ảnh hƣởng của đạo Tin lành đến các nghi lễ cộng đồng..................... 41


2.1.1. Ảnh hưởng của đạo Tin lành đến quan hệ gia đình và nghi lễ thờ cúng
tổ tiên ............................................................................................................... 41
2.1.2. Sự thay đổi trong thiết chế xã hội và các nghi lễ cộng đồng ................ 56
2.2. Sự ảnh hƣởng của đạo Tin lành đối với các nghi lễ cá nhân ............. 66
2.2.1. Lễ cúng khi sinh con ............................................................................. 66
2.2.2. Nghi lễ cưới xin ..................................................................................... 74
2.2.3. Nghi lễ tang ma ..................................................................................... 90
Tiểu kết chƣơng 2 ........................................................................................ 105
KẾT LUẬN .................................................................................................. 106
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO ................................................... 109


DANH MỤC CÁC BẢNG BIỂU
Bảng 1.1. Số người theo đạo Tin lành ở các tỉnh Tây Bắc. ............................ 28
Bảng 1.2 Các lý do người Mông theo đạo như sau:........................................ 30
Bảng 1.2: Mức độ biết sử dụng nhạc cụ truyền thống dân tộc của thanh niên Mông.. 38
Bảng 2.1. Thay đổi trong tín ngưỡng tôn giáocủa người Mông theo đạo
Tin lành ........................................................................................................... 48

Bảng 2.2. Các lễ hội cộng đồng truyền thống của người Mông ..................... 56
Bảng 2.3. Các ngày lễ chính của người Mông theo đạo Tin lành ................... 58
Bảng 3.4. Quy trình tổ chức lễ cưới ................................................................ 84
Bảng 3.5. So sánh đám cưới của người Mông theo Tin lành và người Mông
truyền thống..................................................................................................... 84
Bảng 3.6. So sánh giữa đám tang của người Mông truyền thống và người
Mông theo Tin lành ....................................................................................... 101


MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài
Người Mông là một trong những dân tộc thiểu số có số dân đông ở
miền Bắc Việt Nam. Với địa bàn cư trú thường ở độ cao từ 800 đến 1000m
so với mực nước biển, người Mông trải rộng hầu hết các tỉnh vùng núi phía
Bắc Việt Nam, dọc theo biên giới Việt – Trung và Việt – Lào từ Lạng Sơn
đến Nghệ An. Do tập quán di cư nên một bộ phận người Mông đã di cư vào
Tây Nguyên từ những năm 1980, 1990. Địa bàn cư trú như vậy đã khiến
người Mông trở thành chủ nhân của những vùng núi cao, hiểm trở nhất và là
phiên, dậu của vùng biên giới phía Bắc nước ta. Do vậy, đời sống tinh thần,
vật chất của cộng đồng người Mông là vấn đề rất cần được quan tâm.
Từ giữa thập niên 1980 đến nay, sự bùng nổ trào lưu chuyển đổi sang
đạo Tin lành trong đồng bào các dân tộc thiểu số và đặc biệt là ở cộng đồng
người Mông đã dẫn tới nhiều biến đổi trong đời sống của đồng bào và nảy
sinh nhiều vấn đề xã hội. Những vấn đề này không chỉ nhận được sự quan
tâm từ phía chính quyền mà còn thu hút sự chú ý của các nhà khoa học. Đã có
nhiều công trình nghiên cứu và đánh giá khác nhau về vấn đề này. Các nhà
thần học Tin lành và những người Mông theo Tin lành cho rằng cải đạo mang
lại cho họ cuộc sống tốt đẹp hơn, đó là con đường của sự sáng tạo và hình
thành một nền văn hóa mới của người Mông nhằm thích ứng với trào lưu văn
hóa có tính toàn cầu hiện nay. Ngược lại, các nhà nghiên cứu cũng có những ý

kiến trái chiều về tác động tiêu cực của Tin lành đối với văn hóa tộc người, lo
ngại việc chuyển sang Tin lành là một mối đe dọa nguy hiểm, làm phai nhạt
và tàn lụi bản sắc văn hóa dân tộc và làm mất đi tính đa dạng của các nền văn
hóa. Ngoài ra, sự cải đạo này cũng đặt ra mối lo về an ninh của vùng biên giới
phía Bắc nước ta.

1


Về mặt văn hóa, sự cải đạo sang Tin lành của một bộ phận người Mông
có làm phong phú hơn đời sống văn hóa hay ngược lại làm tàn lụi đi các giá
trị văn hóa truyền thống đa dạng của họ? Tin lành đã làm biến đổi đời sống
văn hóa của cộng đồng người Mông như thế nào? Vì sao lại có sự thay đổi
đó? Những đánh giá và cách ứng xử với hiện tượng này như thế nào? Để tìm
lời giải đáp cho những vấn đề trên, tác giả chọn đã chọn: “Khảo cứu cộng
đồng người Mông theo đạo Tin lành qua một số nghi lễ” làm đề tài của
Luận văn.
2. Tình hình nghiên cứu
Các sách tham khảo của tác giả trong nước
Nghiên cứu về đạo Tin lành và văn hóa, lối sống của người theo đạo
Tin lành tác giả Nguyễn Thanh Xuân với hai cuốn sách Bước đầu tìm hiểu
đạo Tin lành trên thế giới và ở Việt Nam (2002) và Một số tôn giáo ở Việt
Nam (2007) đã khái quát trình bày về những vấn đề cơ bản của đạo Tin lành
trên thế giới và Việt Nam như lịch sử ra đời, phát triển, giáo lý, luật lệ, lễ
nghi, mối quan hệ và ảnh hưởng của đạo Tin lành đối với đời sống an ninh,
chính trị xã hội tại những nơi có đạo.
Viết về người Mông và văn hóa Mông truyền thống, tác giả Trần Hữu
Sơn với cuốn sách Văn hóa Hmông (1996)đã khảo sát những nét khái quát về
điều kiện tự nhiên, dân cư, dân số, đặc điểm kinh tế - xã hội, lịch sử tộc người
cũng như truyền thống lịch sử của người Mông tại tỉnh Lào Cai. Từ đó phân

tích những yếu tố mới trong đời sống văn hóa tinh thần và những vấn đề đặt
ra của người Mông tại đây.
Viết về người Mông Tin lành, cuốn Văn hoá tâm linh của người
Hmông ở Việt Nam - truyền thống và hiện đại (2005) của Vương Duy Quang,
đã bàn về bản chất và trình bày những nguyên nhân của việc một bộ phận

2


đồng bào Mông theo tôn giáo mới - đạo Tin lành, cũng như đã nêu lên những
tác động đến xã hội, cộng đồng của người Mông.
Trong cuốn Dân tộc Mông Sơn La với việc giải quyết vấn đề tín
ngưỡng tôn giáo hiện nay do Thào Xuân Sùng chủ biên (2009), các tác giả đã
nhìn vấn đề người Mông và tôn giáo từ góc độ của nhà quản lý, đề cập đến
thực tế người Mông ở Sơn La và đưa ra nguyên nhân của việc đạo Công giáo
và Tin lành thâm nhập và phát triển trong đời sống của người Mông tại địa
phương này, từ đó đã nêu ra những kinh nghiệm, giải pháp và phương hướng
giải quyết vấn đề tín ngưỡng, tôn giáo trong dân tộc Mông ở Sơn La.
Tác giả Nguyễn Văn Thắng (chủ biên) với cuốnGiữ “lý cũ” hay theo
“lý mới”. Bản chất của những cách phản ứng khác nhau của người Mông ở
Việt Nam với ảnh hưởng của đạo Tin lành(2009) đã bàn trực diện về sự
truyền bá của đạo Tin lành trong cộng đồng người Mông ở các tỉnh Tây Bắc
với những kết quả nghiên cứu điền dã tập trung vào những điểm dân cư đa số
theo đạo Tin lành của nhóm nghiên cứu Viện Dân tộc học. Tuy công trình
thực hiện trên quy mô còn khá khiêm tốn, nhưng với nhiều tranh minh họa và
một số bảng biểu, công trình phác họa “sự giằng co” về mặt tôn giáo xung
quanh vấn đề bảo vệ tín ngưỡng truyền thống với những tập tục văn hóa lâu đời
của tổ tiên hay theo đạo Tin lành trong cộng đồng người Mông ở Việt Nam.
Luận án, đề tài, dự án khoa học các cấp
Ban Tôn giáo Chính phủ (2005), đề án cấp nhà nước Khảo sát thực

trạng vấn đề đạo Tin lành ở khu vực Tây Nguyên, Tây Bắc, Tây Nam Bộ kiến nghị giải pháp. Công trình đề cập đến tổng thể nhiều khía cạnh về đời
sống kinh tế, văn hóa, an ninh xã hội, trong đó vấn đề tôn giáo và đặc biệt là
đạo Tin lành được nhấn mạnh. Từ đó đề án đưa ra dự báo, kiến nghị và giải
pháp cho công tác đối với đạo Tin lành trong tương lai.

3


Đỗ Quang Hưng (2006), chủ nhiệm Đề án Vấn đề Công giáo và Tin
lành trong các dân tộc thiểu số ở Tây Nguyên, Tây Bắc những năm gần đây.
Đề án phân tích rõ về nguồn gốc, lịch sử về tộc người, văn hóa, tôn giáo của
các dân tộc nơi đây, trong đó yếu tố tôn giáo đã có những tác động làm thay
đổi đời sống xã hội ở khu vực. Qua đó đề án đã đưa ra những dự báo và giải
pháp cho công tác tôn giáo đối với hai khu vực trên.
Đặng Nghiêm Vạn, chủ nhiệm đề tài cấp Bộ (2006), Về tình hình phát
triển của đạo Tin lành ở miền núi phía Bắc, Trường Sơn – Tây Nguyên. Đề tài
phân tích có 5 nguyên nhân đạo Tin lành phát triển ở hai khu vực trên, chỉ ra
những hệ quả của việc theo đạo Tin lành theo hai khía cạnh cả tích cực và tiêu
cực. Trên cơ sở đó đề tài đã đưa ra các giải pháp, kiến nghị, đề xuất với các
cấp, các ngành có những chính sách cụ thể, phù hợp để công tác đối với đạo
Tin lành được tốt hơn.
Đề án cấp nhà nước Nghiên cứu đánh giá xu hướng tín ngưỡng của
cộng đồng dân tộc Mông theo đạo Tin lành và một số hiện tượng tôn giáo mới
vùng Tây Bắc (2015) do Nguyễn Quang Hưng chủ nhiệm đề tài đã tiến hành
nghiên cứu đã: Thứ nhất, làm rõ những vấn đề lý luận về những biến đổi đời
sống tôn giáo, tín ngưỡng của cộng đồng Mông ở Tây Bắc. Thứ hai, đánh giá
thực trạng và nhận diện những điểm nóng cộng đồng người Mông theo đạo
Tin lành ở Tây Bắc. Thứ ba, chỉ ra vấn đề các hiện tượng tôn giáo mới ở Tây
Bắc như hiện trạng, nhận diện những điểm nóng và hệ lụy xã hội. Thứ tư đề
xuất các chính sách ứng xử của các cấp chính quyền trong và ngoài vùng Tây

Bắc đối với các vấn đề đạo Tin lành. Thứ năm, đề xuất những giải pháp xây
dựng cộng đồng các dân tộc thiểu số ở Tây Bắc phát triển bền vững. Có thể
nhận định đây là một công nghiên cứu một cách toàn diện các khía cạnh cụ
thể của đời sống tín ngưỡng, tôn giáo, văn hóa của cộng đồng người Mông tại
Tây Bắc.

4


Về luận án, tác giả Nguyễn Quỳnh Trâm với luận án Văn hóa của
người Hmông theo đạo Tin lành ở tỉnh Lào Cai (2016) đã có những nghiên
cứu về quá trình truyền bá đạo Tin lành trong vùng đồng bào Mông ở Lào Cai
và những nguyên nhân của việc một bộ phận người Mông theo đạo Tin lành.
Luận án cũng chỉ ra quá trình chuyển đổi từ văn hóa tín ngưỡng truyền thống
sang đạo Tin lành trong người Mông ở tỉnh Lào Cai, cùng những tác động
tích cực và tiêu cực của việc người Mông theo Tin lành đối với văn hóa, xã
hội. Từ đó chỉ việc nghiên cứu những vấn đề đặt ra và xu hướng vận động của
việc theo đạo Tin lành của người Hmông ở tỉnh Lào Cai, cùng những đề xuất,
kiến nghị.
Một số bài viết của các nhà nghiên cứu, học giả trên tạp chí
Cùng với các công trình được xuất bản, viết về người Mông và văn hóa
Mông, còn có những bài viết đăng trên các tạp chí. Nhà nghiên cứu Vương
Duy Quang đã có hàng loạt bài viết về đạo Vàng Chứ mà ông gọi là hiện
tượng tôn giáo mới ở người Mông ở Việt Nam, về truyền thống văn hóa dân
tộc trước các hiện tượng tôn giáo mới. Vương Duy Quang, Vấn đề người
Hmông theo đạo Kitô hiện nay, tạp chí Dân tộc học, số 4-1999, ở bài viết này,
Tác giả Vương Duy Quang đã khái quát văn hoá truyền thống của người
Mông trên cả nước, nguyên nhân người Mông theo và không theo đạo Thiên
Chúa, từ đó đưa ra một số giải pháp cho vấn đề người Mông theo đạo; Vấn đề
sử dụng văn hóa truyền thống của các dân tộc thiểu số trong quá trình phát

triển đạo Tin lành qua khảo sát ở người Hmông, Tạp chí Khoa học công an,
số 2-2003; Văn hóa tâm linh của người Hmông ở Việt Nam truyền thống và
hiện đại, Nxb Văn hóa Thông tin, H.2005, Tác phẩm đã nêu những nét đại
cương về người Mông ở Việt Nam và những biến đổi trong văn hoá tâm linh
của người Mông; Hiện tượng “xưng Vua” ở người Hmông, Tạp chí Dân tộc
học, số 2-2004.
Nguyễn Văn Thắng có nhiều bài nghiên cứu về vấn đề được đăng trên
các tạp chí chuyên ngành này như bài viết “Về động thái ứng xử với bệnh tật
5


của người Hmông” tạp chí Dân tộc học, số 3, 2006, trang 18 - 29. Ứng xử với
bệnh tật của người Mông được chế định bởi văn hóa Mông, trong đó tôn giáo
là một trong những yếu tố quan trọng và làm thành một phần bản sắc riêng
của họ. Vì vậy, việc sử dụng hệ thống y học cổ truyền là chính thì người
Mông sẽ bảo lưu được cơ bản bản sắc riêng trong văn hóa, nhưng hạn chế
trong việc kiểm soát bệnh tật. Trái lại, khi áp dụng hệ thống y học hiện đại là
chính, người Mông theo Ki-tô giáo kiểm soát được bệnh tật, nhưng lại làm
mờ nhạt dần bản sắc riêng trong cách ứng xử với bệnh tật của họ.
Nguyễn Thanh Xuân, Vài nét khái quát về tôn giáo trong vùng dân tộc
thiểu số ở Việt Nam, Tạp chí Nghiên cứu tôn giáo, số 2-2007. Vi Hoà Bắc,
Bước đầu tìm hiểu ảnh hưởng của đạo Tin lành tới văn hóa truyền thống ở
vùng đồng bào Hmông, huyện Bắc Hà, tỉnh Lào Cai, Tạp chí Dân tộc học, số
1-1997. Tác giả đã nêu lên quá trình thâm nhập đạo Kitô vào huyện Bắc Hà,
qua đó cho thấy bức tranh toàn cảnh về tình hình theo đạo tại địa phương. Từ
đó nêu lên những ảnh hưởng của đạo tới văn hoá truyền thống cũng như
nguyên nhân tiếp nhận đạo của đồng bào Mông.
Những bài nghiên cứu khác như: Một số vấn đề thực tiễn về đạo Tin
lành ở các dân tộc thiểu số vùng Tây Bắc hiện nay của tác giả Nguyễn Văn
Minh và Hồ Ly Giang, đăng trên tạp chí Dân tộc học số 5 (173), 2011, trang 3

– 14 gồm ba nội dung chính: Nội dung thứ nhất giới thiệu về tình hình đạo
Tin lành ở Tây Bắc; nội dung thứ hai đưa ra những nguyên nhân chủ yếu dẫn
đến việc đạo Tin lành phát triển ở vùng Tây Bắc, từ nguyên nhân chủ quan
(như đường lối chính sách, cán bộ đảng viên tại địa phương, tổ chức hệ thống
chính trị) đến nguyên nhân khách quan (như điểm lợi thế từ bản thân của đạo
Tin lành); Nội dung thứ ba trình bày những ảnh hưởng của sự phát triển Tin
lành ở Tây Bắc, từ ảnh hưởng trên lĩnh vực phát triển kinh tế đến sự ảnh
hưởng trong đời sống xã hội, văn hóa.
Các công trình nghiên cứu được công bố ở trong nước và ngoài nước
khá phong phú và có giá trị liên quan đến người Mông, văn hóa người Mông
6


nói chung hoặc người Mông ở một địa phương cụ thể; về đạo Tin lành, đạo
Tin lành ở Việt Nam. Những kết quả nghiên cứu của các tác giả trên không
chỉ là nguồn tư liệu rất quan trọng và bổ ích để tác giả kế thừa trong quá trình
thực hiện Luận văn mà còn là cách tiếp cận, giải thích lập luận để tác giả học
tập. Tuy nhiên, các nghiên cứu về quá trình người Mông theo Tin lành và nhất
là việc chuyển đổi từ văn hóa truyền thống sang văn hóa Tin lành của một bộ
phận người Mông chưa được đề cập nhiều. Vì vậy tác giả chọn vấn đề này để
làm để tài cho Luận văn của mình giúp cho mọi người có cái nhìn chung nhất,
cụ thể nhất.
3. Mục đích, nhiệm vụ nghiên cứu
3.1. Mục đích
Đề tài được thực hiện với mục đích tìm hiểu về ảnh hưởng của Tin lành
đến thay đổi văn hóa tộc người Mông biểu hiện qua một số nghi lễ. Qua đó
nhận diện ra người Mông theo đạo Tin lành
3.2. Nhiệm vụ nghiên cứu
Để thực hiện được mục đích nghiên cứu trên, đề tài cần triển khai ba
nhiệm vụ cụ thể sau:

- Tìm hiểu quá trình du nhập và nguyên nhân phát triển của đạo Tin
lành trong cộng đồng Mông.
- Khảo sát sự thay đổi trong việc thực hành một số nghi lễ giữa hai
cộng đồng người Mông truyền thống và người ông theo đạo Tin lành.
- Đánh giá về sự thay đổi này.
4. Đối tƣợng và phạm vi nghiên cứu
- Luận văn tập trung khảo sát, nghiên cứu văn hóa truyền thống của
người Mông, văn hóa của người Mông theo đạo Tin lành ở 6 tỉnh Tây Bắc là
Hòa Bình, Sơn La, Điện Biên, Lai Châu, Lào Cai, Yên Bái, trong phạm vi địa
lý hữu ngạn sông Hồng.

7


- Thời gian thực hiện Luận văn: Luận văn được thực hiện từ 12/2015
đến 12/2016.
5. Cơ sở lý luận và phƣơng pháp nghiên cứu
- Luận văn được tiến hành trên cơ sở phương pháp luận của chủ nghĩa
Mác– Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh và quan điểm của Đảng Cộng sản Việt
Nam về tôn giáo và phương pháp luận tôn giáo học.
- Một số phương pháp nghiên cứu được sử dụng trong Luận văn này
gồm có:
Phương pháp nghiên cứu lý thuyết: Thu thập các tài liệu liên quan đến
đề tài, dựa trên những tài liệu nghiên cứu, phân tích, chọn lọc những thông tin
cần thiết cho đề tài.
Phương pháp phân tích, tổng hợp tài liệu: Sau khi thu thập tài liệu,
phương pháp phân tích, tổng hợp được sử dụng nhằm xử lý thông tin.
6. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn của Luận văn
- Luận văn cung cấp một số luận cứ, làm cơ sở cho đội ngũ cán bộ quản
lý các cấp, các ngành trong hệ thống chính trị tham mưu, đề xuất chủ trương,

giải pháp về công tác tôn giáo đối với đạo Tin lành nói chung, công tác với
việc bảo tồn, phát huy các giá trị văn hóa Mông truyền thống và cách ứng xử
với các yếu tố văn hóa mới.
- Luận văn có thể làm tư liệu tham khảo cho việc nghiên cứu, giảng dạy
về công tác đối với đạo Tin lành trong các cơ sở nghiên cứu, đào tạo.
7. Bố cục của luận văn
Ngoài phần mở bài, kết luận, mục lục và danh mục tài liệu tham khảo,
Luận văn được chia thành 2 chương 4 tiết.

8


NỘI DUNG
Chƣơng I: KHÁI QUÁT VỀ HIỆN TRẠNG ĐỜI SỐNG TÔN GIÁO,
TÍN NGƢỠNG CỦA NGƢỜI MÔNG
1.1. Vài nét về cộng đồng ngƣời Mông
1.1.1. Lịch sử tộc người Mông và quá trình di cư vào Việt Nam
Người Mông có nhiều tên gọi khác nhau: Mèo, Mẹo, Mieo, Hmông.
Còn người Mông vẫn tự gọi mình là HMôngz, đọc theo âm ngữ Việt là
“Mông” do trong tiếng Mông âm H là âm câm. Luận văn sử dụng cách viết
tên tộc người là “Mông” căn cứ vào Công văn số 903 – CV/HĐDT, ngày
04/12/2001 của Hội đồng Dân tộc Quốc hội khóa X “đề nghị từ nay đọc và
viết tên tộc người Mông là “Mông”.
Về nguồn gốc tộc người Mông, có nhiều ý kiến khác nhau giữa các nhà
nghiên cứu. Nhà truyền giáo Savia F.M tác giả cuốn “Lịchsử người Mèo” là
một trong những học giả phương Tây đầu tiên tìm hiểu về nguồn gốc tộc
người này dựa trên những truyền thuyết. Ông đoán rằng người Mông có từ
thời cổ đại ở vùng Trung Á, giữa sông Ti-gre và sông Eu-phrate. Về sau họ di
dân đến vùng đồng khô Xi-bê-ri rồi chuyển cư đến khu vực sông Hoàng Hà ở
vùng Hồ Nam, Hồ Bắc ngày nay, từ đó lan ra các địa vực khác.

Cũng có quan điểm khác cho rằng người Mông xuất xứ từ vùng Trung
Á lên Xi-bê-ri sau chia làm hai nhánh, một nhánh di cư vào Trung Quốc, một
nhánh dạt ra quần đảo Nhật Bản. Bên cạnh những ý kiến trái chiều về nguồn
gốc người Mông, hầu hết các nhà nghiên cứu đều đồng ý rằng người Mông
từng sinh sống ở khu vực sông Hoàng Hà và là chủ nhân của nhà nước Tam
Miêu. Tên gọi Tam miêu là căn cứ vào ba màu sắc trang phục của người
Mông lúc đó (Hồng miêu, Bạch miêu, Thanh miêu).

9


Theo truyền thuyết của người Mông, sau thất bại của thủ lĩnh người
Mông là Suy Vưu do chống lại Hoàng Đế đã bị Huy Viên đánh bại, người
Mông buộc phải di cư để tồn tại, hay theo cách nói của người Mông thì đó là
“chạy chết”, di cư để thoát khỏi sự tàn sát của kẻ thù, để tìm đường sống cho
mình và cho các thế hệ kế tiếp. Vùng đất cuối cùng của người Mông ở Hồ
Nam, Hồ Bắc, Quảng Tây. Hải Nam, Tứ Xuyên, Quý Châu và Vân Nam bị
nhà Thanh thôn tính vào thế kỉ XVIII và đầu thế kỉ XIX. Để tránh họa diệt
vong họ buộc phải thiên di về phía Nam, chọn những vùng núi cao làm nơi
sinh sống. Dân ca Mông miêu tả sự kiện này như sau:
“Người Mèo ta ở Quý Châu,
Quý Châu là đất nước ta,
Vì người Mèo không có chữ;
Thua kiện nên ta mới đi…” [12,170]
Người Mông từ di cư vào Việt Nam bằng nhiều con đường và nhiều đợt
nhưng có 3 đợt đông nhất.
Đợt một: Đời nhà Minh, ban hành chính sách “Cải thổ quy lưu’’ đồng
thời cho người Hán đến vùng người Mông cai trị người Mông, người Mông
đã đứng dậy chống lại chính sách này nhưng bị đánh dẹp. Người Mông di cư
xuống phía Nam vào Mèo Vạc, Đồng Văn (Việt Nam) cách đây khoảng 350

năm, vào cuối nhà Minh đầu nhà Thanh .
Đợt hai: cách đây khoảng 200 năm, đời nhà Thanh có đạo luật quy định
5 hộ Mông mới được dùng một con dao mỏng, cấm không được dùng kim khí
làm công cụ. Vì phẫn uất người Mông đã nổi dậy chống lại, phong trào bị đàn
áp, họ phải lánh nạn xuống các nước Đông Nam Á và di cư vào Đồng Văn,
Hà Giang, Lào Cai.

10


Đợt ba: cuối triều Mãn Thanh phong trào nông dân “Thái bình thiên
quốc” đã nổ ra chống lại triều đình trong đó có người Mông. Đến năm 1872,
phong trào đấu tranh của người Mông bị thất bại. Đại bộ phận người Mông
phải di cư lánh nạn, đây là cuộc thiên di lớn vào Việt Nam với quy mô trên 10
ngàn người. Ngoài ba đợt di cư lớn kể trên, hàng năm vẫn có hiện tượng
người Mông di cư nhỏ lẻ vào Việt Nam.
So với các dân tộc khác, người Mông vào Việt Nam khá muộn. Họ đến
khi những vùng thấp đã có cư dân các dân tộc khác cư trú. Với bản tính ngại
tiếp xúc, va chạm cùng tâm thế “chạy chết” của mình, họ đã chọn những vùng
núi cao, nơi các tộc người khác chưa sinh sống làm địa vực cư trú của mình.
Điểm đầu tiên, họ đặt chân đến là Mèo Vạc trên cao nguyên Đồng Văn
(Hà Giang), nơi địa đầu Tổ quốc. Vì thế, người Mông sinh sống ở Việt Nam
đều coi cao nguyên Đồng Văn là quê hương đất tổ của mình:
“Cá ở dưới nước,
Chim bay trên trời,
Chúng ta sống ở vùng núi cao.
Và con chim có tổ,
Người Mèo ta cũng có quê,
Quê ta ở Mèo Vạc.” [40,30]
Người Mông ở Việt Nam hiện nay sinh sống chủ yếu ở các tỉnh miền

núi phía Bắc. Sau ngày giải phóng miền Nam (1975), một bộ phận Người
Mông di cư vào sinh sống ở các tỉnh Tây Nguyên.
Nhìn chung, địa vực cư trú chủ yếu của người Mông hiện nay vẫn là
vùng núi cao, nơi có điều kiện tự nhiên rất khó khăn. Về địa vực của người
Mông ở vùng Tây Bắc, ngạn ngữ Thái có câu :
“Xá ăn theo lửa
11


Thái ăn theo nước
Mông ăn theo sương mù”
Người Mông luôn cư trú ở những nơi cao nhất của miền núi, họ phát
rừng, cày xới và làm nương thâm canh. Tại vùng biên giới Việt – Trung, nơi
có địa hình chủ yếu là núi đá cao, cây cối thưa, khó canh tác thì mật độ người
Mông khá cao, khoảng 70-90 người/km2 [40,37]. Vùng biên giới Việt – Lào,
kéo dài từ phía tây tỉnh Lai Châu xuống phía tây hai tỉnh Thanh Hóa và Nghệ
An với nhiều núi đất, thực vật phong phú và đất canh tác nhiều, mật độ người
Mông sống tại đây thấp hơn, khoảng 30-40 người/km2 [40,38].
Địa vực cư trú chủ yếu là các vùng núi cao, giao thông đi lại hết sức
khó khăn tạo nên một khoảng cách biệt nhất định giữa cộng đồng người Mông
và xã hội, hạn chế giao lưu văn hóa, lạc hậu về tri thức khoa học và kỹ thuật,
con người chưa đủ khả năng giải thích các hiện tượng tự nhiên. Đó là một
trong những nguyên nhân làm nảy sinh và phát triển tín ngưỡng, tôn giáo.
Khí hậu vùng cao cũng có nhiều bất lợi đối với con người, cây trồng và
vật nuôi. Mùa mưa quá ẩm ướt, mùa khô lại quá hanh heo, thêm vào đó gió
Tây và lũ lụt, ở những nơi thảm thực vật đã mất xuất hiện sương muối nhiều,
ảnh hưởng đến trồng trọt, chăn nuôi.
Để thích ứng với điều kiện tự nhiên khắc nghiệt ấy, người Mông đã tự
xác lập cho mình một hệ thống nông nghiệp hoàn chỉnh. Về trồng trọt, ngô là
cây lương thực chủ yếu, theo lối canh tác “đao canh, hỏa chủng” nghĩa là

phát, đốt nương rồi chọc lỗ tra hạt. Họ trồng lúa ở những nơi đất rừng gỗ, tre
hay nứa mà đất đỏ, vàng, độ ẩm nhiều, đất kết lại thành hạt.
Người Mông có những giống vật nuôi nổi tiếng như giống bò Đồng
Văn. Quy mô chăn nuôi chủ yếu theo hộ gia đình, chủ yếu để phục vụ cho
nhu cầu sản xuất và cung cấp thực phẩm cho các dịp hội hè và cúng bái…

12


Một số nghề thủ công như trồng lanh, dệt vải, làm giấy, đóng giầy, rèn,
đúc, mộc,… được sản xuất nhỏ lẻ, theo quy mô hộ gia đình và có tính chất
thời vụ. Cuộc sống của đồng bào Mông gắn bó và phụ thuộc vào rừng nên họ
có nhiều kinh nghiệm hái lượm, nắm bắt từng loại cây theo mùa vụ.
1.1.2. Về tổ chức xã hội, dòng họ và gia đình cùng với đời sống văn hóa vật
chất, tinh thần và những giá trị biểu hiện đặc trưng
Người Mông theo thiết chế xã hội phụ quyền với cấu trúc xã hội cơ bản
là gia đình, dòng họ và làng bản. Người Mông chưa bao giờ có một đất nước
riêng, họ coi những rẻo núi cao là nhà, là quê hương của họ. Khái niệm đất
nước chỉ xuất hiện trong văn học dân gian, trong dân ca của người Mông mà
thôi. Làng (dò; người Mông Xanh gọi là giào) là đơn vị xã hội duy nhất có tên
gọi và quy ước lãnh địa trong xã hội truyền thống của người Mông [40,83].
Tên làng người Mông có thể được đặt theo tên dòng họ đến lập làng đầu tiên,
theo đặc điểm địa lý tự nhiên, dấu ấn riêng biệt hay địa danh điển tích hoặc là
gọi tên theo tộc người đã ở từ trước. Đây là nơi có đất canh tác và nguồn nước
cho sinh hoạt và trồng trọt. Cư dân trong làng có thể là thuần Mông hoặc đan
xen với các dân tộc khác. Nếu là nơi có nhiều dân tộc sống thì người Mông
thường quần tụ lại thành một khu vực riêng. Đặc điểm cư trú theo kiểu da báo
này phản ánh truyền thống khép kín và tính cố kết cộng đồng của người
Mông, tuy vậy họ luôn sống hòa hợp, tôn trọng phong tục tập quán của các
dân tộc khác. Những quy ước, luật tục do dân làng đặt ra và tự nguyện tuân

theo như là cách quản lý làng. Hai loại quan hệ chủ yếu trong làng là quan hệ
theo dòng họ và quan hệ hàng xóm láng giềng. Trong xã hội truyền thống,
trưởng làng là người có vai trò quan trọng, do dân làng suy tôn nên rất được
tôn trọng. Trưởng làng có thể là trưởng họ của một dòng họ lớn, là người giỏi
giao thiệp, thông thạo phong tục, tập quán, lý lối. Trong xã hội trước đây,
trưởng làng là người đứng ra duy trì các luật tục, tộc phong, phát ngôn, xử

13


phạt, hòa giải, truyền đạt chiếu chỉ, mệnh lệnh của quan trên. Một đặc điểm
nổi bật khi đến làng của người Mông, dù cư trú bất kì nơi đâu cũng dễ nhận
thấy là: trong từng khuôn viên của mỗi gia đình đều được rào bằng tường đá
hoặc rào bằng tre gỗ. Cách làm trên nhằm mục đích phòng thủ, bảo vệ người,
gia súc và của cải nếu có sự tấn công từ bên ngoài, phòng thú dữ.
Đơn vị hạt nhân trong xã hội người Mông là gia đình. Trong gia đình
người Mông có sự phân công lao động chặt chẽ theo giới. Đàn ông là người
sẽ gánh vác việc đốt than, rèn đúc, lấy vật liệu làm nhà, dựng nhà, khai
mương, cày bừa, chài cá, giết mổ, cúng khấn mời tổ tiên. Ngoài ra là những
công việc thuộc về bổn phận của người phụ nữ như xe lanh, dệt, nhuộm vải,
thêu thùa, chăn nuôi và nội trợ. Những công việc lớn trong gia đình như khai
ruộng, tậu trâu bò, làm nhà sẽ có sự bàn bạc cùng quyết định của cả hai vợ
chồng. Theo chế độ gia đình phụ quyền, chủ nhà là người đàn ông, người cha,
khi người cha không còn thì quyền chủ nhà sẽ được chuyển sang cho người
con trai lớn. Chủ nhà sẽ là người có quyền quyết định mọi việc lớn nhỏ trong
gia đình, thực hiện nghi lễ thờ cúng tổ tiên và làm công việc đối ngoại, tham
gia các công việc của dòng họ, làng bản. Tục ngữ Mông có câu: “hổ chết còn
da, bò chết còn sừng, cha chết còn con trai” [40,71], quyền lợi của người đàn
ông được đề cao, phụ nữ không được coi trọng.
Trong dân tộc Mông, dòng họ và quan hệ dòng họ có vai trò quan trọng

là một đặc điểm văn hóa hiếm thấy ở các dân tộc khác. Quan hệ dòng họ
không chỉ cấu thành nên xã hội Mông là còn là điểm nhấn quan trọng thể hiện
bản sắc tộc người. Quan niệm dòng họ của người Mông là một cộng đồng
cùng tổ tiên, cận huyết thống, cùng do ông bà tổ tiên sinh ra và nhất là cùng
có các nghi lễ, cách thức và nội dung làm ma giống nhau. Dòng họ người
Mông là cơ sở để duy trì tính cố kết tộc người. Sống trong điều kiện luôn bị
phân tán, xã hội không có một thiết chế nào duy trì sự thống nhất thì thiết chế

14


dòng họ nổi lên như một tổ chức chặt chẽ, trở thành quy ước, luật tục chung
đảm bảo cho xã hội người Mông trật tự, ổn định. Sự cố kết đó ở người Mông
vượt lên sự phân tán về địa bàn cư trú và sự chia cắt bởi ranh giới hành chính.
Do địa vực cư trú hiểm trở, phân tán nên dòng họ người Mông cũng buộc phải
phân tán theo. Dù ở xa nhưng người trong cùng họ đều chịu sự chi phối bởi
thiết chế “cùng ma” của dòng họ. Nhờ đó người Mông đã tồn tại một cách
quật cường, vượt qua những thử thách khắc nghiệt và bi thảm trong lịch sử.
Tuy vậy, đặc điểm quan hệ này cũng có mặt hạn chế do tính khép kín, cục bộ,
hẹp hòi, tranh giành về lợi ích và địa vị xã hội mang lại.
Dòng họ của người Mông là một bộ máy tự quản riêng gồm trưởng họ, bà
cô, “người cầm quyền ma, quyền khách”, cùng các vị già làng trong dòng họ.
Trưởng họ là người có đạo đức, sống ngay thẳng, am tường về các
chuẩn mực, lý lối, cách thứ cưới gả, tang lễ, làm ma, các lễ thức cúng bái.
Ông là người có quyền quyết định công việc xã hội và đời thường trong cộng
đồng dòng họ.
Bà cô (Fâux hay Pu Nhăngx) dù là người đã lấy chồng, làm ma dòng
họ khác nhưng vẫn có trách nhiệm lớn với con cháu của anh em trai. Có thể
có nhiều bà cô nhưng chỉ có một bà cô uy tín đại diện tham gia vào công việc
chung của dòng họ. Bà cô là người giám sát, phối hợp, trợ giúp cho trưởng họ

và các thành viên trong dòng họ về vấn đề thực hiện các quy định của dòng
họ. Bà cô có vai trò quyết định trong việc hôn nhân, cưới xin hay thậm chí là
đưa ra quyết định liên quan đến việc sửa đổi “ký hiệu” tín ngưỡng của dòng
họ khi thấy có điều cần thiết .
“Người cầm quyền ma, quyền khách” (Cho Đaz Khuô) có nhiệm vụ
như một cố vấn cho trưởng họ trong việc quyết định các công việc liên quan
đến đối ngoại. Đó là người rất am tường về nghi lễ, cách thức làm ma của

15


dòng họ và trực tiếp phụ trách những việc liên quan đến tín ngưỡng, tôn giáo
của dòng họ mình.
Tuy không phải là một bộ máy hành chính nhưng khi xảy ra những sự
việc trong dòng họ hoặc giữa các dòng họ với nhau thì những người trong tổ
chức dòng họ sẽ bàn bạc với nhau để tìm hướng giải quyết. Tổ chức dòng họ
xử lý công việc dựa vào luật tục, quy định của cộng đồng và một phần tình
cảm. Nó mang tính dân chủ và mọi thành viên trong dòng họ đều chấp nhận,
thực hiện một cách tự nguyện.
Trong sinh hoạt hàng ngày của người Mông, trân trọng nâng niu việc
ăn uống cũng chính là thể hiện sự cẩn trọng trong quan hệ giao tiếp và không
chỉ thái độ ứng xử trong gia đình, làng xóm, khi đến nhà người khác và khi
có khách đến nhà mà còn thể hiện cả việc ứng xử với tiên tổ, thần linh, vạn
vật. Trong dịp lễ tết, hay nhà có khách thường được thiết đãi bằng thịt gà,
rượu. Xưa kia mỗi khi ngồi vào mâm rượu, chủ nhà sẽ lặng lẽ nhúng tay vào
chén rượu búng vài giọt lên trời, vài giọt xuống đất, vài giọt qua hai vai với ý
nghĩa cảm tạ trời đất, tiên tổ và chư vị thần linh. Bữa cơm người Mông kị rơi
vãi, nói năng thô tục, kỵ cãi nhau, chẳng may có cơm vãi thì không được
giẫm lên sợ sẽ gây cho thần lương thực nổi giận [33;181,182]. Đó là những
nét đẹp trong văn hóa người Mông cần phải được giữ gìn và phát huy.

Các vùng người Mông sinh sống thường có chợ phiên. Chợ - nơi giao
lưu văn hóa, đậm đà bản sắc vùng cao. Chợ phiên người Mông không gặp
cảnh mời chào chèo kéo mua hàng, mà chỉ thấy những gương mặt thuần phác
trong bộ quần áo dân tộc sặc sỡ. Họ đến chợ ngoài mục đích mua bán còn là
để vui với chợ, vui với khách đi chợ. Nếu như có ai đó múa khèn lập tức được
mọi người kéo đến cùng tham gia. Đối với đàn ông vùng cao thì chợ cũng là
nơi để một tuần họ có thể gặp gỡ cùng uống rượu bên chảo thắng cố. Rượu
đặc sản của người Mông được nhiều người biết đến bởi độ nặng và vị gắt rất

16


đặc trưng đó là rượu ngô. Và cũng ở những phiên chợ, nhiều trai gái đã nên
vợ nên chồng. Cuộc sống cứ diễn ra như vậy, thật đơn giản, tự nhiên, không
cầu kỳ. Người dân cũng rất đỗi thật thà, chất phác. Họ không biết nói dối,
chẳng mấy khi tính toán thiệt - hơn. Chợ tình được tổ chức mỗi năm một lần
(chợ tình Sa Pa) là một nét văn hoá đẹp đặc sắc của người Mông. Hay với chợ
Bắc Hà, với cao nguyên Bắc Hà vẫn mang vẻ đẹp nguyên sơ với những con
người thân thiện, từ giữa chợ ngước nhìn những triền núi là bạt ngàn mận tam
hoa, mùa hoa nở là trắng muốt cả một vùng nên địa danh này còn có tên "cao
nguyên trắng", gọi theo thiên bút kí của một nhà văn người Mông.
Trang phục truyền thống biểu hiện ngay bản sắc của mỗi dân tộc, nhất
là trang phục của phụ nữ. Trang phục Mông thể hiện trên bộ váy, áo truyền
thống của người phụ nữ, khi đã mặc thì ở bất kì đâu thì cũng không thể lẫn
với các tộc người khác. Trang phục của người Mông đồng nghĩa với vải lanh.
Người Mông có câu: "Đói đến chết cũng không ăn thóc giống. Khi khuất núi
phải mặc đồ Mông". Kiểu trang phục đó còn giúp cho những ai thường quan
tâm tìm hiểu tộc người này nhận diện ra các ngành Mông khác nhau như:
Mông đu, Mông hoa, Mông lềnh, Mông si… Đặc biệt, trang phục Mông
không chỉ mang tính thẩm mĩ thuần tuý mà nó còn chứa đựng đặc thù văn hoá

truyền thống trong thế giới quan, nhân sinh quan của người Mông và góp
phần tạo nên sự hấp dẫn về văn hoá vùng miền trong một quốc gia đa dân tộc.
Trang phục của phụ nữ Mông rất đa dạng về màu sắc, gồm áo xẻ ngực,
váy, thắt lưng và xà cạp. Áo có cổ chữ V, hai bên được nẹp thêm vải màu tùy
thích, phía sau là một bức thêu hình chữ nhật được trang trí hoa văn hài hòa.
Hai ống tay áo thường thêu những đường vằn ngang với đủ màu sắc từ nách
đến cửa tay. Váy của phụ nữ Mông có nhiều nếp gấp, rộng, khi xòe ra mềm
mại như cánh hoa. Trên nền váy may những sợi chỉ to với nhiều màu sặc sỡ.
Ngược với trang phục của nữ giới, trang phục của nam giới Mông khá thống

17


nhất. Đa phần họ đều mặc quần kiểu chân què, cạp rộng lá toạ, đũng quần rất
thấp, khi mặc, cạp được dắt sang một bên rồi dùng thắt lưng thắt lại chặt. Áo
của nam giới Mông lại có nhiều vẻ khác nhau. Nam giới Mông Đen mặc áo
ngắn, phía trước chỉ đủ che một phần ngực, bên trong mặc một chiếc áo lót
trắng dài hơn, áo của nam giới Mông Trắng lại có tay hẹp, có 4 túi và cài
khuy ngang bằng vải, cổ áo tròn, đứng và cao từ 2,5-3cm. Nam giới Mông
Hoa lại mặc áo cài khuy bên nách, không có cổ đứng nhưng rìa cổ được viền
một dải nhỏ vải khác màu.
Bên cạnh những nét đẹp trong đời sống vật chất, tinh thần như ăn uống,
chợ phiên, trang phục... thì người Mông còn mang những nét đặc trưng trong
tín ngưỡng, tâm linh như việc thờ thần, thờ cúng tổ tiên và nghi thức dòng họ
cũng như qua các nghi lễ vòng đời như việc sinh con, cưới xin, ma chay...
Những nét đẹp này chúng ta sẽ đi tìm hiểu qua chương sau để làm rõ hơn bản
sắc văn hóa của người Mông truyền thống cũng như những thay đổi mang
tính tích cực của người Mông theo đạo Tin lành trong những nghi lễ của gia
đình, dòng họ.
Dân tộc Mông có một kho tàng văn hoá dân gian phong phú và rất độc

đáo, trong đó nhạc cụ truyền thống nổi lên như những viên ngọc lung linh toả
sáng. Người Mông say đắm dân ca dân tộc mình đó là Tiếng hát tình yêu (gầu
plềnh), Tiếng hát cưới xin (gầu xuống), Tiếng hát làm dâu (gầu na nhéng),
Tiếng hát mồ côi (gầu tú gua), Tiếng hát cúng ma (gầu tuờ)… Đặc điểm
chung của những bài hát dân ca này không chỉ hát bằng lời mà còn có thể giãi
bày thông qua những nhạc cụ dân tộc (sáo, khèn, kèn lá, kèn môi…) trong
những dịp lễ hội nhạc cụ dân tộc được coi là linh hồn của người Mông gửi
gắm và thể hiện tiếng lòng của mình với bạn tình, với cộng đồng và với thiên
nhiên núi rừng hùng vĩ. Từ những sinh hoạt văn hoá dân gian sống động như
vậy mà hầu hết nam nữ thanh niên biết dùng kèn môi, thổi kèn lá, thanh niên

18


biết thổi khèn, múa khèn, thổi sáo, hát ống. Nhạc cụ dân tộc Mông thể hiện
sâu nặng chất trữ tình đằm thắm, mượt mà, khoẻ khoắn. Những âm thanh mà
nó bộc lộ là vẻ đẹp tự nhiên của vùng cao bao la, hùng vĩ, nét tươi sáng và
giản dị của tâm hồn người Mông.
Dân tộc Mông sinh sống rải rác khắp mọi nơi trên miền núi rừng phía
Bắc Việt Nam và Tây Nguyên, nhưng vẫn giữ được bản sắc văn hoá độc đáo
của họ. Văn hoá Mông là một thành tố văn hoá Việt Nam, bản sắc văn hoá
độc đáo của họ đã đóng góp và làm phong phú cho niền văn hoá Việt Nam
"thống nhất trong đa dạng, đa dang trong thống nhất".
1.2. Vài nét về cộng đồng Mông theo Tin lành ở Việt Nam
Cộng đồng người Mông theo đạo Tin lành là những người đã hoàn toàn
từ bỏ niềm tin tôn giáo truyền thống và một phần các tập tục và nghi lễ truyền
thống để tiếp cận và thực hành với giáo lý và nghi lễ Tin lành một cách chủ
động và tự nguyện. Họ đã “thay đổi lối sống, nghi lễ và tập tục từ niềm tin
vào sự tồn tại của các linh hồn và thần linh, và mối liên hệ giữa con người
với thế giới siêu nhiên ấy sang việc tin vào Đức Chúa Jesus và làm theo

những lời răn dạy của Kinh Thánh” [8;7].
1.2.1. Khái quát chung về đạo Tin lành và quá trình du nhập đạo Tin lành
vào cộng đồng người Mông ở Tây Bắc.
Nếu so sánh với các tôn giáo lớn trên thế giới như Phật giáo, Công giáo
hay Hồi giáo thì Đạo Tin lành ra đời muộn hơn cả. Tuy nhiên, kể từ khi ra đời
cho đến nay, đạo Tin lành đã phát triển rất mạnh, trở thành một tôn giáo quốc
tế với khoảng 550 triệu tín đồ, gần 300 hệ phái tổ chức khác nhau và có mặt
trên nhiều quốc gia.
Đạo Tin lành ra đời xét về mặt văn hoá, tư tưởng được thúc đẩy bằng
phong trào Văn hóa Phục Hưng - chủ nghĩa nhân văn, chủ nghĩa dân tộc ở
châu Âu thế kỷ XV, XVI. Với chủ trương đề cao con người, đề cao nhân tính,
19


×