Tải bản đầy đủ (.pdf) (94 trang)

Xác định tài sản vợ chồng khi ly hôn theo luật hôn nhân và gia đình năm 2014

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.16 MB, 94 trang )

ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
KHOA LUẬT

PHẠM THỊ ANH

XÁC ĐỊNH TÀI SẢN VỢ CHỒNG KHI LY HÔN
THEO LUẬT HÔN NHÂN VÀ GIA ĐÌNH
NĂM 2014

LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC

Hà Nội – 2015


ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
KHOA LUẬT

PHẠM THỊ ANH

XÁC ĐỊNH TÀI SẢN VỢ CHỒNG KHI LY HÔN
THEO LUẬT HÔN NHÂN VÀ GIA ĐÌNH NĂM 2014

Chuyên ngành

: Luật Dân sự và Tố tụng dân sự

Mã số

: 60 38 01 03

LUẬN VĂN THẠC SĨ LUẬT HỌC



Cán bộ hướng dẫn khoa học: TS. BÙI MINH HỒNG

Hà Nội – 2015


LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan Luận văn là công trình nghiên cứu của riêng tôi. Các
kết quả được nêu trong Luận văn chưa được công bố trong bất kỳ công trình
nào khác. Các số liệu, ví dụ và trích dẫn trong Luận văn đảm bảo tính chính
xác, tin cậy và trung thực. Tôi đã hoàn thành tất cả các môn học và đã thanh
toán tất cả các nghĩa vụ tài chính theo quy định của Khoa Luật - Đại học
Quốc gia Hà Nội.
Vậy, tôi viết lời cam đoan này đề nghị Khoa Luật xem xét để tôi có thể
bảo vệ Luận văn.
Tôi xin chân thành cảm ơn!
NGƯỜI CAM ĐOAN

Phạm Thị Anh


MỤC LỤC
Trang
Trang phụ bìa
Lời cam đoan
Mục Lục
Danh mục các chữ viết tắt
MỞ ĐẦU .......................................................................................................... 1
Chương 1: MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ XÁC ĐỊNH TÀI SẢN
VỢ CHỒNG KHI LY HÔN ........................................................................... 8

1.1. Khái niệm chế độ tài sản vợ chồng và xác định tài sản vợ chồng khi ly
hôn..................................................................................................................... 8
1.1.1. Khái niệm chế độ tài sản vợ chồng ......................................................... 8
1.1.2. Khái niệm xác định tài sản vợ chồng khi ly hôn ................................... 10
1.2. Ý nghĩa của việc xác định tài sản vợ chồng khi ly hôn ....................... 13
1.3. Sơ lược pháp luật Việt Nam về xác định tài sản vợ chồng khi ly hôn
qua các thời kỳ ............................................................................................... 14
1.3.1. Pháp luật phong kiến về xác định tài sản vợ chồng khi ly hôn ............. 14
1.3.2. Pháp luật thời kỳ Pháp thuộc về xác định tài sản vợ chồng khi ly hôn.15
1.3.3. Pháp luật ở miền Nam trước ngày thống nhất đất nước về xác định tài
sản vợ chồng khi ly hôn (1954 - 1975) ........................................................... 18
1.3.4. Pháp luật của Nhà nước ta từ Cách mạng tháng tám đến năm 2000 về
xác định tài sản vợ chồng khi ly hôn............................................................... 19
1.4. Pháp luật một số quốc gia về xác định tài sản vợ chồng khi ly hôn .. 25
1.4.1. Luật của Thái Lan ................................................................................. 25
1.4.2. Luật của Nhật Bản ................................................................................. 26
1.4.3. Luật của Đức ......................................................................................... 27


Chương 2: XÁC ĐỊNH TÀI SẢN VỢ CHỒNG KHI LY HÔN THEO
PHÁP LUẬT VỀ HÔN NHÂN VÀ GIA ĐÌNH HIỆN HÀNH VÀ THỰC
TIỄN ÁP DỤNG..................................................................................... ......30
2.1. Xác định tài sản vợ chồng khi ly hôn trong trường hợp vợ chồng áp
dụng chế độ tài sản theo thỏa thuận ............................................................ 29
2.1.1. Xác định tài sản vợ chồng dựa vào văn bản thoả thuận về tài sản của vợ
chồng ............................................................................................................... 29
2.1.2. Xác định tài sản của vợ chồng khi thoả thuận về chế độ tài sản không
đầy đủ, rõ ràng................................................................................................. 32
2.2. Xác định tài sản vợ chồng khi ly hôn trong trường hợp vợ chồng áp
dụng chế độ tài sản theo luật định ............................................................... 34

2.2.1. Xác định tài sản chung của vợ chồng.................................................... 35
2.2.2. Xác định tài sản riêng của vợ, chồng .................................................... 49
2.3. Thực tiễn xác định tài sản vợ chồng khi ly hôn ................................... 55
2.3.1. Căn cứ xác định tài sản chung vợ chồng............................................... 55
2.3.2. Nguyên tắc chia tài sản chung của vợ chồng ........................................ 62
2.3.3. Thỏa thuận chia tài sản chung vợ chồng khi ly hôn nhằm trốn tránh
nghĩa vụ tài sản khác ....................................................................................... 66
Chương 3: MỘT SỐ KIẾN NGHỊ NHẰM HOÀN THIỆN VÀ NÂNG
CAO HIỆU QUẢ ÁP DỤNG PHÁP LUẬT VỀ XÁC ĐỊNH TÀI SẢN
VỢ CHỒNG KHI LY HÔN ......................................................................... 68
3.1. Một số kiến nghị hoàn thiện pháp luật về xác định tài sản vợ chồng
khi ly hôn ........................................................................................................ 68
3.1.1. Quy định về căn cứ xác định tài sản chung của vợ chồng khi ly hôn ... 68
3.1.2. Quy định về nguyên tắc chia tài sản chung của vợ chồng khi ly hôn ... 73
3.1.3. Quy định về nhập tài sản riêng của vợ chồng vào tài sản chung. ............. 73


3.2. Một số kiến nghị nhằm nâng cao hiệu quả áp dụng pháp luật về xác
định tài sản vợ chồng khi ly hôn ................................................................... 74
3.2.1. Tăng cường công tác giải thích và hướng dẫn áp dụng thống nhất pháp
luật ................................................................................................................... 75
3.2.2. Phát huy vai trò của công tác tuyên truyền, phổ biến các quy định của
pháp luật trong nhân dân ................................................................................. 75
3.2.3. Giải pháp nâng cao chất lượng công chứng của các tổ chức hành nghề
công chứng ...................................................................................................... 77
3.2.4. Nâng cao chất lượng của công tác hòa giải .......................................... 78
KẾT LUẬN .................................................................................................... 80
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO ..................................................... 82



DANH MỤC CÁC CHỮ VIẾT TẮT
BLDS

: Bộ luật dân sự

DLBK

: Dân luật Bắc Kỳ

DLTK

: Dân luật Trung Kỳ

BLTTDS

: Bộ luật tố tụng dân sự năm 2004, sửa đổi, bổ sung
năm 2011

GCNQSDĐ

: Giấy chứng nhận quyền sử dụng đất

HN&GĐ

: Hôn nhân và gia đình

TAND

: Tòa án nhân dân



MỞ ĐẦU

1. Tính cấp thiết của đề tài
Từ xưa đến nay, gia đình luôn là tế bào của xã hội, là nơi những người
có quan hệ huyết thống, hôn nhân và nuôi dưỡng cùng chung sống. Gia đình
hòa thuận và hạnh phúc sẽ góp phần vào sự phát triển bền vững và phồn thịnh
chung của xã hội. Nhận thức được vị thế quan trọng của gia đình, Đảng và
Nhà nước ta luôn quan tâm, chú trọng đến việc xây dựng và gìn giữ gia đình
êm ấm, hòa thuận, thể hiện ở sự quan tâm đó là Đảng và Nhà nước ta đã ban
hành các văn bản quy phạm pháp luật về hôn nhân và gia đình góp phần giúp
cho sự tồn tại và phát triển của gia đình đi vào chuẩn mực, khuôn khổ, nhằm
tạo ra sự bền vững trong quan hệ gia đình.
Khi nam nữ kết hôn, cùng nhau xây dựng một gia đình thì sự bền vững
của quan hệ hôn nhân là mong muốn của vợ chồng. Đây cũng là mục đích của
việc xây dựng gia đình mà pháp luật đặt ra. Tuy nhiên, trong nhiều trường
hợp, quan hệ hôn nhân do chịu sự tác động của nhiều yếu tố chủ quan và
khách quan, đã không giữ được ý nghĩa và giá trị như mong muốn ban đầu,
cuộc sống chung của vợ, chồng đã không còn hạnh phúc, nên pháp luật dự
liệu khả năng cho họ quyền được giải phóng khỏi mối quan hệ hôn nhân bằng
việc ly hôn.
Khi ly hôn, giữa vợ chồng thường xảy ra các tranh chấp, đặc biệt là về
tài sản. Quan hệ tài sản giữa vợ, chồng là quan hệ tài sản gắn liền với nhân
thân, tồn tại trong thời kỳ hôn nhân, không có tính đền bù ngang giá và không
xác định được công sức đóng góp cụ thể của các bên nên khi xảy ra tranh
chấp thì việc xác định tài sản vợ, chồng là tương đối khó khăn, phức tạp, gây
nhiều tranh cãi. Những năm gần đây, với sự phát triển của nền kinh tế thị

1



trường nên đời sống xã hội cũng như kinh tế của người dân ngày càng được
đảm bảo và nâng cao. Song mặt trái của nền kinh tế thị trường đã dẫn đến
nhiều người sống buông thả, coi trọng vật chất, tình cảm giữa mọi người với
nhau không còn mặn mà, được coi trọng như trước. Giá trị tài sản lớn và sự
coi trọng vật chất làm những tranh chấp về tài sản giữa vợ và chồng trong
việc giải quyết ly hôn có tính quyết liệt, căng thẳng hơn.
Đất nước ta bước sang giai đoạn phát triển mới, cùng với tiến trình
công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước và hội nhập quốc tế, xã hội Việt Nam
đang chịu những tác động tích cực và tiêu cực, không chỉ về mặt kinh tế mà
còn cả về mặt văn hóa, xã hội. Gia đình với tư cách là tế bào của xã hội cũng
không tránh khỏi sự tác động đa chiều đó. Một số quan niệm mới về hôn
nhân, gia đình ở nước ngoài đã du nhập vào Việt Nam và gây ra nhiều hệ lụy
khác nhau. Trong bối cảnh như vậy, Luật HN&GĐ năm 2000 đã bộc lộ một
số hạn chế, bất cập làm ảnh hưởng đến sự ổn định của các quan hệ HN&GĐ.
Nhằm tạo cơ sở pháp lý lâu dài, ổn định, thống nhất cho việc xây dựng và
hoàn thiện chế độ HN&GĐ Việt Nam; góp phần xây dựng gia đình Việt Nam
ấm no, tiến bộ và hạnh phúc. Kế thừa và phát triển của Luật HN&GĐ năm
1959, Luật HN&GĐ năm 1986 và Luật HN&GĐ năm 2000, Luật HN&GĐ
được Quốc hội nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam khóa XIII, kỳ họp
thứ 7 thông qua ngày 19 tháng 6 năm 2014 đã quy định các vấn đề HN&GĐ,
trong đó có vấn đề tài sản của vợ chồng một cách đầy đủ và hợp lý hơn, tạo
thuận lợi cho việc thực hiện và áp dụng giải quyết tranh chấp.
Với những lý do trên tôi quyết định lựa chọn đề tài “Xác định tài sản
vợ chồng khi ly hôn theo luật HN&GĐ 2014” làm Luận văn thạc sĩ luật học
của mình.

2



2. Tình hình nghiên cứu đề tài
Xuất phát từ vai trò quan trọng của gia đình trong xã hội nên việc
nghiên cứu về xác định tài sản vợ chồng khi ly hôn luôn được quan tâm và
chú ý, được nhiều nhà nghiên cứu và các học giả đề cập.
Trong thời gian qua, ở nước ta đã có một số công trình nghiên cứu liên
quan đến chế độ tài sản của vợ chồng. Có thể phân loại các công trình nghiên
cứu này thành ba nhóm lớn như sau:
Nhóm các luận văn, luận án: Các công trình nghiên cứu tiêu biểu
trong nhóm này có: Chế độ tài sản của vợ chồng theo Luật Hôn nhân và gia
đình Việt Nam (Nguyễn Văn Cừ, Luận án Tiến sĩ, 2005); Xác định chế độ tài
sản của vợ chồng - một số vấn đề lý luận và thực tiễn (Nguyễn Hồng Hải,
Luận văn Thạc sĩ, 2002); Luật Hôn nhân và gia đình năm 2000 - Thành tựu,
vướng mắc và hướng hoàn thiện (Trần Thị Thùy Liên, Luận văn Thạc sĩ,
2012); Chia tài sản chung của vợ chồng theo pháp luật Việt Nam - Thực tiễn
áp dụng và hướng hoàn thiện (Nguyễn Thị Hạnh, Luận văn Thạc sĩ, 2012);
Giải quyết tranh chấp về chia tài sản chung của vợ chồng khi ly hôn (Đinh
Thị Minh Mẫn, Luận văn Thạc sĩ, 2014)…
Các công trình này có công trình có phạm vi nghiên cứu rộng, đề cập đến
nhiều khía cạnh khác nhau, có công trình chỉ giải quyết một khía cạnh nhỏ
trong vấn đề tài sản vợ chồng, có công trình nghiên cứu riêng và chuyên sâu
về xác định tài sản vợ chồng khi ly hôn. Song, các công trình nghiên cứu trên
cho dù có những nội dung ưu việt, tiên tiến nhưng cũng còn nhiều vấn đề
không bắt kịp nhịp sống xã hội vốn luôn chuyển biến ảnh hưởng trực tiếp tới
cuộc sống vợ chồng, đặc biệt là vấn đề tài sản.
Nhóm giáo trình, sách chuyên khảo: Trong nhóm này phải kể đến
một số công trình tiêu biểu như: Giáo trình Luật Hôn nhân và gia đình Việt
Nam (Trường Đại học Luật Hà Nội, Nxb Công an nhân dân, 2008), Giáo trình

3



Kỹ năng giải quyết vụ việc dân sự (Học viện Tư pháp, Nxb Công an nhân dân,
2007); Bình luận khoa học Luật Hôn nhân và gia đình Việt Nam (Nguyễn
Ngọc Điện, Nxb Trẻ, 2004); Chế độ tài sản của vợ chồng theo pháp luật hôn
nhân và gia đình Việt Nam (Nguyễn Văn Cừ, Nxb Tư Pháp,2008); Một số vấn
đề lý luận và thực tiễn về Luật HN&GĐ năm 2000 (Tác giả Nguyễn Văn Cừ Ngô Thị Hường, Nxb Chính trị quốc gia Hà Nội, 2002);…
Trong các cuốn sách trên, xác định tài sản vợ chồng khi ly hôn đã được
phân tích một cách chung chung, có tính chất tổng quát, có cuốn đi vào phân
tích chuyên sâu và cụ thể nhưng chưa nêu hết được những bất cập, hạn chế
trước những biến đổi của đời sống xã hội có ảnh hưởng tới chế độ tài sản của
vợ chồng.
Nhóm các bài viết trên các báo, tạp chí: Có thể kể đến một số bài
như Bàn thêm về chia tài sản chung của vợ chồng trong thời kỳ hôn nhân theo
pháp luật hôn nhân gia đình hiện hành (Nguyễn Hồng Hải, 2003, Tạp chí
Luật học, số 5); Chế độ tài sản theo thoả thuận của vợ chồng liên hệ từ pháp
luật nước ngoài đến pháp luật Việt Nam (Bùi Minh Hồng, 2009, Tạp chí Luật
học, số 11);….
Các tác giả chỉ đề cập đến một khía cạnh hoặc một trường hợp cụ thể
liên quan đến xác định tài sản vợ chồng khi ly hôn mà không thể phân tích
toàn diện các khía cạnh của chế định này.
Một điểm chung của cả ba nhóm công trình nghiên cứu kể trên, đó là
phần lớn các tác giả thường thiên về việc phân tích, đánh giá thực trạng pháp
luật quy định về chế độ tài sản của vợ chồng. Một số công trình nghiên cứu,
cũng đã có dẫn chiếu, liên hệ thực tiễn áp dụng một số quy định pháp luật, tuy
nhiên, sự liên hệ, phân tích đó chỉ có tính chất minh hoạ cho một số trường hợp
cụ thể mà chưa có sự soi chiếu một cách tổng thể, toàn diện tất cả các khía
cạnh của việc áp dụng quy định về chế độ tài sản của vợ chồng vào thực tiễn.

4



Trong các nhóm trên, có công trình đã nghiên cứu về xác định tài sản
vợ chồng khi ly hôn, nhưng đứng trước sự phát triển kinh tế - xã hội với nhiều
chuyển biến, chịu sự ảnh hưởng của tập quán của đất nước tất yếu có sự tác
động lớn trong tâm lý của mỗi cá nhân, mỗi gia đình, mỗi cặp vợ chồng.
Đồng thời, với xu hướng các vụ án ly hôn và xác định, phân chia tài sản của
vợ chồng khi ly hôn hiện nay ngày càng tăng và việc Luật HN&GĐ năm 2014
mới được ban hành và bước đầu đi vào áp dụng trong thực tiễn thì việc nghiên
cứu các quy định của pháp luật về xác định tài sản vợ chồng khi ly hôn là điều
quan trọng. Qua nghiên cứu, sẽ thấy được những tiến bộ của Luật HN&GĐ
năm 2014 và những hạn chế, bất cập trong quá trình áp dụng các quy định của
pháp luật để xác định tài sản vợ chồng, đề ra những kiến nghị hoàn thiện pháp
luật và những phương hướng nhằm nâng cao hiệu quả của việc xác định tài
sản vợ chồng khi ly hôn.
3. Mục tiêu nghiên cứu
3.1. Mục tiêu tổng quát
Mục tiêu tổng quát của Luận văn là trên cơ sở nghiên cứu khái niệm,
đặc điểm, vai trò, ý nghĩa của việc xác định tài sản vợ chồng khi ly hôn theo
Luật HN&GĐ năm 2014. Đồng thời phân tích những quy định cụ thể nhằm
nhận thức rõ nội dung, hiệu quả áp dụng, cũng như những điểm hạn chế,
vướng mắc trong quá trình áp dụng pháp luật, đưa ra một số kiến nghị hoàn
thiện pháp luật về việc xác định tài sản vợ chồng khi ly hôn theo Luật
HN&GĐ năm 2014.
3.2. Mục tiêu cụ thể
Trên cơ sở mục tiêu tổng quát nêu trên, Luận văn thực hiện những mục
tiêu cụ thể như sau:
- Nghiên cứu những vấn đề lý luận về tài sản vợ chồng, việc phân chia
tài sản vợ chồng khi ly hôn theo Luật HN&GĐ năm 2014.

5



- Tìm hiểu một cách có hệ thống về lịch sử phát triển của việc xác định
tài sản vợ chồng khi ly hôn theo pháp luật ở Việt Nam qua các thời kỳ.
- Nghiên cứu các quy định của pháp luật hiện hành về tài sản vợ chồng
và cách xác định tài sản vợ chồng khi ly hôn.
- Nghiên cứu thực tiễn áp dụng các quy định về xác định tài sản vợ
chồng khi ly hôn theo pháp luật..... Qua đó, đánh giá về những thành tựu cũng
như những vướng mắc, bất cập của việc áp dụng các nguyên tắc xác định tài
sản vợ chồng khi ly hôn theo pháp luật.
- Từ những phân tích nội dung và nghiên cứu thực tiễn áp dụng xác định
tài sản vợ chồng khi ly hôn theo pháp luật, luận văn đề xuất những kiến nghị
hoàn thiện pháp luật về xác định tài sản vợ chồng khi ly hôn theo pháp luật
4. Đối tượng nghiên cứu
Trong phạm vi nghiên cứu luận văn này, Luận văn sẽ phân tích các quy
định của pháp luật hiện hành về cơ sở lý luận và thực tiễn việc xác định tài
sản vợ chồng khi ly hôn theo Luật HN&GĐ năm 2014.
5. Phạm vi nghiên cứu đề tài
Trong khuôn khổ của một luận văn thạc sĩ, luận văn tập trung vào một
số vấn đề sau:
- Quy định của pháp luật hiện hành về xác định tài sản vợ chồng khi ly
hôn được quy định trong Luật HN&GĐ năm 2000, Luật HN&GĐ năm 2014,
BLDS năm 2005 và một số văn bản pháp luật khác có liên quan.
- Thực tiễn áp dụng các quy định pháp luật hiện hành về xác định tài
sản vợ chồng khi ly hôn. Trong đó, tập trung vào một số vấn đề khó khăn,
vướng mắc, điển hình; các trường hợp áp dụng sai luật…; tìm hiểu và nghiên
cứu những ví dụ cụ thể, những bản án thực tế từ đó bình luận và phân tích

6



những nguyên nhân chính làm giảm hiệu quả áp dụng pháp luật về xác định
tài sản vợ chồng khi ly hôn trong thực tế.
Luận văn không đề cập đến góc độ thủ tục tố tụng khi giải quyết vấn đề
xác định tài sản vợ chồng khi ly hôn. Luận văn cũng không xem xét, nghiên
cứu vấn đề xác định tài sản vợ chồng khi ly hôn dưới góc độ tư pháp quốc tế.
6. Phương pháp luận và phương pháp nghiên cứu đề tài
Cơ sở phương pháp luận nghiên cứu đề tài là phép duy vật biện chứng,
duy vật lịch sử và các quan điểm của đảng, pháp luật của Nhà nước điều
chỉnh quan hệ HN&GĐ.
Phương pháp nghiên cứu cụ thể: Trong quá trình nghiên cứu, tác giả sử
dụng phối hợp nhiều phương pháp khác nhau như phương pháp phân tích, so
sánh, phương pháp tổng hợp, phương pháp thống kê, khảo sát thực tiễn...
Trong quá trình khảo sát thực tiễn, luận văn đã áp dụng phương pháp phỏng
vấn sâu một số người có liên quan để thu thập những tài liệu lưu trữ chính
thống còn khuyết thiếu, đồng thời nhằm có thêm tư liệu sinh động từ thực tiễn
của người trực tiếp áp dụng pháp luật.
7. Kết cấu của luận văn
Ngoài phần Mở đầu, Kết luận, Danh mục tài liệu tham khảo và Phụ lục,
Nội dung của Luận văn gồm hai chương:
Chương 1: Một số vấn đề lý luận về xác định tài sản của vợ chồng khi
ly hôn.
Chương 2: Xác định tài sản vợ chồng khi ly hôn theo pháp luật hiện
hành, thực tiễn áp dụng và một số kiến nghị.

7


NỘI DUNG
Chương 1: MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ XÁC ĐỊNH TÀI SẢN

VỢ CHỒNG KHI LY HÔN
1.1. Khái niệm chế độ tài sản vợ chồng và xác định tài sản vợ chồng
khi ly hôn
1.1.1. Khái niệm chế độ tài sản vợ chồng
Gia đình là tế bào của xã hội, thể hiện tính chất và kết cấu của xã hội.
Gia đình có vị trí, vai trò đặc biệt quan trọng đối với sự tồn tại và phát triển
của xã hội, gia đình tốt thì xã hội mới tốt. Để xây dựng gia đình tốt thì nền
tảng hôn nhân phải bền vững, ngoài việc được hình thành trên cơ sở tự
nguyện, bình đẳng, tiến bộ thì việc tạo lập tài sản là một trong những điều
kiện tất yếu để nuôi sống gia đình, là điều kiện vật chất, cơ sở kinh tế cho hôn
nhân tồn tại bền vững. Vì vậy, các nhà làm luật đã quan tâm xây dựng các quy
định về chế độ tài sản của vợ chồng là một trong những chế định quan trọng,
cơ bản nhất của pháp luật hôn nhân và gia đình.
Vợ, chồng với tư cách là công dân, có quyền chiếm hữu, sử dụng, định
đoạt đối với tài sản thuộc quyền sở hữu của mình. Tài sản theo nghĩa từ điển
Luật học là “của cải, vật chất dùng vào mục đích sản xuất hoặc tiêu dùng”,
còn theo Bộ luật dân sự (BLDS) năm 2005 “tài sản bao gồm vật, tiền, giấy tờ
có giá và các quyền tài sản” [40, Điều 163]. Trước khi kết hôn, tài sản của
mỗi bên nam, nữ thuộc phạm trù tài sản riêng của cá nhân. Chủ sở hữu có
toàn quyền chiếm hữu, sử dụng, định đoạt đối với tài sản thuộc quyền sở hữu
của mình. Chỉ sau khi kết hôn và trong thời kỳ hôn nhân, vấn đề tài sản giữa
vợ chồng mới phát sinh, tài sản chung được hình thành, các lợi ích và các
quyền chiếm hữu, sử dụng, định đoạt đối với khối tài sản này cũng được hình
thành. Do tính chất đặc biệt của quan hệ hôn nhân - tính cộng đồng, hai vợ

8


chồng cùng đóng góp công sức trong việc tạo dựng tài sản, xây dựng gia đình
hoà thuận, hạnh phúc.

Trong thời kỳ hôn nhân, vợ chồng ràng buộc lẫn nhau về quyền và
nghĩa vụ, trong đó có những quyền và nghĩa vụ liên quan đến việc xác lập,
thực hiện các giao dịch liên quan đến tài sản chung, tài sản riêng của vợ
chồng. Tất cả các tài sản của vợ, chồng, dù là của riêng mỗi người hay của
chung hai người, đều phải được khai thác, sử dụng trước hết nhằm bảo đảm
sự duy trì và phát triển của gia đình, thực hiện nghĩa vụ chăm sóc, giúp đỡ lẫn
nhau; nghĩa vụ chăm sóc, nuôi dưỡng, giáo dục các con,… Nhân danh lợi ích
của gia đình, vợ hoặc chồng có thể tự mình xác lập, thực hiện các giao dịch
trên tài sản chung và trong một số trường hợp, nghĩa vụ phát sinh từ các giao
dịch ấy có thể ràng buộc cả vợ và chồng một cách liên đới, nghĩa là khiến cho
chồng hoặc vợ, dù không trực tiếp đứng ra giao dịch, phải có trách nhiệm
cùng với vợ hoặc chồng thực hiện nghĩa vụ bằng tài sản chung, thậm chí bằng
tài sản riêng của mình. Do vậy, tài sản không chỉ gắn liền với những lợi ích
thiết thực của hai bên mà còn liên quan đến người thứ ba, đặc biệt là khi vợ
chồng tham gia vào hoạt động kinh doanh thương mại. Đây là một trong
những lý do mà các nhà lập pháp phải dự liệu về chế độ tài sản của vợ chồng.
Nhờ có chế độ tài sản của vợ chồng được quy định, tạo điều kiện cho vợ,
chồng và người thứ ba tự do tham gia các giao dịch liên quan đến tài sản của
vợ chồng trong khuôn khổ luật định, bảo vệ quyền lợi chính đáng của mình.
Trong pháp luật của Nhà nước ta,cho đến nay vẫn chưa có một khái
niệm về chế độ tài sản của vợ chồng được quy định trong một văn bản cụ thể
của cơ quan nhà nước có thẩm quyền. Chế độ tài sản của vợ chồng được quy
định trong pháp luật như là một tất yếu khách quan, nhằm điều chỉnh quan hệ
tài sản vợ chồng, góp phần ổn định các quan hệ xã hội.
Tôi đồng ý với luận điểm khái quát chế độ tài sản của vợ chồng như

9


sau: “Chế độ tài sản của vợ chồng là tổng hợp các quy phạm pháp luật điều

chỉnh về tài sản của vợ chồng, bao gồm các quy định về căn cứ xác lập tài
sản, quyền và nghĩa vụ của vợ chồng đối với tài sản chung, tài sản riêng;
nguyên tắc phân chia tài sản giữa vợ và chồng” [10].
Đối với tài sản chung, vợ chồng cùng tham gia vào việc tạo lập, duy trì
và phát triển khối tài sản mà họ có quyền sở hữu chung. Trong khi đối với tài
sản riêng, vợ, chồng có sự độc lập trong việc xác lập và thực hiện quyền sở
hữu. Việc quy định chế độ tài sản vợ chồng ở các quốc gia là khác nhau tuỳ
thuộc vào chế độ kinh tế, xã hội cũng như tập quán, thuần phong, mỹ tục.
Pháp luật hôn HN&GĐ nói chung quy định hai cách thức tương ứng với hai
chế độ tài sản vợ chồng: chế độ tài sản vợ chồng theo pháp luật (chế độ hôn
sản pháp định) và chế độ tài sản vợ chồng theo thoả thuận (chế độ hôn sản
ước định).
1.1.2. Khái niệm xác định tài sản vợ chồng khi ly hôn
Quan hệ hôn nhân với đặc điểm tồn tại lâu dài, bền vững cho đến suốt
cuộc đời con người vì nó được xác lập trên cơ sở tình yêu thương, gắn bó giữa
vợ. Một ngày cũng nên nghĩa vợ chồng là một quan hệ đẹp đã ăn sâu vào tiềm
thức của người Phương Đông. Mục đích của kết hôn là nhằm xây dựng một gia
đình hạnh phúc, cùng nhau chung sống suốt đời nhưng cuộc sống gia đình
không phải lúc nào cũng “êm đềm”. Khi xã hội ngày càng phát triển, đời sống
vật chất trong gia đình tăng lên, các mối quan hệ của vợ chồng đối với xã hội
ngày càng nhiều, đa dạng và tác động qua lại giữa chúng đã dẫn đến việc nảy
sinh những mâu thuẫn trong quan hệ vợ chồng, hôn nhân đi vào con đường rạn
nứt, đổ vỡ và họ tìm đến con đường giải thoát bằng những cuộc ly hôn.

10


Ly hôn không chỉ làm sứt mẻ đi cuộc sống, tình cảm tâm lý của của các
thành viên trong gia đình, sự ly tán gia đình, vợ chồng, con cái mà còn có sự
tranh giành, hơn thua nhau trong vấn đề phân chia tài sản.

Khi yêu cầu ly hôn, do có sự mâu thuẫn về quan hệ tình cảm nên vợ
chồng khó tìm được tiếng nói chung trong việc quản lý, sử dụng, định đoạt tài
sản. Vì vậy, họ thường có nhu cầu xác định rạch ròi về tài sản.
Theo Từ điển tiếng Việt thì xác định được hiểu là việc đưa ra kết quả
cụ thể, rõ ràng và chính xác sau khi nghiên cứu, tìm tòi và tính toán cái chưa
rõ thuộc về bên nào.
Việc xác định tài sản có thể diễn ra cùng việc vợ, chồng xin ly hôn
hoặc có thể diễn ra sau khi vợ chồng đã ly hôn do thời điểm ly hôn vợ, chồng
không yêu cầu giải quyết về tài sản mà để họ tự thỏa thuận nhưng sau đó họ
không tự thỏa thuận được.
Vấn đề xác định tài sản vợ chồng khi ly hôn gồm các nội dung sau:
- Xác định đâu là tài sản chung, đâu là tài sản riêng của vợ, chồng.
Ví dụ: Tài sản do vợ chồng tạo lập được trong thời kỳ hôn nhân như
nhà, đất nhưng trong giấy tờ mua bán hoặc GCNQSDĐ chỉ đứng tên vợ hoặc
chồng; Tài sản là của bố mẹ vợ hoặc chồng cho vợ chồng nhưng khi ly hôn
thì bố mẹ lại thay đổi là chỉ cho con trai hoặc con gái hoặc cha mẹ đòi lại; Tài
sản riêng vợ chồng có trước khi kết hôn nhưng lại đưa vào sử dụng chung
trong thời kỳ hôn nhân…
- Phân chia tài sản chung của vợ chồng
Bình thường, tài sản chung của vợ chồng là tài sản chung hợp nhất,
phần quyền sở hữu của vợ, chồng không được xác định trước. Khi đem chia,
khối tài sản chung được phân, tách thành từng phần tính theo hiện vật hoặc
giá trị để vợ, chồng có quyền sở hữu riêng. Như vậy, chia tài sản chung của

11


vợ chồng là phân chia tài sản chung của vợ chồng thành từng phần thuộc sở
hữu riêng của vợ và của chồng.
Khi chia tài sản chung của vợ chồng cần căn cứ vào các nguyên tắc

chia tài sản chung như tình trạng tài sản, công sức đóng góp, hoàn cảnh của
các bên…
- Giải quyết quyền, nghĩa vụ tài sản của vợ chồng đối với người thứ ba
khi ly hôn.
Trong thời kỳ hôn nhân, vợ chồng ràng buộc lẫn nhau bởi nhiều bổn
phận, trong đó có những bổn phận có ảnh hưởng nhất định đối với quyền hạn
của vợ, chồng trong việc xác lập các giao dịch liên quan đến tài sản, thậm chí
có những bổn phận có tác dụng đặt cơ sở cho việc xác định tính chất chung
hay riêng của một tài sản do vợ hoặc chồng tạo ra. Tất cả các tài sản của vợ,
chồng, dù là của riêng mỗi người hay của chung hai người, đều phải được
khai thác, sử dụng trước hết nhằm bảo đảm sự duy trì và phát triển của gia
đình, thực hiện nghĩa vụ chăm sóc, giúp đỡ lẫn nhau; nghĩa vụ chăm sóc, nuôi
dưỡng, giáo dục các con,… sau đó mới phục vụ cho cá nhân chủ sở hữu.
Nhân danh lợi ích của gia đình, vợ hoặc chồng có thể tự mình xác lập, thực
hiện các giao dịch trên tài sản chung và trong một số trường hợp, nghĩa vụ
phát sinh từ các giao dịch ấy có thể ràng buộc cả vợ và chồng một cách liên
đới, nghĩa là khiến cho chồng hoặc vợ, dù không trực tiếp đứng ra giao dịch,
phải có trách nhiệm cùng với vợ hoặc chồng thực hiện nghĩa vụ bằng tài sản
chung, thậm chí bằng tài sản riêng của mình. Do vậy, tài sản không chỉ gắn
liền với những lợi ích thiết thực của hai bên mà còn liên quan đến người thứ
ba, đặc biệt là khi vợ chồng tham gia vào hoạt động kinh doanh thương mại.
Ví dụ: Các khoản nợ mà vợ, chồng vay của người khác trong thời kỳ
hôn nhân vì nhu cầu của sinh hoạt thông thường về ăn, mặc, ở, học hành,
chữa bệnh và những nhu cầu sinh hoạt thông thường khác không thể thiếu cho

12


cuộc sống bình thường của mỗi người trong gia đình; khoản nợ mỗi bên vợ,
chồng vay riêng, sử dụng vào mục đích riêng… Tùy theo từng trường hợp cụ

thể để mà áp dụng chế độ tài sản vợ chồng xác định theo nghĩa vụ chung của
vợ chồng hay nghĩa vụ riêng của vợ, chồng phải thanh toán khoản nợ đó.
Từ những phân tích trên ta có thể đưa ra khái niệm về xác định tài sản
vợ chồng khi ly hôn như sau: “Xác định tài sản vợ chồng khi ly hôn là việc vợ
chồng tự thỏa thuận hoặc theo quyết định của Tòa án về phân định tài sản
chung, tài sản riêng của vợ chồng. Từ đó, dựa trên cơ sở các nguyên tắc chia
tài sản chung khi ly hôn để phân chia khối tài sản chung của vợ chồng nhằm
đảm bảo sự công bằng, hợp tình, hợp lý. Đồng thời, xác định việc thực hiện
đầy đủ các nghĩa vụ dân sự về tài sản của vợ chồng đối với người thứ ba khi
ly hôn”.
1.2. Ý nghĩa của việc xác định tài sản vợ chồng khi ly hôn
Bản chất của quan hệ hôn nhân là quan hệ tài sản gắn liền với chủ thể
nhất định, không thể tách rời và không có tính đền bù ngang giá. Vì vậy, khi
hôn nhân không còn tồn tại thì việc giải quyết vấn đề tài sản là cần thiết. Việc
vợ chồng tự thỏa thuận với nhau về việc chia tài sản khi ly hôn sẽ phù hợp với
nguyện vọng của các bên, tạo điều kiện thuận lợi cho việc thi hành án sau
này. Đặc biệt, với các trường hợp thuận tình ly hôn, vợ chồng thỏa thuận
được với nhau về việc phân chia tài sản chung là một điều kiện để Tòa án
công nhận thuận tình ly hôn.
Trường hợp vợ chồng không thỏa thuận được với nhau, có yêu cầu Tòa
án giải quyết, để đảm bảo quyền lợi chính đáng của vợ, chồng và những
người khác có quyền, lợi ích liên quan đến tài sản vợ chồng trước khi quyết
định ly hôn, Tòa án cần phải xác định: Đâu là tài sản riêng của vợ, chồng;
những tài sản nào thuộc khối tài sản chung của vợ chồng; phân chia tài sản

13


chung của vợ chồng; giải quyết quyền, nghĩa vụ tài sản của vợ chồng đối với
người thứ ba khi ly hôn.

Thông qua việc xác định tài sản vợ chồng khi ly hôn thì quan hệ tài sản
được chấm dứt phù hợp với quyền và lợi ích của vợ, chồng và những người
có liên quan. Thông qua sự xem xét, đánh giá, quyết định của một cơ quan
nhà nước có đủ thẩm quyền để xác định tài sản chung, tài sản riêng của vợ,
chồng và giải quyết việc phân chia tài sản chung của vợ chồng khi ly hôn sẽ
giúp tháo gỡ hoặc hạn chế những mâu thuẫn, bất đồng giữa vợ - chồng, giữa
vợ, chồng với các thành viên khác trong gia đình, giúp họ có đủ niềm tin,
động lực, điều kiện để duy trì, ổn định cuộc sống sau khi ly hôn, giúp con cái
họ có điều kiện phát triển bình thường, được hưởng các quyền lợi vật chất và
sự yêu thương, chăm sóc của bố mẹ. Như vậy, việc xác định tài sản vợ chồng
khi ly hôn là công việc có ý nghĩa quan trọng vừa đảm bảo pháp luật được thi
hành, tăng cường pháp chế trong lĩnh vực hôn nhân gia đình vừa hạn chế
được những mâu thuẫn, bất đồng giữa những con người đã từng có mối quan
hệ thiêng liêng về huyết thống, hôn nhân, nuôi dưỡng.
1.3. Sơ lược pháp luật Việt Nam về xác định tài sản vợ chồng khi ly
hôn qua các thời kỳ
1.3.1. Pháp luật phong kiến về xác định tài sản vợ chồng khi ly hôn
Xã hội phong kiến Việt Nam chịu ảnh hưởng sâu sắc của nho giáo,
trong đó có các quan niệm về HN&GĐ. Các quy định về HN&GĐ chiếm một
vị trí quan trọng trong các văn bản luật. Tuy nhiên, ở thời kỳ này quan hệ gia
đình mang nặng tính chất gia trưởng, quyền uy, phục tùng trong đó người vợ
phụ thuộc tuyệt đối vào người chồng.

14


Tiêu biểu ở giai đoạn này là hai bộ luật: Quốc triều hình luật (còn gọi là
Bộ luật Hồng Đức - thời Lê) và Hoàng Việt luật lệ (còn gọi là Bộ luật Gia
Long - thời Nguyễn).
Theo các nhà nghiên cứu, chế độ tài sản của vợ chồng không được

quy định như một chế định riêng rẽ và cụ thể. Trong Quốc triều hình luật
có một số quy định về xác định tài sản của vợ chồng thể hiện sự bình đẳng
giữa vợ và chồng.
Quốc triều hình luật quy định việc xác định phân chia tài sản sau ly hôn
như sau: Thông thường, nếu ly hôn không do lỗi của người vợ thì phần tài sản
riêng (gồm cả điền sản và tư trang), người vợ có quyền mang về nhà mình.
Trong trường hợp có lỗi thường thì tự ý người vợ không đem theo tài sản
hoặc trong một vài trường hợp luật định người vợ buộc phải để lại tài sản đó
cho chồng, “người vợ mà đi gian đâm, tài sản phải trả về cho chồng”.
Sau ly hôn, quan hệ nhân thân giữa vợ và chồng chấm dứt, hai bên có
quyền kết hôn với người khác. Khi ly hôn người vợ có quyền sở hữu đối với
tài sản riêng của mình (của hồi môn) và được chia một số tài sản chung do hai
vợ chồng gây dựng nên (Điều 373, 374).
Như vậy, dù ra đời trong xã hội phong kiến, bị tác động, ảnh hưởng và
chi phối bởi những hạn chế của lễ nghi phong kiến vẫn còn mang nặng tư
tưởng lễ giáo, gia trưởng, đề cao coi trọng vị trí, vai trò của người chồng
trong gia đình, người đàn ông trong xã hội. Tuy nhiên, Bộ luật Quốc triều
hình luật có những quy định bảo vệ quyền lợi của người phụ nữ trong việc
xác định tài sản vợ chồng khi ly hôn.
1.3.2. Pháp luật thời kỳ Pháp thuộc về xác định tài sản vợ chồng
khi ly hôn
Theo pháp luật ở giai đoạn này, vợ hoặc chồng có thể có của riêng
trước khi kết hôn, nhưng kể từ khi kết hôn và trong suốt thời kỳ hôn nhân thì

15


các tài sản riêng đó (bao gồm cả động sản và bất động sản) hợp nhất thành
khối tài sản chung. Tuy nhiên, đó chỉ là sự hợp nhất tạm thời trong thời kỳ
hôn nhân. Chỉ có những tài sản do hai vợ chồng tạo ra trong thời kỳ hôn nhân

mới là tài sản chung chính thức. Khi hôn nhân chấm dứt thì các tài sản riêng
của vợ chồng đã được hợp nhất tạm thời vào khối tài sản chung lại được tách
ra để chia theo nguyên tắc của ai thì người đó lấy lại, còn các tài sản chung thì
được chia đôi cho vợ và chồng.
Theo quy định tài Điều 106, 107 Bộ DLBK và Điều 104, 105 Bộ
DLTK thì tài sản chung của vợ và chồng gồm có:
- Các tài sản do vợ chồng có được trong thời kỳ hôn nhân;
- Tài sản do vợ chồng làm việc mà kiếm ra;
- Lợi tức của toàn bộ tài sản trong gia đình, không phân biệt lợi tức từ
tài sản riêng hay lợi tức từ tài sản chung.
Như vậy, toàn bộ tài sản mà vợ chồng có được trong thời kỳ hôn nhân
(cả động sản và bất động sản) đều là tài sản chung của vợ chồng. Để phân biệt
được động sản hoặc bất động sản nào là tài sản riêng hay tài sản chung của vợ
chồng, thì căn cứ vào việc đăng ký hoặc có chứng thư xác nhận nguồn gốc
của tài sản đó. Đối với các động sản không được đăng ký và cũng không có
chứng thư xác nhận nguồn gốc thì được suy đoán là tài sản chung của vợ
chồng; nếu bên vợ hoặc chồng cho rằng đó là tài sản riêng của mình thì phải
chứng minh.
Trong trường hợp vợ chồng ly hôn, theo Bộ DLBK và Bộ DLTK thì
khối cộng đồng tài sản sẽ được phân chia. Tuy nhiên, với quan niệm khối
cộng đồng tài sản được gây dựng để cho các con, pháp luật phân biệt hai
trường hợp: Vợ, chồng ly hôn mà có con chung hoặc không có con chung với
nhau. Tùy theo từng trường hợp mà áp dụng nguyên tắc phân chia khác nhau.

16


Khi ly hôn, nếu hai vợ chồng có lập hôn khế thì chia theo các điều
khoản trong hôn khế mà hai vợ chồng đã thỏa thuận, nếu không có hôn khế
thì áp dụng Điều 112 Bộ DLBK và Điều 110 Bộ DLTK xác định như sau:

Trường hợp giữa hai vợ chồng không có con chung, người vợ được lấy lại kỷ
phần tài sản của mình “bằng hiện vật hiện còn”. Nếu tài sản riêng của người
vợ đã bị bán đi để chi dùng cho gia đình hay cho riêng người chồng thì người
vợ không có quyền đòi lại. Vả lại, nếu tài sản riêng của vợ hay chồng được tu
sửa, quản lý bằng tài sản chung của vợ chồng thì phần tài sản chung đó phải
được tính vào khối tài sản cộng đồng để chia. Sau khi đã trả lại cho vợ, chồng
kỷ phần của vợ, chồng, phần tài sản chung của vợ chồng được chia đôi cho vợ
chồng mỗi người một nửa.
Trường hợp hai vợ chồng có con chung thì tài sản được giải quyết như
sau: Người vợ không được thu hồi toàn bộ của riêng của mình, tức là những
của cải đã đem về nhà chồng khi cưới và tài sản đã được tạo ra trong thời kỳ
hôn nhân; những tài sản ấy sẽ thuộc tài sản chung của vợ chồng do người
chồng quản lý, vì của cải của vợ chồng là để dành cho các con. Bộ DLBK và
Bộ DLTK đã ấn định rằng nếu vợ, chồng ly hôn mà có con với nhau thì sẽ
không thanh toán tài sản chung. Điều 112 Bộ DLBK dự liệu rằng nếu có con
thì sau khi ly hôn người vợ được hưởng một phần của chung, phần ấy nhiều
hay ít sẽ do Tòa án quyết định tùy theo công sức của người vợ. Còn Điều 110
Bộ DLTK thì dự liệu kỷ phần người vợ sẽ là 1/3 số của chung, với ngụ ý rằng
1/3 chia cho chồng và 1/3 chia cho các con. Trường hợp vợ chồng ly hôn do
lỗi của người vợ (phạm gian) thì phần trả cho người vợ sẽ bị giảm đi một nửa
(1/2) (Điều 112 Bộ DLBK) và một phần tư (1/4) (Điều 112 Bộ DLTK).

17


1.3.3. Pháp luật ở miền Nam trước ngày thống nhất đất nước về
xác định tài sản vợ chồng khi ly hôn (1954 - 1975)
Khác với DLBK và DLTK đều quy định việc xác định tài sản khi vợ
chồng ly hôn và ấn định việc cộng đồng tài sản vẫn tiếp tục sau khi người vợ,
chồng chết trước [2, Điều 112,113]; [57, Điều 110,111], Luật Gia đình đã

không đề cập đến vấn đề này. Theo Luật Gia đình thì vấn đề xác định tài sản
vợ chồng chỉ được đặt ra khi một bên vợ hoặc chồng chết trước. Cũng bởi lẽ,
vấn đề ly hôn của vợ chồng không được Luật Gia đình chấp nhận, vì thế Luật
Gia đình không dự liệu việc chia tài sản của vợ chồng trong trường hợp ly hôn.
Duy nhất một ngoại lệ đã cho phép tổng thống có quyền cho đôi vợ chồng được
ly hôn, sau khi đã hỏi ý kiến Chánh án tòa phá án và Chánh nhất tòa thượng
thẩm, nơi cư trú của vợ chồng và sau khi nghe tộc trưởng hai bên cùng ý kiến,
nguyện vọng của hai vợ chồng (Điều 55). Nếu tổng thống cho phép vợ chồng
được ly hôn, khi đó vấn đề phân chia tài sản của vợ chồng mới được giải quyết.
Toàn bộ tài sản của vợ chồng có được từ trước khi kết hôn hoặc được tạo dựng
trong thời kỳ hôn nhân, đều là tài sản chung của vợ chồng.
Sắc luật số 15/64 không dự liệu việc chia tài sản chung của vợ chồng
khi một bên vợ, chồng chết trước mà chỉ dự liệu việc chia tài sản chung của
vợ chồng khi vợ chồng ly thân hoặc ly hôn. Đối với BLDS thì việc xác định
tài sản được đặt ra trong cả ba trường hợp: Khi vợ, chồng chết; khi vợ chồng
ly thân hoặc ly hôn. Bên cạnh khối tài sản chung, Sắc luật số 15/64 (Điều 55)
và BLDS năm 1972 (Điều 152) ghi nhận việc vợ chồng có khối tài sản riêng,
bao gồm:
- Những bất động sản thuộc quyền sở hữu của mỗi bên vợ, chồng khi
kết hôn (tức là các bất động sản mà vợ hay chồng đã có từ trước khi kết hôn);
- Những bất động sản mà mỗi bên vợ, chồng có được trong thời kỳ hôn
nhân do được tặng cho riêng hoặc được thừa kế riêng.

18


×