Tải bản đầy đủ (.doc) (29 trang)

TIỂU LUẬN NÂNG CAO CHẤT LƯỢNG, HIỆU QUẢ CÔNG tác dân vận của ĐẢNG ý NGHĨA NÂNG CAO CHẤT LƯỢNG CÔNG tác dân vận TRONG QUÂN đội HIỆN NAY

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (213.74 KB, 29 trang )

NÂNG CAO HIỆU QUẢ CÔNG TÁC DÂN VẬN CỦA ĐẢNG. Ý NGHĨA
TRONG NÂNG CAO CHẤT LƯỢNG, HIỆU QUẢ CÔNG TÁC
DÂN VẬN CỦA QUÂN ĐỘI TRONG TÌNH HÌNH HIỆN NAY.
Quân đội nhân dân Việt Nam ra đời và lớn lên trong phong trào cách
mạng của nhân dân, do Đảng Cộng sản Việt Nam và Chủ tịch Hồ Chí Minh trực
tiếp tổ chức, lãnh đạo, giáo dục và rèn luyện, được nhân dân hết lòng thương
yêu đùm bọc, nuôi dưỡng nên ngay từ ngày đầu thành lập Quân đội nhân dân
Việt Nam đã mang trong mình bản chất của một đội quân cách mạng; bản chất
giai cấp công nhân, tính nhân dân, tính dân tộc, tinh thần yêu nước, yêu chủ
nghĩa xã hội, thống nhất hữu cơ, tác động qua lại trong suốt quá trình chiến đấu,
xây dựng và trưởng thành của quân đội ta. Đoàn kết và gắn bó máu thịt với nhân
dân là nguồn sức mạnh vô tận của quân đội, là nguyên tắc xây dựng lực lượng
vũ trang cách mạng theo tư tưởng Hồ Chí Minh và Đảng ta. Thực hiện tốt công
tác dân vận của Đảng, chính là thực hiện tốt chức năng “đội quân công tác” góp
phần tăng cường quan hệ giữa Đảng với nhân dân, cùng toàn dân thực hiện
thắng lợi sự nghiệp cách mạng của Đảng, của dân tộc chính là thực hiện tốt công
tác dân vận của Đảng.
Ngày nay, trong sự nghiệp đổi mới và hội nhập quốc tế, Đảng ta tiếp tục
khẳng định: Cách mạng là sự nghiệp của dân, do dân, vì dân. Đổi mới phải vì lợi
ích của nhân dân, dựa vào nhân dân, phát huy vai trò chủ động, sáng tạo của
nhân dân để xây dựng và bảo vệ Tổ quốc. Trong những năm qua, Đảng ta đã ban
hành nhiều chủ trương về công tác dân vận, các nghị quyết về đại đoàn kết toàn
dân tộc, công tác dân tộc, công tác tôn giáo, về công nhân, nông dân, thanh niên,
trí thức, phụ nữ… Nhà nước ta đã ban hành nhiều chủ trương, chính sách nhằm
chăm lo đời sống vật chất, tinh thần và phát huy mọi nguồn lực trong nhân dân.
Quán triệt quan điểm chỉ đạo của Đảng về tiếp tục làm tốt nhiệm vụ xây dựng
nền quốc phòng toàn dân, củng cố “thế trận lòng dân”, xây dựng quân đội nhân
dân cách mạng, chính quy, tinh nhuệ, từng bước hiện đại; cùng với việc thực
hiện tốt và đáp ứng các nhiệm vụ về quốc phòng, thì việc thực hiện công tác dân
1



vận của quân đội có một vị trí, vai trò rất quan trọng trong việc củng cố mối
quan hệ gắn bó, mật thiết giữa quân đội với nhân dân, tăng cường khối đại đoàn
kết toàn dân tộc vì mục tiêu dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn
minh. Trước yêu cầu mới, nhiệm vụ mới, việc nâng cao hiệu quả công tác dân
vận không chỉ có ý nghĩa về mặt lý luận mà còn có ý nghĩa về mặt thực tiễn,
nhất là trong tình hình hiện nay.
1. Những vấn đề lý luận và thực tiễn về nâng cao hiệu quả công tác
dân vận của Đảng trong tình hình hiện nay.
1.1. Tính tất yếu khách quan phải nâng cao hiệu quả công tác dân vận
1.1.1. Xuất phát từ quan điểm của chủ nghĩa Mác – Lê nin, tư tưởng Hồ
Chí Minh, quan điểm của Đảng ta về vai trò của công tác dân vận.
Theo C.Mác và Ph.Ăngghen, đảng và chính quyền của giai cấp vô sản cần
phải tiến hành công tác dân vận bởi vì: Quần chúng nhân dân có khả năng và lực
lượng to lớn, mà cách mạng vô sản muốn bảo đảm thắng lợi lâu dài cần phải
tranh thủ; Cách mạnh là sự nghiệp của quần chúng, nhưng chính bản thân quần
chúng cũng có những nhận thức, cần phải được tuyên truyền, giáo dục để hiểu
rõ mục đích, lý tưởng và trách nhiệm của mình; Quần chúng đông đảo là những
người hăng hái nhiệt tình cách mạng, nhưng cách mạng là một quá trình lâu dài,
gian khổ, khó khăn và có những lúc tạm thời thất bại, khiến quần chúng nhiều
hoài nghi, thất vọng. Vì vậy, cần phải thường xuyên tiến hành công tác vận động
quần chúng vì lợi ích thực sự của quần chúng .
Theo Lênin, để đảm bảo cho sự nghiệp cách mạng đi đến thắng lợi hoàn
toàn, Đảng và Chính quyền cách mạng không được xa rời quần chúng mà
thường xuyên phải: Liên hệ với quần chúng; Sống trong quần chúng; Biết tâm
trạng quần chúng; Biết tất cả; Hiểu quần chúng; Biết đến với quần chúng; Giành
được lòng tin tuyệt đối của quần chúng; Quần chúng là người sáng tạo ra lịch sử,
là người làm ra mọi của cải vật chất cho xã hội vì vậy xã hội phát triển nhanh
hay chậm đều phụ thuộc vào quần chúng nhân dân lao động họ có được giác ngộ
và hành động đúng hay không…

2


Thấm nhuần truyền thống văn hóa, truyền thống yêu nước, tư tưởng
“Nước lấy dân làm gốc” của cha ông ta trong lịch sử, sau này trên con đường đi
tìm đường cứu nước, cứu dân, tiếp thu quan điểm mácxít về vai trò của quần
chúng nhân dân trong cuộc đấu tranh giành và giữ chính quyền của giai cấp vô
sản và qua thực tiễn lãnh đạo, chỉ đạo cách mạng nước ta, Chủ tịch Hồ Chí Minh
đã đề cao vai trò của công tác dân vận, xem đó như là một trong những nhân tố
quyết định dẫn đến thành, bại mục tiêu, nhiệm vụ công việc của cách mạng.
Trong tác phẩm “Đường kách mệnh”, chủ tịch Hồ Chí minh viết:
“Cách mạng là sự nghiệp của dân chúng, chứ không phải việc riêng của
một, hai người 1 ”. Người xác định: “Trong bầu trời không có gì quý bằng
nhâ dân. trong thế giới không gì mạnh bằng lực lượng đoàn kết của nhân
dân” 2.Chủ tịch Hồ Chí Minh luôn nhắc nhở: “Lực lượng của dân rất to,
việc dân vận rất quan trọng, dân vận kém thì việc gì cũng khó, dân vận
khéo thì việc gì cũng thành công” 3. Người còn nói: “Làm việc gì cũng phải
có quần chúng, quần chúng tham gia bàn bạc, khó mấy cũng trở lên dễ
dàng và làm tốt được” 4.
Không chỉ chỉ ra lực lượng to lớn của nhân dân, tầm quan trọng của
công tác vận động nhân dân, Hồ Chí Minh còn chỉ ra cách thức làm công
tác dân vận: “Dân vận là vận động tất cả lực lượng của mỗi người dân,
không để sót một người nào, góp thành lực lượng toàn dân để thực hành
những công việc nên làm, những công việc Chính phủ và đoàn thể giao
cho” 5. Đồng thời Người cũng xác định rõ trách nhiệm: “Tất cả cán bộ

1

Hồ Chí Minh, Toàn tập, tập 2, Nxb CTQG, Hà Nội, 1981, tr.181.
Hồ Chí Minh, Toàn tập, tập 5, Nxb CTQG, Hà Nội, 1995, tr.699.

3
Hồ Chí Minh, Về Xây dựng Đảng, Nxb Sự thật, Hà Nội, 1980, tr. 208.
4
Hồ Chí Minh, Toàn tập, tập 5, Nxb CTQG, Hà Nội, 1995, tr.699.
5
Hồ Chí Minh, Toàn tập, tập 5, Nxb CTQG, Hà Nội, 1995, tr.699.
2

3


chính quyền, tất cả cán bộ đoàn thể và tất cả các hội viên của các tổ chức
nhân dân(Liên Việt, Việt Minh v.v..) đều phải phụ trách dân vận” 6.
Như vậy, theo tư tưởng của Người, công tác dân vận có tầm quan
trọng đặc biệt đối với cách mạng. Đó chính là việc tuyên truyền, vận động,
giác ngộ quần chúng, tổ chức xây dựng lực lượng để phát huy sức mạnh
của toàn dân thực hiện nhiệm vụ cách mạng. Dân vận là nhiệm vụ, trách
nhiệm của mọi tổ chức cách mạng, của mọi cán bộ, đảng viên. Thực tiễn
lãnh đạo cách mạng, đảng ta, Chủ tịch Hồ Chí Minh luôn coi trọng vai trò
của quần chúng và công tác vận động quần chúng, luôn dựa vào dân, lấy
dân làm gốc, do đó đã phát huy được sức mạnh của quần chúng để giành
thắng lợi. Sức mạnh của quần chúng nhân dân, dưới sự lãnh đạo của Đảng
có ý nghĩa quyết nghĩa quyết định trong thắng lợi của cách mạng Tháng
Tám(1945), chiến thắng Điện Biên Phủ(1954), Đại thắng Mùa Xuân (1975)
lịch sử và thắng lợi to lớn trong công cuộc đổi mới ở nước ta hiện nay.
Quán triệt quan điểm của chủ nghĩa Mác- Lênin, tư tưởng Hồ Chí
Minh, Đảng Cộng sản Việt Nam trung thành và vận dụng sáng tạo những
quan điểm cơ bản của chủ nghĩa Mác- Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh về vai
trò của quần chúng, từ khi thành lập đến nay, Đảng Cộng sản Việt Nam
luôn xác định: cách mạng là sự nghiệp của dân, do dân, vì dân; sức mạnh

của Đảng bắt nguồn từ nhân dân, quan hệ mật thiết với nhân dân, là mối
quan hệ bản chất của Đảng, là truyền thống vô cùng quý báu của Đảng, của
cách mạng Việt Nam. Đảng ta luôn coi công tác quần chúng là một công

6

Hồ Chí Minh, Toàn tập, tập 5, Nxb CTQG, Hà Nội, 1995, tr.699.

4


tác cơ bản của Đảng, đông thời xác định: “Dân vận và công tác dân vận là
nhiệm vụ có ý nghĩa chiến lược đối với toàn bộ sự nghiệp cách mạng nước
ta; là điều kiện quan trọng bảo đảm cho sự lãnh đạo của Đảng và củng cố,
tăng cường mối quan hệ giữa Đảng, Nhà nước và nhân dân, công tác dân
vận là trách nhiệm của tất cả các tổ chức trong hệ thống chính trị, của mọi
cán bộ, đảng viên, công chức, viên chức, đoàn viên, hội viên các đoàn thể
nhân dân, cán bộ, chiến sĩ trong lực lượng vũ trang” 7.
Thực tiễn đã chứng minh, ngay khi bước vào thực hiện công cuộc đổi
mới, trong Nghị quyết Ðại hội lần thứ VI, Ðảng ta đã xác định: Ðảng Cộng sản
Việt Nam do Chủ tịch Hồ Chí Minh sáng lập và rèn luyện, đã lãnh đạo nhân dân
ta đoàn kết chiến đấu làm Cách mạng Tháng Tám thành công, kháng chiến
thắng lợi, giành độc lập, tự do và thống nhất đất nước, xây dựng chủ nghĩa xã
hội và bảo vệ Tổ quốc xã hội chủ nghĩa. Thành tựu vĩ đại nói trên bắt nguồn từ
chỗ Ðảng ta có đường lối chính trị đúng đắn được nhân dân ủng hộ, có đội ngũ
cán bộ và đảng viên tiền phong chiến đấu, gắn bó chặt chẽ với nhân dân. Quan
hệ mật thiết giữa Ðảng và nhân dân đã trở thành nguồn sức mạnh và truyền
thống vô cùng quý báu của cách mạng Việt Nam. Cương lĩnh (bổ sung phát
triển 2011) tiếp tục khẳng định: “Sự nghiệp cách mạng là của nhân dân, do
nhân dân và vì nhân dân. Chính nhân dân là người làm nên những thắng lợi

lịch sử. Toàn bộ hoạt động của Ðảng phải xuất phát từ lợi ích và nguyện vọng
chính đáng của nhân dân. Sức mạnh của Ðảng là ở sự gắn bó mật thiết với
nhân dân. Quan liêu, tham nhũng, xa rời nhân dân sẽ dẫn đến những tổn thất
khôn lường đối với vận mệnh của đất nước, của chế độ xã hội chủ nghĩa và của
Ðảng”8.
1.1.2. Xuất phát từ âm mưu, thủ đoạn chống phá của kẻ thù
7

Quyết định số 290-QĐ/TW, ngày 25-2-2010, của Bộ Chính trị về ban hành "Quy chế công tác dân vận của hệ
thống chính trị"
8

Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ đi lên CNXH (bổ sung phát triển 2011), Nxb CTQG, Hà
Nội, 2011, tr.23

5


Năm 2012 và những tháng đầu năm 2013, nước ta tổ chức nhiều sự kiện
chính trị, kinh tế, văn hóa, xã hội, quốc phòng, an ninh và đối ngoại sâu rộng,
đặc biệt là triển khai thực hiện Nghị quyết Đại hội XI, các nghị quyết Trung
ương, nhất là Nghị quyết Trung ương 4; Quốc hội tổ chức nhiều kỳ họp quan
trọng, tập trung vào chuẩn bị và lấy ý kiến toàn dân về sửa đổi, bổ sung Hiến
pháp 1992 và Luật Đất đai (sửa đổi); các hoạt động đối ngoại của Đảng, Nhà
nước và nhân dân ta diễn ra sâu rộng trên mọi bình diện quốc tế và khu
vực... Cay cú trước những thành công đó, các thế lực thù địch đã tìm mọi cách
chống phá chúng ta trên tất cả mọi lĩnh vực của đời sống xã hội, với các thủ
đoạn: kích động, xuyên tạc sự thật, đưa ra vấn đề dân chủ, nhân quyền, dân tộc,
tôn giáo, được chúng coi là bốn mũi xung kích để nhằm chia rẽ mối quan hệ
giữa Đảng với nhân dân, chia rẽ khối đại đoàn kết toàn dân tộc, phá vỡ mối quan

hệ bản chất, sức mạnh của Đảng, của nhân dân và quân đội. Nhằm mục tiêu
“chuyển hóa” niềm tin của nhân dân, chúng thường xuyên theo dõi, bám
nắm mọi diễn biến đời sống chính trị, kinh tế và xã hội của nước ta. Chúng “dày
công” nghiên cứu, tổng hợp có hệ thống mọi vấn đề; tận dụng triệt để những
nhận định hạn chế, yếu kém, sơ hở trên các mặt, nhất là về chính trị, kinh tế, an
sinh xã hội, quốc phòng, an ninh và đối ngoại qua các báo cáo chính thức của
các cấp lãnh đạo Đảng, Nhà nước, bộ, ngành, địa phương… xem đó là điểm tựa,
“chứng minh” cho những quan điểm, chính kiến, nhận địch sai lầm của chúng;
Chúng luôn tập hợp những ý kiến, phát biểu của những người có “uy tín”, “vị
thế”, nhưng có quan điểm, chính kiến trung dung, thậm chí trái với đường lối,
quan điểm của Đảng, chủ trương, luật pháp của Nhà nước; kết hợp với sự tích
hợp, dẫn dắt những quan điểm, tư tưởng đối lập, sai lầm về chính trị từ những kẻ
tạo dựng là “nhà khoa học”, “nhân sĩ, trí thức yêu nước”, giả danh “chủ bút” báo
này, tạp chí nọ… để trực tiếp xen lồng, tuyên truyền các quan điểm, tư tưởng
thù địch chế độ ta; Nham hiểm hơn, chúng sử dụng chiêu thức tỏ ra “có” tính lý
luận, “bác học”, “uyên thâm”; “khoe mẽ” ở nước ngoài, “thông thạo” ngôn ngữ
nước sở tại để chế áp, ám thị theo lối “cả vú lấp miệng em”…, buộc người đọc
6


chấp nhận, tin theo. Chúng ra sức “tỉ thí”, thách đố các nhà khoa học, chính giới
lý luận của ta về những “luận cứ”, “luận điểm” bảo là tìm thấy từ các nguyên
tác, “gốc” được C.Mác và Ph.Ăngghen viết hoặc xuất bản bằng tiếng Đức; Để
tăng “hiệu quả” tiến công, chúng luôn đan cài những tư tưởng, quan điểm
mácxít - giả danh mácxít, đúng - sai lẫn lộn, làm cho người đọc mất phương
hướng, không phân biệt được ngay - gian, chính - tà. Ví như: Trích dẫn một cách
cắt xén, nửa vời những quan điểm của chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí
Minh để đối lập, bác bỏ, phủ nhận hệ thống đường lối, quan điểm của Đảng,
chính sách, luật pháp của Nhà nước ta, nhằm bác bỏ, phủ nhận luôn cả chủ nghĩa
Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh; hướng lái người đọc theo định hướng tư

tưởng của chúng, mà thực chất chỉ là những tư tưởng hận thù dân tộc, dân tộc
cực đoan hay dân chủ tư sản phản động; Chúng luôn khoét sâu những điểm yếu
kém, hạn chế trong thực thi công vụ của các cơ quan, cán bộ lãnh đạo, quản lý
từ Trung ương đến cơ sở; tạo dựng ra cái gọi là phe này, phái nọ hay những
“cuộc đấu đá”, tranh giành quyền lực… để gây lòng nghi kỵ, ngờ vực, phá hoại
lòng tin vào Đảng, Chính phủ, chia rẽ khối đại đoàn kết toàn dân tộc; qua đó,
kích động lòng người, cổ vũ cho những tư tưởng, hành động cực đoan, chống
phá chính quyền Nhà nước.
Trước tình hình trên, vấn đề nâng cao hơn nữa chất lượng công tác
dân vận trong tình hình hiện nay là một vấn đề tất yếu, Trước tình hình
trên, vấn đề nâng cao hơn nữa chất lượng công tác dân vận là một vấn đề
vô cùng quan trọng, nhằm định hướng và cổ vũ toàn Đảng, toàn dân và
toàn quân ta tiếp tục phát huy sức mạnh toàn dân tộc, đẩy mạnh toàn diện
công cuộc đổi mới, tạo ra sức mạnh tổng hợp, thực hiện thắng lợi mục tiêu
“dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh”.
1.1.3. Từ thực trạng công tác dân vận thời gian qua

7


Trong giai đoạn hiện nay, Ðảng đặc biệt coi trọng đổi mới công tác quần
chúng tạo mọi điều kiện để thực hiện quyền làm chủ của nhân dân. Nghị quyết
số 25-NQ/TW ngày 3/6/2013 Hội nghị Trung ương 7 khóa XI về tăng cường và
đổi mới sự lãnh đạo của Đảng đối với công tác dân vận trong tình hình mới đã
đánh giá thực trạng, nguyên nhân về công tác dân vận thời gian qua
* Về thực trạng:
Trong quá trình lãnh đạo cách mạng, Đảng ta luôn xác định công tác dân
vận là nhiệm vụ có ý nghĩa chiến lược đối với sự nghiệp cách mạng của đất
nước; là điều kiện quan trọng bảo đảm sự lãnh đạo của Đảng, củng cố và tăng
cường mối quan hệ máu thịt giữa Đảng, Nhà nước với nhân dân. Ban Chấp hành

Trung ương, Bộ Chính trị, Ban Bí thư các khóa đã ban hành nhiều chủ trương về
công tác dân vận. Trên cơ sở đó, công tác dân vận đã đạt được những kết quả
quan trọng. Nội dung, phương thức lãnh đạo của Đảng, quản lý của Nhà nước
đối với công tác vận động nhân dân được đổi mới; đã có nhiều chủ trương, chính
sách phát triển kinh tế, bảo đảm an sinh xã hội, xóa đói, giảm nghèo; nâng cao
đời sống vật chất, tinh thần; phát huy quyền làm chủ của nhân dân. Hệ thống tổ
chức Mặt trận Tổ quốc, các đoàn thể chính trị - xã hội được kiện toàn, củng cố,
đổi mới phương thức hoạt động; giữ vai trò nòng cốt trong xây dựng khối đại
đoàn kết toàn dân tộc, thực hiện Quy chế dân chủ ở cơ sở. Đã có nhiều hình thức
hoạt động vận động nhân dân, tích cực tham gia xây dựng Đảng, xây dựng Nhà
nước trong sạch, vững mạnh, đẩy mạnh các phong trào thi đua yêu nước, thúc
đẩy các hoạt động đối ngoại nhân dân và công tác vận động người Việt Nam ở
nước ngoài. Quyền và lợi ích hợp pháp, chính đáng của đoàn viên, hội viên được
chăm lo, bảo vệ; công tác tập hợp, phát triển đoàn viên, hội viên được chú trọng;
công tác giáo dục thế hệ trẻ được quan tâm.
Công tác dân vận thời gian qua đã góp phần tạo sự đồng thuận trong xã
hội, phát huy sức mạnh đại đoàn kết toàn dân tộc, thực hiện thắng lợi công cuộc
đổi mới, bảo đảm quốc phòng, an ninh, ổn định chính trị, nâng cao đời sống vật
chất và tinh thần của nhân dân.
8


Tuy nhiên, công tác dân vận còn nhiều hạn chế, yếu kém. Việc xây dựng
và triển khai thực hiện các nghị quyết, chỉ thị của Đảng về công tác dân vận còn
chưa kịp thời, kém hiệu quả; chưa đánh giá và dự báo chính xác những diễn
biến, thay đổi cơ cấu xã hội, thành phần dân cư, tâm tư, nguyện vọng của các
tầng lớp nhân dân...để có chủ trương, chính sách phù hợp. Việc thể chế hoá chủ
trương, quan điểm của Đảng về công tác dân vận chưa kịp thời, nhất là cơ chế
"Đảng lãnh đạo, Nhà nước quản lý, nhân dân làm chủ". Công tác kiểm tra, sơ
kết, tổng kết việc thực hiện các nghị quyết, chỉ thị của Đảng về công tác dân vận

chưa được quan tâm đúng mức. Một số chính sách chưa đáp ứng nguyện vọng,
lợi ích của nhân dân, nhiều bức xúc chưa được giải quyết; quyền làm chủ của
nhân dân ở nhiều nơi bị vi phạm, làm giảm lòng tin của nhân dân đối với Đảng,
Nhà nước.
* Về nguyên nhân:
Một số cấp ủy đảng chưa nhận thức đầy đủ về vị trí, vai trò của công tác
dân vận; chưa thấy hết trách nhiệm và chưa quan tâm đúng mức lãnh đạo, chỉ
đạo công tác này. Một bộ phận không nhỏ cán bộ, đảng viên, trong đó có cán bộ
lãnh đạo, quản lý còn thiếu gương mẫu, suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức,
lối sống. Phương thức lãnh đạo của Đảng về công tác dân vận chậm được đổi
mới, chưa theo kịp sự phát triển nhanh chóng của thực tiễn. Tổ chức đảng, chính
quyền, mặt trận, đoàn thể chính trị - xã hội ở một số cơ sở yếu kém, giảm sút vai
trò lãnh đạo, phối hợp thiếu chặt chẽ, không sát dân, không làm tốt công tác
tuyên truyền vận động nhân dân. Chưa xác định rõ trọng tâm, trọng điểm và bố
trí đủ nguồn lực cho việc triển khai, thực hiện chủ trương, chính sách công tác
dân vận. Phương pháp vận động, tập hợp quần chúng chưa phù hợp với từng đối
tượng, đặc biệt là đối với đội ngũ trí thức, văn nghệ sĩ, thanh niên, người theo
đạo. Việc chăm lo, đào tạo, bồi dưỡng đội ngũ cán bộ làm công tác dân vận,
đoàn thể chưa thực sự đáp ứng yêu cầu.
Trong điều kiện Đảng cầm quyền, xây dựng Nhà nước pháp quyền, phát
triển kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, hội nhập quốc tế, có rất
9


nhiều vấn đề mới đặt ra tác động đến tư tưởng, tình cảm, đời sống của cán bộ,
đảng viên và nhân dân. Sự phân hóa giàu nghèo, phân tầng xã hội, cùng với tệ
quan liêu, tham nhũng, xa dân, xâm phạm quyền làm chủ của nhân dân, làm
giảm sút lòng tin của nhân dân đối với Đảng, là thách thức đối với mối quan hệ
giữa nhân dân với Đảng. Thực tiễn đòi hỏi Đảng cần tăng cường và đổi mới sự
lãnh đạo đối với công tác dân vận, củng cố vững chắc niềm tin của nhân dân đối

với Đảng, tăng cường mối liên hệ giữa Đảng với dân cũng như khối đại đoàn kết
toàn dân; phát huy sức mạnh to lớn của toàn dân phục vụ sự nghiệp xây dựng và
bảo vệ Tổ quốc.
1.2. Mục tiêu, quan điểm, nhiệm vụ và giải pháp công tác dân vận
theo tinh thần Nghị quyết số 25-NQ/TW ngày 3/6/2013 Hội nghị Trung
ương 7 khóa XI về tăng cường và đổi mới sự lãnh đạo của Đảng đối với
công tác dân vận trong tình hình mới.
* Về mục tiêu: Tăng cường và đổi mới sự lãnh đạo của Đảng đối với công
tác dân vận trong tình hình mới nhằm củng cố vững chắc lòng tin của nhân dân
đối với Đảng; tăng cường khối đại đoàn kết toàn dân tộc và mối quan hệ máu
thịt giữa Đảng với nhân dân; tập hợp, vận động nhân dân thực hiện tốt các chủ
trương của Đảng và chính sách, pháp luật của Nhà nước; phát huy sức mạnh to
lớn của nhân dân, tạo phong trào cách mạng rộng lớn xây dựng và bảo vệ Tổ
quốc, thực hiện thành công sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước.
* Về quan điểm:
Một là, cách mạng là sự nghiệp của nhân dân, do nhân dân, vì nhân dân;
nhân dân là chủ, nhân dân làm chủ.
Hai là, động lực thúc đẩy phong trào nhân dân là phát huy quyền làm chủ,
đáp ứng lợi ích thiết thực của nhân dân; kết hợp hài hòa các lợi ích; quyền lợi
phải đi đôi với nghĩa vụ công dân; chú trọng lợi ích trực tiếp của người dân; huy
động sức dân phải đi đôi với bồi dưỡng sức dân; những gì có lợi cho dân thì hết
sức làm, những gì có hại cho dân thì hết sức tránh.

10


Ba là, phương thức lãnh đạo công tác dân vận của Đảng phải gắn liền với
công tác xây dựng Đảng, Nhà nước trong sạch, vững mạnh. Mọi quan điểm, chủ
trương của Đảng, pháp luật của Nhà nước phải phù hợp với lợi ích của nhân dân,
do nhân dân, vì nhân dân. Mỗi cán bộ, đảng viên, công chức, viên chức phải

gương mẫu để nhân dân tin tưởng, noi theo.
Bốn là, công tác dân vận là trách nhiệm của cả hệ thống chính trị, của cán
bộ, đảng viên, công chức, viên chức, đoàn viên, hội viên các đoàn thể nhân dân,
cán bộ, chiến sĩ lực lượng vũ trang. Trong đó, Đảng lãnh đạo, chính quyền tổ
chức thực hiện, Mặt trận, đoàn thể làm tham mưu và nòng cốt.
Năm là, Nhà nước tiếp tục thể chế hóa cơ chế "Đảng lãnh đạo, Nhà nước
quản lý, nhân dân làm chủ" thành quy chế, quy định để các tổ chức trong hệ
thống chính trị; cán bộ, đảng viên, công chức, viên chức và cán bộ, chiến sĩ lực
lượng vũ trang thực hiện công tác dân vận; các hình thức tập hợp nhân dân phải
phong phú, đa dạng, khoa học, hiệu quả.
* Về nhiệm vụ, giải pháp:
Một là, tăng cường xây dựng Đảng về chính trị, tư tưởng và tổ chức, cán
bộ; tập trung giải quyết kịp thời, có hiệu quả những bức xúc chính đáng của
nhân dân; làm cho nhân dân tin tưởng vào sự lãnh đạo của Đảng, tăng cường
mối quan hệ máu thịt của nhân dân với Đảng và Nhà nước
Kiên quyết, kiên trì thực hiện tốt Nghị quyết Trung ương 4 khóa XI về
xây dựng Đảng, làm cho Đảng ta thực sự trong sạch, vững mạnh. Thực hiện
nghiêm túc nguyên tắc tập trung dân chủ, tự phê bình và phê bình trong sinh
hoạt đảng; ngăn chặn và đẩy lùi tình trạng suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo
đức, lối sống. Sớm ban hành và thực hiện tốt quy chế giám sát và phản biện xã
hội của Mặt trận Tổ quốc và các đoàn thể chính trị - xã hội, quy định để Mặt trận
Tổ quốc, các đoàn thể chính trị - xã hội và nhân dân tham gia góp ý xây dựng
Đảng, xây dựng Nhà nước trong sạch, vững mạnh.
Không ngừng nâng cao chất lượng các tổ chức cơ sở đảng, hiệu lực, hiệu
quả của bộ máy nhà nước từ Trung ương đến cơ sở. Cán bộ, đảng viên, công
11


chức, viên chức phải hiểu dân, gương mẫu, tận tuỵ với công việc, nói đi đôi với
làm để nhân dân tin tưởng, noi theo. Quan tâm quy hoạch, đào tạo, bồi dưỡng

cán bộ, gắn với nâng cao chất lượng đội ngũ cán bộ, đáp ứng yêu cầu trong tình
hình mới.
Nghiên cứu sửa đổi, bổ sung quy định của Hiến pháp về quyền con người,
quyền và nghĩa vụ của công dân trên cơ sở tôn trọng quyền làm chủ của nhân
dân, tạo điều kiện để nhân dân phát huy đầy đủ quyền và thực hiện tốt nghĩa vụ
của mình.
Các cấp, các ngành, địa phương, đơn vị tập trung giải quyết những bức
xúc, nguyện vọng chính đáng của nhân dân, nhất là những vấn đề liên quan trực
tiếp đến đời sống, việc làm, đền bù thu hồi đất đai, tai nạn giao thông, tệ nạn xã
hội. Trong xây dựng thể chế, chính sách, cần quán triệt và thực hiện nghiêm
nguyên tắc: mọi chủ trương của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước phải
thuận với lòng dân, xuất phát từ lợi ích và nguyện vọng chính đáng của nhân
dân. Chú trọng cải thiện đời sống vật chất và tinh thần của nhân dân, nhất là điều
kiện sống, lao động, học tập, sáng tạo, nghỉ ngơi, chăm sóc sức khỏe.
Quan tâm điều chỉnh hài hòa lợi ích giữa các giai tầng xã hội, các vùng
miền, các lĩnh vực; gắn nghĩa vụ với quyền lợi, cống hiến với hưởng thụ, lợi ích
cá nhân với lợi ích tập thể và cộng đồng, xã hội.
Xử lý nghiêm minh những vụ việc tiêu cực, tham nhũng; giải quyết dứt
điểm những vụ việc khiếu kiện đông người phức tạp, kéo dài.
Hai là, nâng cao nhận thức của đội ngũ cán bộ Đảng, Nhà nước, Mặt
trận, đoàn thể chính trị - xã hội và các tầng lớp nhân dân về vai trò, vị trí công
tác dân vận trong tình hình mới
Đổi mới và nâng cao chất lượng tuyên truyền, giáo dục, làm cho cán bộ,
đảng viên và nhân dân nắm vững, nhất trí với mục tiêu, quan điểm, nhiệm vụ
công tác dân vận; quán triệt sâu sắc tư tưởng của Chủ tịch Hồ Chí Minh: "Lực
lượng của dân rất to. Việc dân vận rất quan trọng. Dân vận kém thì việc gì cũng
kém. Dân vận khéo thì việc gì cũng thành công". Công tác dân vận trong tình
12



hình mới phải phát huy sức mạnh đại đoàn kết toàn dân tộc dưới sự lãnh đạo của
Đảng, củng cố mối quan hệ mật thiết giữa Đảng, Nhà nước với nhân dân, tạo
động lực để nhân dân đóng góp tích cực vào phát triển kinh tế - xã hội. Làm tốt
công tác dân tộc, tôn giáo, công tác đối với người Việt Nam ở nước ngoài.
Củng cố, tăng cường quốc phòng, an ninh, bảo vệ vững chắc độc lập, chủ
quyền, thống nhất và toàn vẹn lãnh thổ của Tổ quốc. Không ngừng nâng cao vị
thế, vai trò của Việt Nam trong khu vực và trên thế giới; góp phần thực hiện
thắng lợi mục tiêu "dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh", vững
bước đi lên chủ nghĩa xã hội.
Tăng cường lãnh đạo công tác thông tin, tuyên truyền, phát huy sức mạnh
tổng hợp của các cơ quan thông tin đại chúng; mở rộng các kênh thông tin
truyền thông, đối thoại trực tiếp với nhân dân, góp phần giải tỏa bức xúc, hoài
nghi trong xã hội. Chú trọng việc định hướng và quản lý các phương tiện thông
tin đại chúng, nhất là các mạng xã hội; phát huy sức mạnh của dư luận xã hội
lành mạnh hỗ trợ cho các biện pháp quản lý của Nhà nước và các biện pháp
tuyên truyền, giáo dục, vận động của Mặt trận và các đoàn thể nhân dân. Chủ
động đấu tranh với các luận điệu xuyên tạc, kích động của các thế lực thù địch
chống phá khối đại đoàn kết dân tộc, chia rẽ giữa Đảng, Nhà nước với nhân dân.
Đẩy mạnh tuyên truyền, cổ vũ và nhân rộng các nhân tố mới, các điển
hình tiên tiến, gương người tốt, việc tốt trên mọi lĩnh vực; phát huy tinh thần yêu
nước, thực hành dân chủ, tạo ra phong trào hành động cách mạng của toàn dân
thực hiện thắng lợi công cuộc đổi mới và phát triển đất nước. Thường xuyên tổ
chức học tập, quán triệt sâu sắc các quan điểm, giải pháp về công tác dân vận
của Đảng để mỗi cán bộ, đảng viên, công chức, viên chức là cán bộ dân vận của
Đảng. Phát hiện, bồi dưỡng kỹ năng vận động nhân dân cho những người có uy
tín trong cộng đồng dân cư, tạo điều kiện để họ tham gia tuyên truyền đường lối,
chủ trương của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước, tạo sự lan tỏa, sức
sống của công tác dân vận trong tình hình mới.
Ba là, tăng cường và đổi mới công tác dân vận của các cơ quan nhà nước
13



Thể chế hóa các quan điểm, chủ trương mới của Đảng về dân vận thành
các văn bản pháp luật để các cấp chính quyền, cán bộ, đảng viên, công chức,
viên chức và các tầng lớp nhân dân thực hiện. Nghiên cứu sửa đổi, bổ sung và
hoàn thiện các chính sách cụ thể đối với giai cấp công nhân, giai cấp nông dân,
đội ngũ trí thức, doanh nhân, thế hệ trẻ, phụ nữ, cựu chiến binh, người cao tuổi.
Ban hành các cơ chế, chính sách hỗ trợ, giúp đỡ đồng bào định cư ở nước ngoài
ổn định cuộc sống, giữ gìn và phát huy bản sắc văn hoá dân tộc, hướng về Tổ
quốc, đóng góp xây dựng đất nước; góp phần tăng cường hợp tác, hữu nghị giữa
nhân dân ta với nhân dân các nước.
Cán bộ, công chức, viên chức phải có trách nhiệm vận động nhân dân.
Xây dựng và thực hiện phong cách: "trọng dân, gần dân, hiểu dân, học dân và có
trách nhiệm với dân", "nghe dân nói, nói dân hiểu, làm dân tin"; thường xuyên
đi công tác cơ sở. Các cơ quan nhà nước, nhất là những ngành, cơ quan, đơn vị
có quan hệ trực tiếp với nhân dân cần công khai các quy định cụ thể về trách
nhiệm, thái độ phục vụ nhân dân của cán bộ, công chức, viên chức để nhân dân
biết và giám sát, kiểm tra việc thực hiện. Đẩy mạnh cải cách thủ tục hành chính,
đổi mới lề lối làm việc, chấn chỉnh thái độ phục vụ nhân dân của đội ngũ cán bộ,
công chức, viên chức. Tăng cường đối thoại, tiếp xúc trực tiếp với nhân dân và
giải quyết kịp thời đơn, thư khiếu tố của dân. Làm tốt công tác thanh tra nhân
dân, công tác hòa giải ở cơ sở; thực hiện quy chế dân chủ ở cơ sở; chủ động nắm
tình hình và giải quyết những công việc liên quan đến đời sống của nhân dân.
Chú trọng bảo đảm an sinh xã hội, giải quyết tốt các chính sách đối với
người nghèo, người khuyết tật và các chính sách phát triển kinh tế, văn hoá, xã
hội ở các vùng đồng bào dân tộc ít người, để các dân tộc trong cộng đồng dân
tộc Việt Nam bình đẳng, đoàn kết, tôn trọng và giúp nhau cùng phát triển.
Bốn là, đẩy mạnh phong trào thi đua yêu nước, góp phần thúc đẩy quá
trình công nghiệp hoá, hiện đại hoá, hội nhập quốc tế, giữ vững độc lập chủ
quyền, an ninh chính trị


14


Trong tình hình mới, công tác dân vận phải tập hợp được quần chúng
nhân dân thành lực lượng xã hội rộng rãi tham gia các phong trào thi đua yêu
nước theo tinh thần "Thi đua là yêu nước, yêu nước phải thi đua". Toàn Đảng,
toàn dân và toàn quân phải kết thành một khối vững chắc, làm nên sức sống các
phong trào thi đua. Các cấp ủy đảng, chính quyền, Mặt trận Tổ quốc và các đoàn
thể nhân dân bám sát nhiệm vụ chính trị, nắm bắt lợi ích chính đáng của các
tầng lớp nhân dân để xác định nội dung và lựa chọn cách thức phát động thi đua
sát với thực tế của địa phương, đơn vị với nhiều hình thức đa dạng, phong phú,
phù hợp với từng đối tượng. Đẩy mạnh phong trào thi đua "Dân vận khéo" gắn
với việc "Học tập và làm theo tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh" và các phong
trào do Mặt trận Tổ quốc, các đoàn thể chính trị - xã hội phát động.
Các phong trào thi đua cần thiết thực, tiết kiệm, tránh hình thức, sáo rỗng;
lấy hiệu quả về chính trị, kinh tế - xã hội làm thước đo đánh giá từng phong trào
thi đua. Thường xuyên theo dõi, đôn đốc, kiểm tra, sơ kết, tổng kết, khen thưởng
kịp thời. Vận động và tạo điều kiện để các tầng lớp nhân dân phát huy cao độ
tiềm năng, sức sáng tạo, tích cực lao động, học tập, sản xuất, kinh doanh, làm
giàu cho mình, cho cộng đồng và đất nước; tham gia đấu tranh, phòng, chống tội
phạm, tiêu cực, tệ nạn xã hội.
Năm là, đổi mới nội dung, phương thức hoạt động của Mặt trận Tổ quốc
và các đoàn thể chính trị - xã hội, các hội quần chúng để tập hợp nhân dân, đáp
ứng yêu cầu nhiệm vụ trong tình hình mới.
Mặt trận Tổ quốc, đoàn thể nhân dân tiếp tục đổi mới nội dung, phương
thức hoạt động, thực hiện tốt vai trò là người đại diện, bảo vệ quyền lợi chính
đáng, hợp pháp của đoàn viên, hội viên; đa dạng hoá các hình thức tập hợp nhân
dân, hướng về cơ sở, tập trung cho cơ sở, phù hợp với trình độ dân trí và đặc
điểm, tình hình cụ thể của từng giai tầng xã hội, trong từng giai đoạn cách mạng.

Mặt trận Tổ quốc, các đoàn thể chính trị - xã hội làm tham mưu và nòng
cốt trong việc nắm bắt dư luận xã hội, phát huy dân chủ, năng lực trí tuệ, ý thức

15


trách nhiệm của công dân trong thực hiện giám sát xây dựng chính quyền, xây
dựng Đảng.
Đổi mới phương thức lãnh đạo của Đảng, quản lý của Nhà nước đối với
Mặt trận Tổ quốc và các đoàn thể chính trị - xã hội, tạo điều kiện để Mặt trận Tổ
quốc và các đoàn thể chính trị - xã hội tăng thêm tính tự chủ, chủ động hơn
trong hoạt động, để gần dân, sát dân hơn.
Phát triển các tổ chức quần chúng theo nguyên tắc tự nguyện, tự quản và
tự trang trải, tạo môi trường và điều kiện để nhân dân phát huy sức lực, trí tuệ
sáng tạo theo nguyện vọng trên cơ sở pháp luật. Nâng cao chất lượng hoạt động
các tổ chức đoàn thể, đoàn viên, hội viên; phát hiện, lựa chọn những đoàn viên,
hội viên ưu tú, đủ tiêu chuẩn để giới thiệu kết nạp vào Đảng, giới thiệu quy
hoạch, đào tạo cán bộ. Phát huy vai trò xung kích, sáng tạo của tuổi trẻ; tạo môi
trường, cơ chế, chính sách thuận lợi cho tuổi trẻ rèn đức, luyện tài, lao động, học
tập, phấn đấu, cống hiến cho đất nước. Coi trọng giáo dục chính trị tư tưởng, bồi
dưỡng cho thanh, thiếu niên trở thành những người kế tục xứng đáng sự nghiệp
cách mạng của Đảng.
Xây dựng cơ chế phối hợp giữa Mặt trận Tổ quốc, các đoàn thể chính trị xã hội với các hội quần chúng, với chính quyền, lực lượng vũ trang trong công
tác dân vận. Phát huy vai trò của người có uy tín trong cộng đồng. Phát huy vai
trò công tác đối ngoại nhân dân và vận động người Việt Nam ở nước ngoài giữ
gìn bản sắc dân tộc, hình ảnh con người, đất nước Việt Nam và hướng về xây
dựng quê hương, đất nước; tranh thủ sự đồng tình và ủng hộ của bạn bè và các
tổ chức quốc tế.
Sáu là, quan tâm xây dựng, củng cố tổ chức, bộ máy, đội ngũ cán bộ Ban
Dân vận, Mặt trận, đoàn thể nhân dân các cấp vững mạnh

Củng cố ban dân vận các cấp; chăm lo xây dựng đội ngũ cán bộ dân vận
của Đảng, đặc biệt là đội ngũ cán bộ tham mưu chiến lược; có cơ chế, chính
sách thu hút người có năng lực, có uy tín, có kinh nghiệm làm công tác dân vận;
chú trọng luân chuyển, đào tạo, bồi dưỡng bố trí, sử dụng đội ngũ cán bộ làm
16


công tác dân vận, nhất là cán bộ trẻ tuổi, có năng lực; khắc phục tình trạng đưa
cán bộ phẩm chất, năng lực yếu kém và không có uy tín về làm công tác dân
vận.
Kiện toàn tổ chức, bộ máy và cán bộ của Mặt trận Tổ quốc và các đoàn
thể chính trị - xã hội, đáp ứng yêu cầu về trình độ lý luận, năng lực thực tiễn và
kỹ năng công tác vận động nhân dân.
Các cơ quan tham mưu của Đảng phải nâng cao nhận thức và trách nhiệm
trong công tác tham mưu, tư vấn cho Ban Chấp hành Trung ương, Bộ Chính trị,
Ban Bí thư và các cấp uỷ đảng về công tác dân vận; có chế độ báo cáo, thông tin
kịp thời, đầy đủ về tình hình nhân dân và những hạn chế trong hoạt động lãnh
đạo của Đảng về công tác dân vận.
Bảy là, tăng cường lãnh đạo, chỉ đạo, kiểm tra và giám sát việc thực hiện
công tác dân vận
Các tổ chức đảng từ Trung ương đến cơ sở phải đổi mới công tác lãnh
đạo, chỉ đạo tổ chức thực hiện để nghị quyết, chỉ thị của Đảng về công tác dân
vận sớm đi vào cuộc sống, có hiệu quả thiết thực. Phải xác định công tác vận
động và chăm lo lợi ích của nhân dân là một trong những nội dung chủ yếu
trong hoạt động của mình; có kế hoạch thường xuyên tìm hiểu tình hình đời
sống, tâm tư, nguyện vọng của nhân dân để có chủ trương, biện pháp xử lý đúng
đắn, kịp thời. Các cấp ủy đảng lãnh đạo chính quyền, Mặt trận Tổ quốc và đoàn
thể nhân dân phối hợp chặt chẽ trong giải quyết các công việc liên quan đến
nhân dân và vận động nhân dân thực hiện tốt quyền và nghĩa vụ công dân.
Các cơ quan đảng ở Trung ương thường xuyên phối hợp, kiểm tra, giám

sát chặt chẽ quá trình triển khai thực hiện; đồng thời theo dõi, kiểm tra việc thể
chế hóa các quan điểm, chủ trương của Đảng về công tác dân vận. Quan tâm
nghiên cứu lý luận, tổng kết thực tiễn, giải đáp kịp thời những vấn đề thực tiễn
đặt ra, nhất là về xây dựng và củng cố niềm tin của nhân dân đối với Đảng, mối
quan hệ giữa Đảng với nhân dân, từ đó tham mưu với cấp có thẩm quyền ban
hành các chủ trương, chính sách phù hợp.
17


2. Ý nghĩa đối với việc nâng cao chất lượng, hiệu quả công tác dân
vận của Quân đội trong tình hình hiện nay.
Thấm nhuần quan điểm của Đảng, tư tưởng Hồ Chí Minh về xây dựng
Quân đội nhân dân Việt Nam, 69 năm qua với chức năng là đội quân chiến đấu,
đội quân công tác và đội quân lao động sản xuất, Quân đội nhân dân Việt Nam
đã hoàn thành tốt chức năng, nhiệm vụ của mình, đóng góp xứng đáng vào sự
nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc. Với vinh dự lớn, có ý nghĩa sâu sắc, quân
đội ta được vinh danh Bộ đội Cụ Hồ; từ nhân dân mà ra, vì nhân dân chiến đấu
và trưởng thành. Kể từ ngày thành lập Quân đội nhân dân Việt Nam đến nay là
cả một chặng đường lịch sử ghi đậm nhiều mốc son chói lọi, hào hùng, tô thắm
trang sử vàng truyền thống của dân tộc, của Quân đội nhân dân Việt Nam anh
hùng. Trong mọi chiến công và thành quả cách mạng của quân đội, đều có sự
đóng góp to lớn cả về trí tuệ, vật chất và tinh thần của nhân dân ta. Với phương
châm: Dựa vào dân để xây dựng lực lượng; phối hợp với dân chiến đấu và
trưởng thành, sẵn sàng cứu giúp dân khi bị thiên tai, bão, lũ; cùng với dân phát
triển sản xuất, ổn định đời sống và giữ vững an ninh quốc phòng... đã thể hiện
sâu sắc tình cảm, trách nhiệm và mối quan hệ gắn bó, mật thiết, không gì lay
chuyển được giữa quân đội và nhân dân ta trong kháng chiến cũng như trong
xây dựng và bảo vệ Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa.
Công tác dân vận của Quân đội nhân dân Việt Nam là một nội dung cơ
bản của công tác đảng, công tác chính trị được Quân ủy Trung ương, Bộ Quốc

phòng và cấp ủy, chỉ huy các đơn vị hết sức quan tâm lãnh đạo, chỉ đạo; coi đó
vừa là trách nhiệm chính trị, vừa thể hiện bản chất, truyền thống tốt đẹp của “Bộ
đội Cụ Hồ” - từ nhân dân mà ra, vì nhân dân mà chiến đấu, gắn bó máu thịt với
nhân dân. Qua từng giai đoạn cách mạng, công tác dân vận của quân đội luôn
quán triệt và thực hiện nghiêm túc các nghị quyết, chỉ thị, quy chế của Đảng và
QUTƯ về công tác dân vận, nên đã đạt được nhiều kết quả quan trọng. Thực
hiện Nghị quyết 152-NQ/ĐUQSTW của QUTƯ, công tác dân vận của quân đội
đã đi vào chiều sâu, hoạt động đúng định hướng, bám sát yêu cầu nhiệm vụ, đến
18


với mọi tầng lớp nhân dân, vận dụng cụ thể sát với từng đối tượng, địa bàn và
điều kiện của từng đơn vị. Công tác lãnh đạo, chỉ đạo và tổ chức phối hợp, hiệp
đồng giữa các đơn vị với các lực lượng làm công tác dân vận đã thường xuyên
được chú trọng và thực hiện theo một cơ chế thống nhất. Nội dung, hình thức
công tác dân vận đa dạng, phong phú, hướng về cơ sở, tập trung vào những địa
bàn chiến lược, trọng điểm, vùng sâu, vùng xa, biên giới, biển, đảo, vùng dân
tộc, tôn giáo...
2.1. Thực trạng công tác dân vận của quân đội trong thời gian qua
Quán triệt quan điểm, đường lối, chủ trương của Đảng, sự chỉ đạo của
Quân ủy Trung ương, Bộ Quốc phòng, Tổng cục Chính trị về công tác dân vận
những năm qua, lãnh đạo, chỉ huy các cấp trong toàn quân đã bám sát nhiệm vụ
chính trị, đặc điểm, đối tượng, địa bàn, tiến hành đổi mới nội dung, hình thức
hoạt động; có nhiều chương trình hoạt động phối hợp, kết nghĩa giữa Quân đội
với các bộ, ngành, các tổ chức chính trị - xã hội, các địa phương trong cả nước,
mang lại hiệu quả thiết thực trong hoạt động công tác dân vận. Với phương
châm “Hướng mạnh về cơ sở”, các đơn vị đã chủ động phối hợp cùng cấp ủy,
chính quyền địa phương tuyên truyền, vận động nhân dân thực hiện thắng lợi
đường lối, chủ trương, chính sách của Đảng, pháp luật của Nhà nước; nhận rõ
âm mưu, thủ đoạn “diễn biến hoà bình”, bạo loạn lật đổ của các thế lực thù địch.

Đồng thời, cán bộ, chiến sĩ các đơn vị đã tích cực tham gia xây dựng cơ sở, địa
phương vững mạnh toàn diện, củng cố, kiện toàn, nâng cao chất lượng hoạt
động của hệ thống chính trị cơ sở trên các địa bàn chiến lược, trọng điểm, vùng
sâu, vùng xa, vùng đồng bào các dân tộc thiểu số, vùng biên giới, hải đảo. Các
đơn vị, địa phương đã chủ động phối hợp chặt chẽ với các lực lượng chức năng
nắm chắc tình hình địa bàn, kịp thời tham mưu cho cấp ủy, chính quyền địa
phương xây dựng thế trận quốc phòng toàn dân, gắn với thế trận an ninh nhân
dân; tham gia giải quyết có hiệu quả các vụ việc phức tạp ở cơ sở, góp phần ổn
định tình hình chính trị, trật tự, an toàn xã hội; thúc đẩy kinh tế - xã hội phát

19


triển, giúp dân xoá đói giảm nghèo, nâng cao dân trí; phòng, chống các loại dịch
bệnh và khắc phục hậu quả thiên tai, cứu hộ, cứu nạn...
Từ năm 2011 đến nay, các đơn vị trong toàn quân đã tham mưu, phối hợp
với cấp ủy, chính quyền địa phương, Mặt trận Tổ quốc, tổ chức các cấp tổ chức
hàng ngàn buổi tuyên truyền về đường lối, chủ trương, chính sách của Đảng và
pháp luật của Nhà nước cho hàng chục triệu lượt người nghe; trong đó, có hơn
03 triệu lượt người là đồng bào các, tôn giáo. Đồng thời, tham gia xây dựng trên
06 ngàn cơ sở địa phương; trong đó, có 2.356 cơ sở vùng đồng bào các dân tộc
thiểu số, 1.437 cơ sở vùng tôn giáo, 417 cơ sở vùng biên giới; phát triển hơn 400
đảng viên là con em các dân tộc thiểu số, các tôn giáo; xoá tình trạng chưa có
đảng viên, tổ chức cơ sở đảng ở nhiều thôn (bản, buôn, ấp). Thực hiện chủ
trương tăng cường cán bộ về cơ sở, toàn quân đã cử trên 400 lượt cán bộ tham
gia xây dựng hệ thống chính trị cơ sở; trong đó, có 237 sĩ quan Biên phòng đảm
nhiệm các chức danh chủ chốt trong hệ thống chính trị cơ sở; phối hợp chặt chẽ
với các lực lượng huấn luyện và đưa hàng ngàn lượt dân quân, tự vệ về cơ sở
làm dân vận; mở 1.586 lớp bồi dưỡng kiến thức quốc phòng - an ninh cho gần
07 vạn lượt người là già làng, trưởng bản, người có uy tín tiêu biểu trong các

dân tộc và trên 1,8 vạn lượt chức sắc, chức việc các tôn giáo. Cán bộ, chiến sĩ
làm công tác dân vận đã trực tiếp giúp đỡ các xã nghèo, hộ nghèo, xây dựng
hàng trăm công trình dân sinh; bố trí định cư, tạo việc làm có thu nhập ổn định
cho gần 16 ngàn lao động tại chỗ, huy động 1,5 triệu ngày công làm đường nông
thôn, nạo vét kênh, mương thuỷ lợi, khai hoang, phục hoá; xoá mù chữ và phổ
cập tiểu học cho trên 25 ngàn lượt người, vận động gần 14 ngàn học sinh bỏ học
trở lại trường; tổ chức khám, chữa bệnh, cấp thuốc miễn phí cho hàng chục ngàn
lượt người, trị giá trên 16.742 tỷ đồng; huy động hàng ngàn lượt cán bộ, chiến
sĩ, dân quân, tự vệ, với nhiều loại phương tiện khác nhau để giúp dân phòng,
chống, khắc phục hậu quả thiên tai, tìm kiếm cứu hộ, cứu nạn... Tham gia thực
hiện Chương trình 30a của Chính phủ về giảm nghèo nhanh và bền vững ở 62
huyện nghèo trong cả nước và Cuộc vận động “Cả nước chung sức xây dựng
20


nông thôn mới”, các đơn vị quân đội đã có nhiều nội dung, hình thức công tác
dân vận đạt hiệu quả cao, có ý nghĩa chính trị - xã hội, như: “xoá một hộ đói,
giảm một hộ nghèo”, “Hũ gạo vì người nghèo” của Lực lượng vũ trang Quân
khu 5; “Mái ấm cho người nghèo nơi biên cương”, bảo tồn và phát triển các dân
tộc: La Hủ, Rục, Đan Lai của Bộ đội Biên phòng; “Gắn kết hộ”, giúp đỡ hộ gia
đình người dân tộc “Vươn lên thoát nghèo bền vững” của Binh đoàn 15; sắp xếp,
bố trí đồng bào định canh, định cư trong vùng dự án của Binh đoàn 16…
Tuy nhiên, công tác dân vận của Quân đội còn có những mặt hạn chế cần
tập trung khắc phục đó là: sự lãnh đạo, chỉ đạo của một số cấp ủy, cán bộ chủ trì
đối với công tác dân vận chưa được quan tâm đúng mức; công tác nắm, dự báo
tình hình, tham mưu, phối hợp với cấp ủy, chính quyền địa phương trong tiến
hành công tác dân vận, nhất là trong giải quyết các vụ việc phức tạp, quản lý đất
quốc phòng có lúc, có nơi chưa sát, thiếu nhạy bén. Hiệu quả hoạt động của Tổ
công tác dân vận ở một số đơn vị chưa cao. Nội dung, biện pháp công tác dân
vận ở một số đơn vị chưa phong phú, thiếu chiều sâu; năng lực, tác phong công

tác, trình độ hiểu biết của đội ngũ cán bộ, chiến sĩ làm công tác dân vận về
phong tục, tập quán, tiếng dân tộc có mặt còn hạn chế; kỷ luật dân vận chưa
chuyển biến vững chắc, còn để xảy ra vụ việc nghiêm trọng, làm ảnh hưởng đến
uy tín của quân đội… Những hạn chế trên có nhiều nguyên nhân, song chủ yếu
là do nhận thức của lãnh đạo, chỉ huy một số đơn vị về vị trí, vai trò của công
tác dân vận chưa đầy đủ; chưa thấy hết được đây là hoạt động nhằm thực hiện
chức năng “đội quân công tác” của quân đội; tinh thần trách nhiệm trong tiến
hành công tác dân vận của một số cán bộ, chiến sĩ chưa trở thành ý thức, hành
động tự giác; việc kiểm tra, giám sát, sơ kết, tổng kết, biểu dương, khen thưởng
có nơi chưa kịp thời...
Trong những năm tới, sự nghiệp CNH, HĐH và hội nhập quốc tế sẽ tạo ra
những thuận lợi hết sức cơ bản cho công cuộc xây dựng và bảo vệ Tổ quốc. Tuy
nhiên, đất nước ta cũng đang đứng trước nhiều thách thức không thể xem
thường; đặc biệt là các thế lực thù địch tiếp tục thực hiện âm mưu “diễn biến hoà
21


bình”, gây bạo loạn lật đổ, sử dụng các chiêu bài “dân chủ”, “nhân quyền”, “dân
tộc”, “tôn giáo” để chia rẽ khối đại đoàn kết toàn dân tộc, nhất là trên các địa
bàn chiến lược, vùng sâu, vùng xa, vùng có nhiều đồng bào dân tộc thiểu số...
Chính vì vậy, nhiệm vụ công tác dân vận của cả nước nói chung và đối với các
đơn vị Quân đội nói riêng là hết sức nặng nề. Để tiếp tục nâng cao hiệu quả công
tác dân vận đáp ứng tình hình mới, cần làm tốt một số nội dung, giải pháp sau:
2.2. Những giải pháp cơ bản nâng cao chất lượng, hiệu quả công tác
dân vận của quân đội trong tình hình mới
2.2.1. Phải tăng cường xây dựng các cấp ủy, tổ chức đảng cả về chính trị,
tư tưởng, tổ chức và cán bộ; tập trung nâng cao năng lực lãnh đạo về công tác
dân vận.
Sự lãnh đạo của cấp ủy các cấp là yếu tố quyết định để công tác dân vận
trong Quân đội mang lại hiệu quả thiết thực. Bởi vậy, các cấp ủy phải được xây

dựng vững mạnh cả về chất lượng và cơ cấu; duy trì nghiêm túc và phát huy
hiệu quả cơ chế lãnh đạo, chỉ đạo đối với công tác dân vận. Theo đó, cấp ủy, tổ
chức đảng lãnh đạo; người chỉ huy tổ chức thực hiện; cơ quan chính trị làm tham
mưu; mọi cán bộ, chiến sĩ làm nòng cốt và phân công cấp ủy viên phụ trách
công tác dân vận. Nhằm bảo đảm cho Nghị quyết 25-NQ/TW đi vào cuộc sống,
các cấp ủy trực thuộc QUTƯ phải thường xuyên quán triệt nghiêm túc các nghị
quyết, chỉ thị, hướng dẫn của cấp trên về công tác dân vận; bám sát, cụ thể hóa
Chương trình hành động của QUTƯ thực hiện nghị quyết 25-NQ/TW và
Chương trình hành động của Bộ Quốc phòng thực hiện Chiến lược công tác dân
tộc giai đoạn 2013 - 2020, gắn với đặc điểm, nhiệm vụ của đơn vị mình để ra
nghị quyết chuyên đề, xây dựng chương trình hành động, kế hoạch tổ chức thực
hiện công tác dân vận đáp ứng với yêu cầu mới. Trong tình hình hiện nay, các
cấp ủy trong Quân đội phải gương mẫu, đi đầu khắc phục khuyết điểm sau kiểm
điểm, tự phê bình và phê bình theo Nghị quyết Trung ương 4 (khóa XI) về xây
dựng Đảng gắn với thực hiện Chỉ thị 03-CT/TW của Bộ Chính trị về “Tiếp tục
đẩy mạnh việc học tập và làm theo tấm gương đạo đức Hồ Chí Minh”; thực hiện
22


nghiêm túc nguyên tắc tập trung dân chủ, tự phê bình và phê bình, ngăn chặn và
đẩy lùi sự suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống; xây dựng tổ chức,
con người vững mạnh, tăng cường niềm tin của nhân dân đối với quân đội. Cấp
ủy các cấp cần tăng cường giáo dục cho cán bộ, chiến sĩ có thái độ kính trọng
dân, gần gũi dân, hiểu dân và trách nhiệm cao với dân, thực sự mẫu mực cả lời
nói và hành động, tận tụy với công việc; bằng chính việc làm, tư thế, tác phong,
lối sống của mỗi cán bộ, chiến sĩ và các đơn vị, khu tập thể quân đội, làng quân
nhân để tuyên truyền, vận động nhân dân. Nội dung lãnh đạo công tác dân vận
thực hiện cho được lời dạy của Chủ tịch Hồ Chí Minh: “…việc gì có lợi cho dân
phải hết sức làm, việc gì có hại cho dân phải hết sức tránh”9 . Đồng thời, nắm
vững nhiệm vụ chính trị, tình hình thực tế của đơn vị, tập trung khắc phục những

yếu kém, bất cập trong lãnh đạo, chỉ đạo và tổ chức thực hiện; phối hợp chặt chẽ
với cấp ủy, chính quyền, đoàn thể địa phương, phát huy sức mạnh tổng hợp của
các tổ chức, lực lượng, bảo đảm cho công tác dân vận hoạt động có nền nếp,
hướng mạnh về cơ sở.
2.2.2. Chú trọng nâng cao nhận thức của các cấp ủy, người chỉ huy và
mọi cán bộ, chiến sĩ về vai trò, vị trí của công tác dân vận.
Trên cơ sở quán triệt và tổ chức thực hiện nghiêm túc Nghị quyết 25NQ/TW (khóa XI) về công tác dân vận, cùng với tổng kết 10 năm thực hiện
Nghị quyết 152 của QUTƯ, các cấp ủy cần coi đây là thời cơ thuận lợi để tiếp
tục lãnh đạo, chỉ đạo đẩy mạnh công tác dân vận theo đúng yêu cầu đề ra. Thông
qua đợt sinh hoạt này, toàn Đảng bộ phải nâng cao nhận thức về nội dung cơ bản
của Nghị quyết; ý thức đầy đủ về ý nghĩa chiến lược của công tác dân vận; nắm
vững mục tiêu, quan điểm, nhiệm vụ công tác dân vận trong tình hình mới.
Đồng thời, quán triệt sâu sắc tư tưởng Hồ Chí Minh về công tác dân vận: “Lực
lượng của dân rất to. Việc dân vận rất quan trọng. Dân vận kém thì việc gì cũng
kém. Dân vận khéo thì việc gì cũng thành công”10; từ đó, vận dụng cụ thể vào
9

Hồ Chí Minh - Toàn tập, Tập 4, Nxb CTQG, H. 1995, tr. 47.

10

Hồ Chí Minh - Toàn tập, Tập 5, Nxb CTQG, H. 1995, tr. 700.

23


từng công việc, trên từng lĩnh vực, địa bàn, xây dựng được mô hình dân vận phù
hợp, hiệu quả. Các cấp ủy cần đẩy mạnh công tác tuyên truyền, giáo dục làm
cho mọi cán bộ, chiến sĩ nhận thức đúng vị trí, vai trò của công tác dân vận đối
với việc phát huy sức mạnh đại đoàn kết toàn dân tộc dưới sự lãnh đạo của

Đảng; củng cố vững chắc mối quan hệ mật thiết giữa Đảng, Nhà nước, quân đội
với nhân dân; tạo động lực để nhân dân đóng góp tích cực vào phát triển kinh tế
- xã hội, tăng cường quốc phòng - an ninh, bảo vệ vững chắc độc lập, chủ quyền,
thống nhất, toàn vẹn lãnh thổ của Tổ quốc. Việc làm này phải được tiến hành
thường xuyên, bằng nhiều hình thức, phương tiện, nhất là hệ thống thông tin đại
chúng; gắn công tác tuyên truyền, giáo dục với đẩy mạnh hoạt động thực tiễn,
nâng cao hiệu quả công tác dân vận, xây dựng lề lối, tác phong khoa học, bám
sát cơ sở, địa bàn. Từ nhận thức đúng, cần đề cao ý thức trách nhiệm của các cấp
ủy và mọi cán bộ, đảng viên trong tiến hành công tác dân vận; phát hiện, khắc
phục kịp thời tư tưởng lệch lạc nảy sinh, vi phạm kỷ luật dân vận, làm ảnh
hưởng đến mối quan hệ đoàn kết quân - dân.
2.2.3. Phát huy vai trò của đội ngũ cán bộ, đảng viên, nhất là cán bộ chủ
trì các cấp trong tiến hành công tác dân vận.
Mỗi cán bộ, đảng viên phải coi công tác dân vận là tình cảm, trách nhiệm
của mình; từ đó, đề cao tinh thần tự giác, tích cực, chủ động, không ngại khó
khăn để hoàn thành nhiệm vụ. Với cán bộ chủ trì, ngoài việc hoàn thành tốt chức
trách, nhiệm vụ được giao, phải thực sự gương mẫu, đi đầu trong công tác dân
vận; lời nói phải thống nhất với việc làm; cấp trên phải làm gương trước cấp
dưới. Trên cơ sở nghị quyết lãnh đạo của cấp ủy, chính ủy, chính trị viên và
người chỉ huy phải cụ thể hóa thành kế hoạch, chương trình hành động hằng
tháng, quý phù hợp với chức trách, nhiệm vụ được giao; xây dựng, hoàn thiện
các quy chế, quy định trong tiến hành công tác dân vận; gắn chỉ đạo công tác
này với thực hiện nhiệm vụ chính trị của đơn vị, bảo đảm mọi hoạt động đi vào
nền nếp, khoa học, hiệu quả. Trong từng thời gian, cán bộ chủ trì đơn vị phải có
sự trao đổi, bàn bạc, thống nhất kế hoạch, chương trình thực hiện công tác dân
24


vận; phân công cụ thể cho từng bộ phận, trên từng lĩnh vực, địa bàn công tác;
tập trung phối hợp tuyên truyền, vận động nhân dân, tham gia xây dựng cơ sở

chính trị, phát triển kinh tế - xã hội, xóa đói giảm nghèo, xây dựng nông thôn
mới, phòng, chống, khắc phục hậu quả thiên tai...
2.2.4. Tiếp tục đổi mới, đa dạng hóa các hình thức công tác dân vận; coi
trọng tổng kết các bài học từ thực tiễn.
Trong quá trình tiến hành công tác dân vận, các cấp phải luôn coi trọng
việc sơ kết, tổng kết, rút kinh nghiệm, xác định mặt làm được, chưa làm được;
lựa chọn mô hình công tác dân vận có hiệu quả đã được thực tiễn kiểm nghiệm
để xây dựng và nhân rộng. Trên cơ sở đó và căn cứ vào yêu cầu của công tác
dân vận hiện nay, các đơn vị cần đổi mới, xác định mô hình phù hợp, đa dạng
hóa các hình thức tập hợp nhân dân; tiếp tục duy trì, mở rộng hoạt động kết
nghĩa, huấn luyện dã ngoại kết hợp làm công tác dân vận; củng cố, nâng cao
hiệu quả hoạt động của “Tổ Công tác dân vận”; phát huy vai trò của dân quân tự
vệ làm công tác dân vận, các tổ, đội công tác liên ngành ở các địa bàn và cán bộ
tăng cường cơ sở, nhất là các đồng chí tham gia cấp ủy, chính quyền và Hội
đồng nhân dân các cấp. Để công tác dân vận mang lại hiệu quả thiết thực, cán
bộ, chiến sĩ phải xây dựng và thực hiện phong cách: “trọng dân, gần dân, hiểu
dân, học dân và có trách nhiệm với dân”, “nghe dân nói, nói dân hiểu, làm dân
tin”; tạo môi trường và điều kiện để phát huy mọi nguồn lực của nhân dân cho
xây dựng cơ sở, địa bàn vững mạnh. Cùng với đó, các cấp cần đẩy mạnh phong
trào thi đua, xây dựng và nhân rộng mô hình “Dân vận khéo”; duy trì có nền nếp
việc sơ kết, tổng kết, rút kinh nghiệm, bảo đảm cho công tác dân vận thực sự
đáp ứng được yêu cầu nhiệm vụ chính trị của đơn vị, giải quyết những vấn đề
bức thiết trong nhân dân.
2.2.5. Tập trung xây dựng cơ quan, đội ngũ cán bộ làm công tác dân vận
vững mạnh; tăng cường công tác kiểm tra, giám sát thực hiện công tác dân vận.
Theo đó, cấp ủy các cấp phải thường xuyên chú trọng củng cố, kiện toàn
cơ quan Dân vận ở cấp mình; đồng thời, chăm lo xây dựng đội ngũ cán bộ làm
25



×