Tải bản đầy đủ (.pdf) (47 trang)

Nghĩa vụ cấp dưỡng theo luật hôn nhân và gia đình năm 2014 (tóm tắt trích đoạn)

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (799.2 KB, 47 trang )

ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
KHOA LUẬT

HOÀNG THỊ THU HUYỀN

NGHĨA VỤ CẤP DƢỠNG THEO LUẬT HÔN NHÂN
VÀ GIA ĐÌNH NĂM 2014

LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC

Hà Nội – 2016


ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
KHOA LUẬT

HOÀNG THỊ THU HUYỀN

NGHĨA VỤ CẤP DƢỠNG THEO LUẬT HÔN NHÂN
VÀ GIA ĐÌNH NĂM 2014
Chuyên ngành : Luật Dân sự và Tố tụng dân sự
Mã số

: 60 38 01 03

LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC

Cán bộ hướng dẫn khoa học: TS. Lê Văn Bính

Hà nội – 2016



LỜI CAM ĐOAN

Tôi xin cam đoan Luận văn là công trình nghiên cứu của riêng tôi. Các
kết quả nêu trong Luận văn chƣa đƣợc công bố trong bất kỳ công trình nào
khác. Các số liệu, ví dụ và trích dẫn trong Luận văn đảm bảo tính chính xác,
tin cậy và trung thực. Tôi đã hoàn thành tất cả các môn học và đã thanh toán
tất cả các nghĩa vụ tài chính theo quy định của Khoa Luật Đại học Quốc gia
Hà Nội.
Vậy tôi viết Lời cam đoan này đề nghị Khoa Luật xem xét để tôi có thể
bảo vệ Luận văn.
Tôi xin chân thành cảm ơn!
NGƢỜI CAM ĐOAN

Hoàng Thị Thu Huyền


MỤC LỤC
Lời cam đoan

Trang

Mục lục
MỞ ĐẦU ........................................................................................................... 1
CHƢƠNG 1: LÝ LUẬN CHUNG VỀ NGHĨA VỤ CẤP DƢỠNG THEO
LUẬT HÔN NHÂN VÀ GIA ĐÌNH ................................................................ 6
1.1. Lịch sử phát triển của nghĩa vụ cấp dƣỡng ................................................ 6
1.1.1. Nghĩa vụ cấp dƣỡng trong pháp luật Việt Nam trƣớc năm 1959............ 6
1.1.2. Nghĩa vụ cấp dƣỡng trong pháp luật Việt Nam từ năm 1959 đến năm
1986 ................................................................................................................. 13

1.1.3. Nghĩa vụ cấp dƣỡng trong pháp luật Việt Nam từ năm 1986 đến năm
2000 ................................................................................................................. 17
1.1.4. Nghĩa vụ cấp dƣỡng trong pháp luật Việt Nam từ năm 2000 đến nay . 20
1.2. Lý luận chung về nghĩa vụ cấp dƣỡng ..................................................... 22
1.2.1. Khái niệm nghĩa vụ cấp dƣỡng ............................................................. 22
1.2.2. Đặc điểm của nghĩa vụ cấp dƣỡng ........................................................ 23
1.2.3. Ý nghĩa của nghĩa vụ cấp dƣỡng........................................................... 27
1.3. Phân biệt nghĩa vụ cấp dƣỡng và nghĩa vụ nuôi dƣỡng ........................... 29
1.4. Nghĩa vụ cấp dƣỡng trong Luật một số nƣớc trên thế giới ...................... 33
1.4.1. Nghĩa vụ cấp dƣỡng trong hệ thống pháp luật Anh .............................. 33
1.4.2. Nghĩa vụ cấp dƣỡng trong hệ thống pháp luật Hàn Quốc .................... 37
CHƢƠNG 2: NGHĨA VỤ CẤP DƢỠNG THEO LUẬT HÔN NHÂN VÀ GIA
ĐÌNH NĂM 2014............................................................................................. 40
2.1. Điều kiện phát sinh nghĩa vụ cấp dƣỡng.................................................. 40
2.2. Mức cấp dƣỡng ........................................................................................ 46
2.3. Phƣơng thức thực hiện cấp dƣỡng ........................................................... 49
2.4. Các quy định về nghĩa vụ cấp dƣỡng trong các trƣờng hợp cụ thể ......... 54


2.4.1. Các trƣờng hợp cấp dƣỡng đặc biệt ...................................................... 54
2.4.2. Nghĩa vụ cấp dƣỡng giữa các thành viên trong gia đình ...................... 59
2.5. Chấm dứt nghĩa vụ cấp dƣỡng ................................................................. 75
2.6. Ngƣời có quyền yêu cầu thực hiện nghĩa vụ cấp dƣỡng.......................... 80
2.7. Đảm bảo thực hiện nghĩa vụ cấp dƣỡng .................................................. 82
CHƢƠNG 3: THỰC TIỄN THỰC THI NGHĨA VỤ CẤP DƢỠNG VÀ
NHỮNG HẠN CHẾ TRONG ÁP DỤNG PHÁP LUẬT HIỆN HÀNHVỀ
NGHĨA VỤ CẤP DƢỠNG CÙNG NHỮNG KHUYẾN NGHỊ CỤ THỂ .... 85
3.1. Thực tiễn thực thi nghĩa vụ cấp dƣỡng theo quy định của luật năm 2014 ..... 85
3.2. Một số vƣớng mắc trong việc áp dụng các quy định của pháp luật về
nghĩa vụ cấp dƣỡng ......................................................................................... 87

3.3. Những khuyến nghị hoàn thiện các quy định của pháp luật về nghĩa
vụcấp dƣỡng .................................................................................................... 94
KẾT LUẬN ................................................................................................... 100
TÀI LIỆU THAM KHẢO ............................................................................. 101


MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Từ xƣa tới nay, gia đình luôn luôn là yếu tố quan trọng trong sự phát
triển của một đất nƣớc.Bác Hồ đã dạy “Quan tâm đến gia đình là đúng và
nhiều gia đình cộng lại mới thành xã hội, xã hội tốt thì gia đình càng tốt. Gia
đình tốt thì xã hội mới tốt. Hạt nhân của xã hội là gia đình” [15, tr. 251].Tuy
nhiên, hiện nay, song song với sự phát triển của nền kinh tế thị trƣờng, mở
cửa thúc đẩy xã hội hóa và hiện đại hóa lối sống, đạo đức của các thành viên
trong xã hội thì luôn luôn tồn tại những ảnh hƣởng tiêu cực đến lối sống, đạo
đức của rất nhiều gia đình, điều đó dẫn đến việc các vi phạm quy định của
Luật Hôn nhân và gia đình ngày càng phổ biến. Trong một số gia đình đã bắt
đầu có những biểu hiện xuống cấp về đạo đức, thể hiện qua lối sống thực
dụng, ích kỷ, không quan tâm đến nhau. Trong khi đó gia đình là cái nôi nuôi
dƣỡng con ngƣời, là môi trƣờng quan trọng hình thành và giáo dục nhân cách
con ngƣời, là tập hợp đặc biệt của một số thành viên nhỏ trong xã hội đƣợc
gắn bó với nhau do quan hệ hôn nhân, huyết thống hoặc nuôi dƣỡng. Với tƣ
cách là thành viên trong gia đình, trong mối quan hệ của họ với nhau thì điều
gắn bó trƣớc hết là tình cảm. Bình thƣờng khi những ngƣời này sống chung
thì họ có nghĩa vụ, bổn phận nuôi dƣỡng nhau thông qua việc cùng quan tâm,
chăm sóc, giúp đỡ lẫn nhau, cùng nhau chăm lo cuộc sống gia đình nhƣng vì
một số lý do nhất định họ không cùng sống chung nên họ không thể chăm sóc,
nuôi dƣỡng, chia sẻ. Khi đó ngƣời có nghĩa vụ nuôi dƣỡng phải thực hiện
nghĩa vụ của mình bằng cách đóng góp tiền hoặc tài sản khác để bảo đảm nhu
cầu thiết yếu của ngƣời đƣợc nuôi dƣỡng. Nhƣ vậy, việc nuôi dƣỡng đƣợc

thực hiện dƣới một phƣơng thức khác đó là nghĩa vụ cấp dƣỡng.
Cấp dƣỡng là một chế định pháp lý quan trọng trong pháp luật về hôn
nhân và gia đình ở nƣớc ta và vấn đề này ngày càng nhận đƣợc sự chú ý của

1


cộng đồng. Việc cấp dƣỡng nhằm đảm bảo cho ngƣời đƣợc cấp dƣỡng đƣợc
hƣởng sự quan tâm, chăm sóc về vật chất và tinh thần, đảm bảo cho ngƣời
đƣợc cấp dƣỡng có đủ điều kiện tồn tại và phát triển. Nó còn thể hiện sự
thƣơng yêu, đoàn kết của mọi ngƣời quan tâm lẫn nhau và góp phần ổn định
xã hội. Để củng cố sự phát triển bền vững của mỗi cá nhân, gia đình và toàn
xã hội, chế định cấp dƣỡng trong Luật Hôn nhân và gia đình góp phần quan
trọng vào việc giải quyết vấn đề này. Tuy nhiên, có thể xuất phát từ sự thiếu
hiểu biết pháp luật, từ sự vô trách nhiệm của ngƣời có nghĩa vụ cấp dƣỡng
hoặc có thể do các quy định của pháp luật về chế định này chƣa đầy đủ cho
nên các vi phạm về nghĩa vụ cấp dƣỡng còn xẩy ra rất nhiều. Trong khi đó,
Luật Hôn nhân và gia đình 2014 ra đời với nhiều điểm mới về nghĩa vụ cấp
dƣỡng mới chỉ có hiệu lực từ ngày 01/01/2015. Do đó, việc tìm hiểu, nghiên
cứu các quy định của Luật Hôn nhân và gia đình năm 2014 về vấn đề này và
thực tiễn thực thi là điều rất quan trọng và cần thiết. Với mục đích nghiên cứu
sâu cả lý luận và thực tiễn thực thi đồng thời có sự so sánh với pháp luật nƣớc
ngoài về vấn đề này để có thể đƣa ra những giải pháp thích hợp cho những
quy định về nghĩa vụ cấp dƣỡng, học viên chọn đề tài “Nghĩa vụ cấp dưỡng
theo Luật Hôn nhân và gia đình năm 2014” làm đề tài luận văn Thạc sĩ
chuyên ngành Luật Dân sự và Tố tụng Dân sự.
2. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứuđề tài
Luật Hôn nhân và gia đình năm 2014 mới chỉ đi vào thực tiễn đời sống
một thời gian ngắn. Mặc dù, các quy định về nghĩa vụ cấp dƣỡng đƣợc kế
thừa từ những văn bản trƣớc đây nhƣng những quy định mới thậm chí là cả

các quy định cũ vẫn chƣa thực sự đƣợc hoàn thiện. Việc hoàn thiện pháp luật
về Hôn nhân và gia đình nói chung và nghĩa vụ cấp dƣỡng nói riêng là vấn đề
lâu dài, đòi hỏi sự nghiên cứu sâu và rộng hơn. Trong khuôn khổ của một đề
tài luận văn, mục đích của đề tài là làm sáng tỏ vấn đề chung về nghĩa vụ cấp

2


dƣỡng giữa các thành viên trong gia đình. Đồng thời, hiểu thêm một phần nào
đó hệ thống pháp luật của một số nƣớc khác về vấn đề này. Qua đó, chỉ ra
những tồn tại, vƣớng mắc trong việc áp dụng các quy định của pháp luật về
nghĩa vụ cấp dƣỡng để từ đó đƣa ra một số giải pháp và khuyến nghị nhằm
góp phần hoàn thiện các quy định của pháp luật về vấn đề này. Giúp cho
ngƣời có nghĩa vụ cấp dƣỡng tránh đƣợc các trƣờng hợp vi phạm nghĩa vụ
cấp dƣỡng và có thể thực hiện tốt hơn nữa nghĩa vụ của chính mình đồng thời
tạo cơ sở pháp lý cho cơ quan nhà nƣớc cũng nhƣ những ngƣời có nhiệm vụ
thực thi pháp luật giải quyết vấn đề thực tiễn một cách có hiệu quả hơn.
Xuất phát từ những mục đích nêu trên mà đề tài nghiên cứu có những
nhiệm vụ sau đây:
Nghiên cứu những vấn đề chung về nghĩa vụ cấp dƣỡng làm sáng tỏ
các trƣờng hợp phát sinh nghĩa vụ cấp dƣỡng, các vấn đề liên quan đến nghĩa
vụ cấp dƣỡng nhƣ mức cấp dƣỡng, phƣơng thức cấp dƣỡng… tập trung vào
những quy định tiến bộ của luật hiện hành so với những văn bản pháp luật
trƣớc đó. Qua đó, khẳng định vai trò và ý nghĩa của nghĩa vụ này trong lý
luận và thực tiễn.
Nghiên cứu các quy định của pháp luật một vài nƣớc trên thế giới để từ
đó có cái nhìn khách quan hơn trong sự so sánh với pháp luật Việt Nam về
vấn đề này.
Trên cơ sở nghiên cứu lý luận kết hợp với thực tiễn, đề tài còn phân
tích một số hạn chế, vƣớng mắc còn tồn tại trong quá trình vận hành và áp

dụng pháp luật về nghĩa vụ cấp dƣỡng, từ đó trình bày hƣớng hoàn thiện
thông qua việc đƣa ra các khuyến nghị cụ thể.
3. Đối tƣợng và phạm vi nghiên cứu
Đối tƣợng nghiên cứu: Nghĩa vụ cấp dƣỡng.

3


Phạm vi nghiên cứu: Đề tài chủ yếu xoay quanh vấn đề về nghĩa vụ cấp
dƣỡng đƣợc quy định trong Luật Hôn nhân và gia đình năm 2014, đồng thời
tìm hiểu sơ lƣợc những quy định trƣớc đây cũng nhƣ các quy định trong pháp
luật của một số nƣớc về vấn đề này. Từ đó, tìm ra đƣợc sự kế thừa và phát
triển các quy định về vấn đề nghĩa vụ cấp dƣỡng của pháp luật hiện hành.
4. Phƣơng pháp nghiên cứu
Đề tài đƣợc thực hiện trên cơ sở phƣơng pháp luận của Chủ nghĩa MácLênin, tƣ tƣởng Hồ Chí Minh và các quan điểm của Đảng và Nhà nƣớc ta về
Nhà nƣớc và Pháp luật, về hôn nhân và gia đình.
Các phƣơng pháp nghiên cứu cụ thể đƣợc sử dụng là phân tích, tổng
hợp, lịch sử, so sánh, thống kê.
5. Tổng quan tài liệu
Từ lâu các vấn đề xung quanh nghĩa vụ cấp dƣỡng đã đƣợc các nhà
khoa học, giảng viên, học viên luật quan tâm tìm hiểu, nghiên cứu. Rất nhiều
bài viết, các công trình nghiên cứu khoa học về vấn đề này nhƣ: “Chế định
cấp dƣỡng trong luật hôn nhân và gia đình - vấn đề lý luận và thực tiễn, Luận
án tiến sĩ Luật học của Ngô Thị Hƣờng năm 2006”; “Cấp dƣỡng theo pháp
luật Việt Nam, Tác giả Thu Anh, Nhà xuất bản Tƣ pháp năm 2006”; “Cấp
dƣỡng sau ly hôn theo pháp luật Việt Nam hiện nay, Luận văn Thạc sĩ của Lê
Tuyết Nhung năm 2014;….. Tuy nhiên, Luật Hôn nhân và gia đình 2014 đã
có hiệu lực, thay thế Luật Hôn nhân và gia đình 2000. Do đó, các quy định về
nghĩa vụ nghĩa vụ cấp dƣỡng cũng có những thay đổi đáng kể, xuất hiện nhiều
điểm mới cần phải tìm hiểu, nghiên cứu. Chính vì vậy, để có thể tìm hiểu,

nghiên cứu đề tài trên cần phải khai thác, kế thừa một số dạng tài liệu nhƣ:
Những tài liệu, bài giảng, bài viết, công trình nghiên cứu khoa học đã
có về nghĩa vụ cấp dƣỡng;
Các quy định về nghĩa vụ cấp dƣỡng trong thời gian qua;

4


Các quy định về nghĩa vụ cấp dƣỡng của một số nƣớc trên thế giới.
6. Địa điểm nghiên cứu
Khoa Luật - Đại học Quốc gia Hà Nội.
7. Tính mới và đóng góp của đề tài
Hiện nay, ngoài các công trình cứu khoa học đề cập tới vấn đề nghĩa vụ
cấp dƣỡng đƣợc quy định trong các văn bản pháp luật cũ về Hôn nhân và gia
đình thì chƣa có công trình nghiên cứu tổng quan nào về vấn đề này. Có
chăng chỉ dừng lại ở các bài viết mang tính chất phân tích các điểm mới của
Luật Hôn nhân và gia đình 2014, trong đó có nghĩa vụ cấp dƣỡng.
Luận văn có thể dùng làm tài liệu tham khảo cho các cơ quan nhà nƣớc
trong việc xây dựng và thực hiện pháp luật có liên quan đến hôn nhân và gia
đình. Ngoài ra, luận văn còn có thể dùng làm tài liệu tham khảo cho hoạt động
giảng dạy, nghiên cứu ở Khoa Luật – Đại học Quốc gia Hà Nội và các cơ sở
đào tạo khác ở Việt Nam.
8. Kết cấu của luận văn
Ngoài phần Mở đầu, Kết luận và Tài liệu tham khảo, nội dung của luận
văn gồm 03 chƣơng với kết cấu nhƣ sau:
Chƣơng 1: Lý luận chung về nghĩa vụ cấp dƣỡng theo Luật Hôn nhân
và gia đình
Chƣơng 2:Nghĩa vụ cấp dƣỡng theo Luật Hôn nhân và gia đình năm
2014
Chƣơng 3: Thực tiễn thực thi nghĩa vụ cấp dƣỡng và những hạn chế

trong áp dụng pháp luật hiện hành về nghĩa vụ cấp dƣỡng cùng những khuyến
nghị cụ thể

5


CHƢƠNG 1: LÝ LUẬN CHUNG VỀ NGHĨA VỤ CẤP
DƢỠNGTHEO LUẬT HÔN NHÂN VÀ GIA ĐÌNH
1.1. Lịch sử phát triển của nghĩa vụ cấp dƣỡng
1.1.1. Nghĩa vụcấp dưỡng trong pháp luật Việt Nam trước năm 1959
Nhà nƣớc quản lý xã hội bằng luật pháp, sức mạnh của nhà nƣớc thể
hiện thông qua sức mạnh của pháp luật. Không có nhà nƣớc nào không ban
hành pháp luật. Ngƣợc lại, luật pháp do nhà nƣớc đặt ra, luật pháp không
đứng tách rời với nhà nƣớc. Khi nói về luật pháp là nói về luật pháp của thể
chế nhà nƣớc nhất định nào đó. Do đó, trong mỗi thời kỳ khác nhau của lịch
sử, pháp luật đều luôn có sự thay đổi phù hợp với sự biến đổi của xã hội.
Từ thời nhà Lý và nhà Trần, nền luật pháp đã phát triển hơn nhiều so
với các triều đại trƣớc đó, phải kể đến các bộ luật nhƣ: Hình - Thƣ (năm
Nhâm Ngọ - 1042), Quốc triều thông chế (năm Canh Dần - 1230) và Hình
Luật thƣ (năm Tân Tỵ - 1341). Tuy nhiên, các đạo luật này đã bị thất lạc trong
các cuộc chiến chống xâm lƣợc phƣơng Bắc. Tiêu biểu cho pháp luật thời
phong kiến còn lại cho đến ngày nay là các đạo luật đƣợc ban hành dƣới triều
Lê và triều Nguyễn. Trong đó, dƣới triều Lê, một số văn bản pháp luật còn
đƣợc giữ lại là Quốc triều hình luật (ban hành vào khoảng cuối thế kỉ thứ 15
dƣới đời vua Lê Thánh Tông), Hồng Đức thiện chính thƣ (ghi chép lại nhiều
điềulệ đƣợc ban hành dƣới triều vua Lê Thánh Tông cùng nhiều bản án thời kì
đó), Thiên nam dƣ hạ tập (năm 1483).... và dƣới triều Nguyễn có Hoàng Việt
luật lệ ban hành dƣới đời vua Gia Long (năm 1815). Trong các đạo luật kể
trên, vấn đề cấp dƣỡng đã đƣợc tiếp cận nhƣng mới chỉ ở bƣớc sơ khai.
Dƣới triều Lê, nho học đang ở giai đoạn thịnh vƣợng nhất, Nho giáo

đƣợc đề cao nhƣ hệ tƣ tƣởng chính thống của Nhà nƣớc. Do đó, pháp luật thời
kỳ này chịu ảnh hƣởng sâu sắc tƣ tƣởng của Khổng Tử và Mạnh Tử. Các
quan hệ gia đình đƣợc Nho giáo coi trọng, các quy định của pháp luật về gia

6


đình liên quan mật thiết đến quyền lợi của quốc gia. Nhà sử học Ngô Sĩ Liên
đã khẳng định: “Vua tôi, cha con, vợ chồng là ba cƣơng lớn trong đạo luân lý
của ngƣời, ngoài ra không có gì lớn hơn” [16, tr.190]. Trên nền tƣ tƣởng đó,
trong sách Hồng Đức thiện chính thƣ đã ghi rõ: “Làm ngƣời phải coi trọng sự
giáo dƣỡng, cha hiền con hiếu làm đầu. Làm cha mẹ ngƣời ta, phải cấp dƣỡng
cho cơm áo, không nên vì đứa con một buổi sớm dỗi không ăn, mà cha mẹ
giận đổ bỏ đi” hay “Làm ngƣời con thì phải kính nuôi cha mẹ, không đƣợc
hiềm vì nỗi nghèo khó mà để đến nỗi bội nghĩa cha mẹ. Trái lệnh thì phải
chiếu pháp luật mà luận tội, để cho đƣợc chọn thâm tình đối với hai thân” [7,
Điều 161]. Con cái phải hết sức thành kính, vâng lời và phụng dƣỡng cha mẹ.
Đó chính là đạo hiếu, là nhân tố đạo đức cốt lõi của nho giáo. Trong các sắc
luật của nhà vua về đạo đức xã hội và gia đình thì sau chữ trung với vua đạo
hiếu đứng ở hàng thứ hai. Chính vì vậy mà trong điều thứ hai của Quốc triều
hình luật quy định về mƣời tội ác thì trong đó có tội bất hiếu. Một trong
những hành vi của tội bất hiếu là nuôi nấng cha mẹ thiếu thốn hoặc không săn
sóc, phụng dƣỡng cha mẹ. Chữ hiếu không bó hẹp trong phạm vi là nghĩa vụ
của con đối với cha mẹ mà rộng hơn nữa đó là nghĩa vụ của con cháu đối với
bề trên. Quốc triều hình luật đã quy định: "Con cháu trái lời dạy bảo và không
phụng dƣỡng bề trên, mà bị ông bà, cha mẹ trình lên quan thì bị xử tội đồ làm
khao đinh" [19, Điều 506]. Do chịu sự ảnh hƣởng rất lớn của thuyết nhân trị
nên trong Quốc triều hình luật quy định của pháp luật cũng chính là quy tắc
đạo đức, đó là sự đan xen giữa đạo đức và pháp luật. Cha mẹ chăm sóc, nuôi
dƣỡng con; con phụng dƣỡng cha mẹ là một nghĩa vụ về đạo đức. Vì vậy, khi

nghĩa vụ đó không đƣợc thực hiện một cách tự giác thì pháp luật quy định
biện pháp trừng phạt thích đáng.
Dƣới triều Nguyễn, nhà Nguyễn rất coi trọng pháp luật. Tuy nhiên, có
thể nói rằng đây là thời kì suy thoái của nền pháp lí nƣớc ta. Các nhà soạn

7


thảo pháp luật đã quá tôn sùng nhà Thanh mà sao chép lại hầu nhƣ toàn bộ
luật nhà Thanh. Bộ Hoàng Việt luật lệ đƣợc soạn thảo với tinh thần đề cao
quyền uy của vua và triều đình cho nên nội dung chủ yếu là hình luật và hình
phạt đƣợc quy định hết sức hà khắc. Ngay trong quan hệ giữa các thành viên
trong gia đình cũng đƣợc luật quy định dƣới các điều khoản về hình luật.
Chẳng hạn nhƣ tại quyển 16 về hình luật, trong mục 15 có quy định: “con
cháu vi phạm lời dạy bảo của ông bà, cha mẹ hoặc phụng dƣỡng mà cố ý làm
thiếu xót thì phạt 100 trƣợng”. Trong quyển 2 phần về Danh lệ, tại mục 17
quy định về trƣờng hợp ngƣời phạm tử tội nhƣng còn phải nuôi dƣỡng cha mẹ.
Theo quy định này thì nếu một ngƣời phạm tử tội không đƣợc ân xá mà ông
bà nội, cha mẹ già (trên 70 tuổi hay bị tàn tật) cần đƣợc săn sóc nhƣng trong
gia đình không còn ai từ 16 tuổi trở lên thì pháp quan phải tâu lên vua. Nếu
phạm tội đồ lƣu thì xử phạt 100 trƣợng, tội còn thừa thì nhận giá chuộc và cho
ở nhà nuôi dƣỡng ông bà, cha mẹ [18, tr.133]. Nhƣ vậy, dù không có điều
khoản riêng quy định về nghĩa vụ chăm sóc, nuôi dƣỡng hoặc phụng dƣỡng
giữa các thành viên trong gia đình nhƣng trong Hoàng Việt luật lệ đã gián tiếp
khẳng định nghĩa vụ đó.
Trong quan hệ vợ chồng, pháp luật nhà Lê và nhà Nguyễn đều quy định
những quyền và nghĩa vụ cơ bản của vợ chồng nhƣ nghĩa vụ đồng cƣ, nghĩa
vụ phù trợ, nghĩa vụ trung thành và nghĩa vụ tòng phu. Trong đó, nghĩa vụ
phù trợ thực chất chính là nghĩa vụ quan tâm, chăm sóc về mặt vật chất giữa
vợ và chồng. Mặc dù vợ chồng có nghĩa vụ phù trợ lẫn nhau nhƣng pháp luật

thời kì này không quy định nghĩa vụ cấp dƣỡng giữa vợ và chồng khi li hôn.
Bởi lẽ, khi li hôn, ngƣời vợ chuyển về nƣơng tựa gia đình cha mẹ đẻ của mình
nên vấn đề ngƣời vợ có thể gặp khó khăn trong cuộc sống không cần phải đặt
ra. Trong trƣờng hợp, ngƣời vợ không còn nơi nƣơng tựa nào thì ngƣời chồng
không đƣợc bỏ vợ vì điều này thuộc một trong ba trƣờng hợp bất khứ là “hữu

8


sở thú, vô sở quy” (có chỗ nƣơng tựa lúc đi lấy chồng, bây giờ không có chỗ
trở về). Tuy nhiên, trong trƣờng hợp li hôn (mà không phải là trƣờng hợp rẫy
vợ), quyền lợi của ngƣời vợ đƣợc bảo đảm hơn. Họ có thể sẽ đƣợc ngƣời
chồng cấp dƣỡng nếu thắng kiện [14, tr.279].
Ngoài nghĩa vụ phù trợ, pháp luật thời kỳ này quy định vợ chồng có
nghĩa vụ đồng cƣ. Khi ngƣời vợ sinh con, đứa con đƣợc sống chung với cha
mẹ và đƣợc cha mẹ chăm sóc nuôi dƣỡng. Khi ly hôn, con cái thƣờng thuộc
về chồng, nhƣng nếu muốn giữ con ngƣời vợ có quyền đòi chia một nửa số
con. Trong trƣờng hợp các con đƣợc ở lại với cha, tất cả tài sản đƣợc coi là tài
sản riêng của ngƣời mẹ đƣợc gộp vào tài sản của ngƣời chồng thành một khối
do ngƣời cha nắm giữ và dùng để nuôi con. Trong trƣờng hợp hai vợ chồng
chia nhau nuôi con thì thông thƣờng họ thƣờng chia nhau tài sản. Vì vậy, vấn
đề cấp dƣỡng của cha, mẹ cho con khi ly hôn không cần phải đặt ra. Pháp luật
thời kỳ này cũng không cho phép ngƣời con ngoài giá thú đƣợc quyền kiện
tìm cha để hƣởng quyền cấp dƣỡng. Do đó, cấp dƣỡng của cha đối với con
ngoài giá thú không đƣợc pháp luật quy định.
Nhƣ vậy, Pháp luật thời phong kiến quan tâm đặc biệt đối với nghĩa vụ
phụng dƣỡng của con, cháu đối với cha mẹ, ông bà. Pháp luật thời kỳ này quy
định nghĩa vụ nuôi dƣỡng mà không quy định nghĩa vụ cấp dƣỡng của cha mẹ
đối với con.
Bƣớc sang thời kỳ Pháp thuộc, nƣớc ta bị chia làm ba miền: miền Bắc,

Miền Trung và miền Nam. Ở miền Bắc có Bộ dân luật Bắc Kỳ 1931, ở miền
Trung có Bộ dân luật Trung Kỳ 1936, ở miền Nam có Bộ dân luật giản yếu
Nam kỳ năm 1883. Riêng Bộ Dân luật giản yếu chịu nhiều ảnh hƣởng của Bộ
dân luật Pháp nên nhìn chung nội dung của nó khác hẳn với tinh thần luật
pháp truyền thống của nƣớc ta. Vấn đề gia đình không đƣợc coi trọng, vấn đề
cấp dƣỡng giữa các thành viên trong gia đình hầu nhƣ không đƣợc ghi nhận

9


trong bộ luật này cho nên quan hệ về gia đình nói chung và quan hệ về cấp
dƣỡng nói riêng chủ yếu dựa vào các quy định của hai Bộ dân luật miền Bắc
và miền Trung.
Pháp luật thời kì này quy định về nghĩa vụ cấp dƣỡng giữa cha mẹ và
con, giữa vợ và chồng và giữa các thành viên trong gia đình một cách rõ nét
hơn so với pháp luật thời kì phong kiến.
Trong quan hệ giữa cha mẹ và con, pháp luật quy định cha mẹ có nghĩa
vụ nuôi nấng, cƣu mang con. Điều đó thể hiện trong quy định về nghĩa vụ vợ
chồng tại Điều 91 Bộ dân luật Bắc Kỳ và Bộ dân luật Trung Kỳ: “Vợ chồng
phải cùng nhau làm cho gia đình hưng thịnh và lo toan việc nuôi nấng, dạy
dỗ con cái”. Bên cạnh đó, pháp luật thời kỳ này cũng đề cập đến việc cấp
dƣỡng giữa con cháu với ông bà, cha mẹ tại Điều 207 Bộ dân luật Bắc kỳ và
Bộ dân luật Trung kỳ nhƣ sau: “Làm người con phải suốt đời hiếu thuận,
cung kính với ông bà cha mẹ, phải cấp dưỡng cho cha mẹ ông bà”. Quy định
này có lẽ đƣợc xuất phát từ thực tế nƣớc ta lúc bấy giờ. Đó là gia đình thƣờng
đƣợc tồn tại với mô hình đại gia đình - gia đình, tức là gia đình gồm có nhiều
thế hệ sống chung với nhau dƣới một mái nhà. Nghĩa vụ cấp dƣỡng của con
cháu đối với ông bà, cha mẹ trong trƣờng hợp này có thể hiểu là bao gồm cả
nghĩa vụ phụng dƣỡng và nghĩa vụ nuôi dƣỡng.
Dựa trên nghĩa vụ nuôi nấng, dạy dỗ của cha mẹ đối với con mà pháp

luật quy định trong trƣờng hợp cha hoặc mẹ không chung sống với con để
thực hiện nghĩa vụ của mình thì phải cấp dƣỡng cho con. Điều 182 Bộ dân
luật Bắc Kỳ và Điều 180 Bộ dân luật Trung Kỳ quy định: “Khi toà án tuyên
bốmột ngườiđàn ông làcha của đứa con ngoài giá thú thì đồng thời toà án
phải tuyên bố người đó phải cấp dưỡng cho đứa con đến khi nó 18 tuổi. Nếu
cha đón đứa con về nhà nuôi dưỡng, chăm sóc như con chính thức thì không
phải cấp dưỡng nữa”. Nhƣ vậy, pháp luật thời kỳ này quy định nghĩa vụ cấp

10


dƣỡng của cha đối với con ngoài giá thú. Bên cạnh đó, pháp luật thời kỳ này
cũng quy định vấn đề nuôi con nuôi và khẳng định con nuôi có quyền đƣợc
cha mẹ nuôi dƣỡng, chăm sóc nhƣ con đẻ. Vì vậy, cha mẹ nuôi phải có nghĩa
vụ cấp dƣỡng cho con nuôi và đối đãi nhƣ con đẻ [8,21, Điều 193].
Trong quan hệ vợ chồng, pháp luật thời kì này quy định về nghĩa vụ
cấp dƣỡng trong trƣờng hợp hôn nhân còn tồn tại và cả trong trƣờng hợp vợ
chồng li hôn. Theo quy định của pháp luật thời kỳ này thì trong thời kỳ hôn
nhân ngƣời vợ cả có nghĩa vụ và có quyền sống chung với chồng và ngƣời
chồng phải phù trợ, chi độ những thứ cần thiết cho cuộc sống của mình còn
ngƣời vợ lẽ không có quyền đƣợc ở chung với chồng. Do đó, ngƣời chồng có
nghĩa vụ cấp dƣỡng cho vợ lẽ bởi vì ngƣời vợ lẽ vẫn có quyền đƣợc ngƣời
chồng phù trợ, cƣu mang. Mặc dù,về nguyên tắc vấn đề cấp dƣỡng không
đƣợc đặt ra đối với ngƣời vợ cả nhƣng án lệ lại cho phép ngƣời vợ cả có
quyền đƣợc yêu cầu ngƣời chồng cấp dƣỡng nếu dẫn chứng đƣợc rằng ngƣời
chồng đã không cho sống chung hoặc đã làm tổn hại đến tƣ cách của mình tại
nơi ở chung (nhƣ ngƣời chồng đã nuôi dƣỡng tại nhà một ngƣời tình nhân
không có giá thú) làm cho ngƣời vợ cả không thể sống chung với ngƣời
chồng đƣợc [13, tr.78]. Đồng thời, pháp luật thời kỳ này còn quy định nghĩa
vụ cấp dƣỡng của ngƣời chồng đối với vợ trong thời gian đang giải quyết việc

ly hôn. Điều 139 Bộ dân luật Bắc Kỳ và Điều 137 Bộ dân luật Trung Kỳ quy
định: “Sau khi quan chánh ánđã thụlýđơn xin ly hônthì có thể truyền cho thi
hành các phương pháp tạm thời như: định chỗ ở cho vợ chồng, việc trông
nom con cái, việc quản trị tài sản và nếu cần thì định cả quyền cấp dưỡng”.
Khi vợ chồng li hôn, ngƣời chồng có nghĩa vụ cấp dƣỡng cho ngƣời vợ theo
quy định tại Điều 144 Bộ dân luật Bắc kỳvà Điều 142 Bộ dân luật Trung kỳ.
Tuy nhiên, trong trƣờng hợp ngƣời vợ tái giá, vô hạnh hoặc ăn ở tƣ tình với
ngƣời khác thì không đƣợc lĩnh tiền cấp dƣỡng [8, Điều 143] [21, Điều 154].

11


Pháp luật thời kì này không quy định nghĩa vụ cấp dƣỡng của vợ đối với
chồng.
Nhƣ vậy, đến thời kỳ này pháp luật đã đề cập tới thuật ngữ cấp dƣỡng
khi quy định các nghĩa vụ giữa cha mẹ và con, giữa vợ và chồng. Tuy nhiên,
có thể nhận xét rằng pháp luật thời kì này sử dụng các thuật ngữ cấp dƣỡng và
nuôi dƣỡng đồng nhất với nhau, chƣa có sự phân biệt rõ ràng giữa nghĩa vụ
cấp dƣỡng và nghĩa vụ nuôi dƣỡng.
Cách mạng tháng Tám năm 1945 thành công, nƣớc Việt Nam Dân chủ
Cộng hòa ra đời (2/9/1945), tình hình kinh tế, xã hội, chính trị, quân sự có sự
thay đổi lớn. Đặc biệt là sự ra đời của Hiến pháp nƣớc Việt Nam Dân chủ
Cộng hòa năm 1946. Trên cơ sở đó là sự ra đời của những văn bản pháp lý
đầu tiên về dân luật, hôn nhân và gia đình nhƣ Sắc lệnh số 159/SL ngày 17
tháng 11 năm 1950 và Sắc lệnh số 97/SL ngày 22 tháng 05 năm 1950. Đây là
cơ sở pháp lý để đấu tranh xóa bỏ chế độ hôn nhân và gia đình phong kiến,
tạo cơ sở cho việc xây dựng chế độ hôn nhân và gia đình mới dân chủ và tiến
bộ hơn trƣớc. Trong đó vấn đề về cấp dƣỡng đƣợc đề cập đến trong Sắc lệnh
số 159/SL nhƣ sau: “Toà án sẽ căn cứ vào quyền lợi của các con vị thành
niên để ấn định việc trông nom, nuôi nấng và dạy dỗ chúng. Hai vợ chồng đã

ly hôn phải cùng chịu phí tổn về việc nuôi dạy con, mỗi người tuỳ theo khả
năng của mình”[6, Điều 6].Nhƣ vậy, Sắc lệnh 159 chƣa có quy định cụ thể về
cấp dƣỡng, chƣa có hình thức cấp dƣỡng mà chỉ đƣợc xem là cấp dƣỡng dƣới
hình thức là “góp phí tổn để nuôi dạy con”.
Có thể nói rằng, hai sắc lệnh số 159/SL và 97/SL đã hoàn thành tốt vai
trò lịch sử của mình, góp phần vào việc xóa bỏ chế độ hôn nhân và gia đình
phong kiến. Tuy nhiên, hai Sắc lệnh này quá đơn giản và còn nhiều hạn chế,
nhiều vấn đề xảy ra trong xã hội mà hai Sắc lệnh này chƣa điều chỉnh hết.
Trƣớc tình hình đó, việc ban hành đạo luật mới về hôn nhân và gia đình đã trở

12


thành “mộtđòi hỏi cấp bách cho toàn thểxã hội -Đó là tất yếu kháchquan thúc
đẩy sự nghiệp xây dựng Chủ nghĩa xã hội ở miền Bắc nước ta” [2].
1.1.2. Nghĩa vụ cấp dưỡng trong pháp luật Việt Nam từ năm 1959 đến năm
1986
Tính đến năm 1959, Nhà nƣớc Việt Nam Dân chủ Cộng hòa đã ra đời
và phát triển đƣợc 14 năm. Đó là một khoảng thời gian có nhiều sự kiện chính
trị quan trọng, làm thay đổi tình hình chính trị, xã hội và kinh tế của đất nƣớc.
Ngay sau khi Quốc hội thông qua Hiến pháp năm 1946, thực dân Pháp lại gây
ra chiến tranh để xâm lƣợc nƣớc ta một lần nữa. Trải qua thời kỳ kháng chiến
chống thực dân Pháp trƣờng kỳ, gian khổ đất nƣớc ta giành thắng lợi nhƣng
tạm thời bị chia cắt làm 2 miền. Ở miền Bắc cuộc Cách mạng ruộng đất đã
căn bản hoàn thành, quan hệ sản xuất phong kiến cơ sở của chế độ hôn nhân
và gia đình phong kiến bị xóa bỏ. Hiến pháp năm 1946 đã hoàn thành sứ
mệnh của nó nhƣng so với tình hình và nhiệm vụ cách mạng mới nó cần đƣợc
bổ sung và thay đổi. Vì vậy, trong Kỳ họp lần thứ 6, Quốc hội nƣớc Việt Nam
Dân chủ cộng hòa Khoá I đã quyết định sửa đổi Hiến pháp năm 1946. Đến
ngày 31/12/1959 Quốc hội thông qua Hiến pháp 1959, Điều 24 Hiến pháp ghi

nhận quyền bình đẳng giữa nam và nữ về mọi mặt kinh tế, chính trị, văn hoá,
xã hội và gia đình. Đây chính là cơ sở pháp lý cho chế độ hôn nhân và gia
đình và là tiền đề cho sự ra đời của Luật Hôn nhân và Gia đình năm 1959.
Luật Hôn nhân và Gia đình năm 1959 (đƣợc thông qua ngày
29/12/1959) là công cụ pháp lý quan trọng, có tác dụng một mặt góp phần
thực hiện chế độ hôn nhân và gia đình mới – xã hội chủ nghĩa, mặt khác góp
phần xoá bỏ những tàn tích của chế độ hôn nhân và gia đình phong kiến lạc
hậu. Luật Hôn nhân và Gia đình năm 1959 gồm6 Chƣơng chia thành 35 Điều,
trong đó vấn đề cấp dƣỡng đã đƣợc đề cập tại các Điều 30, 31, 32, 33. Theo
đó, nghĩa vụ cấp dƣỡng chỉ đƣợc đề cập giữa cha mẹ và con; giữa vợ và

13


chồng khi ly hôn. Chúng ta không tìm thấy quy định nào liên quan đến nghĩa
vụ cấp dƣỡng giữa các thành viên khác trong gia đình. Tuy nhiên, Luật Hôn
nhân và gia đình năm 1959 chƣa quy định một cách cụ thể mà nó đƣợc đồng
nhất với nghĩa vụ nuôi dƣỡng của cha mẹ đối với con và nghĩa vụ phụng
dƣỡng của con đối với cha mẹ giống nhƣ hiểu theo pháp luật thời phong kiến
về cấp dƣỡng. Điều 17 quy định: “Cha mẹ có nghĩa vụ thương yêu, nuôi nấng,
giáo dục con cái. Con cái có nghĩa vụ kính yêu, săn sóc, nuôi dưỡng cha mẹ”
[23, Điều 17]. Luật hôn nhân và gia đình năm 1959 còn nhắc đến vấn đề đóng
góp phí tổn nuôi con khi vợ chồng ly hôn tại Điều 32 nhƣ sau:
Khi ly hôn, việc giao cho ai trông nom, nuôi nấng và giáo dục con cái chưa
thành niên, phải căn cứ vào quyền lợi về mọi mặt của con cái. Về nguyên tắc,
con còn bú phải do mẹ phụ trách. Người không giữ con vẫn có quyền thăm
nom, săn sóc con.
Vợ chồng đã ly hôn phải cùng chịu phí tổn về việc nuôi nấng và giáo dục
con, mỗi người tuỳ theo khả năng của mình.
Vì lợi ích của con cái, khi cần thiết, có thể thay đổi việc nuôi giữ hoặc việc

góp phần vào phí tổn nuôi nấng, giáo dục con cái.
Và theo Điều 33 của Luật hôn nhân và gia đình năm 1959 thì:
Việc trông nom, nuôi nấng và giáo dục con cái, việc góp phần vào phí tổn
nuôi nấng và giáo dục con cái sẽ do hai bên thoả thuận giải quyết.
Trường hợp hai bên không thoả thuận với nhau được hoặc trong sự thoả
thuận xét thấy có chỗ không hợp lý, thì Toà án nhân dân sẽ quyết định.
Bên cạnh đó, Luật hôn nhân và gia đình năm 1959 cũng quy định nghĩa
vụ cấp dƣỡng giữa vợ và chồng sau khi ly hôn rất cụ thể, là tiền đề cho các
quy định về nghĩa vụ cấp dƣỡng giữa vợ chồng sau này. Theo Điều 30 Luật
hôn nhân và gia đình năm 1959 thì:

14


Khi ly hôn, nếu một bên túng thiếu yêu cầu cấp dưỡng, thì bên kia phải cấp
dưỡng tuỳ theo khả năng của mình.
Khoản cấp dưỡng và thời gian cấp dưỡng sẽ do hai bên thoả thuận; trường
hợp hai bên không thoả thuận với nhau được thì Toà án nhân dân sẽ quyết
định. Khi người được cấp dưỡng lấy vợ, lấy chồng khác thì sẽ không được
cấp dưỡng nữa.
Mặc dù, vấn đề về hôn nhân và gia đình đã đƣợc điều chỉnh bởi Luật
Hôn nhân và gia đình năm 1959 nhƣng do thời kỳ này đất nƣớc ta đang tạm
thời bị chia cắt cho nên nếu nhƣ ở miền Bắc Luật Hôn nhân và gia đình có hiệu
lực thi hành ngay từ ngày 15/01/1060 thì ở miền Nam cho đến ngày 25/3/1977
Luật Hôn nhân và gia đình năm 1959 mới có hiệu lực thi hành. Trong thời gian
đó, ở Miền Nam tồn tại các đạo luậtvề hôn nhân và gia đình làLuật giađìnhsố
1/59 ngày 2/1/1959, Sắc lệnh 15/64 ngày 23/7/1964vàBộ Dân luật Việt Nam
Cộng hoà năm 1972. Trong đó, vấn đề cấp dƣỡng chỉ đƣợc đề cập đến trong Bộ
Dân luật Việt Nam Cộng hoà năm 1972. Cụ thể nhƣ sau:
Tòa án có thể buộc người phối ngẫu có lỗi trong việc ly hôn phải cấp

dưỡng cho người kia tùy theo tư lực của mình. Tiền cấp dưỡng này có thể bất
cứ lúc nào tăng giảm tùy theo nhu cầu và khả năng của hai bên.
Tòa án cũng có thể ấn định một số bồi khoản mà người phối ngẫu có lỗi
phải gánh chịu đối với người phối ngẫu kia để đền bù những sự thiệt hại vật
chất và tinh thần do sự ly hôn gây nên.
Hai người phối ngẫu có nghĩa vụ cấp dưỡng con chung tùy theo tư lực của
họ [20, Điều 197].
Thậm chí, nếu hai ngƣời chung sống với nhau nhƣ vợ chồng mà không có hôn
ƣớc thì vấn đề cấp dƣỡng cũng đƣợc đặt ra trong giai đoạn đang tiến hành thủ
tục ly hôn theo quy định tại Điều thứ 201. Bộ Dân luật Việt nam cộng hoà năm
1972 cũng thừa nhận vấn đề con ngoài giá thú cũng đƣợc cấp dƣỡng nhƣ sau:

15


Nếu trong thời kỳ hôn thú, một người phối ngẫu thừa nhận một đứa con đã
có với một người khác trước khi kết hôn, sự thừa nhận sẽ không làm thiệt hại
quyền lợi của người phối ngẫu kia và của con chính thức.
Đứa trẻ được thừa nhận như vậy chỉ được cấp dưỡng. Tuy nhiên, sau khi
hôn thú đoạn tiêu, nếu không có con chính thức, đứa trẻ được thừa nhận sẽ
được hưởng mọi quyền lợi về di sản[20, Điều 224].
Có thể nói rằng, so với các quy định tại Luật Hôn nhân và gia đình năm
1959 thì các quy định tại Bộ Dân luật Việt Nam Cộng hoà năm 1972 về nghĩa
vụ cấp dƣỡng khá chi tiết và cụ thể hơn rất nhiều.
Sau năm 1975 đất nƣớc ta đã hoàn toàn thống nhất, cả nƣớc đi lên chủ
nghĩa xã hội. Tiếp đến là sự ra đời của Hiến pháp năm 1980 với các quy định
mới về chính trị, kinh tế, văn hóa - xã hội; quyền nghĩa vụ cơ bản của công
dân sao cho phù hợp với giai đoạn mới của nền dân chủ xã hội chủ nghĩa. Đặc
biệt, Hiến pháp còn quy định các nguyên tắc của chế độ hôn nhân và gia đình
xã hội chủ nghĩa nhƣ sau:

Gia đình là tế bào của xã hội.
Nhà nước bảo hộ hôn nhân và gia đình.
Hôn nhân theo nguyên tắc tự nguyện, tiến bộ, một vợ một chồng, vợ chồng
bình đẳng.
Cha mẹ có nghĩa vụ nuôi dạy con cái thành những công dân có ích cho xã
hội.
Con cái có nghĩa vụ kính trọng và chăm sóc cha mẹ.
Nhà nước và xã hội không thừa nhận sự phân biệt đối xử giữa các con [24,
Điều 64].
Tuy nhiên, tình hình kinh tế xã hội nƣớc ta thời kỳ này đã thay đổi căn
bản so với năm 1959, một số quy định của Luật hôn nhân và gia đình 1959
không còn phù hợp nữa. Trƣớc những thay đổi lớn lao của nƣớc ta trong giai

16


đoạn này, việc xây dựng và ban hành Luật Hôn nhân và Gia đình mới là một
đòi hỏi tất yếu khách quan nhằm thúc đẩy sự nghiệp xây dựng Chủ nghĩa xã
hội trên phạm vi toàn quốc.
1.1.3. Nghĩa vụ cấp dưỡng trong pháp luật Việt Nam từ năm 1986 đến
năm 2000
Ngày 25/12/1986, Luật Hôn nhân và Gia đình năm 1986 chính thức
đƣợc Quốc hội khoá VII kỳ họp thứ 12 thông qua và đƣợc Hội đồng Nhà
nƣớc công bố ngày 03/01/1987. Luật hôn nhân và gia đình năm 1986 tiếp tục
hoàn thiện hệ thống quy tắc về cấp dƣỡng.
Kế thừa Luật hôn nhân và gia đình năm 1959, Luật Hôn nhân và Gia
đình năm 1986 tiếp tục xây dựng và củng cố gia đình xã hội chủ nghĩa, giữ
gìn và phát huy những phong tục, tập quán tốt đẹp của dân tộc. Trong đó,
nghĩa vụ nuôi dƣỡng giữa cha mẹ - con một lần nữa đƣợc ghi nhận trong pháp
luật về hôn nhân và gia đình. Theo quy định ở Điều 19, 20, 21 Luật hôn nhân

và gia đình năm 1986: cha mẹ có nghĩa vụ nuôi dƣỡng con (bao gồm nghĩa vụ
nuôi dƣỡng con đã thành niên mà không có khả năng lao động để tự nuôi
mình), các con có nghĩa vụ kính trọng, chăm sóc, nuôi dƣỡng cha mẹ. Nghĩa
vụ nuôi dƣỡng giữa cha mẹ -con là nghĩa vụ pháp lý đồng thời nó còn mang
tính chất tình cảm tự nhiên. Trƣớc hết nghĩa vụ này đƣợc thực hiện một cách
tự giác đối với cả cha mẹ cũng nhƣ đối với các con. Ngoài ra, Luật Hôn nhân
và gia đình năm 1986 cũng đã đề cập tới vấn đề nuôi con nuôi. Theo đó, giữa
ngƣời nuôi và con nuôi có những nghĩa vụ và quyền của cha mẹ và con quy
định ở các Điều từ 19 đến 25 của Luật.
Đối với mối quan hệ giữa các thành viên khác trong gia đình, Luật Hôn
nhân và gia đình 1986 cũng đã quy định nhƣ sau:“Ông, bà có nghĩa vụ nuôi
dưỡng, giáo dục cháu chưa thành niên trong trường hợp cháu không còn cha
mẹ. Cháu đã thành niên có nghĩa vụ nuôi dưỡng ông bà trong trường hợp ông

17


bà không còn con. Anh chị em có nghĩa vụ đùm bọc lẫn nhau trong trường
hợp không còn cha mẹ”[25, Điều 27].
Trong trƣờng hợp vợ chồng ly hôn, nếu bên túng thiếu yêu cầu cấp
dưỡng thì bên kia phải cấp dưỡng theo khả năng của mình. Khoản cấp dưỡng
và thời gian cấp dưỡng do hai bên thoả thuận. Nếu hai bên không thoả thuận
được với nhau thì Toà án nhân dân quyết định. Khi hoàn cảnh thay đổi, người
được cấp dưỡng hoặc người phải cấp dưỡng có thể yêu cầu sửa đổi mức hoặc
thời gian cấp dưỡng. Nếu người cấp dưỡng kết hôn với người khác thì không
được cấp dưỡng nữa[25, Điều 42]. Quy định này là sự kế thừa quy định của
Luật Hôn nhân và gia đình 1959 về cấp dƣỡng khi vợ chồng ly hôn nhƣng có
sự tiến bộ hơn khi quy định ngƣời đƣợc cấp dƣỡng hoặc ngƣời phải cấp
dƣỡng có thể yêu cầu sửa đổi mức hoặc thời gian cấp dƣỡng. Điều này là phù
hợp với tình hình thực tế, bởi lẽ căn cứ vào thu nhập, khả năng thực tế của

ngƣời có nghĩa vụ cấp dƣỡng và nhu cầu thiết yếu của ngƣời đƣợc cấp dƣỡng
mà thỏa thuận mức và thời gian cấp dƣỡng. Bởi vì, trong cuộc sống ngƣời
phải cấp dƣỡng cũng có thể gặp hoàn cảnh khó khăn, túng thiếu hoặc trải qua
một thời gian cuộc sống của ngƣời đƣợc cấp dƣỡng đƣợc cải thiện, họ không
còn nhu cầu nhận mức cấp dƣỡng đó. Khi đó, việc thay đổi mức và thời gian
cấp dƣỡng là điều hợp lý, có thể bảo đảm nhu cầu sống thiết yếu của hai bên.
Ngoài ra, khi vợ chồng mà ly hôn thì ngƣời không trực tiếp nuôi con
phải đóng góp phí tổn cấp dƣỡng nuôi con theo quy định của pháp luật. Luật
hôn nhân và gia đình năm 1986 quy định:
Người không nuôi giữ con có nghĩa vụ và quyền thăm nom, chăm sóc con
và phải đóng góp phí tổn nuôi dưỡng, giáo dục con. Nếu trì hoãn hoặc lẩn
tránh việc đóng góp, thì Toà án nhân dân quyết định khấu trừ vào thu nhập
hoặc buộc phải nộp những khoản phí tổn đó.

18


Vì lợi ích của con, khi cần thiết, có thể thay đổi việc nuôi giữ con hoặc mức
đóng góp phí tổn nuôi dưỡng, giáo dục con[25, Điều 45].
Luật Hôn nhân và gia đình 1986 cũng chỉ đề cập tới vấn đề đóng góp phí tổn
nuôi dưỡng nhƣ các quy định cũ trƣớc đây.
Nhƣ vậy, cũng giống nhƣ Luật Hôn nhân và Gia đình năm 1959 mặc dù
Luật Hôn nhân và Gia đình năm 1968 có nhắc đến cụm từ “cấp dưỡng”
nhƣng vẫn chƣa có định nghĩa rõ ràng cấp dƣỡng là gì cũng nhƣ chƣa có quy
định một cách cụ thể về chế độ cấp dƣỡng, mức cấp dƣỡng, thời gian cấp
dƣỡng.
Do đƣợc ban hành trong thời kỳ đầu của sự nghiệp đổi mới đất nƣớc,
phát triển nền kinh tế thị trƣờng định hƣớng xã hội chủ nghĩa cho nên qua hơn
10 năm thi hành bên cạnh những điểm tiến bộ Luật hôn nhân và gia đình năm
1986 đã bộc lộ nhiều hạn chế, không còn phù hợp với yêu cầu, nhiệm vụ mới.

Vì vậy, xuất phát từ lý do trên, việc xây dựng và ban hành Luật hôn nhân và
gia đình mới là điều hoàn toàn cần thiết và phù hợp với đòi hỏi của xã hội và
phát triển của đất nƣớc.
Luật hôn nhân và gia đình năm 2000 đƣợc quốc hội khóa X thông qua
ngày 09 tháng 06 năm 2000 đã dành chƣơng thứ VI để quy định về việc cấp
dƣỡng một cách có hệ thống, đầy đủ và cụ thể. Đây là chƣơng mới đƣợc phát
triển từ Điều 43, Điều 45 Luật hôn nhân và gia đình năm 1986. Lần đầu tiên
khái niệm cấp dƣỡng đƣợc quy định một cách rõ ràng và cụ thể trong Luật
Hôn nhân và gia đình: Cấp dưỡng là việc một người có nghĩa vụ đóng góp
tiền hoặc tài sản khác để đáp ứng nhu cầu thiết yếu của người không sống
chung với mình mà có quan hệ hôn nhân, huyết thống hoặc nuôi dưỡng trong
trường hợp người đó là người chưa thành niên, là người đã thành niên mà
không có khả năng lao động và không có tài sản để tự nuôi mình, là người
gặp khó khăn, túng thiếu theo quy định của Luật này[28,Điều 8].Luật Hôn

19


nhân và Gia đình năm 2000 đã cụ thể hoá, chi tiết hoá các quy định có tính
khái quát, chung chung của Luật Hôn nhân và Gia đình năm 1986, đặc biệt là
các nghĩa vụ và quyền về nhân thân và tài sản của các thành viên trong gia
đình. Luật cũng đã mở rộng phạm vi quan hệ cấp dƣỡng, không chỉ có nghĩa
vụ cấp dƣỡng giữa vợ chồng khi ly hôn mà còn quy định nghĩa vụ cấp dƣỡng
giữa các thành viên trong gia đình bao gồm cha, mẹ và con, giữa anh chị em
với nhau, giữa ông bà nội, ông bà ngoại và cháu, giữa vợ và chồng. Nghĩa vụ
cấp dƣỡng của cha mẹ đối với con khi ly hôn cũng đƣợc quy định một cách
chặt chẽ, luật cũng quy định rõ những ngƣời có quyền yêu cầu thực hiện
nghĩa vụ cấp dƣỡng, phƣơng thức thực hiện cấp dƣỡng và các trƣờng hợp
chấm dứt cấp dƣỡng.
Với những điểm mới quan trọng trên, Luật Hôn nhân và Gia đình năm

2000 đã khắc phục đƣợc phần nào những thiếu sót của Luật Hôn nhân và Gia
đình năm 1986 góp phần điều chỉnh quan hệ hôn nhân và gia đình theo hƣớng
tốt đẹp, duy trì những quan hệ truyền thống, bảo vệ quyền lợi và lợi ích chính
đáng của các thành viên trong gia đình.
1.1.4. Nghĩa vụ cấp dưỡng trong pháp luật Việt Nam từ năm 2000 đến nay
Trong điều kiện hiện nay, dƣới tác động của nền kinh tế thị trƣờng định
hƣớng xã hội chủ nghĩa đã phần nào ảnh hƣởng đến các quan hệ hôn nhân và gia
đình. Trong một số gia đình có biểu hiện xuống cấp về đạo đức thể hiện qua lối
sống thực dụng, ích kỷ, không quan tâm đến nhau. Điều đó đòi hỏi phải có
những quy định cụ thể đề cao trách nhiệm giữa các thành viên trong gia đình đối
với nhau, nhằm đảm bảo sự ổn định, bền vững và hạnh phúc của gia đình.
Với cách nhận nhìn gia đình là tế bào của xã hội, là cái nôi nuôi dƣỡng
con ngƣời, là môi trƣờng quan trọng hình thành và giáo dục nhân cách con
ngƣời, góp phần xây dựng và bảo vệ tổ quốc . Vai trò của gia điǹ h đố i với xã
hội là vô cùng quan tro ̣ng nên các chế đinh
̣ pháp luâ ̣t điề u chỉnh vấ n đề không

20


×