Tải bản đầy đủ (.pdf) (27 trang)

Quá trình hợp tác lào việt nam trong đào tạo, bồi dưỡng cán bộ an ninh của lào từ năm 1962 đến năm 2012 (tt)

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (360.95 KB, 27 trang )

VIỆN HÀN LÂM
KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM
HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI
--------------------

LÊ QUANG MẠNH

QUÁ TRÌNH HỢP TÁC LÀO - VIỆT NAM
TRONG ĐÀO TẠO, BỒI DƯỠNG CÁN BỘ AN NINH
CỦA LÀO TỪ NĂM 1962 ĐẾN NĂM 2012

Chuyên ngành : Lịch sử thế giới
Mã số

: 62.22.03.11

TÓM TẮT LUẬN ÁN TIẾN SĨ SỬ HỌC

Hµ néi - 2017


LUẬN ÁN ĐƯỢC HOÀN THÀNH TẠI
HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI

Người hướng dẫn khoa học: PGS.TS. Võ Kim Cương

Phản biện 1: GS.TS Trần Thị Vinh
Trường Đại học Sư phạm Hà Nội
Phản biện 2: PGS.TS. Nguyễn Thanh Hiền
Khoa Sử học, Học viện Khoa học xã hội
Phản biện 3: PGS.TS Nguyễn Thị Quế


Học viện Chính trị Quốc gia Hồ Chí Minh

Luận án sẽ được bảo vệ trước Hội đồng chấm luận án cấp Học viện
tại Học viện Khoa học xã hội
Vào hồi …… giờ, ngày …. tháng ….. năm 2017

Có thể tìm đọc luận án tại:
- Thư viện Học viện Khoa học xã hội


MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Cộng hòa Dân chủ Nhân dân Lào và Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam
là hai nước láng giềng, có mối quan hệ hữu nghị và truyền thống tương trợ giúp
đỡ lẫn nhau từ lâu đời. Vị trí địa lý và truyền thống lịch sử thân thiện đã gắn kết
chặt chẽ hai dân tộc với nhau trong các cuộc kháng chiến chống ngoại xâm,
nhất là từ khi Đảng Cộng sản Đông Dương ra đời và lãnh đạo cách mạng ba
nước Đông Dương chống lại chủ nghĩa thực dân, giành độc lập dân tộc. Mối
quan hệ Lào - Việt Nam, Việt Nam - Lào tiếp tục được xây dựng, vun đắp, thử
thách qua hai cuộc kháng chiến vĩ đại chống xâm lược của hai dân tộc giai đoạn
(1945 - 1975) và trải qua thời kỳ xây dựng, bảo vệ Tổ quốc trong giai đoạn
hiện nay. Mối quan hệ đó đã trở thành mối quan hệ đặc biệt, đoàn kết, thủy
chung, hiếm có, là tài sản quý báu của hai dân tộc.
Hiện nay, tình hình thế giới, khu vực đang có những diễn biến phức tạp,
biến đổi nhanh chóng, khó lường. Vì vậy, việc hợp tác trong lĩnh vực an ninh
giữa Lào và Việt Nam là vô cùng quan trọng nhằm đảm bảo an ninh của mỗi
nước, đồng thời góp phần đảm bảo an ninh khu vực và thế giới.
Nhìn lại chặng đường lịch sử về quan hệ hợp tác trên lĩnh vực an ninh
giữa Lào và Việt Nam, thì lực lượng an ninh Việt Nam luôn chủ động đảm
nhiệm, gánh vác những công việc khó khăn nhất để hỗ trợ lực lượng an ninh

Lào với phương châm “giúp bạn là tự giúp mình”, “an ninh của bạn cũng
chính là an ninh của mình”. Điều đó cũng phải được hiểu là: Đào tạo đội ngũ
cán bộ an ninh giúp Lào cũng chính là đào tạo cán bộ an ninh cho Việt Nam.
Trong xu thế toàn cầu hóa hiện nay, cùng với sự nghiệp đổi mới, mở cửa,
hội nhập quốc tế mà nhân dân Lào và Việt Nam đang tiến hành đã tạo ra những
cơ hội và thách thức mới, đồng thời đặt ra những yêu cầu khách quan về tăng
cường mối quan hệ đặc biệt giữa hai nước nói chung, giữa Bộ An ninh Lào và
Bộ Công an Việt Nam nói riêng trên những phương diện và nội dung mới. Hợp
tác đào tạo, bồi dưỡng cán bộ là nhiệm vụ chiến lược lâu dài giữa Bộ An ninh
Lào và Bộ Công an Việt Nam, nhằm xây dựng một đội ngũ cán bộ vững về
chính trị, giỏi về nghiệp vụ, có nhận thức sâu sắc về mối quan hệ hữu nghị
truyền thống, đoàn kết đặc biệt và hợp tác toàn diện giữa lực lượng công an hai
nước, tạo lòng tin vững chắc, lâu dài, góp phần tăng cường, bền vững mối quan
hệ giữa hai đảng, hai nhà nước và hai dân tộc.
Có thể khẳng định quá trình hợp tác Lào - Việt Nam trong đào tạo, bồi
dưỡng lực lượng an ninh đã có bề dày lịch sử hơn 50 năm và là một điểm sáng,
một bằng chứng sinh động trong bức tranh chung về mối quan hệ đặc biệt Lào Việt Nam, Việt Nam - Lào. Tuy nhiên, nghiên cứu về quá trình hợp tác Lào Việt Nam trong đào tạo cán bộ an ninh cho Lào thì chưa có công trình nghiên
cứu nào đề cập đến một cách cụ thể và toàn diện. Đây thực sự là một khoảng
trống trong nghiên cứu lịch sử quan hệ giữa hai nước. Chính vì vậy, dưới góc
1


nhìn của một nhà nghiên cứu về lịch sử, đặc biệt là một người tham gia công tác
nghiên cứu và đào tạo tại các trường Công an nhân dân - Bộ Công an Việt Nam,
tôi thấy rằng, việc nghiên cứu về mối quan hệ Lào - Việt Nam trong hợp tác,
đào tạo cán bộ an ninh là một đề tài cần được nghiên cứu một cách cụ thể và
nghiêm túc. Do đó, nghiên cứu đề tài: “Quá trình hợp tác Lào - Việt Nam
trong đào tạo, bồi dưỡng cán bộ an ninh của Lào từ năm 1962 đến năm
2012” có ý nghĩa to lớn về mặt lý luận, khoa học và thực tiễn. Đó cũng chính là
lý do mà tôi chọn vấn đề này làm đề tài luận án tiến sĩ khoa học lịch sử.

2. Mục đích và nhiệm vụ của luận án
2.1. Mục đích
Mục đích nghiên cứu của luận án là làm rõ quá trình phát triển và những
đặc điểm của hợp tác Lào - Việt Nam trong đào tạo, bồi dưỡng cán bộ an ninh
của Lào từ năm 1962 đến năm 2012. Trên cơ sở đó rút ra những bài học kinh
nghiệm, dự báo xu thế phát triển và đề xuất một số giải pháp nhằm nâng cao
chất lượng, hiệu quả hợp tác đào tạo, bồi dưỡng cán bộ an ninh giữa Lào, Việt
Nam trong thời gian tới.
2.2. Nhiệm vụ
Nhiệm vụ của luận án nhằm tập trung làm rõ những vấn đề cơ bản sau đây:
Một là, làm rõ cơ sở khách quan hình thành, phát triển mối quan hệ hợp
tác an ninh và tính tất yếu trong hợp tác an ninh giữa Lào và Việt Nam.
Hai là, phân tích thực tiễn quá trình hợp tác Lào - Việt Nam trong đào
tạo, bồi dưỡng cán bộ an ninh của Lào từ năm 1962 đến năm 2012.
Ba là, đánh giá chất lượng, hiệu quả công tác đào tạo, bồi dưỡng cán bộ
an ninh của Lào tại các cơ sở đào tạo, các cơ quan chức năng, công an các địa
phương có chung đường biên giới với Lào thuộc Bộ Công an Việt Nam, đồng
thời rút ra một số bài học kinh nghiệm và đề xuất một số giải pháp nhằm nâng
cao hiệu quả hợp tác đào tạo, bồi dưỡng lực lượng an ninh giữa Lào và Việt
Nam trong thời gian tới.
3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu của luận án
3.1. Đối tượng nghiên cứu
Đề tài nghiên cứu về quá trình hợp tác Lào - Việt Nam trong đào tạo, bồi
dưỡng cán bộ an ninh của Lào từ năm 1962 đến năm 2012.
3.2. Phạm vi nghiên cứu
- Về không gian: Luận án được nghiên cứu trên các địa bàn sau: Bộ An
ninh Lào, Bộ Công an Việt Nam, các trường công an của Lào và Việt Nam,
Công an các tỉnh có chung đường biên giới giữa Lào và Việt Nam.
- Về thời gian: Luận án giới hạn phạm vi nghiên cứu từ năm 1962 đến
năm 2012.

- Nội dung nghiên cứu: Tình hình và kết quả hợp tác đào tạo, bồi dưỡng
cán bộ an ninh của Lào giữa Bộ An ninh Lào và Bộ Công an Việt Nam trong
50 năm (1962 - 2012).
2


4. Phương pháp luận, phương pháp nghiên cứu và nguồn tài liệu
4.1. Phương pháp luận
Luận án được nghiên cứu dựa trên cơ sở vận dụng những quan điểm lý
luận chủ nghĩa Mác – Lênin; quan điểm của Đảng Cộng sản Việt Nam, Đảng
Nhân dân Cách mạng Lào về đường lối đối ngoại giữa hai nước trong quá trình
xây dựng, bảo vệ và phát triển đất nước.
4.2. Phương pháp nghiên cứu
Luận án chủ yếu sử dụng các phương pháp nghiên cứu sau: phương pháp
lịch sử, phương pháp lôgíc, phương pháp nghiên cứu so sánh... để có cái nhìn
khách quan, sát thực hơn về mối quan hệ này.
Quá trình sử dụng các phương pháp nghiên cứu nói trên được nhìn nhận,
tiếp cận trên quan điểm mác xít.
4.3. Nguồn tài liệu
Luận án tham khảo và sử dụng những nguồn tài liệu sau:
- Tài liệu gốc: Tài liệu gốc của hai đảng, hai nhà nước, của Bộ An ninh
Lào và Bộ Công an Việt Nam, các trường công an của Lào và Việt Nam về hợp
tác quốc tế trong công tác đào tạo, đặc biệt là các văn bản về những thỏa thuận
hợp tác, báo cáo sơ kết, tổng kết, công văn, quyết định, biên bản hội đàm, thông
báo của Bộ Công an Việt Nam và Bộ An ninh Lào.
- Tài liệu chuyên khảo: Một số luận án, bài viết nghiên cứu, tham luận
khoa học liên quan trực tiếp đến quan hệ Lào - Việt Nam nói chung và quan hệ
trên lĩnh vực an ninh, chủ yếu là hợp tác đào tạo, bồi dưỡng nói riêng.
5. Đóng góp mới về khoa học của luận án
Đi sâu nghiên cứu một cách hệ thống quá trình hợp tác Lào - Việt Nam

trong đào tạo, bồi dưỡng cán bộ an ninh của Lào từ năm 1962 đến năm 2012; đánh
giá chất lượng, hiệu quả công tác đào tạo, bồi dưỡng cán bộ cho Bộ An ninh Lào
tại các cơ sở đào tạo thuộc Bộ Công an Việt Nam; đề xuất giải pháp nâng cao hiệu
quả hợp tác đào tạo, bồi dưỡng cán bộ an ninh giữa Lào và Việt Nam.
6. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn của luận án
- Luận án góp phần làm sáng tỏ một số vấn đề lý luận và thực tiễn về mối
quan hệ đặc biệt giữa Lào và Việt Nam, về tính tất yếu trong hợp tác an ninh
giữa hai nước, trong đó có sự cần thiết phải hợp tác đào tạo cán bộ an ninh
trong giai đoạn (1962 - 2012) giữa Lào và Việt Nam. Luận án cũng gợi mở một
số vấn đề thực tiễn nhằm nâng cao chất lượng và hiệu quả trong hợp tác an ninh
nói chung; hợp tác, đào tạo bồi dưỡng cán bộ an ninh nói riêng giữa Lào và
Việt Nam.
- Kết quả nghiên cứu của luận án là công trình khoa học có giá trị tham
khảo tốt đối với các nhà nghiên cứu khi nghiên cứu toàn diện, nhiều lĩnh vực
trong mối quan hệ đặc biệt giữa hai nước và các đơn vị thuộc Bộ Công an Việt
Nam như: Văn phòng Bộ Công an, Vụ Hợp tác quốc tế, Viện Chiến lược và
Khoa học công an, Viện Lịch sử Công an, Cơ quan đại diện Bộ Công an Việt
Nam tại Lào, Cục Tham mưu xây dựng lực lượng, Cục Tổ chức cán bộ, Cục
3


Đào tạo, Cục Công tác chính trị và Công tác quần chúng, Cục Chính sách...
Luận án cũng có giá trị tham khảo đối với các trường công an của Lào và Việt
Nam trong hợp tác đào tạo, bồi dưỡng cán bộ an ninh của Lào.
7. Kết cấu của luận án
Ngoài phần mở đầu, kết luận, danh mục tài liệu tham khảo và phụ lục, nội
dung luận án gồm có 4 chương.
Chương 1
TỔNG QUAN TÌNH HÌNH NGHIÊN CỨU
VÀ NHỮNG VẤN ĐỀ LIÊN QUAN ĐẾN ĐỀ TÀI

1.1. Những công trình nghiên cứu về mối quan hệ Lào - Việt Nam,
Việt Nam - Lào nói chung
- Công trình nghiên cứu “Lịch sử quan hệ đặc biệt Việt Nam - Lào, Lào Việt Nam (1930 - 2007)” do Đảng Cộng sản Việt Nam và Đảng Nhân dân cách
mạng Lào tổ chức hợp tác cùng nghiên cứu và biên soạn.
- Nhóm những công trình nghiên cứu về mối quan hệ Lào - Việt Nam,
Việt Nam - Lào của các cơ quan, đơn vị, các nhà khoa học của Việt Nam, Lào
và nước ngoài.
1.2. Những công trình nghiên cứu về hợp tác đào tạo, bồi dưỡng cán
bộ an ninh giữa Lào - Việt Nam
- Nhóm các công trình nghiên cứu của các tác giả người Việt Nam.
- Nhóm các công trình nghiên cứu của các tác giả người Lào.
1.3. Nhận xét tình hình nghiên cứu và những vấn đề liên quan đến
luận án
Nhìn lại tình hình nghiên cứu những vấn đề liên quan đến luận án có thể
rút ra một số nhận xét sau:
Thứ nhất: Các công trình nghiên cứu về mối quan hệ đặc biệt Việt Nam Lào, Lào - Việt Nam đã nêu bật những nhân tố tạo nên mối quan hệ đặc biệt,
liên minh chiến đấu, đặc biệt là vai trò của Chủ tịch Hồ Chí Minh và các nhà
lãnh đạo của hai đảng, hai nhà nước trong mối quan hệ Việt Nam - Lào, Lào Việt Nam.
Thứ hai: Xác định hợp tác về an ninh giữa hai quốc gia là nhiệm vụ cấp
bách và quan trọng hàng đầu trong quan hệ hợp tác của hai nước. Tuy nhiên,
nghiên cứu về quá trình hợp tác an ninh giữa Lào - Việt Nam và đặc biệt trong
đào tạo, bồi dưỡng lực lượng an ninh của Lào từ trước đến nay có rất ít tài liệu.
Các vấn đề nghiên cứu đa số được trình bày dưới dạng các bài viết tham luận
tại các cuộc hội thảo quốc tế về mối quan hệ đặc biệt Việt Nam - Lào, Lào Việt Nam; hội thảo về đào tạo đại học tại các trường công an nhân dân Việt
Nam, các trường an ninh, cảnh sát của Lào; hoặc nghiên cứu dưới dạng các bài
nghiên cứu về một vài vấn đề cụ thể được đăng trên các tạp chí nội bộ của
ngành Công an. Nội dung của những vấn đề nghiên cứu đã phần nào khái quát
4



được sự cần thiết trong hợp tác an ninh nói chung và hợp tác trong lĩnh vực đào
tạo, bồi dưỡng lực lượng an ninh nói riêng.
1.4. Những vấn đề luận án cần tiếp tục làm rõ
Thứ nhất: Làm rõ vai trò của hợp tác an ninh trong quan hệ giữa Lào và
Việt Nam.
Thứ hai: Phân tích thực tiễn hợp tác đào tạo, bồi dưỡng cán bộ an ninh
của Lào từ năm 1962 đến năm 2012.
Thứ ba: Rút ra nhận xét, đánh giá, tổng kết để phát hiện những vấn đề
mang tính quy luật, những bài học kinh nghiệm lịch sử có giá trị và đưa ra một
số giải pháp nhằm nâng cao chất lượng, hiệu quả trong hợp tác đào tạo, bồi
dưỡng cán bộ an ninh giữa Lào và Việt Nam.
*
*

*

Chương 2
KHÁI QUÁT VỀ MỐI QUAN HỆ LÀO - VIỆT NAM VÀ VAI TRÕ
CỦA HỢP TÁC AN NINH TRONG QUAN HỆ LÀO - VIỆT NAM
2.1. Khái quát về mối quan hệ Lào - Việt Nam, Việt Nam - Lào
2.1.1. Cơ sở hình thành mối quan hệ Lào - Việt Nam, Việt Nam - Lào
Mối quan hệ đặc biệt Lào - Việt Nam, Việt Nam - Lào không phải là một
hiện tượng nhất thời, mà đã có tiền đề tự nhiên, cơ sở lịch sử, xã hội từ lâu đời,
bắt nguồn từ chính nhu cầu của cuộc sống hàng ngày và những nguyện vọng
chính đáng của các thế hệ dân cư, nhất là các tộc người cư trú dọc biên giới hai
nước. Trong đó, mối quan hệ về địa - tự nhiên và địa - quân sự kết hợp với
nhau, tạo nên một mối quan hệ chỉnh thể thống nhất mà trong công cuộc bảo vệ,
xây dựng và phát triển của mỗi nước, hai dân tộc Lào và Việt Nam đều nhận
thức được phải nương tựa vào nhau, gắn bó với nhau không thể tách rời như
một tất yếu của lịch sử.

Chủ tịch Hồ Chí Minh là người đặt nền móng và chính Người cùng đồng
chí Cayxỏn Phômvihản, đồng chí Xuphanuvông cùng các thế hệ lãnh đạo hai
đảng, hai nhà nước cùng nhân dân hai nước dày công vun đắp, dưới sự lãnh đạo
của Đảng Cộng sản Đông Dương, sau này là Đảng Nhân dân Cách mạng Lào và
Đảng Cộng sản Việt Nam. Sự tự nguyện đoàn kết của nhân dân hai nước Lào và
Việt Nam trong chống ngoại xâm, nhất là trong cuộc đấu tranh chống thực dân
Pháp và đế quốc Mỹ xâm lược càng khẳng định mối quan hệ đặc biệt giữa Lào Việt Nam, Việt Nam - Lào.
2.1.2. Mối quan hệ Lào - Việt Nam trong cuộc đấu tranh giành độc lập
và trong sự nghiệp xây dựng đất nước hiện nay
- Hai dân tộc sát cánh bên nhau, vượt qua mọi gian khổ, hy sinh, đoàn
kết, gắn bó đánh giặc ngoại xâm
5


Từ đầu thế kỷ XX, không cam chịu ách nô lệ, nhân dân hai nước Lào Việt Nam đã đoàn kết, cùng nhau đấu tranh chống Pháp. Như vậy, trước 1930,
Lào và Việt Nam đã có sự đoàn kết cùng chiến đấu chống kẻ thù chung, nhưng
lúc đó chỉ dừng lại ở tính chất tự phát do hạn chế về trình độ nhận thức và điều
kiện lịch sử. Từ khi được chủ nghĩa Mác - Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh soi
đường, đặc biệt là từ khi Đảng Cộng sản Đông Dương ra đời do Chủ tịch Hồ
Chí Minh sáng lập, trực tiếp lãnh đạo cuộc đấu tranh giải phóng của hai dân tộc
Lào - Việt Nam, tình đoàn kết đó đã được phát triển liên tục và ngày càng bền
chặt trong hai cuộc kháng chiến.
Trước thắng lợi dồn dập, to lớn của nhân dân Việt Nam, Campuchia trong
tháng 4 - 1975, nhất là chiến thắng giải phóng hoàn toàn miền Nam (30-4-1975)
của nhân dân Việt Nam. Tháng 12 năm 1975, nước Cộng hòa Dân chủ Nhân
dân Lào ra đời. Đây là thắng lợi to lớn, triệt để của nhân dân các bộ tộc Lào,
đồng thời cũng là thắng lợi quan trọng của mối quan hệ đặc biệt, liên minh đoàn
kết chiến đấu, thủy chung, son sắt giữa hai dân tộc Việt Nam - Lào.
- Hợp tác và giúp đỡ nhau trong công cuộc xây dựng chủ nghĩa xã hội,
hội nhập và phát triển

Sau năm 1975, quan hệ Lào - Việt Nam bước sang một trang mới. Đây là
thời kỳ Đảng Cộng sản Việt Nam và Đảng Nhân dân Cách mạng Lào trở thành
đảng cầm quyền ở mỗi nước; cả hai nước càng có điều kiện phát huy truyền
thống tốt đẹp đã từng gắn bó keo sơn trong cuộc đấu tranh chống kẻ thù xâm
lược, xây dựng và tăng cường quan hệ liên minh, liên kết và hợp tác toàn diện
về chính trị, quốc phòng, an ninh, kinh tế, văn hoá, giáo dục…
2.2. Nhận thức chung về an ninh quốc gia và vai trò của hợp tác an
ninh trong quan hệ giữa Lào và Việt Nam
2.2.1. Nhận thức chung về an ninh quốc gia
An ninh quốc gia là vấn đề cốt tử đối với mỗi quốc gia. ANQG là sự ổn
định và phát triển vững mạnh về mọi mặt của chế độ xã hội, độc lập, chủ quyền,
thống nhất, toàn vẹn lãnh thổ và các lợi ích quan trọng của một quốc gia.
ANQG bao gồm an ninh trên các lĩnh vực: chính trị, kinh tế, tư tưởng - văn hóa,
xã hội, quốc phòng… trong đó an ninh chính trị là cốt lõi, xuyên suốt. Như vậy,
ANQG được hiểu là trạng thái an toàn, vững mạnh và phát triển của quốc gia
trên các lĩnh vực.
Lào và Việt Nam là một mẫu hình nhằm củng cố thêm tình hữu nghị đặc
biệt, bền chặt. Trong bối cảnh toàn cầu hóa, sự nghiệp đổi mới, mở cửa, hội
nhập quốc tế mà nhân dân hai nước đang tiến hành thì an ninh là nhu cầu thiết
yếu đối với sự tồn tại của quốc gia. Vì vậy, Lào và Việt Nam đã huy động mọi
nguồn lực cho sức mạnh bảo vệ ANQG và các lợi ích thiết yếu của từng quốc
gia. Bên cạnh thách thức về an ninh truyền thống nảy sinh trong sự tương tác về
quan hệ lợi ích chiến lược luôn uy hiếp và đe doạ trực tiếp đến an ninh quốc
gia, là thách thức về an ninh phi truyền thống ngày càng trở nên nghiêm trọng,
khó lường. Hoàn toàn biện chứng và thực tiễn khi hai nước Lào - Việt Nam có
6


nhu cầu củng cố đoàn kết, thúc đẩy hợp tác để cùng đối phó với các thách thức
đe đoạ trên.

2.2.2. Vai trò của hợp tác an ninh trong quan hệ giữa Lào và Việt Nam
- Hỗ trợ cho nhau trong cuộc đấu tranh giành độc lập và bảo vệ toàn vẹn
lãnh thổ
a. Giai đoạn (1962 - 1975)
Từ khi hai nước Lào - Việt Nam thiết lập quan hệ ngoại giao năm 1962,
hai đảng, hai nhà nước và nhân dân hai nước lúc nào cũng cùng vai sát cánh
chung tay, giúp đỡ nhau một cách tận tình trong từng giai đoạn của cuộc cách
mạng để chống lại kẻ thù xâm lược nhằm bảo vệ nền độc lập, bảo vệ an ninh,
toàn vẹn lãnh thổ của hai nước. Trong bất kỳ giai đoạn nào của cuộc cách mạng
đều có sự đóng góp rất quan trọng và tham gia tích cực của lực lượng công an
Việt Nam và lực lượng an ninh Lào với sự kế tiếp của nhiều thế hệ.
b. Giai đoạn (1976 - 2012)
Từ năm 1976 đến đầu thế kỷ XXI, Lào và Việt Nam bị nhiều thế lực thù
địch từ bên ngoài vừa tấn công, xâm phạm chủ quyền lãnh thổ, vừa sử dụng
những phần tử phản động lưu vong quay trở về phá hoại an ninh quốc gia. Theo
tinh thần các văn bản đã ký kết giữa hai chính phủ, lực lượng an ninh Lào và
công an Việt Nam đã phối hợp chặt chẽ thực hiện các nhiệm vụ được giao trên
mặt trận chống ngoại xâm, chống phỉ, dẹp bạo loạn, trừ diệt bọn phản động
vượt qua lãnh thổ Lào xâm nhập lãnh thổ Việt Nam...
Trong thời gian đó, Việt Nam đã hỗ trợ Lào củng cố và xây dựng được
lực lượng an ninh có đủ khả năng hoàn thành nhiệm vụ trước yêu cầu của tình
hình mới, là chỗ dựa vững chắc để bảo vệ chế độ chính trị ở Lào.
Lào và Việt Nam đã phối hợp chặt chẽ trong giải quyết và làm thất bại âm
mưu của các thế lực thù địch lợi dụng vấn đề dân tộc - tôn giáo để kích động,
tuyên truyền, xuyên tạc gây chia rẽ mất đoàn kết, kích động bạo loạn hòng
chứng minh là có lực lượng đối lập ở mỗi nước, nhằm tạo cớ cho lực lượng
nước ngoài vào can thiệp, kích động tư tưởng ly khai.
Lào và Việt Nam đã tăng cường phối hợp trao đổi thông tin, phối hợp
hành động, tích cực và thẳng thắn trao đổi, chia sẻ kinh nghiệm xử lý, giải
quyết các vấn đề liên quan đến đồng bào dân tộc thiểu số ở mỗi nước như: vấn

đề đồng bào dân tộc bị kích động, lôi kéo di dân tự do, vượt biên trái phép;
đồng bào bị lôi kéo tham gia và nuôi dưỡng lực lượng phỉ trong rừng. Đồng
thời, lực lượng an ninh Lào và Việt Nam tích cực trao đổi về nghiệp vụ công an
như: Tranh thủ người có uy tín trong dân tộc thiểu số, công tác điều tra cơ bản,
công tác nắm tình hình địa bàn; tăng cường trao đổi về kinh nghiệm tiến hành
công tác dân vận tại những địa bàn có “điểm nóng”, tập trung giải quyết vấn đề
tư tưởng trong đồng bào dân tộc. Bên cạnh đó, Lào và Việt Nam còn trao đổi
kinh nghiệm về tăng cường giáo dục tinh thần cảnh giác đấu tranh chống các
thế lực thù địch, xây dựng phong trào tự quản chống các hành vi vi phạm pháp
luật; kinh nghiệm trong việc phòng chống các thế lực thù địch lợi dụng vấn đề
7


dân tộc, tôn giáo để chống phá chính quyền; kinh nghiệm xử lý, đấu tranh tiếp
nhận dân tị nạn hồi hương và kinh nghiệm bố trí tái định cư cho dân hồi
hương... Ngoài ra, Việt Nam còn trao đổi với Lào về kinh nghiệm trong quản lý
việc tiếp cận địa bàn, đăng tải thông tin và quyền tiếp cận thông tin. Được sự hỗ
trợ và chia sẻ kinh nghiệm của Việt Nam, các đơn vị, cơ quan chức năng trực
tiếp liên quan đến đồng bào dân tộc thiểu số của Lào đã có sự chủ động trong
phối hợp tham mưu cho các cấp uỷ đảng, chính quyền cơ sở thực hiện tốt các
chính sách tôn giáo, dân tộc, tổ chức tốt việc phát triển kinh tế, cải thiện đời
sống vật chất, tăng cường giáo dục văn hoá, tinh thần cho đồng bào, xây dựng
và củng cố các tổ chức đoàn thể quần chúng, để các tổ chức này đủ sức thu hút
được đông đảo quần chúng tham gia, đóng góp thiết thực vào công tác bảo đảm
an ninh trong vùng dân tộc, tôn giáo và an ninh vùng biên của Lào.
Như vậy, có thể thấy xuất phát từ tình hình thực tiễn cụ thể của Lào mà
Việt Nam đã không ngừng giúp đỡ Lào xây dựng lực lượng an ninh của mình
để Lào có thể tự đảm bảo vững chắc an ninh quốc gia trong giai đoạn kháng
chiến cũng như trong quá trình phát triển hiện nay. Trong mối quan hệ an ninh
giữa hai nước, phía Việt Nam luôn chủ động và đảm nhiệm gánh vác các công

việc khó khăn nhất với phương châm “giúp bạn là tự giúp mình”, “an ninh của
bạn cũng chính là an ninh của mình”. Việt Nam đã giúp Lào củng cố và xây
dựng một lực lượng an ninh có chất lượng cao và đủ khả năng hoàn thành
nhiệm vụ, đáp ứng yêu cầu của tình hình mới.
- Giữ vững ổn định chính trị, an ninh trật tự, củng cố phòng tuyến an ninh
biên giới của mỗi nước trong tình hình mới
Trong bối cảnh tình hình an ninh, chính trị, kinh tế thế giới và khu vực có
nhiều diễn biến mới phức tạp, đa dạng, khó dự báo, tác động đến an ninh, trật tự
của hai nước, lực lượng Công an Việt Nam và lực lượng Công an Lào đã chủ
động phối hợp chặt chẽ, đấu tranh làm thất bại mọi âm mưu, hoạt động của các
thế lực thù địch, phản động lưu vong người Việt, người Lào lợi dụng vấn đề
“dân chủ”, “nhân quyền”, “tôn giáo”, “dân tộc” chống phá Việt Nam và Lào.
Phối hợp tổ chức thành công các hội nghị hợp tác an ninh và phòng, chống tội
phạm thường niên, qua đó kịp thời trao đổi thông tin, chia sẻ kinh nghiệm, đánh
giá sâu sắc, toàn diện các nội dung hợp tác; kiến nghị, bổ sung, điều chỉnh cơ
chế hợp tác nhằm nâng cao hiệu quả phối hợp đấu tranh phòng, chống tội phạm,
nhất là các loại tội phạm có tổ chức, xuyên quốc gia, tội phạm kinh tế, hình sự,
ma tuý; phối hợp xác minh, truy bắt các đối tượng có lệnh truy nã… Tổ chức
phối hợp chặt chẽ giữa công an các tỉnh giáp biên trong đấu tranh phòng, chống
tội phạm ma túy qua biên giới; phối hợp với Bộ đội Biên phòng, Hải quan hai
nước truy bắt số đối tượng trong các đường dây mua bán, vận chuyển trái phép
ma túy, góp phần kiểm soát, ngăn chặn có hiệu quả tội phạm ma túy qua biên
giới hai nước.
Sự giúp đỡ và hỗ trợ to lớn từ Việt Nam đã giúp cho các cơ quan chức
năng về an ninh của Lào có thêm những kinh nghiệm quý báu trong tổ chức,
8


quản lý điều hành và thực hành gìn giữ trật tự và an toàn xã hội, bảo đảm cho
cán bộ, nhân dân có được cuộc sống thanh bình, yên tâm lao động sản xuất, các

nhà đầu tư, du khách nước ngoài ngày càng đến với Lào nhiều hơn bởi họ cảm
nhận được sự an toàn về an ninh và trật tự xã hội tại đây.
Sự hợp tác giúp đỡ lẫn nhau giữa Việt Nam và Lào trên lĩnh vực an ninh
đã tạo ra một trong những nhân tố cơ bản thường xuyên, bảo đảm lợi ích trực
tiếp về an ninh và phát triển của mỗi nước, không chỉ tăng cường tiềm lực quốc
phòng, an ninh và khả năng phòng thủ của mỗi bên mà còn làm thất bại mọi âm
mưu, thủ đoạn chống phá của các thế lực thù địch, góp phần không nhỏ vào sự
nghiệp đổi mới ở hai nước.
Do đó, sự hợp tác về an ninh giữa hai nước là vấn đề cần thiết và có giá
trị thực tiễn to lớn, nó không thuần tuý chỉ là biểu tượng ngoại giao giữa hai
nước mà đã trở thành tài sản vô giá của cách mạng hai nước, trở thành một
nhân tố nền tảng bảo đảm sức mạnh của hai dân tộc trong công cuộc xây dựng
và bảo vệ Tổ quốc hôm nay và mai sau. Củng cố, tăng cường và đẩy mạnh hơp
tác an ninh giữa Lào - Việt Nam chính là tạo thế và lực cho nhau, là điều kiện
để hai nước xây dựng được môi trường hoà bình, ổn định để phát triển kinh tế,
ổn định chính trị, an ninh, văn hoá, góp phần xây dựng nước CHDCND Lào
phồn vinh, thịnh vượng và tươi đẹp, xây dựng nước CHXHCN Việt Nam giàu
mạnh vì hoà bình và an ninh khu vực.
- Hợp tác an ninh Lào - Việt góp phần đảm bảo lợi ích quốc gia dân tộc
Có thể nói, tiến trình hội nhập quốc tế ở Việt Nam và Lào đang đối diện
trước thách thức của một số nguy cơ đe dọa độc lập dân tộc, chủ quyền quốc
gia, toàn vẹn lãnh thổ, sự lựa chọn định hướng chính trị, vai trò của nhà nước...
Đã xuất hiện những mưu đồ lấy sự phụ thuộc lẫn nhau giữa các nước để hạ thấp
chủ quyền quốc gia; lấy một thị trường không biên giới để phủ nhận tính bất
khả xâm phạm của toàn vẹn lãnh thổ quốc gia; lấy các thiết chế quốc tế làm mô
hình siêu nhà nước đứng trên các nhà nước quốc gia, áp đặt các giá trị dân chủ
và nhân quyền phương Tây trong quan hệ quốc tế, đưa ra thuyết nhân quyền
cao hơn chủ quyền... Hội nhập quốc tế đối với Việt Nam và Lào rõ ràng không
thể tách rời cuộc đấu tranh chống diễn biến hoà bình của các thế lực chống đối
trên nhiều lĩnh vực. Chính vì vậy, sự thắt chặt mối quan hệ hợp tác, trong đó

hợp tác trên lĩnh vực an ninh là vấn đề có ý nghĩa chiến lược, tầm quan trọng to
lớn trong việc đảm bảo sự phát triển của cả hai nước.
Sự gia tăng quan hệ với Việt Nam và Lào của các nước lớn có lợi ích tại
khu vực thời gian qua cần được đánh giá một cách nghiêm túc trong mối tác
động qua lại với an ninh quốc gia trên từng lĩnh vực hợp tác. Lào và Việt Nam
cần cảnh giác cao độ trước âm mưu của các thế lực thù địch, chúng lấy đó làm
thời cơ “can dự” thúc đẩy “chuyển hóa”, “tự diễn biến” trong nội bộ để chống
phá cách mạng hai nước. Với lực lượng vũ trang, chúng có âm mưu “phi chính
trị hoá”, mà Liên Xô là một bài học luôn mang tính thời sự đối với cách mạng
Việt Nam và Lào. Cho nên, nhận thức đầy đủ về vị trí, vai trò nhân tố địa 9


chính trị và địa - quân sự của hai nước, khai thác nhân tố đó làm tăng sức mạnh
nội tại của mỗi nước là vấn đề có tính chiến lược to lớn nhằm duy trì, củng cố
và phát triển mối quan hệ an ninh - quốc phòng giữa Việt Nam và Lào.
Tóm lại, mối quan hệ an ninh giữa Lào - Việt Nam được hình thành và
phát triển không phải do ý muốn chủ quan của bất kỳ bên nào, mà là do yêu cầu
khách quan của cuộc đấu tranh vì độc lập, tự do chống kẻ thù chung, từ yêu cầu
xây dựng đất nước của hai dân tộc qua các giai đoạn lịch sử. Chính do yêu cầu
khách quan của hai dân tộc mà Việt Nam và Lào đã liên kết với nhau, đó chính
là tính quy luật cho sự tồn tại và phát triển của hai dân tộc, là một nhân tố đảm
bảo thắng lợi của sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc của Lào cũng như Việt
Nam. Trong mối quan hệ giữa Lào và Việt Nam thì hợp tác về đào tạo, bồi
dưỡng lực lượng an ninh là tất yếu khách quan và cấp thiết. Vì hợp tác trong
lĩnh vực này đều xuất phát từ lợi ích riêng của từng nước.
*
* *
Trải qua biết bao thăng trầm của lịch sử, từ chặng đường đấu tranh chống
chế độ thuộc địa, kháng chiến giành chính quyền rồi chống thực dân Pháp,
chống đế quốc Mỹ xâm lược cho đến thời kỳ củng cố và xây dựng đất nước,

quan hệ đặc biệt Lào - Việt đã minh chứng cho tấm gương mẫu mực, hiếm có
về sự gắn kết bền chặt, thủy chung, trong sáng, đầy hiệu quả và trở thành tài sản
chung, vô giá của hai dân tộc.
Trền nền tảng chung đó, lực lượng công an hai nước không chỉ góp một
nhịp cầu hữu nghị thân tình mà còn tích cực hợp tác, hỗ trợ, bổ khuyết cho nhau
trong cuộc đấu tranh giành độc lập, toàn vẹn lãnh thổ; xây dựng, đào tạo đội
ngũ cán bộ vừa hồng, vừa chuyên, đáp ứng yêu cầu của từng giai đoạn cách
mạng; giữ vững ổn định chính trị và an ninh trật tự của mỗi nước; củng cố
phòng tuyến an ninh biên giới; trao đổi thông tin, kinh nghiệm về phòng, chống
tội phạm, tạo điều kiện đảm bảo môi trường hòa bình, ổn định phát triển kinh tế
- xã hội của mỗi quốc gia.

Chương 3
THỰC TIỄN HỢP TÁC ĐÀO TẠO, BỒI DƯỠNG CÁN BỘ AN NINH
CỦA LÀO TỪ NĂM 1962 ĐẾN NĂM 2012
3.1. Nhận thức chung về hợp tác quốc tế trong lĩnh vực giáo dục - đào tạo
Giáo dục - đào tạo (GD - ĐT) là vấn đề có tính quy luật trong quá trình
phát triển của xã hội loài người nhằm tạo ra những con người đáp ứng yêu cầu
của xã hội. GD - ĐT bao gồm nhiều nội dung, trong đó có nội dung hợp tác
quốc tế về GD - ĐT. Hợp tác quốc tế về GD - ĐT cũng là vấn đề có tính quy
10


luật nhằm giữ gìn, phát triển và lưu truyền những di sản tinh thần mà nhân loại
đã tích lũy được.
Xét trên bình diện quan hệ quốc tế, quan niệm: “Quan hệ quốc tế là những
mối quan hệ kinh tế, chính trị, đối ngoại, quân sự chiến lược và tư tưởng tồn tại
một cách khách quan giữa các quốc gia, dân tộc với nhau”, thì hợp tác quốc tế
về GD - ĐT là một trong những lĩnh vực của quan hệ quốc tế. Sự hợp tác đó
được thể hiện trên các vấn đề cụ thể của giáo dục như: trao đổi các vấn đề khoa

học, trao đổi các cán bộ khoa học, trao đổi lưu học sinh, viện trợ các phương
tiện kỹ thuật, máy móc, thiết bị, tài liệu khoa học, đồ dùng dạy học phục vụ cho
việc giảng dạy và nghiên cứu khoa học, đào tạo bồi dưỡng cán bộ... Hình thức
hợp tác có thể là sự hợp tác trực tiếp giữa các quốc gia với nhau; giữa các quốc
gia với các tổ chức quốc tế; giữa các cơ sở đào tạo với nhau; giữa các đơn vị,
các trường với các tổ chức xã hội, cá nhân nước ngoài... xung quanh các nội
dung giáo dục cụ thể.
Ở bình diện chung, sự hợp tác GD - ĐT cán bộ giữa hai nước Lào - Việt
Nam được lãnh đạo hai đảng và hai nhà nước đặt ở tầm chiến lược, được bắt
đầu từ trong thời kỳ chống đế quốc Mỹ và liên tục được phát triển, trải qua
nhiều khó khăn, gian khổ của chiến tranh và những biến động, thay đổi của tình
hình chính trị thế giới.
Trong thời kỳ chiến tranh, nhiệm vụ giúp Lào về giáo dục được Việt Nam
dành ưu tiên chủ yếu đối với giáo dục phổ thông. Song, với tầm nhìn chiến
lược, chủ động đón những bước phát triển đột biến của cách mạng, từ năm
1962, theo yêu cầu của bạn Lào, Việt Nam đã cử nhiều chuyên gia sang Lào
hợp tác.
Sau năm 1975, hợp tác GD - ĐT giữa Việt Nam - Lào phát triển khá toàn
diện cả về cấp độ và loại hình chuyên môn, nghiệp vụ, với trọng tâm là đại học,
trên đại học.
Nội dung hợp tác GD - ĐT được triển khai trên nhiều lĩnh vực trong đó có
lĩnh vực, hợp tác đào tạo lực lượng an ninh góp phần bảo đảm vững chắc và ổn
định chính trị, trật tự, an toàn xã hội của mỗi nước, làm thất bại âm mưu và
hành động của các thế lực thù địch luôn tìm cách xuyên tạc, chia rẽ quan hệ
giữa hai đảng và nhân dân hai nước.
3.2. Thực tiễn và kết quả hợp tác đào tạo, bồi dưỡng giữa các cơ quan
chức năng, các cơ sở đào tạo của Bộ An ninh Lào và Bộ Công an Việt Nam
3.2.1. Giai đoạn từ năm 1962 đến năm 1975
- Bộ Công an Việt Nam giúp Lào đào tạo, bồi dưỡng cán bộ an ninh tại Lào
Tháng 4 năm 1962, theo yêu cầu của Trung ương Đảng Nhân dân Cách

mạng Lào và chấp hành chỉ thị của Trung ương Đảng Lao động Việt Nam, Bộ
Công an Việt Nam cử đoàn chuyên gia đầu tiên do đồng chí Lê Đông, lúc đó
đang là Phó Cục trưởng Cục Bảo vệ chính trị, làm trưởng đoàn sang giúp Ban
An ninh Trung ương Lào.
11


Cuối năm 1965, theo yêu cầu của Lào, Việt nam đã cử chuyên gia sang
giúp Lào xây dựng trường đào tạo, huấn luyện nghiệp vụ công an. Cuối năm
1966 bắt đầu xây dựng trường, có bộ máy lãnh đạo, có tổ giáo viên chính trị
nghiệp vụ, tổ giáo viên quân sự, tổ giáo viên võ thuật (tính đến năm 1972 có 21
người), chuyên gia của Việt nam đã bồi dưỡng giáo viên của Lào nắm vững
từng bài mục, tự soạn lại bài giảng bằng tiếng Lào, chuyên gia góp ý để giáo
viên của Lào hoàn chỉnh lại và thực tập lên giảng. Nhờ đó, giáo viên của Lào đã
nhanh chóng nắm được vấn đề, tự tin khi giảng bài và nhà trường sớm nâng cao
được tinh thần tự lực, tự cường, gắn bó chặt chẽ với chuyên gia Việt Nam mở
được một số lớp bồi dưỡng cán bộ lãnh đạo công an cấp tỉnh, lớp đào tạo cán bộ
công an cấp huyện, lớp cảnh sát vũ trang.
Kể từ sau đó, Bộ Công an Việt Nam cử rất nhiều chuyên gia sang hỗ trợ,
giúp đỡ lực lượng Công an của Lào.
Từ tháng 4 năm 1962 đến cuối năm 1972, đoàn chuyên gia an ninh của
Bộ Công an Việt Nam tại Lào đã hoàn thành tốt nhiệm vụ được giao, giúp lực
lượng an ninh của Lào có thể tự đảm nhận nhiệm vụ được giao. Vì vậy, theo đề
nghị của Trung ương Đảng Nhân dân Cách mạng Lào, tháng 3 năm 1973, Bộ
Công an Việt Nam đã rút đại bộ phận chuyên gia an ninh về nước, chỉ còn một
tổ 03 người ở lại Ban An ninh Trung ương và một tổ giúp việc công tác nhà
trường.
Từ năm 1973 đến năm 1975 các đồng chí chuyên gia nhà trường của Việt
Nam đã tích cực, khẩn trương giúp Lào soạn thảo tài liệu để bồi dưỡng nghiệp
vụ cấp tốc và đã mở được 10 lớp bồi dưỡng, huấn luyện cho 490 đồng chí về

nghiệp vụ cảnh sát đường phố, công tác bảo vệ mục tiêu, nghiệp vụ cảnh vệ,
nghiệp vụ cảnh sát phục vụ trong cảnh sát liên hiệp.
- Bộ Công an Việt Nam giúp Lào đào tạo, bồi dưỡng cán bộ an ninh tại
Việt Nam
Năm 1962, theo đề nghị của Lào, Bộ Công an Việt Nam đã tiếp nhận học
viên Lào sang học tại Việt Nam theo nhiều ngành nghiệp vụ khác nhau. Lớp
đầu tiên là lớp A7, đào tạo cho các đồng chí làm công tác cảnh vệ, lúc đầu có
13 đồng chí, sau đó Lào rút về 2 đồng chí, còn lại khi ra trường là 11 đồng chí.
Kết thúc khóa học, các học sinh đã trở về nước phục vụ rất kịp thời cho cuộc
chiến đấu đang diễn ra trên đất nước Lào.
Trước năm 1975, hầu hết các lớp đào tạo, bồi dưỡng cho cán bộ Lào đều
được tổ chức ở Việt Nam, tại Trường Công an Trung ương (tiền thân của Học
viện An ninh nhân dân ngày nay).
Ngoài ra, theo yêu cầu của phía Lào, từ năm 1965 đến năm 1974, Trường
Công an Trung ương đã liên tục mở các lớp đào tạo cho Lào như sau: Công an
vũ trang; Trưởng, phó Công an huyện; Quản giáo; lớp cán bộ lãnh đạo; lớp bồi
dưỡng, đào tạo cán bộ trinh sát; lớp cán bộ khám nghiệm hiện trường…
Tổng cộng trong giai đoạn này, Trường Công an Trung ương đã tổ chức
được 24 lớp đào tạo, bồi dưỡng cán bộ Lào với khoảng gần 1.000 học viên. Đây
12


là các lớp ngắn hạn, sơ cấp, trung cấp; nội dung đào tạo thiết thực, thời gian đào
tạo, bồi dưỡng ngắn để kịp thời đáp ứng yêu cầu thực tiễn của cách mạng Lào.
Tham gia giảng dạy, huấn luyện cán bộ Công an Lào thời kỳ này, ngoài
cán bộ, giáo viên của Trường Công an Trung ương, còn có sự tham gia trực tiếp
của các đồng chí lãnh đạo Bộ Công an, lãnh đạo Cục Cảnh vệ và các cục nghiệp
vụ thuộc Bộ Công an Việt Nam.
Như vậy, trong điều kiện chiến tranh ác liệt, điều kiện cơ sở vật chất hết
sức khó khăn, phải đi sơ tán, di chuyển nhiều lần, nhưng Trường Công an

Trung ương vẫn hoàn thành tốt nhiệm vụ đào tạo, huấn luyện cán bộ công an
cho cách mạng Việt Nam và cách mạng Lào, góp phần to lớn vào sự nghiệp
giành chính quyền, thống nhất đất nước Lào vào tháng 12 năm 1975; góp phần
củng cố tình đoàn kết, chiến đấu của ba nước Đông Dương nói chung và sự gắn
bó keo sơn giữa Việt Nam và Lào nói riêng.
Ngoài ra, khi Bộ Công an Việt Nam quyết định tách Phân hiệu Cảnh sát
nhân dân (CSND) khỏi Trường Công an Trung ương để thành lập Trường
CSND (tiền thân của Học viện CSND Việt Nam ngày nay) vào năm 1968, một
số lớp đào tạo nghiệp vụ cảnh sát cho Công an Lào cũng được tổ chức tại đây.
Từ năm 1968 đến năm 1972, Trường CSND đã mở 03 lớp đào tạo nghiệp vụ
cảnh sát và 01 lớp lái xe cho tổng số 170 cán bộ công an Lào. Đặc biệt, năm
1973, Trường CSND nhận nhiệm vụ đào tạo cấp tốc cho 2 tiểu đoàn an ninh
Lào nhằm phục vụ kịp thời nhiệm vụ tiếp quản thủ đô Viêng Chăn.
Năm 1973, căn cứ tình hình thực tế của Lào và yêu cầu của Trung ương
Lào để thành lập chính phủ liên hiệp, Trường CSND đã hoàn thành việc xây
dựng chương trình đào tạo cho các lớp nghiệp vụ cảnh sát liên hiệp Lào và đã
đào tạo, huấn luyện cho Lào 800 cảnh sát học các môn nghiệp vụ thuộc lĩnh vực
trật tự, an toàn xã hội để tham gia cảnh sát liên hiệp. Đánh giá về công tác đào
tạo, đồng chí Xôm Sừn, Trưởng Ban An ninh nhận xét: “Các đồng chí giúp
chúng tôi đào tạo cán bộ rất cơ bản và đào tạo nhiều cán bộ nghiệp vụ cho
Lào, cán bộ nắm được đường lối, chính sách, biết vận động quần chúng, biết
vận dụng những thủ đoạn nghiệp vụ cơ bản vào trong hoàn cảnh thực tế của
Lào, các đồng chí giúp xây dựng tác phong, lề lối làm việc có nề nếp. Qua học
tập, đa số cán bộ đã nắm được những nghiệp vụ cơ bản. Một số tỉnh, công an
đã làm tốt công tác an ninh được đảng bộ địa phương xác nhận khen thưởng,
đây là một vấn đề rất lớn là vốn sống, là thế mạnh phát triển lực lượng công
an, không phải là chuyện bình thường, từ không đến có và ngày càng phát triển
lớn mạnh, xây dựng lực lượng an ninh thành công cụ sắc bén của Đảng. Đó là
thành tích chung của chúng tôi và cũng là thành tích chung của các đồng chí”
3.2.2. Giai đoạn từ năm 1976 đến năm 1991

3.2.2.1. Yêu cầu cấp bách về hợp tác đào tạo lực lượng an ninh cho cách
mạng Lào trong tình hình mới
Trước yêu cầu nhiệm vụ của sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc Lào
xã hội chủ nghĩa, Bộ Nội vụ Lào xác định nhiệm vụ cấp bách của cách mạng
13


đặt ra là phải đào tạo đội ngũ cán bộ an ninh Lào có đạo đức cách mạng và
chuyên môn nghiệp vụ, góp phần củng cố bộ máy tổ chức Bộ Nội vụ Lào từ cấp
Bộ đến địa phương. Tuy nhiên, ở Lào lúc này mới chỉ có địa điểm là cơ sở đào
tạo của Trường Sỹ quan cảnh sát của chính quyền Viêng Chăn trước kia, chưa
có tổ chức và cán bộ, giáo viên.
Như vậy, nhu cầu cấp thiết đối với Lào được đặt ra trong giai đoạn mới
là nhanh chóng đào tạo, xây dựng lực lượng an ninh có đủ khả năng để đảm bảo
vững chắc an ninh của đất nước, đảm bảo sự ổn định của hệ thống chính trị và
cuộc sống hàng ngày của nhân dân. Xuất phát từ thực tiễn này, dựa trên mối
quan hệ gắn bó giữa hai dân tộc, hai nhà nước, hai bộ, Lào đề nghị Việt Nam
giúp đỡ trong việc đào tạo bồi dưỡng cán bộ. Điều này được thể hiện trong các
văn bản pháp lý giữa hai nhà nước, hai đảng và trong nội dung các hiệp định
hợp tác hàng năm giữa hai bộ. Ngày 17 tháng 4 năm 1976, Ban Bí thư Trung
ương Đảng Nhân dân Cách mạng Lào có Công hàm gửi Việt Nam đề nghị đào
tạo bồi dưỡng cán bộ an ninh cho Bộ Nội vụ Lào. Đáp ứng yêu càu của Bộ Nội
vụ Lào, ngày 13 tháng 11 năm 1976, Ban Bí thư Trung ương Đảng Cộng sản
Việt Nam (Đại hội IV) có Công văn số 132-CV/TW giao cho Bộ Nội vụ đào
tạo, bồi dưỡng cán bộ an ninh cho Bộ Nội vụ Lào.
Để đào tạo cán bộ cho Bộ Nội vụ Lào một cách chuyên sâu và có hệ
thống, ngày 26 tháng 11 năm 1976, Bộ Nội vụ Việt Nam ra Quyết định số
4891-NV/QĐ thành lập Trường Bồi dưỡng chuyên môn nghiệp vụ cho cán bộ
an ninh “C”, gọi tắt là Trường 12-75. Trường 12-75 đặt tại Kim Tràng, Tân
Yên, Hà Bắc (nay thuộc tỉnh Bắc Giang)

Việc thành lập Trường 12-75 là điểm nhấn đánh dấu sự phát triển của
quan hệ hợp tác chiến lược giữa Bộ Nội vụ Việt Nam với Bộ An ninh Lào nói
chung và quan hệ hợp tác về đào tạo giữa hai Bộ nói riêng.
3.2.2.2. Hợp tác đào tạo, bồi dưỡng giữa Bộ Nội vụ Lào với Trường 1275 Việt Nam
* Các khóa bồi dưỡng ngắn hạn
Trước khi có các khóa đào tạo đại học dài hạn, Trường 12-75 mở các
khóa bồi dưỡng ngắn hại như: bồi dưỡng nghiệp vụ giáo viên; bồi dưỡng
nghiệp vụ kỹ thuật; các lớp cơ công, cơ yếu; bồi dưỡng cán bộ lãnh đạo - chỉ
huy.
* Các khóa đào tạo đại học chính quy
Trong khoảng thời gian từ 1976 đến 1991, Trường 12-75 đào tạo 6 khóa
đại học chính quy cho học viên Công an Lào với hai chuyên ngành an ninh và
cảnh sát; thời gian 5 năm, chương trình, nội dung đào tạo cơ bản trùng với đào
tạo học viên chuyên ngành an ninh và cảnh sát của Việt Nam.
* Nội dung học tập
- Học tiếng Việt và các môn học cơ bản
- Học tập các môn học cơ sở, nghiệp vụ công an
14


Nhìn chung, thành tích các khóa học đạt được là do sự nỗ lực phấn đấu
chung của bán bộ, giáo viên và được sự giúp đỡ nhiều mặt của các đơn vị có
liên quan từ Trung ương đến địa phương, đặc biệt là chính quyền tỉnh Hà Bắc
đã tạo những điều kiện thuận lợi cho các khóa học đạt được mục tiêu đề ra.
3.2.2.3. Hợp tác đào tạo, bồi dưỡng giữa các cơ quan chức năng, các cơ
sở đào tạo của Bộ An ninh Lào và Bộ Công an Việt Nam
3.2.3. Giai đoạn từ năm 1991 đến năm 2012
Từ giữa thập niên 80 của thế kỷ XX, tình hình quốc tế và khu vực có
những biến đổi lớn, xu thế toàn cầu hóa và khu vực hóa tiếp tục tác động sâu
sắc đến mọi quốc gia. Đây là lúc mô hình kinh tế kế hoạch hóa tập trung quan

liêu, bao cấp được vận hành qua 10 năm sau giải phóng (1976 - 1985) ở Việt
Nam và Lào đã không còn phát huy được hiệu quả, đẩy cả hai nước vào tình
trạng khủng hoảng kinh tế - xã hội trầm trọng; trong khi đó, ở bên ngoài, hai
nước vẫn bị các lực lượng thù địch bao vây cấm vận. Nhận thức được yêu cầu
tất yếu phải tiến hành cải cách, nhằm hoàn thiện chế độ xã hội của mình, hội
nhập với khu vực và quốc tế, Đại hội lần thứ IV của Đảng Nhân dân cách mạng
Lào (tháng 11 năm 1986) và Đại hội lần thứ VI của Đảng Cộng sản Việt Nam
(tháng 12 năm 1986) đã trở thành Đại hội của đổi mới, đưa hai nước Việt Nam
và Lào cũng như quan hệ hợp tác láng giềng hai bên bước vào một giai đoạn
phát triển vượt bậc, với nhiều kết quả tốt đẹp.
Năm 1988, Bộ Nội vụ Việt Nam quyết định giải thể Trường 12-75,
chuyển nhiệm vụ đào tạo, bồi dưỡng cán bộ Công an Lào cho Trường Đại học
An ninh nhân dân (nay là Học viện ANND), trường Đại học Cảnh sát nhân dân
(nay là Học viện CSND), Đại học Phòng cháy chữa cháy (PCCC), Đại học Kỹ
thuật - Hậu cần CAND, và các cơ quan chức năng của Bộ Công an Việt Nam,
cụ thể như sau:
- Hợp tác giữa Bộ An ninh Lào và Học viện An ninh nhân dân - Bộ Công
an Việt Nam trong đào tạo, bồi dưỡng cán bộ an ninh Lào
- Hợp tác giữa Bộ An ninh Lào và Học viện Cảnh sát nhân dân - Bộ
Công an Việt Nam trong đào tạo, bồi dưỡng cán bộ an ninh Lào
- Hợp tác giữa Bộ An ninh Lào và Trường Đại học Phòng cháy chữa
cháy (PCCC), Trường Đại học Kỹ thuật - Hậu cần Công an nhân dân (CAND)
- Bộ Công an Việt Nam trong đào tạo, bồi dưỡng cán bộ an ninh Lào
- Hợp tác giữa Bộ An ninh Lào và Bộ Tư lệnh Cảnh vệ Việt Nam trong
đào tạo, bồi dưỡng cán bộ an ninh Lào
- Hợp tác giữa Bộ An ninh Lào và - Tổng cục An ninh I - Bộ công an Việt
Nam trong đào tạo, bồi dưỡng cán bộ an ninh Lào
Bên cạnh các học viện, trường CAND Việt Nam được giao nhiệm vụ đào
tạo, bồi dưỡng giúp Lào như Học viện ANND, Học viện CSND, Trường Đại
học PCCC, Trường Đại học Kỹ thuật - Hậu cần CAND, thì các lớp bồi dưỡng

nghiệp vụ chuyên đề cho cán bộ Công an Lào còn được tổ chức tại Trung tâm
huấn luyện và bồi dưỡng nghiệp vụ của Tổng cục An ninh, Tổng cục Cảnh sát,
15


Tổng cục Hậu cần - Kỹ thuật, Tổng cục Cảnh sát Thi hành án hình sự và hỗ trợ
tư pháp cũng như tại các đơn vị, Trung tâm huấn luyện và sử dụng chó nghiệp
vụ, Viện Khoa học hình sự, Bộ Tư lệnh Cảnh vệ, Bộ Tư lệnh Cảnh sát cơ động,
Cục Cơ yếu… của Bộ Công an Việt Nam.
Nhìn chung, công tác đào tạo, bồi đưỡng cán bộ cho Bộ An ninh Lào đã
đạt được những kết quả tích cực; sau khi về nước công tác, các học viên Lào đã
được Bộ An ninh Lào đánh giá cao, công tác hiệu quả, đạt được thành tích
trong công tác, chiến đấu. Nhiều đồng chí đã trưởng thành, trở thành lãnh đạo
cấp cao trong Tổng cục An ninh, Bộ An ninh Lào.
Như vậy, hợp tác giữa các cơ sở đào tạo và các cơ quan chức năng của Bộ
An ninh Lào và Bộ Công an Việt Nam đã đạt được những kết quả cụ thể, Bộ
Công an Việt Nam đã đào tạo, bồi dưỡng hàng nghìn cán bộ có chất lượng cho
Bộ An ninh Lào, góp phần đáp ứng yêu cầu đấu tranh bảo vệ an ninh quốc gia,
giữ gìn trật tự trong từng giai đoạn cách mạng.
3.3. Hợp tác giữa công an các tỉnh biên giới Lào và Việt Nam trong
đào tạo, bồi dưỡng cán bộ an ninh
Ngoài việc hợp tác, trao đổi đoàn theo Hiệp định đã được ký kết giữa Bộ
An ninh Lào và Bộ Công an Việt Nam, công an một số địa phương của Việt
Nam có biên giới tiếp giáp với nước CHDCND Lào cũng tích cực, chủ động tổ
chức các đoàn sang hợp tác, trao đổi kinh nghiệm và mở các lớp bồi dưỡng
ngắn hạn giúp công an các tỉnh của Lào nâng cao trình độ nghiệp vụ. Cụ thể
như sau:
- Công an tỉnh Điện Biên - Việt Nam bồi dưỡng, nâng cao kiến thức, trình
độ nghiệp vụ cho lực lượng Công an 6 tỉnh Bắc Lào
- Công an tỉnh Sơn La tập huấn nghiệp vụ cho Công an hai tỉnh Luông

Pha Băng và Hủa Phăn
- Công an tỉnh Thanh Hóa đào tạo, bồi dưỡng, nâng cao kiến thức thực
tế cho Công an tỉnh Hủa Phăn
- Công an tỉnh Hà Tĩnh bồi dưỡng, nâng cao kiến thức, trình độ nghiệp
vụ cho Công an hai tỉnh Po Ly Khăm Xay và Khăm Muộn
- Công an tỉnh Quảng Bình bồi dưỡng nghiệp vụ, trao đổi kinh nghiệm
công tác chuyên môn với Công an hai tỉnh Khăm Muộn và Sa Văn Na Khẹt
- Công an tỉnh Quảng Trị bồi dưỡng nghiệp vụ cho Công an hai tỉnh Sa
La Van và Sa Văn Na Khẹt
- Công an tỉnh Quảng Nam bồi dưỡng, nâng cao kiến thức, trình độ
nghiệp vụ cho Công an tỉnh Sê Kông - Lào.
Tóm lại, thông qua các hoạt động hợp tác đào tạo, bồi dưỡng lực lượng an
ninh giữa các tỉnh biên giới của Lào và Việt Nam, các cơ quan chức năng và cơ
sở đào tạo của Bộ An ninh Lào và Bộ Công an Việt Nam đã xây dựng được mối
liên hệ chặt chẽ, gắn bó; thường xuyên trao đổi các đoàn cán bộ lãnh đạo sang
tổng kết đánh giá, trao đổi kinh nghiệm, giúp đỡ tăng cường điều kiện cơ sở vật
chất, cung cấp tài liệu, giáo trình, hỗ trợ xây dựng nội dung, chương trình đào
16


tạo, bồi dưỡng trong nước…, đưa quan hệ hợp tác giữa Bộ An ninh Lào và Bộ
Công an Việt Nam phát triển cả chiều sâu và bề rộng. Kết quả đào tạo, bồi
dưỡng cán bộ cho Bộ An ninh nước CHDCND Lào của các tỉnh biên giới, các
cơ quan chức năng và cơ sở đào tạo của Bộ Công an Việt Nam đã góp phần
quan trọng vào việc xây dựng, tăng cường quan hệ hợp tác chiến lược giữa Bộ
Công an Việt Nam và Bộ An ninh Lào; là biểu tượng cụ thể của tình đoàn kết
đặc biệt, thuỷ chung, trong sáng và hiệu quả giữa hai nước; góp phần củng cố
tình hữu nghị, gắn kết giữa hai dân tộc.
Đội ngũ cán bộ an ninh Lào do các tỉnh biên giới, các cơ quan chức năng
và cơ sở đào tạo của Bộ Công an Việt Nam đào tạo, bồi dưỡng đã có đóng góp

to lớn vào sự nghiệp đấu tranh giành độc lập, hoà bình, thống nhất của nước
CHDCND Lào, là lực lượng nòng cốt trong sự nghiệp đấu tranh chống các hoạt
động xâm phạm ANQG và các loại tội phạm khác ở Lào.
3.4. Nhận xét chung về quá trình hợp tác đào tạo, bồi dưỡng cán bộ
an ninh giữa Lào và Việt Nam từ năm 1962 đến năm 2012
Từ khi hai nước thiết lập quan hệ ngoại giao, mối quan hệ giữa Đảng,
Nhà nước, nhân dân và lực lượng Công an Lào, Việt Nam luôn được gìn giữ và
phát triển cả về chiều rộng và chiều sâu, được thể hiện qua nhiều lĩnh vực, trong
đó có sự hợp tác chặt chẽ, hiệu quả trong lĩnh vực giáo dục và đào tạo. Hợp tác
đào tạo, bồi dưỡng cán bộ giữa CHDCND Lào với CHXHCN Việt Nam là rất
cần thiết, mang ý nghĩa chiến lược vô cùng quan trọng đối với thắng lợi trong
từng thời kỳ lịch sử cách mạng của hai nước, đặc biệt là giai đoạn kháng chiến
chống đế quốc Mỹ xâm lược và thời kỳ xây dựng, bảo vệ Tổ quốc hiện nay.
Từ năm 1962 đến năm 2012, hoạt động hợp tác đào tạo, bồi dưỡng lực
lượng an ninh giữa Lào và Việt Nam được thực hiện một cách toàn diện, đầy đủ
về quá trình, nội dung và mức độ hợp tác ở các cấp độ, tại Lào và Việt Nam.
Trong suốt thời gian 50 năm, từ năm 1962 đến năm 2012, Bộ Công an
Việt Nam đã đào tạo nhiều lớp cán bộ cho Bộ An ninh Lào với nhiều hệ đào
tạo, bồi dưỡng như: hệ bồi dưỡng, hệ cán bộ lãnh đạo, cử nhân, thạc sĩ, tiến sĩ
gồm có 1.175 đồng chí, trong đó: hệ C có 5 khóa, hệ K có 4 khóa, hệ T có 2
khóa, hệ bồi dưỡng có 3 khóa; tốt nghiệp cử nhân 27 khóa gồm 1.036 đồng chí;
đào tạo trình độ thạc sĩ có 18 khóa gồm 112 đồng chí, trình độ tiến sĩ có 12
khóa gồm 27 đồng chí.
Trước năm 1975, việc giúp đỡ đào tạo, bồi dưỡng cán bộ cho Bộ An ninh
Lào chưa mang tính kế hoạch, chỉ nhằm đáp ứng các yêu cầu mà Lào đề nghị.
Sau khi nước CHDCND Lào được thành lập năm 1975, nhu cầu đào tạo cán bộ
công an Lào trở nên hết sức cấp bách, đặc biệt ở các bậc đại học, cao đẳng,
trung cấp. Từ tháng 7 năm 1977, các nội dung, chỉ tiêu hợp tác đào tạo, bồi
dưỡng giữa Bộ An ninh Lào và Bộ Công an Việt Nam đã được cụ thể hóa vào
hiệp định hợp tác toàn diện 5 năm, biên bản thỏa thuận hợp tác và kế hoạch

triền khai thực hiện hiệp định từng năm.
Ngoài việc hợp tác, trao đổi đoàn theo hiệp định đã được ký kết giữa hai
17


Bộ, công an một số địa phương của Việt Nam có biên giới tiếp giáp với nước
CHDCND Lào cũng tích cực, chủ động tổ chức các đoàn sang hợp tác, trao đổi
kinh nghiệm và mở các lớp bồi dưỡng ngắn hạn giúp công an các tỉnh của Lào
nâng cao trình độ nghiệp vụ.
Trên cơ sở đó, qua 50 năm, Bộ Công an Việt Nam đã đào tạo, bồi dưỡng
hàng nghìn cán bộ cho lực lượng Công an Lào. Nhiều cựu học viên Lào sau khi
về nước đã phát huy được năng lực, trở thành cán bộ cốt cán, được bố trí giữ
các trọng trách lớn trong tổ chức Đảng, Nhà nước và lực lượng Công an Lào.
Có thể khẳng định rằng, quan hệ hợp tác về lĩnh vực đào tạo, bồi dưỡng
cán bộ giữa Bộ An ninh Lào và Bộ Công an Việt Nam ngày càng phát triển tốt
đẹp, nội dung hợp tác mang tính toàn diện và đi vào chiều sâu, chương trình
đào tạo ngày càng đa dạng, chất lượng đào tạo đáp ứng được yêu cầu nhiệm vụ
đặt ra đối với Lào. Cùng với việc gửi và tiếp nhận đào tạo, bồi dưỡng cán bộ
theo kế hoạch triển khai hiệp định hợp tác thì các cơ quan chức năng, các học
viện, trường của Bộ An ninh Lào và Bộ Công an Việt Nam cũng như công an
các tỉnh giáp biên đã có những hoạt động gắn kết, hợp tác cụ thể, thiết thực.
Quá trình hợp tác đào tạo, bồi dưỡng cán bộ an ninh giữa Lào và Việt
Nam từ năm 1962 đến năm 2012 không phải là hợp tác một chiều. Thấm nhuần
lời dạy của Chủ tịch Hồ Chí Minh: “Giúp bạn là mình tự giúp mình”, coi nhân
dân Bạn như nhân dân mình, coi sự nghiệp cách mạng của Bạn là trách nhiệm
của mình, trong mối quan hệ an ninh giữa hai nước, phía Việt Nam luôn chủ
động và đảm nhiệm gánh vác các công việc khó khăn nhất với phương châm
“an ninh của bạn cũng chính là an ninh của mình”. Vì vậy, trong mỗi chỉ thị,
chủ trương, quyết sách của mình, Bộ Công an Việt Nam đều xác định nhiệm vụ
hợp tác đào tạo, bồi dưỡng cán bộ công an Lào, đáp ứng yêu cầu ở mức cao

nhất có thể cho cách mạng Lào là một nhiệm vụ chiến lược, ưu tiên hàng đầu và
lấy thực tiễn của Lào làm cơ sở, theo nhu cầu của nhà nước Lào trong từng giai
đoạn cụ thể.
Những thành tựu trong hợp tác đào tạo, bồi dưỡng cán bộ trên đây bắt
nguồn từ tình cảm đoàn kết gắn bó thủy chung giữa hai đảng và nhân dân hai
nước Việt - Lào. Đó cũng là kết quả của sự phối hợp ngày càng chặt chẽ giữa
Bộ Công an Việt Nam và Bộ An ninh Lào.
*
*

*

Hoạt động hợp tác đào tạo, bồi dưỡng cán bộ giúp Bộ An ninh Lào được
khởi đầu từ việc cử chuyên gia sang trao đổi kinh nghiệm, nắm tình hình, tổ
chức huấn luyện, mở lớp bồi dưỡng ngắn ngày tại Lào cho đến tiếp nhận cán
bộ, học viên sang bồi dưỡng chuyên sâu, đào tạo dài hạn các bậc sơ học, trung
học, cao đẳng, đại học, sau đại học tại các cơ sở đào tạo của Bộ Công an Việt
Nam. Bên cạnh đó, công tác tham vấn, hỗ trợ Bạn Lào xây trường, mở lớp, biên
soạn nội dung, chương trình đào tạo và giáo trình, bài giảng để tự đào tạo, bồi
18


dưỡng tại chỗ cũng được lãnh đạo Bộ Công an Việt Nam đặc biệt quan tâm,
tích cực chỉ đạo.
Trước năm 1975, việc giúp đỡ đào tạo, bồi dưỡng cán bộ cho Bộ An ninh
Lào chỉ nhằm đáp ứng các yêu cầu của công cuộc kháng chiến mà Lào đề nghị.
Sau khi nước CHDCND Lào được thành lập năm 1975, nhu cầu đào tạo cán bộ
công an Lào trở nên hết sức cấp bách, đặc biệt ở các bậc đại học, cao đẳng,
trung cấp. Từ tháng 7 năm 1977, các nội dung, chỉ tiêu hợp tác đào tạo, bồi
dưỡng giữa hai Bộ đã được cụ thể hóa vào hiệp định hợp tác toàn diện 5 năm,

biên bản thỏa thuận hợp tác và kế hoạch triển khai thực hiện hiệp định từng
năm.
Trải qua 50 năm từ năm 1962 đến năm 2012, Bộ Công an Việt Nam đã
đào tạo, bồi dưỡng hàng nghìn cán bộ cho lực lượng Công an Lào. Nhiều cựu
học viên Lào sau khi về nước đã phát huy được năng lực, trở thành cán bộ cốt
cán, được bố trí công tác ở các vị trí quan trọng trong tổ chức Đảng, Nhà nước
và lực lượng Công an Lào.
Chương 4
MỘT SỐ BÀI HỌC KINH NGHIỆM VÀ GIẢI PHÁP NHẰM
NÂNG CAO CHẤT LƯỢNG, HIỆU QUẢ HỢP TÁC ĐÀO TẠO,
BỒI DƯỠNG CÁN BỘ AN NINH GIỮA LÀO VÀ VIỆT NAM
4.1. Đánh giá quá trình hợp tác Lào - Việt Nam trong đào tạo, bồi
dưỡng cán bộ an ninh của Lào từ năm 1962 đến năm 2012
4.1.1. Những thuận lợi và khó khăn trong quá trình hợp tác đào tạo,
bồi dưỡng cán bộ an ninh Lào
- Những thuận lợi trong quá trình hợp tác
Công tác đào tạo, bồi dưỡng lực lượng an ninh cho Bộ An ninh Lào trong
50 năm (1962 đến 2012) có nhiều thuận lợi, trong đó thuận lợi lớn nhất và có
tính chất quyết định là mối quan hệ hữu nghị truyền thống lâu đời giữa hai
đảng, hai chính phủ và nhân dân hai nước. Đảng và Chính phủ hai nước luôn
quan tâm chỉ đạo các bộ, ngành, trong đó có Bộ Công an Việt Nam và Bộ An
ninh Lào xây dựng mối quan hệ hợp tác chặt chẽ, cùng phát triển, hoàn thành
tốt nhiệm vụ bảo vệ ANQG, giữ gìn TTATXH. Quan hệ hợp tác giữa Bộ Công
an Việt Nam và Bộ An ninh Lào là mối quan hệ hợp tác toàn diện, trong đó hợp
tác về lĩnh vực đào tạo, bồi dưỡng cán bộ an ninh cho Lào giữa hai Bộ là một
trong những lĩnh vực hợp tác đạt hiệu quả cao.
- Những khó khăn trong quá trình hợp tác
Bên cạnh những thành tích đã đạt được, quá trình đào tạo, bồi dưỡng cho
Bộ An ninh Lào vẫn không tránh khỏi những khó khăn, vướng mắc. Mặc dù Bộ
Công an Việt Nam và Bộ An ninh Lào đã chủ động xây dựng kế hoạch, thống

nhất các chỉ tiêu hợp tác đào tạo hàng năm, tuy nhiên trong quá trình tổ chức
thực hiện, phía Bộ An ninh Lào cũng có những yêu cầu đột xuất ngoài kế
19


hoạch, có sự thay đổi số lượng học viên, chuyên ngành, chuyên đề đào tạo, bồi
dưỡng mà hai bên đã ký kết, dẫn đến tình trạng học viên nhập học chậm trễ do
phải báo cáo điều chỉnh thay đổi, ảnh hưởng tới lịch trình giảng dạy chung của
các cơ sở đào tạo, bồi dưỡng.
Nội dung chương trình đào tạo, bồi dưỡng giúp Lào mặc dù đã được Bộ
Công an Việt Nam tổng kết từ thực tiễn công tác đấu tranh phòng, chống tội
phạm ở Việt Nam và Lào tuy nhiên cần được bổ sung, cập nhật thường xuyên
hơn để phù hợp với tình hình thực tế của Bạn.
Rào cản về ngôn ngữ là một khó khăn thách thức đầu tiên, lớn nhất cho cả
việc dạy và học trong quá trình đào tạo đối với học viên Lào.
Ngoài ra, việc Công an các tỉnh có biên giới tiếp giáp với Lào tổ chức các
lớp bồi dưỡng nghiệp vụ chuyên đề giúp Lào không nằm trong chỉ tiêu, kế
hoạch hợp tác giữa Bộ Công an Việt Nam và Bộ An ninh Lào nên không có kế
hoạch kinh phí đảm bảo để thực hiện. Ủy ban nhân dân các tỉnh của Việt Nam
thường hỗ trợ khoản kinh phí này nhưng còn hạn chế và đối với các tỉnh còn
nghèo như Nghệ An, Thừa Thiên Huế, Kon Tum thì mặc dù Công an tỉnh đã có
kế hoạch nhưng không thể tổ chức được các lớp bồi dưỡng, huấn luyện nghiệp
vụ cho lực lượng công an các tỉnh của Lào có chung đường biên giới. Vì vậy,
khó khăn về kinh phí là vướng mắc cơ bản trong hợp tác đào tạo, bồi dưỡng cán
bộ an ninh Lào của Công an các tỉnh có đường biên giới chung với nước bạn
Lào.
4.1.2. Đánh giá chất lượng, hiệu quả trong quá trình hợp tác đào tạo,
bồi dưỡng cán bộ an ninh của Lào
- Học viên Lào được đào tạo, bồi dưỡng tại Việt Nam và Lào đều phát
huy tốt hiệu quả trong công tác bảo vệ ANQG và giữ gìn TTATXH trên đất

nước Lào
- Học viên Lào được đào tạo, bồi dưỡng tại Việt Nam đã góp phần đề ra
mục tiêu, nhiệm vụ và phương pháp giải quyết phù hợp với tình hình thực tiễn
trong công tác bảo vệ ANQG và giữ gìn TTATXH trên đất nước Lào.
- Học viên Lào được đào tạo, bồi dưỡng tại Việt Nam và Lào có những
đóng góp quan trọng trong việc củng cố và xây dựng lực lượng an ninh Lào có
chất lượng cao, đủ khả năng hoàn thành tốt nhiệm vụ
4.2. Một số bài học kinh nghiệm rút ra trong qúa trình hợp tác đào
tạo lực lượng an ninh giữa Lào và Việt Nam
- Sự nhất trí về quan điểm, đường lối chính trị của Đảng, nhà nước và lực
lượng công an hai nước Lào - Việt Nam
- Hợp tác đào tạo lực lương an ninh giữa Lào và Việt Nam phải dựa trên
quan điểm “an ninh tương hỗ”
- Đào tạo, bồi dưỡng cán bộ giúp Bộ An ninh Lào được lãnh đạo Bộ
Công an Việt Nam xác định là một nhiệm vụ đặc biệt quan trọng và thường
xuyên
20


- Phát huy được sức mạnh, điều kiện và các nguồn lực của Lào và Việt
Nam trong tác đào tạo lực lượng an ninh
- Sự đoàn kết nỗ lực với trách nhiệm cao của giảng viên Việt Nam và các
học viên Lào góp phần vào thành công trong công tác đào tạo, bồi dưỡng
- Chuyên gia Việt Nam sang hợp tác giúp đỡ Lào cần được chọn lọc
đúng tiêu chuẩn và đáp ứng được yêu cầu
4.3. Giải pháp nhằm nâng cao chất lượng, hiệu quả trong hợp tác đào
tạo, bồi dưỡng cán bộ an ninh giữa Lào và Việt Nam
- Tăng cường thực hiện tốt những truyền thống tốt đẹp đã được lãnh đạo
Bộ An ninh Lào, Bộ Công an Việt Nam đã gây dựng trong lĩnh vực đào tạo
- Đa dạng hóa hình thức hợp tác, tăng cường mối quan hệ phối hợp giữa

các cơ quan chức năng trong hợp tác về đào tạo, bồi dưỡng cán bộ
- Cần quan tâm và tăng cường bồi dưỡng tốt kiến thức tiếng Việt cho học
viên Lào và kiến thức tiếng Lào cho giảng viên Việt Nam
- Đảm bảo các điều kiện thuận lợi nhất để học viên học tập, nghiên cứu.
Trong thiết kế chương trình, lựa chọn nội dung đào tạo, bồi dưỡng phải gắn với
yêu cầu và thực tế của đất nước Lào
- Việt Nam tiếp tục giúp Lào về chất lượng tổ chức đào tạo trong nước và
học viên của Lào gửi sang đào tạo, bồi dưỡng tại Việt Nam
- Nâng cao chất lượng, hiệu quả trong công tác công tác đào tạo, bồi
dưỡng cán bộ an ninh giữa công an các địa phương của Lào và Việt Nam có
chung biên giới
*
*
*
Trong 50 năm (1962 - 2012) hợp tác giáo dục và đào tạo nguồn nhân lực
phục vụ công cuộc xây dựng đất nước được coi là lĩnh vực có ý nghĩa chiến
lược lâu dài và được Đảng, Nhà nước của Lào và Việt Nam hết sức quan tâm.
Kết quả hợp tác trong đào tạo, bồi dưỡng lực lượng an ninh giữa Lào và Việt
Nam đã góp phần quan trọng vào việc xây dựng, tăng cường quan hệ hợp tác
chiến lược giữa Bộ Công an Việt Nam và Bộ An ninh Lào, là biểu tượng cụ thể
của tình đoàn kết đặc biệt, thuỷ chung, trong sáng và hiệu quả giữa hai nước;
góp phần củng cố tình hữu nghị, gắn kết giữa hai dân tộc.
50 năm là một chặng đường dài để Bộ Công an Việt Nam đánh giá, khẳng
định vai trò, tôn vinh những thành quả và sự hy sinh, vượt khó của đội ngũ các
chuyên gia, các nhà giáo, các cán bộ quản lý đã tham gia đào tạo, phục vụ lưu
học sinh Công an Lào; các nhà sư phạm, nhà khoa học đã cộng tác, giúp đỡ Bộ
An ninh Lào trong việc nghiên cứu, biên soạn giáo trình, bài giảng, xây dựng
chương trình đào tạo trong các trường, học viện công an Lào; từ đó rút ra bài
học kinh nghiệm và đề ra giải pháp nhằm phối hợp chặt chẽ, hợp tác toàn diện
với Bộ An ninh Lào, nâng cao hơn nữa chất lượng công tác đào tạo, bồi dưỡng

cán bộ giúp Lào.
21


KẾT LUẬN
Suốt chặng đường lịch sử 50 năm kể từ ngày hai nước chính thức thiết lập
quan hệ ngoại giao năm 1962, hai đảng, hai nhà nước và hai dân tộc luôn kề vai
sát cánh, chia ngọt sẻ bùi, tận tình giúp nhau trên từng chặng đường cách mạng
để bảo vệ độc lập, chủ quyền, toàn vẹn lãnh thổ và bảo vệ an ninh của mỗi
nước. Trong từng bước phát triển của hai nước, hai dân tộc, đều có sự đóng góp
tích cực, sự phối hợp chặt chẽ, hiệu quả của các thế hệ cán bộ, chiến sĩ công an
nhân dân Việt Nam và lực lượng an ninh Lào.
Năm 1962 là một dấu mốc rất quan trọng trong quan hệ hữu nghị giữa Bộ
An ninh Lào và Bộ Công an Việt Nam. Ban An ninh Trung ương Lào và Bộ
Công an Việt Nam đã có những cuộc làm việc trực tiếp, trao đổi kinh nghiệm
về công tác xây dựng tổ chức và chức năng, nhiệm vụ của Ban An ninh Trung
ương Lào. Bộ Công an Việt Nam đã cử đoàn chuyên gia đầu tiên sang giúp Ban
An ninh Trung ương Lào triển khai các mặt công tác an ninh. Chỉ trong một
thời gian ngắn, với sự nỗ lực của lực lượng an ninh Lào và sự hỗ trợ của các
chuyên gia an ninh Việt Nam, lực lượng an ninh Lào đã tập trung giải quyết
được nhiều vấn đề vừa mang tính cơ bản, chiến lược, vừa đáp ứng yêu cầu cấp
bách, sống còn của cuộc đấu tranh, như: xác định đối tượng phản cách mạng,
xác định nhiệm vụ bảo vệ an ninh; đường lối, phương châm công tác đánh địch
và phương hướng xây dựng tổ chức bảo vệ an ninh. Cũng trong năm 1962, theo
đề nghị của Lào, Bộ Công an Việt Nam đã tiếp nhận hơn 700 học sinh Lào sang
học tập các chuyên ngành nghiệp vụ công an tại Việt Nam. Kết thúc khoá học,
các học sinh trở về nước phục vụ rất kịp thời cho cuộc chiến tranh đang diễn ra
trên đất Lào.
Từ năm 1963 đến năm 1975, cuộc cách mạng ở ba nước Đông Dương
Việt Nam - Lào - Campuchia có mối quan hệ mật thiết và tác động lẫn nhau,

nhu cầu thông tin trong nước và ngoài nước ngày càng tăng. Bộ Công an Việt
Nam đã liên tục cử cán bộ và các chuyên gia sang giúp Bộ Nội vụ Lào đào tạo
cán bộ trên các lĩnh vực: Thu tin tình báo kỹ thuật, mã thám và xây dựng các kế
hoạch trinh sát, cảnh sát hình sự, kinh tế, giao thông, hộ khẩu, quản lý cửa
khẩu, quản lý biên giới, quản lý xuất nhập cảnh, chấp pháp, trại giam… Năm
1975, Bộ Công an Việt Nam đã thành lập ở Việt Nam một trường công an
chuyên trách đào tạo cán bộ cho Bộ Nội vụ Lào, lấy tên là Trường 12-75, đặt tại
Tân Yên, Hà Bắc (nay là tỉnh Bắc Giang) giúp Lào đào tạo cán bộ, đáp ứng kịp
thời nhiệm vụ bảo vệ đất nước.
Sau khi Việt Nam và Lào giành được độc lập và thống nhất đất nước,
quan hệ giữa hai đảng, hai nhà nước tiếp tục được củng cố và phát triển. Bộ
22


Chính trị hai đảng gặp gỡ và xác định rõ quan hệ Việt Nam - Làọ là quan hệ
hữu nghị đặc biệt và hợp tác toàn diện. Thực hiện Thoả thuận giữa hai Bộ
Chính trị, ngày 17 tháng 3 năm 1977, Bộ trưởng Bộ Nội vụ Việt Nam (thời gian
này, Bộ Công an đổi tên là Bộ Nội vụ) và Bộ trưởng Bộ Nội vụ Lào đã ký hiệp
định về quan hệ hợp tác toàn diện giữa hai Bộ. Đây là lần đầu tiên hai Bộ có
một hiệp định hợp tác toàn diện, thể hiện sự tin cậy, có trách nhiệm và nghĩa vụ
với nhau, góp phần tạo cơ sở vững chắc cho mối quan hệ hữu nghị đặc biệt giữa
hai đảng, hai nhà nước Việt Nam - Lào. Từ đây về sau, định kỳ hằng năm, lãnh
đạo hai Bộ thường xuyên có các chuyên thăm và làm việc, tọa đàm trao đổi
kinh nghiệm và ký kết các biên bản, thoả thuận, nghị định thư, kế hoạch hợp
tác. Năm 1981, Bộ Công an Việt Nam và Bộ An ninh Lào tiếp tục ký hiệp định
Hợp tác toàn diện 5 năm.
Từ khi hai nước tiến hành công cuộc đổi mới và từng bước hội nhập sâu
rộng vào nền kinh tế thế giới đến nay, lực lượng Công an nhân dân Việt Nam
và lực lượng Công an Lào luôn đoàn kết, gắn bó, phối hợp chặt chẽ, hiệu quả
trên tất cả các lĩnh vực nghiệp vụ và đào tạo. Với phương châm “giúp Bạn là

mình tự giúp mình”, hàng năm, Bộ Công an Việt Nam đã tiếp nhận đào tạo, bồi
dưỡng nghiệp vụ và chức danh cho cán bộ Công an Lào theo chương trình dài
hạn và ngắn hạn; cung cấp tài liệu, cử chuyên gia sang giúp Học viện An ninh
quốc gia Lào xây dựng chương trình đào tạo thạc sĩ và chương trình đào tạo đại
học chuyên ngành. Nhiều thế hệ cán bộ Công an Lào đã sang Việt Nam trao
đổi, học tập kinh nghiệm và đang góp phần xứng đáng vào những thành tích,
chiến công của lực lượng Công an Lào trong sự nghiệp bảo vệ an ninh quốc gia,
giữ gìn trật tự an toàn xã hội.
Kết quả thực hiện các kế hoạch hợp tác giữa lực lượng Công an hai nước
từ năm 1962 đến năm 2012 trong lĩnh vực đào tạo, bồi dưỡng cán bộ đã góp
phần quan trọng trong công tác bảo vệ an ninh quốc gia và giữ gìn trật tự an
toàn xã hội, tạo môi trường đầu tư thuận lợi, phục vụ thực hiện thắng lợi các
mục tiêu, nhiệm vụ phát triển kinh tế - xã hội và đối ngoại của mỗi nước.
Hiện nay, tình hình thế giới và khu vực đang có những diễn biến phức
tạp, biến đổi nhanh chóng, khó lường; các nước lớn đều đang điều chỉnh chiến
lược ANQG vì lợi ích quốc gia, dân tộc, khu vực châu Á - Thái Bình Dương
vẫn tiềm ẩn và đang xuất hiện những nhân tố gây mất ổn định đe doạ đến
ANQG các nước, trong đó có Lào và Việt Nam, Vì vậy, việc hợp tác trong lĩnh
vực an ninh, đặc biệt hợp tác trong đào tạo, bồi dưỡng lực lượng an ninh có vai
trò vô cùng quan trọng nhằm đảm bảo an ninh của mỗi nước, đồng thời góp
phần đảm bảo an ninh khu vực và thế giới và là một điểm sáng, một bằng chứng
sinh động trong bức tranh chung về mối quan hệ đặc biệt Lào - Việt Nam.
23


×