Tải bản đầy đủ (.pdf) (39 trang)

Thực thi pháp luật về tổ chức quản trị nội bộ của ngân hàng thương mại cổ phần qua thực tiễn ngân hàng thương mại cổ phần đầu tư và phát triển BIDV (Tóm tắt trích đoạn)

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (836.34 KB, 39 trang )

đại học quốc gia hà nội
khoa luật

nguyễn ngọc trang

thực thi pháp luật về tổ chức quản trị nội bộ
của ngân hàng th-ơng mại cổ phần qua
thực tiễn ngân hàng th-ơng mại cổ phần
đầu t- và phát triển - bidv

luận văn thạc sĩ luật học

Hà nội - 2016


đại học quốc gia hà nội
khoa luật

nguyễn ngọc trang

thực thi pháp luật về tổ chức quản trị nội bộ
của ngân hàng th-ơng mại cổ phần qua
thực tiễn ngân hàng th-ơng mại cổ phần
đầu t- và phát triển - bidv
Chuyên ngành : Luật kinh tế
Mã số

: 60 38 01 07

luận văn thạc sĩ luật học


Ng-ời h-ớng dẫn khoa học: TS. Nguyễn Thị Lan H-ơng

Hà nội - 2016


Lời cam đoan

Tôi xin cam đoan đây là công trình nghiên
cứu khoa học của riêng tôi. Các số liệu, ví dụ và
trích dẫn trong luận văn đảm bảo độ tin cậy, chính
xác và trung thực. Những kết luận khoa học của
luận văn ch-a từng đ-ợc ai công bố trong bất kỳ
công trình nào khác.

Tác giả luận văn

Nguyễn Ngọc Trang


MỤC LỤC
Trang
Trang phụ bìa
Lời cam đoan
Mục lục
Danh mục các từ viết tắt
Danh mục các bảng
Danh mục các hình
MỞ ĐẦU

Chương 1:


NHƢ̃ NG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ QUẢN TRI ̣NỘI BỘ

1
8

NGÂN HÀ NG THƢƠNG MẠI CỔ PHẦN

1.1.
1.1.1.
1.1.2.
1.2.
1.2.1.
1.2.2.
1.3.
1.3.1.
1.3.2.

Khái n iê ̣m, đă ̣c điể m về quản tri ̣nô ̣i bô ̣ ngân hàng thương
mại cổ phần
Khái niệm, đă ̣c điể m ngân hàng thương ma ̣i cổ phầ n
Khái niệm , đă ̣c điể m của quản tri ̣nô ̣i bô ̣ ngân hàng thương
mại cổ phần
Các mô hình quản trị nội bộ ngân hàng thương mại cổ phần
Mô hình quản tri ̣hai cấ p
Mô hin
̀ h quản tri ̣theo hướng chuyên môn hóa
Khái quát về pháp luật quản trị nội bộ ngân hàng thương mại
cổ phầ n
Sự cầ n thiế t của viê ̣c điề u chỉnh pháp luâ ̣t đố i với quản tri ̣nô ̣i

bô ̣ ngân hàng thương ma ̣i cổ phầ n
Nô ̣i dung của pháp luâ ̣t về quản tri ̣nô ̣i bô ̣ ngân hàng thương
mại cổ phần
Chương 2: QUY ĐINH
CỦ A PH ÁP LUẬT VỀ QUẢN TRỊ NỘI BỘ
̣

8
8
13
17
17
19
20
20
25
29

NGÂN HÀ NG THƢƠNG MẠI CỔ PHẦN VÀ THƢ̣C
TIỄN ÁP DỤNG TẠI NGÂN HÀ NG THƢƠNG MẠI CỔ
PHẦN ĐẦU TƢ VÀ PHÁ T TRIỂN VIỆT NAM

2.1.

Quy đinh
̣ của pháp luâ ̣t về quản tri ̣nô ̣i bô ̣ ngân hàng thương
mại cổ phầ n hiê ̣n nay

29



2.1.1. Quy đinh
̣ về đa ̣i hô ̣i đồ ng cổ đông

29

2.1.2. Quy đinh
̣ về Hô ̣i đồ ng quản tri ̣

35

2.1.3. Quy đinh
̣ về ban kiể m soát

39

2.1.4. Quy đinh
̣ về Tổ ng giám đố c

42

2.1.5. Mô ̣t số bô ̣ phâ ̣n điề u hành đă ̣c biê ̣ t trong ngân hàng thương

43

mại cổ phần
2.2.

Thực tiễn áp dụng pháp luật về quản tri ̣nô ̣i bô ̣ ta ̣i Ngân hàng
thương ma ̣i cổ phầ n đầ u tư và phát triể n Viê ̣t Nam


2.2.1. Giới thiê ̣u khái quát về lich
̣ sử hiǹ h thành và phát triể n
2.2.2. Thực thi pháp luâ ̣t về quản tri ̣nô ̣i bô ̣ ngân hàng thương ma ̣i

45
45
47

cổ phầ n đầ u tư và phát triể n Viê ̣t Nam
2.2.3. Những ha ̣n chế bấ t câ ̣p trong quản tri ̣nô ̣i bô ̣ ta ̣i Ngân hàng
thương ma ̣i cổ phầ n đầ u tư phát triể n hiê ̣n nay
Chương 3:

CÁC GIẢI PHÁP TĂNG CƢỜNG THỰC THI PHÁP

60
69

LUẬT VỀ QUẢN TRI ̣ NỘI BỘ TẠI NGÂN HÀ NG
THƢƠNG MẠI CỔ PHẦN ĐẦU TƢ VÀ PHÁ T TRIỂN
VIỆT NAM

3.1.

Đinh
̣ hướng hoàn thiê ̣n pháp luâ ̣t về quản tri nô
̣ ̣i bô ̣ ngân
hàng thương ma ̣i cổ phầ n


69

3.2.

Giải pháp hoàn thiện pháp luật về quản trị nội bộ ngân hàng

73

thương ma ̣i cổ phầ n
KẾT LUẬN

79

DANH MỤC TÀ I LIỆU THAM KHẢO

81


DANH MỤC CÁC TỪ VIẾT TẮT

BKS

: Ban kiểm soát

ĐHĐCĐ

: Đại hội đồng cổ dông

HĐQT


: Hội đồng quản trị

NHNN

: Ngân hàng nhà nước

NHTM

: Ngân hàng thương mại

NHTMCP : Ngân hàng thương mại cổ phần
TCTD

: Tổ chức tín dụng


DANH MỤC CÁC BẢNG

Số hiệu

Tên bảng

Trang

bảng
2.1

Cơ cấ u cổ đông của BIDV trong giai đoạn 2015 - 2016

52


DANH MỤC CÁC HÌNH

Số hiệu

Tên hình

Trang

hình
2.1

Mô hình quản tri ̣của BIDV giai đoa ̣n 1986 - 2003

47

2.2

Cơ cấ u quản tri ̣của BIDV giai đoa ̣n 2003 - 2007

48

2.3

Cơ cấ u quản tri ̣của BIDV giai đoa ̣n 2007 - 2012

49

2.4


Cơ cấ u tổ chức của BIDV giai đoa ̣n 2012 đến nay
Cơ chế quản tri ̣của BIDV theo Luật các TCTD năm 2010

50

2.5

và Nghị định số 59/2009/NĐ-CP

51


MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của việc nghiên cứu đề tài
Ngân hàng thương mại (NHTM) đã hình thành tồn tại và phát triển
gắn liền với sự phát triển của kinh tế hàng hoá. Sự phát triển hệ thống NHTM
đã có tác động rất lớn và quan trọng đến quá trình phát triển của nền kinh tế
nước ta, ngược lại kinh tế hàng hoá phát triển mạnh mẽ đến giai đoạn cao nhất
là nền kinh tế thị trường thì NHTM cũng ngày càng được hoàn thiện và trở
thành những định chế tài chính ngân hàng không thể thiếu được.
Ngân hàng thương mại cổ phần (NHTMCP) là cách gọi ở Việt Nam
các ngân hàng hoạt động kinh doanh, thương mại theo mô hình cổ phần và
tuân theo các luật riêng của Chính phủ và các quy chế, quy định của Ngân
hàng Nhà nước (NHNN) Việt Nam khi hoạt động.
Từ khi Đảng ta chủ trương xây dựng nền kinh tế thị trường và đặc biệt
là kể từ khi Việt Nam chính thức trở thành thành viên của Tổ chức Thương
mại Thế giới (WTO), vấn đề quản trị doanh nghiệp đã được đặt ra như một yêu
cầu cấp thiết và quan trọng trong sự phát triển chung của nền kinh tế. Quản trị
doanh nghiệp tốt đồng nghĩa với khả năng tiếp cận tài chính, đầu tư, nâng cao
giá trị tăng trưởng… Các NHTM nói chung và NHTMCP nói riêng với đặc

thù là các tổ chức kinh doanh "tiền", có độ rủi ro cao và mức độ ảnh hưởng
lớn thì vấn đề quản trị lại càng có ý nghĩa hơn, nhất là trong trường hợp của
nước ta khi ngân hàng đóng vai trò là kênh cấp vốn chủ yếu cho doanh nghiệp.
Một ngân hàng yếu kém trong quản trị không chỉ gây tổn thất cho
chính ngân hàng đó, mà còn tạo nên những rủi ro nhất định mang tính dây
chuyền trong hệ thống và ngược lại, từ đó ảnh hưởng đến toàn bộ nền kinh tế.
Hiện nay, tình hình thanh khoản, nợ xấu của các NHTMCP đang rất căng
thẳng. Một trong những nguyên nhân chính dẫn đến tình trạng này là do sự
yếu kém trong quản trị, điều hành của các ngân hàng.

1


Vấn đề quản trị, điều hành ngân hàng hiện nay đang được điều chỉnh bằng
Luật các tổ chức tín dụng (TCTD) năm 2010 có hiệu lực từ ngày 01/01/2011,
Luật Doanh nghiệp năm 2005, Nghị định số 59/2009/NĐ-CP ngày 16/7/2009
về tổ chức và hoạt động của NHTM, Thông tư số 06/2010/TT-NHNN ngày
26/02/2010 hướng dẫn về tổ chức, quản trị, điều hành, vốn điều lệ, chuyển
nhượng cổ phần, bổ sung, sửa đổi giấy phép, điều lệ của NHTM. Trong đó, sự
ra đời của Luật các TCTD năm 2010 đã khắc phục được một số quy định tồn
tại về quản trị, điều hành NHTM như: nhiệm vụ, quyền hạn của Hội đồng quản
trị (HĐQT) và Tổng giám đốc chưa được phân định rõ ràng và hợp lý dẫn đến
tình trạng có những ngân hàng, HĐQT can thiệp quá sâu vào việc điều hành
hoặc ngược lại, có những ngân hàng Ban điều hành lấn át HĐQT..., hay chưa
có chế độ báo cáo và công bố thông tin rõ ràng, minh bạch dẫn đến tình trạng
thông tin bất cân xứng. Tuy nhiên, hệ thống văn bản điều chỉnh vấn đề quản
trị, điều hành ngân hàng hiện nay thực sự vẫn chưa tương đồng, chưa nghiên
cứu áp dụng triệt để các nguyên tắc chung về quản trị của thế giới (các nguyên
tắc quản trị ngân hàng lành mạnh của Ủy ban Basel; các nguyên tắc của OECD)
và còn nhiều bất cập như quy định về thành viên HĐQT độc lập, về số vốn tối

thiểu của chủ tịch HĐQT,…làm hạn chế hiệu quả quản trị, điều hành ngân hàng.
Trước tình trạng số lượng các NHTMCP đang ngày một tăng [11], thì
dường như việc quan tâm đến vấn đề quản trị của các ngân hàng đang tồn tại
cũng như kế hoạch quản trị cho các ngân hàng sắp được thành lập đang bị bỏ
rơi. Nhiều vụ việc xảy ra trên thực tế như HĐQT và Ban điều hành là một,
quyền lợi của cổ đông thiểu số không được coi trọng hay sự mâu thuẫn giữa
HĐQT và Ban điều hành trên thực tế đã là một trong những lý do làm suy
giảm niềm tin của nhà đầu tư vào các NHTMCP cũng như ảnh hưởng nhiều
đến hoạt động kinh doanh của ngân hàng.
Trong điều kiện thị trường tài chính có các yếu tố bất lợi, việc giám
sát rủi ro của cơ quan quản lý còn thiếu và yếu, tình hình quản trị của các

2


TCTD còn hạn chế, bất cập như hiện nay, đối với các NHTMCP ngoài điều
kiện vốn, còn cần đến các điều kiện khác như năng lực quản lý, năng lực quản
trị doanh nghiệp, công nghệ thông tin và nhân lực. Trong bối cảnh hiện tại,
NHTMCP Đầu tư và Phát triển Việt Nam (từ sau đây viế t tắ t là BIDV ) đã nỗ
lực vượt qua mọi khó khăn để thực hiện xuất sắc các nhiệm vụ kinh doanh,
phát triển an toàn, hiệu quả, hướng tới chuẩn mực và thông lệ quốc tế, giữ
vững và phát huy vai trò là NHTM nhà nước lớn, trụ cột của ngành ngân
hàng. luôn đi tiên phong trong việc cải cách toàn diện bộ máy quản lý, đổi
mới công nghệ và đào tạo nhân lực. Do đó nhiều năm liền BIDV không
những đạt được những kết quả kinh doanh ấn tượng mà còn duy trì tỷ lệ nợ
xấu thấp nhất trong toàn hệ thống. Xuất phát từ những lý do trên em chọn đề
tài nghiên cứu: "Thực thi pháp luật về tổ chức quản trị nội bộ của ngân
hàng thương mại cổ phần qua thực tiễn Ngân hàng thương mại cổ phần
Đầu tư và Phát triển Việt Nam - BIDV" để có cơ hội được nghiên cứu kĩ hơn
công tác tổ chức quản trị của ngân hàng này.

2. Tình hình nghiên cứu
Về vấn đề quản trị, thì quản trị trong công ty cổ phần đã được nghiên
cứu trong tổng thể nhiều vấn đề của công ty như: "Quản trị công ty: Giám sát
người quản trị các doanh nghiệp", được in trong sách "Chuyên khảo Luật
kinh tế" của tác giả Phạm Duy Nghĩa; "So sánh pháp luật về quản trị doanh
nghiệp của một số nước trên thế giới - Bài học kinh nghiệm và kiến nghị giải
pháp hoàn thiện pháp luật công ty ở Việt Nam", Đề tài đặc biệt cấp Quốc gia
do PGS.TS. Phạm Duy Nghĩa (chủ biên); "Báo cáo nghiên cứu rà soát văn
bản pháp luật về thành lập, tổ chức và hoạt động của doanh nghiệp", của
CIEM; "Quản trị công ty: Nâng cao năng lực cạnh tranh và tiếp cận nguồn
vốn trên thị trường toàn cầu", sách do CIEM dịch với sự tài trợ của GTZ; các
tài liệu nghiên cứu của CIEM và Ban nghiên cứu của Thủ tướng Chính phủ về
dự án xây dựng Luật Đầu tư và Luật Doanh nghiệp thống nhất… và các công

3


trình có đề cập tới quản trị công ty như: "Nghiên cứu so sánh quản lý công ty
cổ phần theo pháp luật Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam và Cộng hoà
nhân dân Trung Hoa", Luận án tiến sĩ Luật học của Ngô Viễn Phú; "Quản lý,
điều hành trong công ty cổ phần ở Việt Nam", Luận văn thạc sĩ Luật học của
Đậu Anh Tuấn,... Bên cạnh đó là các công trình nghiên cứu có đề cập đến
quản trị công ty như: "Nghiên cứu so sánh quản lý công ty cổ phần theo pháp
luật Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam và Công hoà nhân dân Trung Hoa",
Luận án tiến sĩ Luật học của Ngô Viễn Phú, năm 2004; "Tổ chức quản lý nội
bộ công ty cổ phần - Những vấn đề lý luận và thực tiễn" Luận văn thạc sĩ Luật
học của Cao Thị Kim Trinh, năm 2004; "Bảo vệ quyền lợi của cổ đông trong
công ty cổ phần theo pháp luật Việt Nam - Những vấn đề lý luận và thực tiễn"
Luận văn thạc sĩ Luật học của Bùi Minh Nguyệt, năm 2010; Luâ ̣n văn tha ̣c si ̃
Luâ ̣t ho ̣c của Nguyễn Ngo ̣c Ki m Cương: "Pháp luật về quản lý sử dụng vốn

của ngân hàng thương mại ở Việt Nam và thực tiễn tại Ngân hàng thương mại
cổ phầ n công thương chi nhánh Ba Đình ", bảo vệ tại Khoa Luật - Đa ̣i ho ̣c
Quố c gia Hà Nô ̣i , năm 2014; Luâ ̣n văn thạc sĩ Luâ ̣t ho ̣c của Nguyễn Thi ̣Lan
Anh: "Pháp luật về quản trị, điề u hành ngân hàng thương mại cổ phầ n ở Viê ̣t
Nam", bảo vệ tại Khoa Luật - Đa ̣i ho ̣c Quố c gia Hà Nô ̣i, năm 2015.
Tuy nhiên, những công triǹ h cu ̣ thể nghiên cứu

về quản tri ̣nô ̣i bô ̣

NHTMCP đă ̣c biê ̣t là nghiên cứu dưới khiá ca ̣nh mô ̣t đơn vi ̣cu ̣ thể như BIDV
còn chưa nhiều. Hiện nay ở nước ta, ngoài một số bài báo đề cập hoặc nghiên
cứu các khía cạnh của vấn đề quản trị nô ̣i bô ̣ và hoạt động trong NHTMC

P,

và các công trình nghiên cứu về quản trị trong công ty cổ phần như kể trên,
thì các đề tài nghiên cứu đầy đủ về vấn đề quản trị nói riêng cho NHTMCP
vẫn chưa nhiều. Đặc biệt pháp luật quản trị nội bộ ngân hàng gắn liền với việc
nghiên cứu thực tiễn áp du ̣ng với ngân hàng thương ma ̣i nhà nước chưa đươ ̣c
nghiên cứu . Đề tài này mang ý nghĩa lý luận cho việc xây dựng những quy
phạm pháp luật đầy đủ, làm cơ sở pháp lý cho việc áp dụng các quy định về

4


hoạt động quản trị và điều hành trong NHTMCP. Những kiến nghị của đề tài
hy vọng sẽ đem lại những kết quả thiết thực cho việc hoàn thiện các quy định
pháp luật của Việt Nam để quản trị và hoạt động trong NHTMCP được thực
hiện một cách tốt hơn, trợ giúp cho hoạt động ngân hàng - tài chính đang phát
triển với tốc độ rất nhanh hiện nay đă ̣c biê ̣t là trong bố i cảnh nghiên cứu mô ̣t

ngân hàng cu ̣ thể là BIDV. Tác giả hy vọng rằng với sự đầu tư thích đáng, kết
quả nghiên cứu sẽ là một tài liệu tham khảo có giá trị.
3. Mục đích, nhiêm
̣ vu ̣ nghiên cƣ́u
Đề tài tập trung nghiên cứu các vấn đề pháp lý cũng như cơ sở lý luận
của vấn đề hoạt động và quản trị nô ̣i bô ̣ trong NHTMCP của Việt Nam trên cơ
sở so sánh, phân tích các quy định pháp luật của Việt Nam và các quy tắc của
thế giới . Trong đó tá c giả có nghiên cứu về tình hình thực tiễn ta ̣i

BIDV.

Trong nội dung trình bày, tác giả sẽ đưa ra những nhận xét, đánh giá thực tiễn
cũng như đánh giá xu hướng của việc áp dụng các quy định pháp luật về hoạt
động và quản trị của NHTMCP của nước Việt Nam cũng như của các nước
trên thế giới . Qua đó nêu lên những kiến nghị có thể áp dụng cho Việt Nam
trong việc hoàn thiện pháp luật đối với lĩnh vực này đồng thời xây dựng cơ
chế áp dụng một cách phù hợp với pháp luật và tập quán quốc tế . Cũng như
những giải pháp nhằ m nâng cao hiê ̣u quả hoa ̣t đô ̣ng quản tri ̣nô ̣i bô ̣ ta ̣i BIDV.
Trên cơ sở mục tiêu tổng quát nêu trên, luận văn thực hiện những mục
tiêu cụ thể như sau:
- Làm rõ những vấn đề lý luận cơ bản về NHTM cổ phần , tổ chức
quản trị của NHTMCP.
- Nghiên cứu các quy định của pháp luật hiện hành tổ chức quản trị
của NHTMCP và thực thi pháp luật về tổ chức quản trị của NHTMCP thông
qua thực tiễn BIDV. Để thực hiện được nhiệm vụ này, luận văn đi sâu vào
phân tích thế nào là tô chức quản trị của NHTMCP, việc thực thi pháp luật về
tô chức quản trị của NHTMCP có vai trò như thế nào đối với BIDV nói riêng

5



và nền kinh tế đang phát triển của nước ta nói chung đồng thời qua đó nắm
bắt được thực trạng hệ thống pháp luật về tô chức quản trị của NHTMCP
cũng như thực trạng thực thi pháp luật hiện nay.
- Kiến nghị hướng sửa đổi, hoàn thiện pháp luật về tô chức quản trị
của NHTMCP ở Việt Nam cho phù hợp với thực tế và phù hợp với xu hướng
hội nhập quốc tế
4. Đối tƣợng và phạm vi nghiên cứu
Đối tượng nghiên cứu của luận văn là các quy định của pháp luật về
quản trị, điều hành NHTMCP và thực tiễn áp dụng tại BIDV.
Phạm vi nghiên cứu: tác giả sẽ tập trung vào phân tích thực trạng pháp
luật về quản trị, điều hành NHTMCP ở Việt Nam, trong đó có đánh giá thực
trạng hoạt động áp dụng pháp luật về quản trị, điều hành ở BIDV.
Phạm vi nghiên cứu về pháp lý của luận văn là các quy định trong
Luâ ̣t các TCTD năm 2010.
5. Phƣơng pháp nghiên cƣ́u
Tác giả sử dụng phương pháp phân tích, so sánh các quy định pháp
luật quốc tế và luật pháp của một số quốc gia điển hình, thu thập kinh nghiệm
thực tiễn của một số quốc gia trong việc áp dụng các quy định về quản trị và
hoạt động trong NHTMCP ở Việt Nam, từ đó rút ra những ưu điểm trong quy
định của pháp luật quốc tế và luật pháp của một số nước điển hình trên thế
giới về vấn đề vấn đề này; xem xét tính phù hợp với điều kiện của Việt Nam
để hướng tới việc hoàn thiện các quy định của pháp luật Việt Nam.
6. Tính mới và những đóng góp của đề tài
Đây là công trin
̀ h nghiên cứu đầ u tiên ở cấ p đô ̣ luâ ̣n văn tha ̣c si ̃ luâ ̣t
học về vấn đề quản trị nội bộ đối với NHTMCP và thực tiễn áp dụng tại một
ngân hàng cu ̣ thể là BIDV.
Kế t quả nghiên cứu của luâ ̣n văn có thể là tài liê ̣u tham khảo tr ong các
trường đa ̣i ho ̣c chuyên ngành luâ ̣t cũng như tài liê ̣u thực tiễn cho hoa ̣t đô ̣ng

quản trị nội bộ tại các NHTMCP cụ thể.

6


7. Kế t cấ u của luận văn
Ngoài phần mở đầu , kế t luâ ̣n và danh mu ̣c tài liê ̣u tham khảo

, Nội

dung của luận văn gồm 3 chương:
Chương 1: Những vấn đề lý luận về quản trị nội bộ ngân hàng thương
mại cổ phần.
Chương 2: Quy định của pháp luật về quản trị nội bộ ngân hàng
thương mại cổ phần và thực tiễn áp dụng tại Ngân hàng thương mại cổ phần
Đầu tư và Phát triển Việt Nam.
Chương 3: Các giải pháp tăng cường thực thi pháp luật về quản trị nội
bộ tại Ngân hàng thương mại cổ phần Đầu tư và Phát triển Việt Nam.

7


Chương 1
NHƢ̃ NG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VỀ QUẢN TRI ̣NỘI BỘ
NGÂN HÀ NG THƢƠNG MẠI CỔ PHẦN
1.1. Khái niêm,
̣ đă ̣c điể m về quản tri nô
̣ ̣i bô ̣ ngân hàng thƣơng ma ̣i
cổ phầ n
1.1.1. Khái niệm, đăc̣ điểm ngân hàng thương maị cổ phầ n

1.1.1.1. Khái niệm ngân hàng thương mại cổ phần
Khác với NHNN, là một chủ thể kinh doanh trong đời sống kinh tế,
trước tiên NHTM là một loại hình doanh nghiệp. Cũng như những doanh
nghiệp khác, NHTM sử dụng các yếu tố đầu vào để sản xuất ra sản phẩm dưới
hình thức là cung cấp dịch vụ tài chính. Tuy nhiên, không giống những doanh
nghiệp khác, ngân hàng là loại hình doanh nghiệp đặc biệt, trong đó vốn và
tiền vừa là phương tiện, mục đích và cũng là đối tượng kinh doanh của ngân
hàng. Vốn tự có của ngân hàng thường thấp và ngân hàng kinh doanh chủ yếu
bằng vốn của người khác, nên kinh doanh ngân hàng thường gắn với rủi ro và
ngân hàng phải chấp nhận mức độ mạo hiểm nhất định. Các ngân hàng không
những phải đảm bảo nhu cầu thanh toán, chi trả như những doanh nghiệp
khác, mà còn phải đảm bảo nhu cầu chi trả tiền gửi của khách hàng. Hoạt
động kinh doanh của ngân hàng chứa đựng nhiều rủi ro, tình hình tài chính và
rủi ro của ngân hàng có ảnh hưởng rất lớn đến hoạt động của các doanh
nghiệp và nền kinh tế cũng như tâm lý người dân do bản chất lây lan rủi ro
ngân hàng có thể làm rung chuyển toàn hệ thống kinh tế.
Như vậy, có thể hiểu NHTM là tổ chức hoạt động kinh doanh cung
cấp các dịch vụ ngân hàng tìm kiếm lợi nhuận. Trên thế giới, có nhiều cách
định nghĩa khác nhau về NHTM. Ở Mỹ, NHTM là công ty kinh doanh tiền
tệ, chuyên cung cấp dịch vụ tài chính và hoạt động trong ngành công nghiệp
dịch vụ tài chính. Đạo luật Ngân hàng của Pháp (1941) định nghĩa: "Ngân

8


hàng thương mại là những xí nghiệp hay cơ sở mà nghề nghiệp thường
xuyên là nhận tiền bạc của công chúng dưới hình thức ký thác, hoặc dưới
các hình thức khác và sử dụng tài nguyên đó cho chính họ trong các nghiệp
vụ về chiết khấu, tín dụng và tài chính". Ở Ấn Độ, NHTM là cơ sở nhận các
khoản ký thác để cho vay hay tài trợ đầu tư. Còn ở Thổ Nhĩ Kỳ, NHTM là

hội trách nhiệm hữu hạn thiết lập nhằm mục đích nhận tiền ký thác và thực
hiện các nghiệp vụ hối đoái, nghiệp vụ công hối phiếu, chiết khấu và những
hình thức vay mượn khác… [30, tr. 14]. Như vậy, dù khác nhau song các
định nghĩa trên đây đều tiếp cận khái niệm NHTM thông qua hoạt động
nghiệp vụ của nó.
Với những nghiệp vụ nhiều rủi ro và mang tính ảnh hưởng lớn đến cả
một nền kinh tế, các ngân hàng đòi hỏi phải có sự quản lý, giám sát chặt chẽ
của nhà nước trong hoạt động. Bởi vì, nếu một ngân hàng kinh doanh thua lỗ
hay bị sụp đổ, sẽ kéo theo hàng loạt những hệ quả và ảnh hưởng nặng nề
khác, đặc biệt ảnh hưởng lớn đến dân chúng gửi tiền. Trên thế giới vẫn xảy ra
những tranh chấp trong việc định nghĩa ngân hàng là gì. Các ngân hàng có thể
được định nghĩa qua chức năng (các dịch vụ) được thực hiện trong nền kinh
tế. Tuy nhiên, vấn đề là không chỉ chức năng của các ngân hàng đang thay đổi
mà chức năng của các đối thủ cạnh tranh chính sách của ngân hàng cũng
không ngừng thay đổi [30, tr. 18]. Đối thủ cạnh tranh chính sách của ngân
hàng ở đây bao gồm các tổ chức tài chính phi ngân hàng, công ty chứng
khoán, công ty tài chính, công ty bảo hiểm đều đang cố gắng cung cấp các
dịch vụ của ngân hàng. Do đó, ngân hàng cũng đối phó với các đối thủ cạnh
tranh này bằng cách mở rộng phạm vi cung cấp dịch vụ, hướng về lĩnh vực
bất động sản và môi giới chứng khoán, tham gia hoạt động bảo hiểm, và thực
hiện nhiều dịch vụ mới khác. Do vậy, nếu định nghĩa không rõ ràng, thì một
số tổ chức sẽ luôn tìm cách mở rộng phạm vi hoạt động của mình sang lĩnh
vực ngân hàng, vốn là ngành cần phải được Nhà nước quản lý chặt chẽ.

9


Pháp luật Việt Nam cũng đã dự liệu được điều này, vấn đề tên gọi các
"ngân hàng" đã được ghi nhận trong văn bản luật gần đây nhất là Nghị định số
59/2009/NĐ-CP của Chính phủ:

Các tổ chức không phải là tổ chức tín dụng không được
phép sử dụng thuật ngữ "ngân hàng" trong tên của tổ chức, trong
các phần phụ thêm của tên, văn bản, thông báo hoặc quảng cáo của
mình mà thuật ngữ đó có thể gây nhầm lẫn cho công chúng về việc
tổ chức của mình là một ngân hàng [4].
Ở Việt Nam, tại khoản 2, Điều 4 Luật các TCTD 2010 quy định:
"Ngân hàng là loại hình tổ chức tín dụng có thể được thực hiện tất cả các hoạt
động ngân hàng theo quy định của Luật các tổ chức tín dụng". Theo đó,
NHTM là loại hình ngân hàng được thực hiện tất cả các hoạt động ngân hàng
và các hoạt động kinh doanh khác theo quy định của Luật này nhằm mục tiêu
lợi nhuận. Như vậy, cơ sở phân biệt NHTM với các hình thức ngân hàng khác
là ở "mục tiêu lợi nhuận".
Luật các TCTD không trực tiếp đưa ra khái niệm về NHTM, mà chỉ
định nghĩa thông qua các khái niệm ngân hàng và hoạt động ngân hàng. Khái
niệm NHTM được đề cập ở Nghị định 59/2009/NĐ-CP: "Ngân hàng thương
mại là ngân hàng được thực hiện toàn bộ hoạt động ngân hàng và các hoạt động
kinh doanh khác có liên quan vì mục tiêu lợi nhuận theo quy định của Luật
các tổ chức tín dụng và các quy định khác của pháp luật" [4]. Trong đó "Ngân
hàng thương mại cổ phần là ngân hàng thương mại được tổ chức dưới hình
thức công ty cổ phần" [4].
Việc thành lập các ngân hàng ở Việt Nam cũng khác so với các tổ
chức khác. Sau khi nhận được Giấy phép thành lập và hoạt động ngân hàng
của NHNN, ngân hàng vẫn phải tiến hành đăng ký kinh doanh theo quy định
của Luật Doanh nghiệp. Về cơ bản, cơ cấu quản trị ngân hàng vẫn được áp
dụng theo các quy định tại Luật Doanh nghiệp, ngoài ra, với tính chất đặc thù

10


của ngân hàng nên Luật các TCTD và các văn bản chuyên ngành khác có quy

định một số yêu cầu khác chi tiết hơn về các cơ quan tham gia quản trị cũng
như điều kiện để trở thành thành viên của các cơ quan này.
Trong khi đó theo định nghĩa tại Nghị định số 59/2009/NĐ-CP, có
định nghĩa các ngân hàng:
- Ngân hàng thương mại nhà nước là NHTM trong đó Nhà nước sở
hữu trên 50% vốn điều lệ. NHTM nhà nước bao gồm NHTM do Nhà nước
sở hữu 100% vốn điều lệ và NHTMCP do Nhà nước sở hữu trên 50% vốn
điều lệ.
- Ngân hàng thương mại cổ phần là NHTM được tổ chức dưới hình
thức công ty cổ phần.
- Ngân hàng thương mại 100% vốn nước ngoài là NHTM được thành
lập tại Việt Nam với 100% vốn điều lệ thuộc sở hữu nước ngoài; trong đó
phải có một ngân hàng nước ngoài sở hữu trên 50% vốn điều lệ (ngân hàng
mẹ). NHTM 100% vốn nước ngoài được thành lập dưới hình thức công ty
trách nhiệm hữu hạn một thành viên hoặc từ hai thành viên trở lên, là pháp
nhân Việt Nam, có trụ sở chính tại Việt Nam.
- Ngân hàng thương mại liên doanh là NHTM được thành lập tại Việt
Nam, bằng vốn góp của bên Việt Nam (gồm một hoặc nhiều ngân hàng Việt
Nam) và bên nước ngoài (gồm một hoặc nhiều ngân hàng nước ngoài) trên cơ
sở hợp đồng liên doanh. NHTM liên doanh được thành lập dưới hình thức
công ty trách nhiệm hữu hạn từ hai thành viên trở lên, là pháp nhân Việt Nam,
có trụ sở chính tại Việt Nam. Như vậy, qua từng thời kỳ, cách phân loại về
ngân hàng đã có sự khác nhau.
Sau đó , trong giai đoa ̣n cơ cấ u la ̣i tổ chức và hoa ̣t đô ̣ng của hê ̣ thố ng
ngân hàng nên các NHTM nhà nước đã được chuyển đổi hoạt động với tên
gọi thố ng nhấ t là các NHTMCP, còn tất các NHTM không phải của nhà nước
đều hoạt động dưới mô hình NHTMCP.

11



Từ sự phân tić h trên, có thể hiểu NHTMCP là loại hình TCTD được tổ
chức dưới hình thức công ty cổ phần; được thực hiện tất cả các hoạt động
ngân hàng và các hoạt động kinh doanh khác theo quy định của pháp luật.
1.1.1.2. Đặc điểm của ngân hàng thương mại cổ phần
Thứ nhất, bản thân NHTMCP là doanh nghiệp đặc biệt nên hoạt động
của ngân hàng cũng có những "đặc thù" so với các công ty. Đó là sự đa dạng
về các đối tượng thụ hưởng nên khó quản lý. Thành phần tham gia điều hành
hoạt động của loại hình doanh nghiệp này hết sức đa dạng, phức tạp và chủ
yếu phân chia lợi ích (cổ tức) theo tỷ lệ góp vốn (cổ phần). Các cá nhân, tổ
chức góp vốn sẽ đều có những quyền hạn nhất định trong việc tham gia điều
hành, quản trị hoạt động của doanh nghiệp. Vì vậy, việc điều chỉnh hài hòa
mối quan hệ lợi ích giữa các chủ thể là quan trọng nhưng hết sức phức tạp.
Nếu không có những quy định hợp lý, sẽ rất dễ dẫn tới tình trạng phi tổ chức,
thiếu thống nhất, hoặc xuất hiện lợi ích nhóm.
Thứ hai, NHTMCP là loại hình TCTD kinh doanh nhằm mục đích lợi
nhuận, song vốn tự có thường không ổn định. Hoạt động kinh doanh chủ yếu
dựa trên vốn huy động từ xã hội, nhưng nguồn huy động này lại chịu tác động
từ nhiều yếu tố biến động như ổn định chính trị, tăng trưởng kinh tế… hoặc
đôi khi chỉ là hoạt động của một ngành, một lĩnh vực lớn như bất động sản,
chứng khoán… Chính vì vậy, hoạt động của NHTMCP thường chứa đựng tính
rủi ro cao. Do nhiều khoản nợ ngắn hạn nên rủi ro trong hoạt động thường cao
và dễ dẫn đến phá sản. Điều này đặt ra những yêu cầu nhất định của việc quản
trị điều hành nhằm đưa hoạt động của NHTMCP đi vào ổn định và phát triển.
Do đó, việc đưa ra những quy định pháp luật về NHTMCP hợp lý là cực kỳ
quan trọng, tạo hành lang pháp lý thống nhất để các chủ thể khi tham gia hoạt
động này thực hiện.
Thứ ba, NHTMCP là loại hình doanh nghiệp có vai trò rất quan trọng
trong việc sử dụng, phân bổ nguồn vốn huy động từ xã hội, các hoạt động của


12


loại hình doanh nghiệp này có ảnh hưởng lớn đến sự ổn định xã hội, kinh tế
đất nước, nếu đổ vỡ sẽ có thể gây tổn thất lớn và trên phạm vi rộng. Tại cùng
một thời điểm, các ngân hàng chịu rủi ro hơn về quản trị so với doanh nghiệp
thông thường vì tính không rõ ràng hay cụ thể hơn là phạm vi cát cứ, chuyển
rủi ro, lợi ích của cá nhân và sự chiếm dụng công khai (hoạt động ngầm, hoạt
động cho vay nội gián, chiếm đoạt… lớn hơn so với các doanh nghiệp phi tài
chính. Việc quản lý thiếu nghiêm túc, sự lạm dụng quyền lực trong nội bộ một
số NHTMCP là nguyên nhân dẫn đến khủng hoảng, đe dọa hoạt động và sự ổn
định của cả hệ thống TCTD. Sự khủng hoảng của hệ thống các TCTD trong
thời gian qua và mối liên quan trực tiếp từ sự khủng hoảng của kinh doanh bất
động sản là một minh chứng hết sức rõ nét cho tầm ảnh hưởng của hệ thống
các TCTD nói chung và NHTMCP nói riêng tới toàn bộ hoạt động của nền
kinh tế. Do đó, việc đặt ra những quy định pháp lý chặt chẽ điều chỉnh hoạt
động của các NHTMCP trong đó đặc biệt là hoạt động quản trị, điều hành là
vô cùng quan trọng. Đây cũng chính là công cụ để Nhà nước kiểm soát, điều
hành sự vận động của kinh tế vĩ mô, trong đó có hoạt động kinh doanh tiền tệ.
1.1.2. Khái niệm, đăc̣ điểm của quản trị nội bộ ngân hàng thương
mại cổ phần
1.1.2.1. Khái niệm quản trị nội bộ ngân hàng thương mại cổ phần
Thuật ngữ Corporate Governance tạm dịch là quản trị doanh nghiệp
đã được thừa nhận rộng rãi và được nhiều quốc gia trên thế giới nghiên cứu.
Theo hệ thống dân luật, doanh nghiệp có những quan hệ hướng nội (quan hệ
giữa các thành viên, giữa các cơ quan quản lý, điều hành trong công ty) và
quan hệ hướng ngoại (quan hệ giữa công ty và các bên thứ ba như người lao
động, cơ quan nhà nước, đối tác, các tổ chức tài chính...) [16, tr. 357]. Các
quy định điều chỉnh mối quan hệ giữa các thành viên, giữa các cơ quan quản
lý, điều hành trong ngân hàng là nội dung chính của quản trị ngân hàng theo ý

nghĩa đề tài này hướng đến.

13


Theo Tổ chức hợp tác và phát triển (OECD): Quản trị công ty là một
hệ thống các cơ chế, các hành vi quản lý. Cơ chế này xác định việc phân chia
các quyền và nghĩa vụ giữa cổ đông, HĐQT, các chức danh quản lý và những
người có lợi ích liên quan, quy định trình tự ban hành các quyết định kinh
doanh. Bằng cách này, công ty tạo ra một cơ chế xác lập mục tiêu hoạt động,
tạo ra phương tiện thực thi và giám sát việc thực hiện các mục tiêu đó [20].
Theo Ngân hàng Thế giới (WB): Quản trị công ty là một hệ thống các
yếu tố pháp luật, thể chế và thông lệ quản lý của các công ty. Nó cho phép
công ty có thể thu hút được các nguồn tài chính và nhân lực, hoạt động có
hiệu quả, và nhờ đó tạo ra các giá trị kinh tế lâu dài cho các cổ đông, trong khi
vẫn tôn trọng quyền lợi của những người có lợi ích liên quan và của xã hội. Đặc
điểm cơ bản nhất của một hệ thống quản trị công ty là: (i) tính minh bạch của
các thông tin tài chính, kinh doanh và quá trình giám sát nội bộ đối với hoạt
động quản lý, (ii) bảo đảm thực thi các quyền của tất cả các cổ đông, (iii) các
thành viên trong HĐQT có thể hoàn toàn độc lập trong việc thông qua các
quyết định, phê chuẩn kế hoạch kinh doanh, tuyển dụng người quản lý, trong
việc giám sát tính trung thực và hiệu quả của hoạt động quản lý và trong việc
miễn nhiệm người quản lý khi cần thiết [6].
Các định nghĩa này cho thấy, quản trị công ty nhằm bảo vệ lợi ích của
các bên liên quan chính trong các doanh nghiệp kinh doanh. Như đã có nhận
xét: "Quản trị công ty trước hết bao gồm các thiết chế điều chỉnh mối quan hệ
giữa các chủ sở hữu với nhau và giữa họ với bộ máy điều hành trong những doanh
nghiệp qui mô lớn mà sở hữu và điều hành đã bắt đầu tách rời" [14, tr. 40].
Như vậy, trong nền kinh tế thị trường, một công ty có nhiều đối tượng
hưởng lợi và những đối tượng này được phân chia thành các nhóm có lợi ích

xung đột với nhau. Việc quản trị sẽ cân bằng các ảnh hưởng đó một cách tối
ưu cho công ty nhằm phát huy được tính hiệu quả, công khai, minh bạch, góp
phần bảo vệ nhà đầu tư tốt hơn và cải thiện sức cạnh tranh cho chính bản thân
doanh nghiệp.

14


Điều này cho thấy, thuật ngữ "quản trị công ty" hoàn toàn khác với
cách hiểu "quản trị kinh doanh" (theo môn học kinh tế) thường được hiểu là
tri thức và kỹ năng của những người quản lý. Quản trị kinh doanh chính là áp
dụng các nguyên tắc và lý luận của khoa học quản trị vào việc quản trị một cơ
sở kinh doanh mà mục tiêu chủ yếu là lợi nhuận. Như vậy, về thực chất, quản
trị kinh doanh là một quá trình, một hoạt động có hướng đích, có tổ chức của
chủ thể quản trị (nhà quản trị) lên đối tượng quản trị (cấp dưới) để điều hành,
phối hợp các nguồn lực (tài sản hữu hình, tài sản vô hình, thời gian và các
mối quan hệ) trong điều kiện cạnh tranh thị trường nhằm đạt được mục tiêu
kinh doanh với hiệu quả cao [17].
Trong NHTMCP, việc quản trị sẽ là một cơ chế nhằm điều khiển và
kiểm soát hoạt động của ngân hàng. Nói đến quản trị các nhà kinh tế học hoặc
chuyên gia ngân hàng sẽ hình dung không những là việc quản trị, thực hiện
quyết định và tổ chức nội bộ của các ngân hàng mà còn là việc quản trị thanh
khoản (khả năng thanh toán và quy mô của ngân hàng), quản trị tài sản có
(tích sản), quản trị tài sản nợ (tiêu sản), quản trị vốn, quản trị tín dụng với nội
dung cơ bản là phân tích tín dụng [30, tr. 12-13]. Trong việc quản trị, thực
hiện quyết định và tổ chức nội bộ của ngân hàng sẽ bao gồm nhiều hoạt động:
hoạch định việc thực hiện các quyết định trong ngân hàng, kiểm tra (bao gồm
việc thực hiện các báo cáo, kiểm toán, thanh tra ngân hàng) và tổ chức nội bộ.
Trong hoạt động tổ chức nội bộ của ngân hàng sẽ bao gồm việc tổ chức cơ
cấu từ cấp cao (Hội sở) đến từng ủy ban chức năng, các chi nhánh hoạt động

và việc tổ chức các cơ quan quản lý, điều hành trong ngân hàng. Đề tài này
chỉ nghiên cứu những vấn đề liên quan đến việc tổ chức nội bộ đối với các cơ
quan quản lý, điều hành trong ngân hàng và những quy định pháp lý liên
quan, cụ thể là việc phân định rõ quyền hạn và nghĩa vụ giữa các thành viên,
cơ quan trong ngân hàng như các cổ đông, HĐQT, Ban kiểm soát (BKS), Ban
Giám đốc (Ban điều hành) và các cơ quan giúp việc khác. Như vậy, phạm vi

15


nghiên cứu chỉ là một phần của hoạt động "quản trị nô ̣i bô ̣ ngân hàng thương
mại" nói trên.
1.1.2.2. Đặc điểm của quản trị nội bộ ngân hàng thương mại cổ phần
Các NHTMCP - bản chất là các doanh nghiệp, song là các doanh
nghiệp đặc biệt, cung cấp các dịch vụ về tài chính nhằm thu lợi nhuận, do vậy
hoạt động quản trị, điều hành không những tác động đến giá trị của ngân hàng
và giá vốn của họ mà còn tác động đến giá vốn của các doanh nghiệp và hộ
gia đình mà họ cho vay vốn. Công tác quản trị, điều hành tại ngân hàng sẽ tác
động trực tiếp không chỉ đến giá trị của ngân hàng mà còn tới vị thế và uy tín
của ngân hàng. Nói một cách tổng quát, vấn đề quản trị, điều hành tác động
đến khả năng chấp nhận rủi ro của ngân hàng, là thước đo cho khả năng
chống đỡ của ngân hàng trước biến động của nền kinh tế. Không những thế,
hoạt động của ngân hàng tác động đến sự luân chuyển nguồn vốn của nền
kinh tế bởi lẽ các ngân hàng huy động và phân bổ tiết kiệm của xã hội.
Cũng bởi NHTMCP là các doanh nghiệp đặc biệt nên hoạt động của
các ngân hàng cũng có những "đặc thù" khác với các công ty.
Thứ nhất, hoạt động của ngân hàng chịu sự tác động mạnh mẽ từ các
thông tin về tài chính được đưa ra từ nhiều nguồn khác nhau và khó nhận định
đánh giá. Cùng với đó là sự đa dạng về các đối tượng thụ hưởng nên khó quản
lý; nhiều khoản nợ ngắn hạn dẫn đến độ rủi ro trong hoạt động là rất cao và

rất dễ dẫn đến phá sản; chịu sự quản lý chặt chẽ với nhiều quy định khắt khe
và chi tiết do tầm quan trọng trong hệ thống, nếu đổ vỡ có thể gây ra tổn thất
lớn và trên phạm vi rộng. Vì thế, bản thân các NHTMCP cũng phải đưa ra các
quy định rất cụ thể, rõ ràng như các hạn chế về hoạt động (sản phẩm, chi
nhánh), yêu cầu về đảm bảo an toàn (phân loại tín dụng, dự trữ bắt buộc…).
Vai trò của quản trị, điều hành NHTMCP rất quan trọng vì quản trị
tốt, ngân hàng có thể minh bạch hơn, giá trị cao hơn và tạo điều kiện giám sát
hiệu quả hơn.

16


Thứ hai, quản trị, điều hành được đặt trên cơ sở của sự tách biệt giữa
quản lý và sở hữu NHTMCP. NHTMCP do các cổ đông là chủ sở hữu, nhưng
để công ty tồn tại và phát triển phải có sự dẫn dắt của HĐQT, sự điều hành
của Ban điều hành, sự giám sát của BKS và sự đóng góp của người lao động,
những người này không phải lúc nào cũng có chung ý chí và quyền lợi. Điều
này dẫn đến cần phải có một cơ chế để nhà đầu tư cũng như cổ đông có thể
hướng hoạt động của ngân hàng phát triển đem lại hiệu quả cao nhất.
Thứ ba, quản trị, điều hành NHTMCP xác định quyền hạn và trách
nhiệm giữa các nhóm lợi ích, các thành viên khác nhau trong ngân hàng, bao
gồm các cổ đông, HĐQT, Ban điều hành, BKS. Đồng thời, quản trị, điều hành
ngân hàng cũng lập ra các nguyên tắc và quy trình, thủ tục ra các quyết định
trong ngân hàng, qua đó ngăn chặn sự lạm dụng quyền lực và chức vụ, giảm
thiểu những rủi ro liên quan đến hoặc có nguồn gốc từ những giao dịch với
các bên có liên quan, những xung đột lợi ích tiềm năng và từ việc không có
tiêu chuẩn rõ ràng hoặc không tuân thủ các quy định về công bố thông tin và
không minh bạch.
1.2. Các mô hình quản trị nội bộ ngân hàng thƣơng mại cổ phần
1.2.1. Mô hình quản tri ̣hai cấ p

Mô hình tổ chức và quản lý hiện tại được phân biệt chủ yếu theo
chức năng với hai cơ cấu quyền lực là cấp quản trị điều hành và cấp quản lý
kinh doanh.
Cấp quản trị điều hành: Là HĐQT gồm chủ tịch HĐQT và một số thành
viên chuyên trách, làm việc theo chế độ tập thể, giúp việc HĐQT có ban chuyên
viên và BKS. Về nguyên tắc HĐQT thực hiện chức năng quản lý đối với mọi
hoạt động của ngân hàng; chịu trách nhiệm bảo toàn và phát triển vốn; ban
hành các điều lệ, cơ chế, qui chế tổ chức và hoạt động của các ngân hàng.
Cấp quản lý kinh doanh: Cấp điều hành kinh doanh gồm Tổng giám
đốc, các Phó tổng giám đốc và các phòng ban tham mưu giúp việc tại hội sở

17


chính, bên cạnh Tổng giám đốc có Kế toán trưởng. Cấp trực tiếp kinh doanh
gồm các đơn vị hạch toán độc lập, các chi nhánh hạch toán phụ thuộc, các đơn
vị sự nghiệp và đơn vị hùn vốn kinh doanh.
Mô hình tổ chức hiện tại theo hai cấp như trên trong thời gian qua đã
được áp dụng trên thực tế tại nhiều NHTMCP, tuy nhiên, mô hình này đã bộc
lộ một số nhược điểm như sau:
- Đối với HĐQT cơ quan quản lý cao nhất không tập trung được các
luồng thông tin chủ yếu về hoạt động của ngân hàng để xây dựng, kiểm tra
các mục tiêu chiến lược và các quyết định phòng ngừa rủi ro trong đó có rủi
ro lãi suất.
- Các phòng ban nghiệp vụ từ trụ sở chính và chi nhánh được phân
nhiệm theo chức năng nghiệp vụ và cắt khúc theo địa giới hành chính, chưa
chú trọng phân nhiệm theo nhóm khách hàng và loại dịch vụ như thông lệ
quốc tế. Đây là hạn chế lớn nhất về cấu trúc quản lý và phát triển sản phẩm
mới đối với NHTM.
- Thiếu các bộ phận liên kết các hoạt động, các quyết định giữa các

phòng ban nghiệp vụ, tạo điều kiện cho HĐQT và ban điều hành bao quát toàn
diện hoạt động và tập trung nhân lực, tài lực vào các định hướng chiến lược.
Nhìn chung các NHTM rất lúng túng trong việc hoạch định chiến
lược, kế hoạch kinh doanh do thiếu các cơ quan và cơ sở dữ liệu về phân tích,
dự báo môi trường kinh doanh, đánh giá nguồn lực và xác định tầm nhìn
trung, dài hạn vốn là công cụ quản lý cơ bản của các NHTM hiện đại.
Mô hình tổ chức trên chỉ thích hợp trong điều kiện hoạt động với qui
mô nhỏ, mức độ tập trung quyền lực cao. Khi ngân hàng phát triển với qui mô
ngày càng lớn với số lượng chi nhánh ngày càng mở rộng, khối lượng và tính
chất công việc ngày càng nhiều và phức tạp hơn thì mô hình tổ chức của
NHTM Việt Nam có những hạn chế như việc tổ chức và bố trí các phòng
nghiệp vụ hiện nay cả ở cấp trung ương và chi nhánh đang được tiến hành

18


×