2
Mục lục
Trang phụ bìa
Lời cam đoan
Mục lục
Danh mục các từ viết tắt
Danh mục các bảng biểu
MỞ ĐẦU .................................................................................................................. 1
Chương 1: CƠ SỞ LÝ LUẬN VÀ THỰC TIỄN PHÁT TRIỂN KINH TẾ
HỘ NÔNG DÂN ĐỒNG BÀO DÂN TỘC KHMER ........................................... 6
1.1. Khái niệm và vai trò của kinh tế hộ trong nền kinh tế quốc dân ....................... 6
1.1.1. Khái niệm hộ ..................................................................................................... 6
1.1.2. Hộ nông dân .................................................................................................... 7
1.1.3. Kinh tế hộ nông dân ........................................................................................ 8
1.1.4. Vai trò của kinh tế hộ trong nền kinh tế quốc dân ........................................ 10
1.1.5. Quan điểm của Đảng và chính sách của Nhà nước Việt Nam về phát triển
kinh tế hộ đồng bào dân tộc Khmer ........................................................................ 14
1.2. Đặc trưng và những yếu tố ảnh hưởng đến sự phát triển kinh tế hộ nông dân
đồng bào dân tộc Khmer ......................................................................................... 14
1.2.1. Đặc trưng của kinh tế hộ nông dân đồng bào dân tộc Khmer ...................... 14
1.2.2. Những yếu tố ảnh hưởng đến phát triển kinh tế hộ nông dân đồng bào dân
tộc Khmer................................................................................................................ 17
1.3. Kinh tế hộ nông dân đồng bào dân tộc Khmer ở một số địa phương và bài
học kinh nghiệm cho tỉnh An Giang ....................................................................... 22
1.3.1. Kinh tế hộ nông dân đồng bào dân tộc Khmer ở một số địa phương ........... 22
1.3.2. Bài học kinh nghiệm cho tỉnh An Giang ...................................................... 25
Chương 2: THỰC TRẠNG PHÁT TRIỂN KINH TẾ HỘ NÔNG DÂN
ĐỒNG BÀO DÂN TỘC KHMER TỈNH AN GIANG GIAI ĐOẠN 2004 –
2014 ......................................................................................................................... 28
2.1. Khái quát điều kiện tự nhiên, kinh tế - xã hội ảnh hưởng đến phát triển kinh
tế hộ nông dân đồng bào dân tộc Khmer tỉnh An Giang ........................................ 28
2.1.1. Điều kiện tự nhiên:........................................................................................ 28
3
2.1.2. Điều kiện kinh tế - xã hội .............................................................................. 29
2.1.3. Tình hình lao động, việc làm ........................................................................ 30
2.2. Thực trạng phát triển kinh tế hộ nông dân đồng bào dân tộc Khmer tỉnh An
Giang từ năm 2004 – 2014...................................................................................... 32
2.2.1. Đặc điểm chung kinh tế hộ nông dân đồng bào dân tộc Khmer tỉnh An
Giang ....................................................................................................................... 32
2.2.2. Thu nhập và mức sống của hộ nông dân ĐBDT Khmer An Giang .............. 35
2.2.3. Tình hình lao động hộ nông dân ĐBDT Khmer An Giang .......................... 38
2.2.4. Hoạt động trồng trọt, chăn nuôi .................................................................... 39
2.2.5. Tình hình đất đai ........................................................................................... 41
2.2.6. Nguồn vốn sản xuất và việc ứng dụng khoa học công nghệ vào sản xuất
của hộ nông dân ĐBDT Khmer .............................................................................. 44
2.2.7. Kinh nghiệm tổ chức, quản lý sản xuất......................................................... 50
2.3. Đánh giá chung về sự phát triển kinh tế hộ nông dân đồng bào dân tộc
Khmer An Giang từ năm 2004 - 2014 .................................................................... 54
2.3.1. Những kết quả đạt được ................................................................................ 54
2.3.2. Những hạn chế .............................................................................................. 55
2.3.3. Những vấn đề đặt ra ...................................................................................... 58
Chương 3: PHƯƠNG HƯỚNG VÀ NHỮNG GIẢI PHÁP CƠ BẢN PHÁT
TRIỂN KINH TẾ HỘ NÔNG DÂN ĐỒNG BÀO DÂN TỘC KHMER
TỈNH AN GIANG ĐẾN NĂM 2025 .................................................................... 60
3.1. Phương hướng phát triển kinh tế hộ nông dân đồng bào dân tộc Khmer tỉnh
An Giang đến năm 2025 ......................................................................................... 60
3.1.1. Phát triển nhanh gắn với phát triển bền vững kinh tế hộ nông dân đồng
bào dân tộc Khmer tỉnh An Giang .......................................................................... 60
3.1.2. Mở rộng quy mô sản xuất kinh doanh, hình thành các trang trại gia đình ... 60
3.1.3. Mở rộng và nâng cao hiệu quả liên kết, hợp tác theo hướng đa dạng hoá ... 61
3.1.4. Tăng trưởng kinh tế kết hợp hài hòa với thực hiện tiến bộ, công bằng xã
hội, nâng cao chất lượng cuộc sống, bảo vệ và cải thiện môi trường ..................... 61
3.1.5. Kết hợp chặt chẽ với giữ vững ổn định chính trị - xã hội, tăng cường quốc
phòng, an ninh vùng biên, bảo vệ vững chắc độc lập, chủ quyền, thống nhất và
toàn vẹn lãnh thổ Việt Nam vùng đồng bào dân tộc Khmer tỉnh An Giang........... 62
4
3.2. Những giải pháp cơ bản phát triển kinh tế hộ nông dân đồng bào dân tộc
Khmer tỉnh An Giang đến năm 2025 ...................................................................... 62
3.2.1. Giải pháp về phát huy các nguồn lực tự nhiên.............................................. 62
3.2.2. Giải pháp về huy động và sử dụng hiệu quả nguồn vốn, lao động, đất đai –
cơ sở hạ tầng ........................................................................................................... 66
3.2.3. Giải pháp về tăng cường áp dụng khoa học-công nghệ vào sản xuất của hộ
nông dân ĐBDT Khmer .......................................................................................... 72
3.2.4. Giải pháp về nâng cao hiệu quả tổ chức, quản lý của các hộ nông dân
ĐBDT Khmer.......................................................................................................... 73
3.2.5. Giải pháp về khuyến khích phát triển thị trường tiêu thụ sản phẩm đầu ra .. 75
3.2.6. Giải pháp về nâng cao vai trò và hiệu quả quản lý của Nhà nước đối với
hộ nông dân ĐBDT Khmer ..................................................................................... 75
KẾT LUẬN ............................................................................................................ 78
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO
5
DANH MỤC CÁC TỪ VIẾT TẮT
Thứ tự
1
2
3
4
5
6
7
8
9
Chữ viết tắt
KTHND
ĐBDT
KT-XH
KT
HTX
KTTT
SXHH
SX-KD
ĐBSCL
Ý nghĩa
Kinh tế hộ nông dân
Đồng bào dân tộc
Kinh tế - xã hội
Kinh tế
Hợp tác xã
Kinh tế thị trường
Sản xuất hàng hóa
Sản xuất - kinh doanh
Đồng bằng sông Cửu Long
DANH MỤC CÁC BẢNG BIỂU
Bảng 2.1: GDP và GDP/người của tỉnh An Giang từ năm 2004-2014................... 29
Bảng 2.2: Tỷ trọng các ngành trong cơ cấu GDP của tỉnh An Giang .................... 30
Bảng 2.3: Thu nhập bình quân đầu người của dân tộc Khmer tỉnh An Giang năm
2014 ......................................................................................................................... 36
Bảng 2.4: Trình độ học vấn của hộ dân tộc Khmer An Giang hiện nay ................. 39
Bảng 2.5: Tình hình trồng trọt của dân tộc Khmer An Giang năm 2014 ............... 39
Bảng 2.6: Các khó khăn trong trồng trọt của dân tộc Khmer An Giang ................ 40
Bảng 2.7: Số hộ chăn nuôi và loại vật nuôi ............................................................ 41
Bảng 2.8: Bình quân diện tích đất sản xuất (thuộc quyền sử dụng của hộ Khmer
năm 2014 ................................................................................................................. 42
Bảng 2.9: Biến động về đất đai (đất sản xuất và đất ở) của hộ Khmer An Giang
năm 2014 ................................................................................................................. 42
Bảng 2.10: Phương tiện sản xuất nông nghiệp của hộ nông dân Khmer An Giang
năm 2014 ................................................................................................................. 46
Bảng 2.11: Các nhu cầu hỗ trợ sản xuất nông nghiệp của hộ Khmer An Giang năm
2014 ......................................................................................................................... 47
Bảng 2.12: Phương tiện sản xuất trong nông nghiệp của dân tộc Khmer An Giang
năm 2014 ................................................................................................................. 48
1
MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài
Vùng đồng bào dân tộc Khmer tỉnh An Giang được xác định là vùng địa lý
- hành chính của 28 xã/thị trấn thuộc 8 huyện/thị xã (Tri Tôn, Tịnh Biên, An Phú,
Tân Châu, Châu Phú, Phú Tân, Châu Thành và Thoại Sơn) của tỉnh An Giang.
Đây là vùng đất giàu tiềm năng, đa dạng nguồn lực tự nhiên (đồng bằng, sông
nước, núi rừng, khoáng sản, thủy sản…), nguồn lực con người và đa dạng về văn
hóa, đa tôn giáo. Vùng này có lợi thế trong hoạt động kinh tế nông nghiệp (trồng
trọt, chăn nuôi, nuôi thủy sản), lâm nghiệp (trồng và khai thác rừng, cây dược
liệu), khai thác khoáng sản (vật liệu xây dựng…), phát triển kinh tế biên giới, du
lịch nội vùng, liên vùng, xuyên biên giới và có vị trí chiến lược về quốc phòng, an
ninh vùng biên ở biên giới phía Tây Nam vùng Đồng bằng sông Cửu Long. Tuy
nhiên, vùng đồng bào dân tộc Khmer tỉnh An Giang hiện đang đối mặt với nhiều
khó khăn và thách thức trong phát triển kinh tế, bảo đảm an sinh xã hội, chăm lo
đời sống vật chất và tinh thần cư dân, nhất là người nghèo; gắn phát triển kinh tế
với phát triển văn hóa, ổn định chính trị - xã hội và giữ vững quốc phòng, an ninh
vùng biên. Đời sống khó khăn, một bộ phận bà con dân tộc Khmer, đặc biệt là
những hộ nông dân ĐBDT Khmer đã nghe theo sự kích động, lôi kéo của một số
thế lực phản động bên ngoài: đòi lại đất cũ của tộc họ, đưa yêu sách đòi nhà nước
cấp đất sản xuất, cấp nhà, vay vốn sản xuất, vay tiền chuộc đất, chiếm đất của
người Kinh, khiếu kiện đông người, vượt cấp v.v... Điều này không chỉ ảnh hưởng
sâu sắc đến tình hình phát triển kinh tế mà còn dẫn đến nguy cơ bất ổn chính trị xã hội ở một tỉnh giáp biên giới nước bạn Campuchia.
Để khắc phục tình hình trên, giải pháp căn bản, lâu dài và hiệu quả nhất là
tiếp tục thực hiện tốt chính sách dân tộc của Đảng, Nhà nước, đẩy mạnh phát triển
KT – XH vùng ĐBDT, trong đó tập trung các nguồn lực để thúc đẩy phát triển
kinh tế hộ nông dân ĐBDT Khmer tỉnh An Giang là giải pháp mang tính đột phá.
Xuất phát từ yêu cầu trên, việc nghiên cứu đề tài “Phát triển kinh tế hộ nông dân
đồng bào dân tộc Khmer tỉnh An Giang đến năm 2025” là cần thiết và có ý nghĩa
thiết thực cả về lý luận lẫn thực tiễn.
2
2. Tình hình nghiên cứu đề tài
Trong bài nghiên cứu: Quá trình phát triển dân cư và dân tộc ở ĐBSCL
(thế kỷ XV – XIX); vấn đề dân cư và dân tộc ở ĐBSCL vào những năm đầu thế kỷ
XX…, tác giả Mặc Đường đã đề cập nhiều mặt về sự hình thành các cộng đồng tộc
người, trong đó có người Khmer và mối quan hệ giữa các dân tộc trong vùng vào
những thời kỳ khác nhau.
Nghiên cứu sự tác động chính sách dân tộc của Đảng trên lĩnh vực KT –
XH có Luận án tiến sĩ lịch sử của Nguyễn Thanh Thuỷ: Quá trình thực hiện chính
sách dân tộc của Đảng Cộng sản Việt Nam đối với ĐBDT Khmer ở ĐBSCL, Hà
Nội - 2001. Công trình này tập trung đánh giá tác động, hiệu quả chính sách dân
tộc của Đảng đối với tình hình KT – XH vùng ĐBDT.
Thực hiện chính sách dân tộc đối với đồng bào Khmer có Luận văn thạc sĩ
lịch sử của Nguyễn Tấn Thời: Đảng bộ An Giang lãnh đạo thực hiện chính sách
dân tộc đối với đồng bào Khmer (1996-2004), Hà Nội – 2005. Trong công trình
này tác giả tập trung đánh giá thành tựu, hạn chế và rút ra những kinh nghiệm
trong quá trình thực hiện chính sách dân tộc đối với đồng bào Khmer ở An Giang.
Luận án tiến sĩ triết học của Trần Thanh Nam, Đời sống tinh thần của đồng
bào dân tộc Khmer Nam Bộ trong công cuộc đổi mới hiện nay. Hà Nội, 2001.
Trình bày những vấn đề lý luận, thực trạng và giải pháp nâng cao đời sống tinh
thần dân tộc Khmer.
Đề cập đến các giải pháp nâng cao đời sống người Khmer có đề tài nghiên
cứu khoa học cấp bộ do thạc sĩ Lê Tăng chủ nhiệm: Một số giải pháp nâng cao đời
sống cho ĐBDT Khmer ở miền Tây Nam Bộ trong giai đoạn hiện nay, TP.HCM –
2003. Công trình này chủ yếu nghiên cứu lý luận về vấn đề dân tộc, phân tích thực
trạng và đề xuất giải pháp nâng cao đời sống ĐBDT Khmer miền Tây Nam bộ.
Luận văn thạc sĩ kinh tế Võ Thị Kim Thu, Xoá đói giảm nghèo vùng ĐBDT
Khmer tỉnh Trà Vinh, Hà Nội - 2005. Trình bày những vấn đề lý luận, thực trạng,
giải pháp xóa đói giảm nghèo vùng ĐBDT Khmer tỉnh Trà Vinh, v.v...
Như vậy, tuy có khá nhiều công trình nghiên cứu trên nhiều phương diện
khác nhau về dân tộc Khmer, nhưng cho đến nay chưa có một công trình khoa học
3
nào đi vào nghiên cứu kinh tế hộ nông dân đồng bào dân tộc (KTHND ĐBDT)
Khmer. Do vậy, việc nghiên cứu đề tài này không trùng với một công trình khoa
học nào đã được công bố.
3. Mục tiêu nghiên cứu
Phân tích, đánh giá thực trạng phát triển KTHND ĐBDT Khmer An Giang
giai đoạn 2004 – 2014 nhằm chỉ ra những thành tựu, hạn chế và nguyên nhân của
những thành tự, hạn chế, từ đó đề xuất những chính sách để góp phần phát triển
KTHND ĐBDT Khmer tỉnh An Giang đến năm 2025.
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
4.1. Đối tượng nghiên cứu
Đối tượng nghiên cứu của luận văn là phân tích các hoạt động KT cơ bản
của hộ nông dân ĐBDT Khmer tỉnh An Giang giai đoạn 2004 - 2014 nhằm tìm ra
đề xuất các nhóm giải pháp cơ bản nhằm phát triển KTHND ĐBDT Khmer tỉnh
An Giang đến năm 2025.
4.2. Phạm vi nghiên cứu
Về không gian, đề tài chỉ nghiên cứu trong phạm vi tỉnh An Giang, đặc biệt
là ở các huyện miền núi, biên giới có nhiều ĐBDT Khmer sinh sống (Tri Tôn,
Tịnh Biên).
Về thời gian, đề tài nghiên cứu thực trạng được giới hạn trong giai đoạn từ
năm 2004 - 2014. Phương hướng và các giải pháp được nghiên cứu trong giai
đoạn từ năm 2015 - 2025.
5. Phương pháp nghiên cứu
Phương pháp xuyên suốt của đề tài là duy vật biện chứng và logíc - lịch sử,
kết hợp với phương pháp phân tích - tổng hợp, phương pháp thống kê, phương
pháp so sánh, khảo sát thực tế, ..v.v.. Những phương pháp này tùy theo từng vấn
đề trong mỗi chương mà có cách vận dụng linh hoạt nhằm hoàn thành những mục
tiêu Luận văn đã nêu. Cụ thể:
- Phương pháp duy vật biện chứng và lịch sử - logíc: xem xét, phân tích,
đánh giá một cách khách quan, toàn diện vấn đề phát triển KTHND ĐBDT Khmer
tỉnh An Giang trong trạng thái luôn luôn biến đổi của tiến trình tiến phát triển đất
4
nước.
- Phương pháp phân tích - tổng hợp: xử lý dữ liệu để tìm ra thực trạng phát
triển KTHND ĐBDT Khmer tỉnh Giang, từ đó nêu lên quan điểm và đề ra các
nhóm giải pháp nhằm phát triển KTHND ĐBDT Khmer tỉnh An Giang.
- Phương pháp thống kê: tập hợp dữ liệu theo các mốc thời gian, thành
phần, yếu tố quan trọng ảnh hưởng đến KTHND ĐBDT Khmer tỉnh An Giang.
- Phương pháp so sánh: thông qua quá trình thu thập và phân tích dữ liệu
liên quan đến KTHND ĐBDT Khmer tỉnh An Giang, đối chiếu so sánh những dữ
liệu này với một số địa phương thuộc khu vực Đồng bằng Sông Cửu Long có đông
đồng bào dân tộc Khmer sinh sống, để từ đó làm rõ thêm thực trạng KTHND
ĐBDT Khmer trên địa bàn tỉnh An Giang và đề xuất các nhóm giải pháp gắn với
thực trạng đã nêu.
6. Ý nghĩa nghiên cứu
Luận văn có ý nghĩa như sau:
- Khái quát những vấn đề lý luận cơ bản: Đặc trưng, những yếu tố ảnh
hưởng và bài học kinh nghiệm trong phát triển KTHND ĐBDT Khmer.
- Phân tích quá trình vận động, phát triển KTHND ĐBDT Khmer trong
điều kiện nền KT chuyển đổi: quá trình chuyển từ sản xuất tự cấp, tự túc lên sản
xuất hàng hóa, dưới sự tác động trực tiếp của công nghiệp hóa, hiện đại hóa nông
nghiệp, nông thôn.
- Góp phần cung cấp bức tranh khá toàn diện về các hoạt động KT của hộ
nông dân ĐBDT Khmer An Giang.
- Nêu lên những phương hướng và các nhóm giải pháp cơ bản nhằm phục
vụ cho việc nghiên cứu, đề xuất những chủ trương, chính sách đối với ĐBDT
Khmer tỉnh An Giang nói chung và KTHND ĐBDT Khmer nói riêng đến năm
2025.
7. Kết cấu luận văn
Luận văn được chia làm ba chương:
Chương 1: Cơ sở lý luận và thực tiễn phát triển kinh tế hộ nông dân đồng
bào dân tộc Khmer.
5
Chương 2: Thực trạng phát triển kinh tế hộ nông dân đồng bào dân tộc
Khmer tỉnh An Giang giai đoạn 2004 - 2014.
Chương 3: Phương hướng và những giải pháp cơ bản phát triển kinh tế hộ
nông dân đồng bào dân tộc Khmer tỉnh An Giang đến năm 2025.
6
Chương 1:
CƠ SỞ LÝ LUẬN VÀ THỰC TIỄN PHÁT TRIỂN KINH TẾ HỘ
NÔNG DÂN ĐỒNG BÀO DÂN TỘC KHMER
1.1. Khái niệm và vai trò của kinh tế hộ trong nền kinh tế quốc dân
1.1.1. Khái niệm hộ
Có nhiều quan niệm của các nhà khoa học về hộ:
- Về phương diện thống kê, Liên Hiệp Quốc cho rằng: “Hộ là những người
cùng sống chung dưới một mái nhà, cùng ăn chung và có chung một ngân quỹ”
(Chu Văn Vũ, 1995, trang 8).
- Năm 1981, Harris (London - Anh) trong tác phẩm của mình cho
rằng: "Hộ là một đơn vị tự nhiên tạo nguồn lao động" (Mai Văn Xuân, 1996,
trang 28) và trên góc độ này, nhóm các đại biểu thuộc trường phái "Hệ thống
Thế Giới" (Mỹ) là Smith (1985) - Martin và Beiltell (1987) có bổ sung thêm:
"Hộ là một đơn vị đảm bảo quá trình tái sản xuất nguồn lao động thông qua
việc tổ chức nguồn thu nhập chung" (Từ Thị Xuyến, 2000, trang 14).
- Tại Hội thảo quốc tế lần thứ 2 về quản lý nông trại tại Hà Lan (năm 1980)
các đại biểu nhất trí cho rằng: "Hộ là đơn vị cơ bản của xã hội có liên quan đến
sản xuất, tiêu dùng, xem như là một đơn vị kinh tế" (Lê Trọng, 1995, trang 11).
Đây mới chủ yếu nêu lên những khía cạnh về khái niệm hộ tiêu biểu nhất,
mạnh khía cạnh này hay khía cạnh khác hoặc tổng hợp khái quát chung nhưng vẫn
còn có chỗ chưa đồng nhất. Từ các quan niệm trên và theo ý kiến cá nhân, tôi cho
rằng hộ được hiểu như sau:
- Trước hết, hộ là một tập hợp chủ yếu và phổ biến của những thành
viên có chung huyết thống, tuy vậy cũng có cá biệt trường hợp thành viên
của hộ không phải cùng chung huyết thống (con nuôi, người tình nguyện và
được sự đồng ý của các thành viên trong hộ công nhận cùng chung hoạt động
kinh tế lâu dài...).
- Hộ nhất thiết là một đơn vị kinh tế (chủ thể kinh tế), có nguồn lao động và
phân công lao động chung; có vốn và chương trình, kế hoạch sản xuất kinh doanh
chung, là đơn vị vừa sản xuất vừa tiêu dùng, có ngân quỹ chung và được phân
7
phối lợi ích theo thoả thuận có tính chất gia đình. Hộ không phải là một thành
phần kinh tế đồng nhất, mà hộ có thể thuộc thành phần kinh tế tư nhân, tập thể,
nhà nước...
- Hộ không đồng nhất với gia đình mặc dù cùng chung huyết thống bởi vì hộ
là một đơn vị kinh tế riêng, còn gia đình có thể không phải là một đơn vị kinh tế (ví
dụ gia đình nhiều thế hệ cùng chung huyết thống, cùng chung một mái nhà nhưng
nguồn sinh sống và ngân quỹ lại độc lập với nhau....)
1.1.2. Hộ nông dân
Về hộ nông dân, tác giả Frank Ellis định nghĩa "Hộ nông dân là các
hộ gia đình làm nông nghiệp, tự kiếm kế sinh nhai trên những mảnh đất của
mình, sử dụng chủ yếu sức lao động của gia đình để sản xuất, thường nằm
trong hệ thống kinh tế lớn hơn, nhưng chủ yếu đặc trưng bởi sự tham gia cục
bộ vào các thị trường và có xu hướng hoạt động với mức độ không hoàn hảo
cao" (Lê Đình Thắng, 1993, trang 33).
Nhà khoa học Traianốp cho rằng "Hộ nông dân là đơn vị sản xuất rất ổn
định" và Ông coi "hộ nông dân là đơn vị tuyệt vời để tăng trưởng và phát triển
nông nghiệp" (Trần Đức Viên, 1995, trang 8).
Luận điểm trên của Ông đã được áp dụng rộng rãi trong chính sách nông
nghiệp tại nhiều nước trên thế giới, kể cả các nước phát triển.
Đồng tình với quan điểm trên của Traianốp, hai tác giả Mats Lundahl
và Tommy Bengtsson bổ sung và nhấn mạnh thêm "Hộ nông dân là đơn vị
sản xuất cơ bản" (Trần Đức Viên, 1995, trang 5). Chính vì vậy, cải cách
kinh tế ở một số nước những thập kỷ gần đây đã thực sự coi hộ nông dân là
đơn vị sản xuất tự chủ và cơ bản, từ đó đã đạt được tốc độ tăng trưởng nhanh
trong sản xuất nông nghiệp và phát triển nông thôn.
Ở nước ta, có nhiều tác giả đề cập đến khái niệm hộ nông dân. Theo nhà
khoa học Lê Đình Thắng (1993) cho rằng: "Nông hộ là tế bào kinh tế xã hội, là
hình thức kinh tế cơ sở trong nông nghiệp và nông thôn" (Lê Đình Thắng, 1993,
trang 5). Đào Thế Tuấn (1997) cho rằng: “Hộ nông dân là những hộ chủ yếu hoạt
động nông nghiệp theo nghĩa rộng, bao gồm cả nghề rừng, nghề cá và hoạt động
8
phi nông nghiệp ở nông thôn”. Còn theo nhà khoa học Nguyễn Sinh Cúc, trong
phân tích điều tra nông thôn năm 2001 cho rằng: "Hộ nông nghiệp là những hộ có
toàn bộ hoặc 50% số lao động thường xuyên tham gia trực tiếp hoặc gián tiếp các
hoạt động trồng trọt, chăn nuôi, dịch vụ nông nghiệp (làm đất, thuỷ nông, giống
cây trồng, bảo vệ thực vật,...) và thông thường nguồn sống chính của hộ dựa vào
nông nghiệp" (Nguyễn Sinh Cúc, 2001, trang 2).
Nghiên cứu những khái niệm trên đây về hộ nông dân của các tác giả và
theo nhận thức cá nhân, tôi cho rằng:
- Hộ nông dân là những hộ sống ở nông thôn, có ngành nghề sản xuất
chính là nông nghiệp, nguồn thu nhập và sinh sống chủ yếu bằng nghề nông.
Ngoài hoạt động nông nghiệp, hộ nông dân còn tham gia các hoạt động phi
nông nghiệp (như tiểu thủ công nghiệp, thương mại, dịch vụ...) ở các mức độ
khác nhau.
- Hộ nông dân là một đơn vị kinh tế cơ sở, vừa là một đơn vị sản xuất
vừa là một đơn vị tiêu dùng. Như vậy, hộ nông dân không thể là một đơn vị
kinh tế độc lập tuyệt đối và toàn năng, mà còn phải phụ thuộc vào các hệ
thống kinh tế lớn hơn của nền kinh tế quốc dân. Khi trình độ phát triển lên
mức cao của công nghiệp hoá, hiện đại hoá, thị trường, xã hội càng mở rộng
và đi vào chiều sâu, thì các hộ nông dân càng phụ thuộc nhiều hơn vào các
hệ thống kinh tế rộng lớn không chỉ trong phạm vi một vùng, một nước.
Điều này càng có ý nghĩa đối với các hộ nông dân nước ta trong tình hình
hiện nay.
1.1.3. Kinh tế hộ nông dân
Hộ nông dân là thực thể kinh tế văn hoá xã hội chủ yếu ở nông thôn, vì
vậy cần phải hệ thống lý thuyết về phát triển kinh tế hộ nông dân làm nền tảng
cho việc phân tích, đánh giá và xây dựng chiến lược phát triển kinh tế nông
thôn.
Theo Hemery và Margolin (1988) thì “Xã hội nông dân lạc hậu không nhất
thiết phải đi lên chủ nghĩa tư bản, mà có thể phát triển lên chế độ xã hội khác
bằng con đường phi tư bản chủ nghĩa” (Đặng Thọ Xương, 1996, trang 8).
9
V.I.Lênin cho rằng: “Cải tạo tiểu nông không phải là tước đoạt của
họ mà phải tôn trọng sở hữu cá nhân của họ, khuyến khích họ liên kết với
nhau một cách tự nguyện để tạo điều kiện thuận lợi cho sự phát triển của
chính họ”. Khi phân tích kết cấu xã hội nông dân nước Nga, V.I.Lênin đã
lưu ý, hộ nông dân khai thác triệt để năng lực sản xuất đáp ứng những nhu
cầu đa dạng của gia đình và xã hội. Ông đã chỉ ra năng lực tự quyết định của
quá trình sản xuất của hộ nông dân trong nền kinh tế tự cung tự cấp, là mầm
mống của những chiều hướng phát triển hàng hoá khác nhau, chính nó sẽ tự
phá vỡ các quan hệ khép kín của hộ dẫn đến những quá trình vỡ kết cấu kinh
tế" (Đặng Thọ Xương, 1996, trang 5).
Theo Tchayanov (1924), luận điểm cơ bản nhất của Tchayanov là coi
kinh tế hộ nông dân là một phương thức sản xuất tồn tại trong mọi chế độ xã
hội. Mỗi phương thức sản xuất có những quy luật phát triển riêng của nó, và
trong mỗi chế độ, nó tìm cách thích ứng với cơ chế kinh tế hiện hành. Mục
tiêu của hộ nông dân là có thu nhập cao không kể thu nhập ấy do nguồn gốc
nào, trồng trọt, chăn nuôi hay ngành nghề đó là kết quả chung của lao động
gia đình.
Khái niệm gốc để phân tích kinh tế gia đình là sự cân bằng lao động tiêu dùng giữa sự thoả mãn các nhu cầu của gia đình và sự nặng nhọc của lao
động. Sản lượng chung của hộ gia đình hàng năm trừ đi chi phí sẽ là sản
lượng thuần mà gia đình dùng để tiêu dùng, đầu tư sản xuất và tiết kiệm.
Mỗi hộ nông dân cố gắng đạt được một thoả mãn nhu cầu thiết yếu bằng
cách tạo một sự cân bằng giữa mức độ thoả mãn nhu cầu của gia đình với
mức độ nặng nhọc của lao động. Sự cân bằng này thay đổi theo thời gian,
theo cân bằng sinh học, do tỷ lệ giữa người tiêu dùng và người lao động
quyết định (Đặng Thọ Xương, 1996, trang 12).
J.Harris (1982) trong bài giới thiệu cho cuốn sách "Phát triển nông thôn" đã
phân loại các công trình nghiên cứu về nông thôn, nông dân, nông nghiệp ra ba xu
hướng chính, đó là xu hướng tiếp cận hệ thống, mô hình ra quyết định và tiếp cận cấu
trúc lịch sử.
10
Vấn đề được tranh luận chủ yếu là, trong quá trình phát triển sản xuất hàng
hoá, xã hội nông thôn phân hoá thành tư bản nông nghiệp, người làm thuê nông
nghiệp hay là người nông dân sản xuất nhỏ, có đất đai, tư liệu sản xuất kinh doanh
bằng lao động gia đình vẫn tồn tại vì có được nông sản rẻ hơn các nông trại tư bản
chủ nghĩa.
Dandekar (1970) cho rằng có hai kiểu nông dân, một kiểu sản xuất hàng
hoá, chỉ đầu tư lao động đến lúc lãi bằng tiền lương và một kiểu tự túc, chủ yếu
đầu tư lao động nhằm tăng sản lượng đủ sống. (Đặng Thọ Xương, 1996, trang
25).
Như vậy, khi nghiên cứu các quan điểm trên cho thấy: hộ là một đơn vị KTXH. Nó có nhiều chức năng khác nhau, nhưng khi bàn về chức năng của hộ, người
ta thường đặc biệt quan tâm đến các quan hệ KT làm nền tảng cho hộ thực hiện
các chức năng khác. Do đó, xét dưới góc độ KT, khái niệm hộ được hiểu là KTH.
KTH là tế bào KT-XH, tồn tại lâu dài trong lịch sử; là đơn vị KT tự chủ
trong nền SXHH. Trong KTH, các thành viên gắn bó với nhau bởi quan hệ hôn
nhân, huyết thống và các quan hệ sở hữu, quản lý và phân phối sản phẩm vì lợi ích
chung của hộ và của các thành viên.
Trong những xã hội chậm phát triển, hộ giữ đồng thời cả ba chức năng:
SX-KD, tiêu dùng và đầu tư để tái sản xuất mở rộng. Nhìn rộng hơn thì hai chức
năng SX-KD và đầu tư có thể gộp lại vào nhóm chức năng KT. Còn trong những
xã hội phát triển, tỷ lệ các hộ tiến hành kinh doanh ở quy mô gia đình còn rất thấp.
Nó phổ biến chỉ tồn tại trong những lĩnh vực như nông nghiệp và dịch vụ sinh
hoạt, buôn bán nhỏ. Chức năng sản xuất kinh doanh và đầu tư chủ yếu do các
doanh nghiệp thực hiện.
1.1.4. Vai trò của kinh tế hộ trong nền kinh tế quốc dân
Trong lịch sử phát triển KT quốc dân, thời kỳ nào vai trò của KTH cũng
đều rất quan trọng, vì nó không những là “tế bào” của xã hội, là đơn vị sản xuất và
bảo đảm cuộc sống cho tất cả các thành viên trong gia đình, mà còn là chủ thể tiêu
dùng rất đa dạng trong nền KT.
11
Trong thời kỳ thực hiện chế độ hợp tác hoá, KTH được xem là “kinh tế phụ
gia đình” hay “kinh tế phụ xã viên”, bổ sung cho KT tập thể.
Vai trò của KTH nói chung, đặc biệt là KT nông hộ có nhiều thay đổi cả về
phương thức quản lý lẫn lao động sản xuất, nhất là kể từ khi phong trào HTX mất
dần động lực phát triển. Mốc quan trọng của sự thay đổi đó là sự ra đời của Chỉ thị
100, ngày 31/1/1981 của Ban Bí thư về cải tiến công tác khoán, mở rộng khoán
sản phẩm đến nhóm và người lao động trong hợp tác xã. Tiếp theo đó, Nghị quyết
10, ngày 5/4/1988 của Bộ Chính trị về đổi mới quản lý nông nghiệp đã tạo cơ sở
quan trọng để nông hộ trở thành đơn vị KT tự chủ trong nông nghiệp.
Trong thời kỳ đổi mới, với tính năng động và tiềm lực KT ngày càng được
tăng cường, KTH có điều kiện thể hiện vai trò đặc biệt quan trọng đối với nền KT
quốc dân. Vai trò đó được thể hiện qua những nội dung sau:
Thứ nhất, KTH là cầu nối, là khâu trung gian để chuyển nền kinh tế tự
nhiên lên KT hàng hóa:
KTH được coi là khâu trung gian có vai trò đặc biệt quan trọng trong giai
đoạn thực hiện bước chuyển từ KT tự nhiên lên KT hàng hóa giản đơn và tạo đà
cho bước chuyển từ KT hàng hóa giản đơn lên KTTT. Bước chuyển biến từ KT tự
nhiên lên KT hàng hóa giản đơn với quy mô hộ gia đình là một giai đoạn lịch sử
đặc biệt, nếu chưa trải qua thì không thể phát triển SXHH quy mô lớn, không thể
thoát khỏi tình trạng kém phát triển.
Thực tế cho thấy, hộ và nền KT tự nhiên của nó chứa đựng những tiềm
năng của sự phân hoá. Và do đó thúc đẩy nông thôn quá độ lên một trình độ cao
hơn - Nông thôn SXHH. Năng lực tự quyết định quá trình sản xuất của các hộ
trong nền KT tự nhiên, tự cung tự cấp là mầm móng của những chiều hướng phát
triển SXHH khác nhau. Chính nó sẽ tự phá vỡ các quan hệ KT khép kín của hộ,
hình thành hộ SXHH. Song, đó là một quá trình lâu dài, gắn với những bước tiến
nhất định của lực lượng sản xuất.
Thứ hai, KTH là đơn vị tích tụ vốn cho sản xuất kinh doanh:
Quá trình chuyển từ nền KT tự nhiên, tự cấp tự túc lên KT hàng hóa chỉ có
thể diễn ra từ việc tích tụ vốn ở từng hộ. Nếu không có sự tích tụ đó thì những
12
khoản tiền dư thừa do hoạt động KT của hộ tạo nên sẽ biến thành của cải tích trữ
hoặc bị lãng phí vào những công việc khác, không được sử dụng vào mục đích SX
– KD.
Trong thời kỳ hợp tác hoá trước đây, hộ đã không thể trở thành đơn vị tích
tụ vốn có hiệu quả, nên không huy động được nguồn để đưa vào SX - KD. Chỉ từ
khi đổi mới cơ chế quản lý, hộ nông dân trở thành đơn vị KT tự chủ và mặc nhiên
KTH cũng trở thành đơn vị tích tụ vốn.
Cùng với sự phát triển của sản xuất, mức độ tích lũy vốn ngày càng cao,
KTH càng có điều kiện phát triển ngành nghề, mở rộng các hoạt động để nâng cao
thu nhập.
Thứ ba, KTH là đơn vị cơ sở thực hiện phân công lao động xã hội:
Trong nền KT tự nhiên, sản xuất của hộ chủ yếu nhằm thỏa mãn nhu cầu
thiết yếu của gia đình, chỉ có sản phẩm dư thừa mới trở thành hàng hóa, nhưng
phần lớn còn mang tính chất ngẫu nhiên, lao động của hộ chưa thật sự trở thành
lao động xã hội. Khi chuyển sang KTTT, cơ cấu KT tự cấp, tự túc của hộ bị phá
vỡ, hộ trở thành những đơn vị SXHH đa dạng, từ các hoạt động nông - lâm - ngư
nghiệp, phát triển ngành nghề, đến các loại hình dịch vụ và kinh doanh tổng hợp.
Đó là biểu hiện cụ thể và sinh động của sự phân công lao động xã hội đã diễn ra từ
đơn vị cơ sở. Góp phần tạo nên sự chuyển biến đối với quá trình phân công lao
động trong nông nghiệp, nông thôn cũng như cả nền KT.
Thứ tư, KTH là đơn vị KT cơ sở tiếp nhận và ứng dụng những tiến bộ khoa
học công nghệ vào SX – KD:
Trong nền KTTT, các hộ muốn SX – KD hiệu quả, thu lợi nhuận cao buộc
họ phải chú ý đến các biện pháp để tăng năng suất lao động, tăng khả năng cạnh
tranh.
Các hộ một mặt phải sử dụng có hiệu quả những kinh nghiệm sản xuất lâu
đời, mặt khác phải áp dụng các tiến bộ khoa học kỹ thuật và công nghệ mới. Ở đây
động cơ lợi nhuận và lợi ích KT là động lực thúc đẩy họ áp dụng tiến bộ khoa học
công nghệ vào sản xuất. Nó là một quá trình tự giác gắn với lợi ích thiết thân của
từng hộ. Thông qua việc áp dụng tiến bộ khoa học công nghệ, đồng thời cũng diễn
13
ra quá trình sàng lọc và cải tiến kỹ thuật, làm cho nó thật sự thích ứng và mang lại
hiệu quả KT cao cho các hộ.
Như vậy, KTH vừa là nơi lưu giữ những kinh nghiệm truyền thống, vừa là
nơi tiếp nhận, phát triển hoàn thiện thêm những kỹ thuật công nghệ mới – là điều
kiện vững chắc bảo đảm cho việc nâng cao năng suất lao động và hiệu quả SX KD của các hộ trong mỗi giai đoạn lịch sử nhất định.
Thứ năm, KTH là đơn vị kinh tế cơ bản đáp ứng cung, cầu của thị trường:
Là đơn vị KT tự chủ, các hộ phải căn cứ vào nhu cầu của thị trường để
hoạch định phương án SX – KD hiệu quả: sản phẩm gì, khối lượng, chất lượng
như thế nào, tiêu thụ ở đâu, giá cả bao nhiêu…? Vô hình chung mỗi hộ trở thành
một đơn vị cân đối cung, cầu theo tín hiệu của thị trường và là một đơn vị tiêu
dùng của xã hội.
Nhờ ưu thế của một đơn vị sản xuất quy mô nhỏ, tự tích lũy vốn, ứng dụng
khoa học công nghệ và thực tiễn phân công lao động xã hội từ cơ sở, nên KTH có
thể đáp ứng nhu cầu của thị trường một cách nhanh chóng và thích nghi khá tốt
với những biến đổi của cơ chế thị trường.
KTH dễ dàng tổ chức lại sản xuất, phân công lại lao động, bắt tay ngay vào
SX – KD những mặt hàng thị trường đang và sẽ có nhu cầu một cách nhanh
chóng, hữu hiệu, trong khi các đơn vị sản xuất lớn khó thích ứng kịp. Mặt khác,
khi nền KT gặp những khó khăn trong quá trình tái sản xuất, thì hộ rất dễ dàng
“xoay sở” để tìm kiếm phương thức khai thác các nguồn vốn, lao động…của mình
nhằm tái sản xuất. Vì vậy, KTH có khả năng thích ứng cao với mọi nhu cầu của thị
trường mà ít có hình thức tổ chức sản xuất kinh doanh nào ưu thế hơn.
Thực tế cho thấy, ở phần lớn các quốc gia trên thế giới, KTH đảm bảo hầu
như toàn bộ vấn đề lương thực thực phẩm, rau quả tươi sống, một phần nông sản
làm nguyên liệu cho công nghiệp chế biến,…Điều đó khẳng định vai trò quan
trọng của KTH trong việc đáp ứng nhanh quan hệ cung cầu trong nền KTTT. Mặt
khác, hộ lại tiêu thụ hàng công nghệ phẩm, dịch vụ của khu vực công nghiệp,
thành thị. Như vậy, với tư cách là đơn vị tiêu dùng xã hội, hàng triệu hộ trải rộng
14
trên địa bàn nông thôn rộng lớn, thực sự là thị trường tiêu thụ thúc đẩy các ngành
công nghiệp, dịch vụ, khu vực thành thị phát triển.
1.1.5. Quan điểm của Đảng và chính sách của Nhà nước Việt Nam về
phát triển kinh tế hộ đồng bào dân tộc Khmer
Trong những năm qua, để thúc đẩy phát triển kinh tế - xã hội trong đồng
bào dân tộc thiểu số nói chung và đồng bào dân tộc Khmer nói riêng, Đảng và Nhà
nước đã ban hành và thực thi nhiều chủ trương, chính sách, chương trình phát triển
kinh tế - xã hội, trong đó đặc biệt phải kể đến là: Chỉ thị số 68/CT.TW ngày
18/4/1991 của Ban chấp hành Trung ương Đảng về công tác vùng đồng bào dân
tộc Khmer; Quyết định số 135/1998/QĐ-TTg ngày 31/7/1998 của Thủ tướng
Chính phủ phê duyệt Chương trình phát triển kinh tế - xã hội các xã đặc biệt khó
khăn miền núi, vùng sâu, vùng xa (Chương trình 135 giai đoạn I); Quyết định số
134/2004/QĐ-TTg ngày 20/7/2004 của Thủ tướng Chính phủ, về một số Chính
sách hỗ trợ đất sản xuất, đất ở, nhà ở và nước sinh hoạt cho hộ đồng bào dân tộc
thiểu số nghèo đời sống khó khăn; Quyết định số 74/2008/QĐ-TTg ngày
09/6/2008 của Thủ tướng Chính phủ, về một số chính sách hỗ trợ đất ở, đất sản
xuất và giải quyết việc làm cho hộ đồng bào dân tộc thiểu số nghèo, đời sống khó
khăn vùng đồng bằng sông Cửu Long giai đoạn 2008-2010; Quyết định số
167/2008/QĐ-TTg ngày 12/12/2008 của Thủ tướng Chính phủ, về chính sách hỗ
trợ hộ nghèo về nhà ở; Quyết định số102/2009/QĐ-TTg ngày 07/8/2009 của Thủ
tướng Chính phủ, về chính sách hỗ trợ trực tiếp cho người dân thuộc hộ nghèo ở
vùng khó khăn; Nghị định 05/2011/NĐ-CP ngày 14/1/2011 của Thủ tướng Chính
phủ, về công tác dân tộc; Quyết định số 449/QĐ-TTg của Thủ tướng Chính phủ,
ngày 12-03-2013 về Phê duyệt chiến lược công tác dân tộc đến năm 2020, .v.v..
1.2. Đặc trưng và những yếu tố ảnh hưởng đến sự phát triển kinh tế hộ
nông dân đồng bào dân tộc Khmer
1.2.1. Đặc trưng của kinh tế hộ nông dân đồng bào dân tộc Khmer
Bên cạnh những đặc trưng vốn có của KTH nói chung, do điểm xuất phát
cũng như phong tục tập quán, KTHND ĐBDT Khmer còn có những đặc trưngg
riêng. Trong đó phải kể đến những đặc trưng cơ bản sau:
15
Thứ nhất, chủ hộ và các thành viên trong hộ là người Khmer:
Với đặc trưng này, các thủ thể KT người Khmer vốn có lịch sử hình thành,
kỹ thuật sản xuất, phong tục tập quán, bản sắc văn hoá riêng. Hầu hết họ đều sử
dụng tiếng Việt như là ngôn ngữ thứ hai. Đa phần chủ hộ cũng như các thành viên
lớn tuổi thường không biết tiếng Việt, họ giao tiếp với nhau bằng tiếng dân tộc.
Đây cũng là khó khăn của họ khi hoà nhập vào cuộc sống cũng như phát triển KT
gia đình.
Mỗi hộ trung bình có từ 4 đến 5 thành viên, trong đó có từ 2 đến 3 lao
động. Người Khmer vốn rất cần cù, chịu đựng tốt gian khó, nhưng trình độ mọi
mặt còn thấp.
Đặc điểm của đồng bào Khmer ở ĐBSCL là trên 90% dân số sống ở nông
thôn, cư trú thành những cụm dân cư gọi là Phum, Sóc tương đối biệt lập với cộng
đồng các dân tộc khác, cũng có một bộ phận đồng bào sống xen kẽ với người
Kinh, còn một số hộ sinh sống rải rác ở vùng sâu, vùng xa, vùng biên giới và ở
ven các kênh rạch.
Do ảnh hưởng sâu sắc bởi Phật giáo Tiểu thừa, nên trong triết lý sống của
người Khmer thường thiên về các giá trị tinh thần hơn vật chất. Người Khmer sẵn
sàng đóng góp tiền của, công sức để xây dựng những ngôi chùa khang trang, lộng
lẫy, trong khi họ chấp nhận cuộc sống nghèo túng trong những căn nhà lụp sụp.
Họ cũng sẵn sàng vay nợ để tổ chức các lễ hội truyền thống, ma chay, tiệc cưới
long trọng, hoặc đóng tiền để con em họ được vào chùa tu, .v.v... Chính triết lý
sống như vậy đã ảnh hưởng không nhỏ đến sản xuất và đời sống của người Khmer.
Thứ hai, KTHND ĐBDT Khmer còn mang nặng tính tự cung, tự cấp:
Hộ nông dân Khmer tồn tại lâu đời với phương thức canh tác truyền thống
trên những vùng đất đồi núi chia cắt, ruộng đất manh mún, chênh lệch về độ dốc
lớn. Phần lớn sản xuất của họ phụ thuộc vào thiên nhiên. Những năm mưa thuận,
gió hoà thì được mùa, những năm thời tiết không thuận lợi thì đời sống bà con gặp
nhiều khó khăn.
Trong những năm qua, được sự quan tâm đầu tư của Đảng, Nhà nước, KTH
nông dân ĐBDT Khmer có nhiều chuyển biến tích cực, nhiều hộ đã chủ động học
16
tập, mạnh dạn áp dụng tiến bộ khoa học kỹ thuật mới vào trồng trọt, chăn nuôi và
phát triển các ngành nghề truyền thống như dệt thổ cẩm, đan lát, gốm…do đó, bộ
mặt KTH phát triển đáng kể, tình hình KT- XH vùng ĐBDT có bước khởi sắc.
Tuy nhiên, do điều kiện SX – KD khó khăn, tập quán canh tác lạc hậu, trình độ
hạn chế, cộng với “sức ỳ” của tư tưởng trông chờ, ỷ lại, nên hoạt động SX - KD
của một bộ phận bà con còn mang tính tự phát. Họ sản xuất ra trước hết là để thỏa
mãn nhu cầu bản thân, còn lại mới đem bán để mua về các sản phẩm khác. Mặc dù
SXHH vùng ĐBDT Khmer đã có bước phát triển, nhưng vẫn còn một bộ phận bà
con chưa thoát khỏi tình trạng sản xuất khép kín, tự cung, tự cấp.
Thứ ba, cơ cấu SX - KD ngày càng đa dạng, trong đó nông nghiệp là nền
tảng:
Trong sản xuất nông nghiệp, người Khmer có truyền thống sản xuất và kỹ
thuật canh tác khá phong phú. Đó chính là kết quả của người nông dân Khmer
trong quá trình chinh phục thiên nhiên vùng ĐBSCL và sự giao lưu văn hoá với
các dân tộc anh em Việt, Hoa, Chăm cùng định cư trong vùng. Tuy nhiên, sản xuất
còn mang tính độc canh cây lúa, chưa sử dụng hết tiềm năng đất đai và nguồn lao
động dồi dào ở vùng nông thôn.
Thứ tư, qui mô sản xuất nhỏ bé:
Đặc trưng nổi bật của các hộ nông dân Khmer hiện nay là quy mô canh tác
rất nhỏ bé, biểu hiện rõ tính chất tiểu nông. Theo kết quả nghiên cứu gần đây cho
thấy, ở ĐBSCL diện tích đất sản xuất vùng đồng bào Khmer bình quân là 0,44
ha/người. Trong đó, số hộ không đất và thiếu đất sản xuất ngày càng gia tăng.
Bên cạnh diện tích đất bình quân thấp, khả năng tích tụ và tập trung vốn của
ĐBDT Khmer còn nhiều hạn chế. Do vậy, hộ dân tộc thường xuyên hoạt động
trong tình trạng thiếu vốn. Mặc dù hệ thống ngân hàng có cố gắng, nhưng mới chỉ
đáp ứng một phần nhu cầu vốn của bà con, còn lại họ phải đi vay của tư nhân với
lãi suất cao. Hệ quả là nhiều hộ lâm vào cảnh nợ nần chồng chất, phải cầm cố tài
sản, sang bán đất đai để trả nợ.
Do quy mô sản xuất nhỏ nên khả năng đầu tư mua sắm máy móc, thiết bị
hạn chế. Việc đầu tư thâm canh, tăng vụ, phát triển ngành nghề cũng gặp khó
17
khăn. Vì vậy, năng suất, chất lượng và hiệu quả SX – KD thấp, tích luỹ không cao,
hạn chế khả năng tái sản xuất mở rộng của hộ.
Có thể nói, với điều kiện đất đai hạn hẹp, nguồn lao động dồi dào nhưng
thiếu vốn, công cụ thủ công nên quy mô SX – KD hay quy mô thu nhập của đại bộ
phận bà con dân tộc rất nhỏ. Tuy một số hộ dân tộc có quy mô sản xuất khá lớn,
nhưng số lượng chưa nhiều.
Thứ năm, thu nhập và mức sống còn nhiều khó khăn:
Là những cư dân nông nghiệp, nên thu nhập chính của người Khmer chủ
yếu do hoạt động trồng trọt, chăn nuôi mang lại. Các hộ có thu nhập từ hoạt động
tiểu thủ công nghiệp, dịch vụ hoặc làm thuê chiếm tỷ trọng thấp.
Những năm qua, được sự quan tâm của Đảng và Nhà nước, thu nhập của
đại bộ phận bà con dân tộc đã được nâng lên đáng kể. Tuy nhiên, so với các dân
tộc anh em khác, thu nhập của người Khmer cơ bản vẫn còn thấp. Có một thực tế
gần như ít thay đổi là tỷ lệ nghèo đói của người Khmer luôn cao hơn so với các
dân tộc khác trong vùng.
Thu nhập thấp, ý thức tiết kiệm chưa cao, do vậy đa phần thu nhập của bà
con thường chỉ để phục vụ cho nhu cầu sinh hoạt gia đình, ít chú trọng đầu tư mở
rộng SX – KD hay cho con em ăn học. Đó cũng chính là lý do giải thích tại sao
KT – XH vùng ĐBDT còn kém phát triển, đời sống vật chất và tinh thần của
người Khmer thường thấp hơn so với các dân tộc anh em khác.
1.2.2. Những yếu tố ảnh hưởng đến phát triển kinh tế hộ nông dân
ĐBDT Khmer
Cũng như các dân tộc anh em khác trong khu vực, sự phát triển KTHND
ĐBDT Khmer chịu tác động tổng hợp của nhiều yếu tố, cả về mặt khách quan lẫn
chủ quan. Trong đó có những yếu tố cơ bản sau:
1.2.2.1. Nhóm các yếu tố tự nhiên:
Thứ nhất, vị trí địa lý và đất đai:
Với diện tích mặt nước lớn, việc đánh bắt cá nước ngọt và nuôi thủy sản có
tầm quan trọng trong hoạt động kinh tế của hộ nông dân Khmer An Giang. Mùa lũ
hàng năm tuy có thể là một bất lợi nhưng cũng là một nguồn lợi đáng kể từ tự
18
nhiên. Ngoài lượng phù sa làm màu mỡ ruộng đất thì mùa lũ cũng mang về một
nguồn lợi thủy sản lớn góp phần không nhỏ vào việc giải quyết công ăn việc làm,
xóa đói giảm nghèo. Các nghề chế biến thủy sản như làm khô, làm mắm… của An
Giang nhất là ở Chợ Mới và Châu Đốc nổi tiếng từ khá lâu. Phát huy tiềm năng
mặt nước, người dân An Giang đã phát triển nghề nuôi cá, đặc biệt là nuôi cá bè và
đưa An Giang trở thành một trong các tỉnh xuất khẩu cá da trơn hàng đầu của Việt
Nam. Nhà bè và nuôi cá bè tạo ra những khu cư trú trên sông cũng là một đặc
trưng trong đời sống của một bộ phận cư dân An Giang nói chung và hộ nông dân
Khmer An Giang nói riêng. Đặc trưng này làm phong phú thêm hệ thống các di
tích và thắng cảnh của An Giang, thu hút khá đông du khách.
Bên cạnh đó, thiên nhiên còn ưu đãi cho An Giang một cảnh quan miền núi
và rừng mà không có tỉnh nào ở ĐBSCL có được. Các huyện miền núi của An
Giang (Tri Tôn, Tịnh Biên, Thoại Sơn) tập trung đông dân tộc Khmer. Ngoài
những thắng cảnh như lâm viên Núi Cấm, hồ nước Ôtuk Sa, đồi Tức Dụp (Tri
Tôn)… thì vùng đất cao của các huyện Tri Tôn, Tịnh Biên, Thoại Sơn do chưa chủ
động nước tưới để tăng vụ lúa thì có thể quy hoạch làm các khu chăn nuôi, trồng
cây công nghiệp (ca cao), cây dược liệu… là những mô hình nông lâm kết hợp
mới xuất hiện rất đáng chú ý. Phát triển lâm nghiệp vùng đồi núi cũng là một tiềm
năng. Trong những năm qua tỉnh cũng đã hỗ trợ cho một số hộ đồng bào dân tộc
Khmer xây dựng mô hình chăn nuôi nai và hươu sao mở ra một hướng sản xuất
mới. Vùng cao ở An Giang còn tiềm năng tăng vụ lúa hoặc tăng vụ màu và tăng
năng suất lúa, màu nếu hoàn chỉnh hệ thống thủy lợi để chủ động nước tưới.
Vị trí tiếp giáp Campuchia với gần 100 km đường biên giới là một thuận lợi
cho việc trao đổi hàng hóa và phát triển mạnh khu vực dịch vụ, nhất là phát triển
kinh tế cửa khẩu và dịch vụ du lịch đang ngày càng được phát huy.
Thứ hai, khí hậu thời tiết và môi trường sinh thái:
Nằm trong vùng khí hậu nhiệt đới gió mùa, mùa mưa ở An Giang kéo dài
từ tháng 5 đến tháng 11; lũ hàng năm do sông Cửu Long tràn về gây ngập 70%
diện tích tự nhiên của Tỉnh. Lượng mưa trung bình hàng năm là 1.132 mm. Nhiệt
độ trung bình hàng năm cao nhất là 370C, thấp nhất là 230C; hàng năm có 2 tháng
19
nhiệt độ trung bình là 270C, tháng lạnh nhất là tháng 12. Vào mùa mưa, nước lũ
ngập từ 1-2,5 m, đặc biệt có khu vực ngập tới 3,5m. Khí hậu và thủy văn là điều
kiện rất thuận lợi cho việc phát triển các ngành nông, lâm, thủy sản. Hàng năm An
Giang cũng có hiện tượng gió lốc, mưa đá vào tháng 5 và tháng 6 ảnh hưởng bất
lợi đến hoạt động sản xuất và đời sống nhân dân.
1.2.2.2. Nhóm yếu tố về kinh tế và tổ chức quản lý sản xuất-kinh doanh:
Đây là nhóm yếu liên quan đến thị trường và các nguồn lực chủ yếu, có ý
nghĩa vô cùng quan trọng trong phát triển KT nói chung, cũng như KTH nông dân
ĐBDT Khmer nói riêng. Cụ thể:
Lao động, vốn và kết cấu hạ tầng:
Người lao động phải có trình độ học vấn và kỹ năng lao động để tiếp thu
tiến bộ khoa học kỹ thuật và kinh nghiệm sản xuất tiên tiến. Trong sản xuất phải
giỏi chuyên môn, kỹ thuật mới mạnh dạn áp dụng thành tựu khoa học vào sản xuất
nhằm đem lại lợi nhuận cao. Trình độ học vấn và chuyên môn, cũng như kinh
nghiệm sản xuất của người chủ hộ có vị trí vô cùng quan trọng, ảnh hưởng trực
tiếp, quyết định đến sự thành công hay thất bại của hộ.
Vốn là điều kiện không thể thiếu được trong quá trình SX – KD. Nó là một
yếu tố cơ bản của quá trình sản xuất và lưu thông hàng hoá. Khi có quy mô vốn đủ
lớn, KTH nông dân mới có thể chuyển lên mô hình KT trang trại hoặc các loại
hình SX – KD khác hiệu quả hơn.
Mặt khác, để sản xuất có hiệu quả, năng suất lao động cao cần phải sử dụng
một hệ thống công cụ phù hợp. Ngày nay, với kỹ thuật canh tác tiên tiến, công cụ
sản xuất đã không ngừng được cải tiến và đã đem lại hiệu quả KT cao cho hộ dân.
Kết cấu hạ tầng chủ yếu phục vụ cho phát triển KTH nông dân bao gồm: hệ
thống thuỷ lợi, hệ thống điện, giao thông, trường học, y tế… Đây là những yếu tố
quan trọng trong quá trình phát triển của KTH. Ở nơi nào có kết cấu hạ tầng tốt thì
tình hình SX – KD có điều kiện phát triển, thu nhập và mức sống của người dân có
điều kiện nâng cao.
Yếu tố thị trường:
20
Trong giai đoạn hiện nay, thị trường đóng vai trò rất quan trọng đối với các
hoạt động SX – KD của mỗi hộ. Những sản phẩm nào bán được giá cao thì các hộ
chú ý phát triển. Do vậy, ở những nơi thị trường phát triển tốt thì KTH nông dân
cũng phát triển sôi động. Ngược lại, ở những nơi giao thông khó khăn, thị trường
chia cắt, kém phát triển thì KTH nông dân sẽ đối mặt với những khó khăn cả đầu
vào và đầu ra của sản phẩm…
Yếu tố về hợp tác trong sản xuất kinh doanh:
Trong KTTT, để cạnh tranh có hiệu quả các hộ cần có sự hợp tác để có
thêm nguồn vốn, thêm nhân lực, thêm kinh nghiệm, tự vệ chống lại sự chèn ép của
tư thương, doanh nghiệp. Đặc biệt, thông qua liên kết, hợp tác các hộ mới có điều
kiện tập hợp, gia tăng sức mạnh, có điều kiện ứng dụng các tiến bộ khoa học kỹ
thuật vào sản xuất nhằm nâng cao hiệu quả hoạt động.
1.2.2.3. Nhóm yếu tố về tâm lý, tập quán:
Hầu hết đồng bào dân tộc Khmer theo Phật giáo Nam tông. Nguồn thu nhập
chủ yếu từ trồng trọt, chăn nuôi và làm thuê mướn theo thời vụ. Trong hai cuộc
kháng chiến chống Pháp và Chống Mỹ cứu nước, khu vực Bảy Núi là căn cứ địa
cách mạng, bản thân ĐBDT Khmer cũng đóng góp nhiều công sức và tiền của cho
sự nghiệp cách mạng của tỉnh. Trong chiến tranh biên giới Tây Nam (1976-1979),
đồng bào Khmer trong khu vực này được di chuyển về tuyến sau ở các tỉnh Hậu
Giang, Sóc Trăng; còn một bộ phận bị Pônpốt lùa sang Campuchia. Do vậy, sau
khi chiến tranh kết thúc, nơi đây bị tàn phá nặng nề, đồng bào quay về quê cũ,
nhưng đất đai bị xáo trộn, cuộc sống khó khăn. Mặt khác, đây là khu vực biên giới
tiếp giáp Vương quốc Campuchia, là cửa ngõ thuận lợi cho các thế lực thù địch
bên ngoài xâm nhập vào Việt Nam, nhất là lực lượng Khmer CPC Krom (KKF) dễ
dàng tiếp cận vào cộng đồng người dân Khmer trong khu vực.
Đồng bào Khmer ở ĐBSCL nói chung cũng như ở An Giang nói riêng đa
số là những cư dân nông nghiệp. Nghề nông là hoạt động KT chủ yếu, chiếm vai
trò quan trọng, chi phối toàn bộ đời sống KT – XH, văn hoá của người Khmer.
Song, sản xuất của đồng bào Khmer còn mang tính chất tiểu nông, phụ thuộc
nhiều vào điều kiện tự nhiên.
21
Mặt khác, do ảnh hưởng sâu sắc bởi tư tưởng Phật giáo, đa phần người dân
Khmer thích một cuộc sống an lành, không đua chen để làm giàu lớn. Họ thích
thảnh thơi, an nhàn hơn so với các dân tộc khác. Công việc làm ăn đều trông chờ ở
số phận. Họ tin rằng có phận, có phước mới làm giàu được, vì thế họ ít chịu tìm
hiểu làm thế nào để nâng cao năng suất, thu hoạch có kết quả nhiều như người
Kinh, người Hoa. Hầu hết họ thiên về đời sống tinh thần hơn vật chất, họ tin ở
kiếp sau, kiếp này chỉ là sống tạm.
Với đồng bào Khmer, từ lúc sinh ra cho đến khi trưởng thành, rồi đến khi
chết… tất cả những biến cố ấy hầu như đều đi kèm với nhiều lễ thức và tập tục,
tuy hiện nay đã giảm đáng kể. Đáng chú ý nhất là tục đi tu của người con trai
Khmer vẫn được duy trì một cách nghiêm túc với quan niệm sau thời gian tu hành,
khi hoàn tục sẽ là người có đức hạnh, có giáo dục và là một tiêu chuẩn để lấy vợ.
Do đó, cha mẹ phải có trách nhiệm khuyên răn con mình vào chùa tu một thời
gian. Hay trong quan niệm hôn nhân, đôi trai gái không được cưới xin tử tế theo
đúng nghi thức cổ truyền thì gia đình đó sẽ bị xã hội xem thường. Vì thế, đám cưới
của người Khmer diễn ra với nhiều nghi lễ phức tạp, tốn kém, ảnh hưởng đến KT
gia đình.
Trong tư tưởng của đồng bào Khmer, ngôi chùa mang một tình cảm rất sâu
sắc. Một người Khmer khi sinh ra, lớn lên rồi về già cho đến lúc chết mọi buồn vui
của cuộc đời đều gắn bó với ngôi chùa. Chùa là biểu tượng tinh thần của cộng
đồng dân cư cũng như từng cá nhân trong phum, sóc. Việc đóng góp công sức, tiền
của xây dựng chùa là việc làm công đức, là con đường chắc chắn đưa tới sự giải
thoát. Vì vậy, người Khmer sẵn sàng đóng góp tiền của, công sức để xây dựng
chùa khang trang, lộng lẫy, trong khi họ chấp nhận sống nghèo túng trong những
căn nhà lụp sụp, túng thiếu.
Những người sư sãi và trí thức Khmer có vị trí đặc biệt trong quan hệ xã
hội, ảnh hưởng mạnh và chi phối sâu sắc đến đời sống KT – XH của đồng bào
Khmer. Mặc dù những người này không trực tiếp quản lý, nhưng những ý kiến của
họ có ý nghĩa quan trọng đến việc điều hành những hoạt động của phum, sóc. Một
số đông các vị Acha, Maha, Krou là những người có kinh nghiệm về sản xuất