Tải bản đầy đủ (.pdf) (35 trang)

Đảng bộ thành phố Hải Phòng lãnh đạo phát triển giáo dục phổ thông từ năm 2001 đến năm 2014

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (800.16 KB, 35 trang )

Header Page 1 of 126.

ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
TRƢỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC XÃ HỘI VÀ NHÂN VĂN

NGUYỄN THÚY DƢƠNG

ĐẢNG BỘ THÀNH PHỐ HẢI PHÒNG LÃNH ĐẠO PHÁT TRIỂN
GIÁO DỤC PHỔ THÔNG TỪ NĂM 2001 ĐẾN NĂM 2014

LUẬN VĂN THẠC SĨ
Chuyên ngành: Lịch sử Đảng Cộng sản Việt Nam

Hà Nội, 2015

Footer Page 1 of 126.


Header Page 2 of 126.

ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
TRƢỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC XÃ HỘI VÀ NHÂN VĂN

NGUYỄN THÚY DƢƠNG

ĐẢNG BỘ THÀNH PHỐ HẢI PHÒNG LÃNH ĐẠO PHÁT TRIỂN
GIÁO DỤC PHỔ THÔNG TỪ NĂM 2001 ĐẾN NĂM 2014

LUẬN VĂN THẠC SĨ
Chuyên ngành: Lịch sử Đảng Cộng sản Việt Nam
Mã số: 60 22 03 15



Ngƣời hƣớng dẫn khoa học: PGS.TS Hoàng Thị Kim Thanh

Hà Nội, 2015

Footer Page 2 of 126.


Header Page 3 of 126.

LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan đây là công trình nghiên cứu của riêng tôi. Công trình
được thực hiện dưới sự hướng dẫn của PGS.TS Hoàng Thị Kim Thanh - Học viện
Chính trị Quốc gia Hồ Chí Minh.
Các tư liệu được sử dụng trong luận văn được đảm bảo tính khách quan,
khoa học và có nguồn gốc xuất xứ rõ ràng.
Hà Nội, ngày 16 tháng 03 năm 2016
Học viên

Nguyễn Thúy Dƣơng

1
Footer Page 3 of 126.


Header Page 4 of 126.

MỤC LỤC
MỞ ĐẦU................................................................................................................5
1.Tính cấp thiết của đề tài. .....................................................................................5

2. Tình hình nghiên cứu liên quan đến đề tài .........................................................7
3. Mục đích, nhiệm vụ nghiên cứu .........................................................................9
3.1. Mục đích ..........................................................................................................9
3.2. Nhiệm vụ .........................................................................................................9
4. Đối tượng, phạm vi nghiên cứu ........................................................................10
4.1. Đối tượng nghiên cứu ....................................................................................10
4.2. Phạm vi nghiên cứu .......................................................................................10
5. Nguồn tư liệu, cơ sở lý luận và phương pháp nghiên cứu ...............................10
5.1. Nguồn tư liệu .................................................................................................10
5.2 .Cơ sở lý luận..................................................................................................10
5.3. Phương pháp nghiên cứu ...............................................................................10
6. Những đóng góp về mặt khoa học của luận văn ..............................................11
7. Kết cấu của luận văn ........................................................................................11
Chƣơng 1: ............................................................................................................12
ĐẢNG BỘ THÀNH PHỐ HẢI PHÒNG LÃNH ĐẠO ĐỔI MỚI GIÁO
DỤC PHỔ THÔNG (2001-2007) ....................................................................12
1.1. Điều kiện tự nhiên, kinh tế - xã hội và thực trạng sự nghiệp giáo dục phổ thông
của Thành phố trước năm 2001. ...........................................................................12
1.1.1. Lược sử hình thành .....................................................................................12
1.1.2. Điều kiện tự nhiên ......................................................................................13
1.1.3. Các đặc điểm kinh tế - xã hội .....................................................................14
1.1.4. Truyền thống văn hóa- giáo dục .................................................................16
1.2. Đảng bộ thành phố lãnh đạo đổi mới giáo dục phổ thông 2001- 2007. ........18
1.2.1 Chủ trương phát triển giáo dục phổ thông của Đảng bộ Hải Phòng trước năm
2001. .....................................................................................................................18
1.2.2. Đảng bộ thành phố Hải Phòng thực hiện chủ trương của Trung ương Đảng về
đổi mới giáo dục phổ thông năm 2001 -2007. .....................................................21
2
Footer Page 4 of 126.



Header Page 5 of 126.

Chƣơng 2 .................................................................Error! Bookmark not defined.
ĐẢNG BỘ THÀNH PHỐ HẢI PHÒNG LÃNH ĐẠO ĐẨY MẠNH PHÁT
TRIỂN GIÁO DỤC PHỔ THÔNG GIAI ĐOẠN 2008 – 2015Error!

Bookmark

not defined.
2.1. Tình hình nhiệm vụ mới của Hải Phòng và chủ trương của Đảng về giáo dục
phổ thông giai đoạn 2008– 2015. .........................Error! Bookmark not defined.
2.1.1. Tình hình và nhiệm vụ mới của Hải Phòng .Error! Bookmark not defined.
2.1.2. Chủ trương của Đảng về giáo dục phổ thông giai đoạn 2008 - 2014. Error!
Bookmark not defined.
2.2. Chủ trương và quá trình chỉ đạo phát triển giáo dục phổ thông của Đảng bộ Hải
Phòng giai đoạn 2008-2014 ..................................Error! Bookmark not defined.
2.2.1. Chủ trương phát triển giáo dạc phổ thông của Đảng bộ thành phố Hải Phòng .
..............................................................................Error! Bookmark not defined.
2.2.2. Quá trình chỉ đạo đẩy mạnh phát triển giáo dục phổ thông của Đảng bộ thành
phố Hải Phòng ......................................................Error! Bookmark not defined.
Chƣơng 3: ................................................................Error! Bookmark not defined.
NHẬN XÉT VÀ MỘT SỐ KINH NGHIỆM .......Error! Bookmark not defined.
3.1. Nhận xét.........................................................Error! Bookmark not defined.
3.1.1. Về ưu điểm .................................................Error! Bookmark not defined.
3.1.2. Những mặt hạn chế, yếu kém .....................Error! Bookmark not defined.
3.2. Kinh nghiệm lịch sử ......................................Error! Bookmark not defined.
KẾT LUẬN .............................................................Error! Bookmark not defined.
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO ..........................................................29


3
Footer Page 5 of 126.


Header Page 6 of 126.

BẢNG MỤC CÁC CHỮ VIẾT TẮT
BCH

: Ban chấp hành

BTV

: Ban thường vụ

CNH, HĐH : Công nghiệp hóa, hiện đại hóa
CNVC

: Công nhân viên chức

CNTT

: Công nghệ thông tin

GDĐT

: Giáo dục đào tạo

GDPT


: Giáo dục phổ thông

HĐND

: Hội đồng nhân dân

LHPN

: Liên hiệp phụ nữ

PN – TE

: Phụ nữ - Trẻ em

TW

: Trung ương

UBND

: Ủy ban nhân dân

4
Footer Page 6 of 126.


Header Page 7 of 126.

MỞ ĐẦU
1.Tính cấp thiết của đề tài.

Trong sự nghiệp cách mạng và xây dựng đất nuớc, Đảng và chủ tịch Hồ Chí
Minh luôn đề cao vị trí, vai trò quan trọng của giáo dục và đào tạo. Chủ tịch Hồ Chí
Minh khẳng định muốn xây dựng chủ nghĩa xã hội thì truớc hết phải có con người
xã hội chủ nghĩa, muốn vậy trước hết phải làm tốt công tác giáo dục. Bác chỉ rõ:
“Giáo dục nhằm đào tạo những người kế tục sự nghiệp cách mạng to lớn của Đảng
và nhân dân ta, do đó các ngành, các cấp đảng và chính quyền địa phuơng phải thật
sự quan tâm hơn nữa đến sự nghiệp này, phải chăm sóc nhà trường về mọi mặt, đẩy
sự nghiệp của ta lên những bước phát triển mới Nghị quyết Đại hội VII ( 6/1991)
đã nhấn mạnh: Phát triển sự nghiệp khoa học, giáo dục, văn hóa nhằm phát huy
nhân tố con người và vì con người trong sự nghiệp xây dựng và bảo vệ tổ quốc;
khoa học và giáo dục đóng vai trò then chốt trong toàn bộ sự nghiệp xây dựng chủ
nghĩa xã hội và bảo vệ Tổ quốc, là một động lực đưa đất nước thoát ra nghèo nàn,
lạc hậu, vươn lên trình độ tiên tiến của thế giới Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ
VIII (7/1996) đã nêu rõ: “Cùng với khoa học và công nghệ, giáo dục và đào tạo là
quốc sách hàng đầu nhằm nâng cao dân trí, đào tạo nhân lực, bồi dưỡng nhân tài”.
Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ IX (4/2001) tiếp tục khẳng định: “Phát triển giáo
dục và đào tạo là một trong những động lực quan trọng thúc đẩy sự nghiệp công
nghiệp hóa, hiện đại hóa, là điều kiện để phát huy nguồn lực con người - yếu tố cơ
bản để phát triển xã hội, tăng trưởng kinh tế nhanh và bền vững”.
Trong chiến lược phát triển giáo dục, phát triển nguồn nhân lực của mỗi
quốc gia, GDPT luôn được ưu tiên quan tâm hàng đầu, vì GDPT là nền tảng cơ
bản của hệ thống giáo dục quốc dân và là cơ sở đem đến chất lượng cho cả hệ
thống giáo dục. Trong hệ thống giáo dục quốc dân Việt Nam, GDPT được nhìn
nhận như một bậc giáo dục có tầm quan trọng đặc biệt, vừa là “bản lề”, vừa là
“xương sống” của toàn bộ quá trình hình thành và phát triển nhân cách của lứa
tuổi nhi đồng, thiếu niên và thanh niên, giúp các em từ nhận biết đơn sơ tiến lên
nắm bắt những kiến thức cơ bản về văn hóa chữ, văn hóa làm người và định
hướng cuộc sống của mình. Chính trường học GDPT đã góp phần không nhỏ tạo
5
Footer Page 7 of 126.



Header Page 8 of 126.

ra những con ngoan, trò giỏi, những công dân tốt và những tài năng cho đất
nước.
Đảng ta rất coi trọng vị trí của ngành GDPT. Nghị quyết của Bộ Chính trị
TW Đảng về cải cách giáo dục lần thứ 3 (năm 1997) chỉ rõ: “Giáo dục phổ thông là
nền tảng văn hóa của một nước, là sức mạnh tương lai của mọi dân tộc. Nó đặt cơ
sở vững chắc cho sự phát triển toàn diện con người Việt Nam...”. Vì vậy, GDPT về
quy mô không những đuợc mở rộng, chất lượng ngày càng nâng cao và từng bước
đáp ứng tốt hơn yêu cầu cung cấp nguồn nhân lực cho sự nghiệp đẩy mạnh CNH,
HĐH đất nước.
Nhìn lại nền giáo dục trong những năm qua, đặc biệt nền GDPT nước ta
đã trở thành nền giáo dục toàn dân, nhưng bên cạnh đó vẫn tồn tại những yếu
kém và bất cập cần được giải quyết. Việc tìm ra nguyên nhân, biện pháp nhằm
nâng cao chất lượng GDPT theo hướng hiệu quả, hiện đại, phù hợp với trình độ
phát triển của thế giới trên cơ sở phát huy truyền thống dân tộc và giữ vững định
hướng xã hội chủ nghĩa đã và đang là vấn đề cấp bách đặt ra cho giáo dục Việt
Nam.
Hải Phòng là thành phố lớn thứ ba của cả nước, hội tụ nhiều điều kiện thuận
lợi để trở thành trung tâm văn hóa - giáo dục của vùng duyên hải Bắc bộ. Địa hình
Hải Phòng khá đa dạng với vùng biển, hải đảo, đồng bằng ven biển và núi. Dựa
trên nền tảng này, Hải Phòng có lợi thế để phát triển đa dạng các loại hình kinh tế
biển (cảng biển, thủy sản, du lịch), công nghiệp và dịch vụ. Đặc biệt với thế mạnh
cảng biển, Hải Phòng giữ vai trò to lớn đối với xuất nhập khẩu của vùng Bắc bộ, có
điều kiện tiếp nhận và ứng dụng nhanh các thành tựu giáo dục đào tạo, khoa học kỹ thuật và công nghệ, kỹ năng quản lý từ nước ngoài một cách nhanh chóng.
Nhận thức sâu sắc vai trò quan trọng của GDPT trong hệ thống giáo dục
quốc dân, Đảng bộ Thành phố Hải Phòng đã thường xuyên quan tâm, chăm lo tạo
điều kiện để GDPT từng bước đổi mới và phát triển vững chắc. Chính vì vậy,

ngành luôn được Đảng, Nhà nước, Bộ Giáo dục – đào tạo đánh giá cao, tặng
thưởng nhiều phần thưởng cao quý. Bộ Giáo dục – đào tạo đã giao cho GDPT Hải
Phòng làm thí điểm những vấn đề mới nhất của ngành. Ví dụ: “Đổi mới chương trình
6
Footer Page 8 of 126.


Header Page 9 of 126.

giáo dục phổ thông”; “Thí điểm phân ban”; “Công nghệ dạy học”; “Đánh giá cao giáo
viên tiểu học theo chuẩn mới”... Ngược lại, GDPT Hải Phòng cũng đóng góp cho Bộ
Giáo dục - đào tạo nhiều đề xuất mới, sáng kiến hay, như vấn đề giáo dục địa phương
Hải Phòng được đưa vào nhà trường sớm nhất để làm cơ sở cho việc dạy học tự chọn
hiện nay. Đánh giá vấn đề này, Giáo sư Phạm Minh Hạc, nguyên Bộ trưởng Bộ Giáo
dục - đào tạo, viết : “Tôi vui mừng nhận thấy trong suốt nhiều năm qua, Hải Phòng
kiên trì thực hiện chủ trương xây dựng các tài liệu tạm gọi là “địa phương học” và đưa
vào giáo dục con em đạt kết quả tốt. Hải Phòng cho đến nay vẫn dẫn đầu thực hiện chủ
trương này.
Có thể thấy rằng, cách mạng là sáng tạo, chân lý là cụ thể. Quá trình phát
triển giáo dục phải là quá trình quán triệt một cách nhất quán về những quan điểm
cơ bản của nền giáo dục theo đường lối đổi mới của Đảng, vừa gắn bó với thực tiễn
Hải Phòng, vừa phù hợp với xu thế phát triển của nền giáo dục Việt nam. Sự
nghiệp GDPT ở Hải Phòng từ năm 2001 đến năm 2014, tuy chỉ là một khoảng thời
gian ngắn nhưng lại là cả một quá trình vận dụng, bổ sung đường lối, quan điểm
phát triển của GDPT của Trung ương Đảng vào điều kiện cụ thể ở địa phương.
Nghiên cứu quá trình lãnh đạo của Đảng bộ thành phố Hải Phòng về phát triển sự
nghiệp GDPT để hiểu rõ hơn nữa vai trò nhiệm vụ của ngành cũng như đúc rút
được một số kinh nghiệm góp phần định hướng cho đường lối giáo dục của Thành
phố ở tầm vĩ mô, đây là đề tài có ý nghĩa khoa học và thực tiễn sâu sắc. Vì vậy, tôi
lựa chọn đề tài: “Đảng bộ thành phố Hải Phòng lãnh đạo phát triển giáo dục phổ

thông từ năm 2001 đến năm 2014” làm đề tài luận văn Thạc sĩ Lịch sử chuyên
ngành Lịch sử Đảng cộng sản Việt Nam.
2. Tình hình nghiên cứu liên quan đến đề tài
Nghiên cứu GDĐT nói chung và GDPT nói riêng là đề tài được nhiều cán bộ
khoa học, các đồng chí lãnh đạo Đảng và Nhà nước, nhiều nhà quản lý giáo dục
quan tâm tìm hiểu, nghiên cứu trên nhiều góc độ khác nhau.
Thứ nhất, nhóm các công trình nghiên cứu đề cập tới sự nghiệp giáo dục đào tạo nói chung: Các bài nói, bài viết của Chủ tịch Hồ Chí Minh và các đồng chí
lãnh đạo Đảng và Nhà nước như: “Về vấn đề giáo dục” NXB Giáo dục, năm 1977.
7
Footer Page 9 of 126.


Header Page 10 of 126.

“Mấy vấn đề về văn hóa giáo dục” của Phạm Văn Đồng, NXB Sự thật, H. 1986;
“Phát triển mạnh giáo dục - đào tạo phục vụ đắc lực sự nghiệp công nghiệp hóa,
hiện đại hóa đất nước” của Tổng Bí thư Đỗ Mười, NXB Giáo dục, 1996. “Hồ Chí
Minh về giáo dục và đào tạo: Hưởng ứng cuộc vận động học tập và làm theo tấm
gương đạo đức Hồ Chí Minh” của các tác giả Trường Chinh, Phạm Văn Đồng, Võ
Nguyên Giáp... Biên soạn: Lê Văn Tích, Nguyễn Thị Kim Dung, Trần Thị Nhuần,
NXB Lao động Xã hội, 2007, gồm những bài nói, bài viết của Bác về công tác giáo
dục - đào tạo; giới thiệu những bài nói, bài viết của các nhà lãnh đạo Đảng, Nhà
nước và một số nhà khoa học nước ta trong nghiên cứu, học tập và vận dụng tư
tưởng Hồ Chí Minh về giáo dục - đào tạo...Những tác phẩm này có thể coi là cơ sở
tư tưởng và lý luận cho chủ trương, đường lối, chính sách giáo dục đã và đang tiến
hành ở nước ta.
Thứ hai, nhóm các công trình nghiên cứu đề cập tới một số lĩnh vực hoặc quá
trình phát triển sự nghiệp giáo dục - đào tạo: Trần Hồng Quân “Giáo dục 10 năm
đổi mới và chặng đường trước mắt” NXB Khoa học Xã hội, Hà Nội, 1996; Phạm
Minh Hạc “Tổng kết 10 năm (1999 - 2000), xóa mù chữ và phổ cập Tiểu học”

NXB Chính trị Quốc gia Hà Nội, 2000; “Giáo dục Việt Nam những thập niên đầu
thế kỷ XXI: Chiến lược phát triển” của tác giả Đặng Bá Lãm. NXB Chính trị Quốc
gia Hà Nội, 2005; “Quản lý giáo dục” của Bùi Quang Tứ. NXB ĐH Sư phạm Hà
nội, 2006...
Thứ ba, nhóm công trình nghiên cứu đề cập liên quan tới phát triển sự
nghiệp giáo dục phổ thông. Góc độ khoa học lịch sử, nghiên cứu về sự lãnh đạo của
Đảng bộ địa phương đối với giáo dục phổ thông có một số khóa luận Đại học và
luận văn thạc sĩ chuyên ngành Lịch sử Đảng Cộng sản Việt Nam viết về lĩnh vực
này như: “Đảng bộ tỉnh Hưng Yên lãnh đạo sự nghiệp giáo dục - đào tạo từ năm
1997 đến năm 2006” của tác giả Phạm Thị Hồng Thiết, luận văn thạc sĩ Lịch sử,
Đại học Quốc Gia Hà Nội, 2009; “Đảng bộ tỉnh Hòa Bình lãnh đạo sự nghiệp giáo
dục - đào tạo (1991 - 2000) của tác giả Lương Thị Hòe, luận văn Thạc sĩ Lịch sử,
Đại học Quốc Gia Hà Nội. 1998; “Đảng bộ tỉnh Quảng Ninh lãnh đạo phát triển
giáo dục phổ thông trong những năm 1996 - 2006”, tác giả Ngô Thị Thu Hà, luận
8
Footer Page 10 of 126.


Header Page 11 of 126.

văn Thạc sĩ lịch sử Đại học Quốc gia Hà Nội, 2009; “Đảng bộ tỉnh Vĩnh Phúc lãnh
đạo sự nghiệp giáo dục phổ thông (1997 - 2010) của tác giả Trương Thị Nguyệt,
luận văn thạc sĩ Lịch sử Đại học Quốc gia Hà Nội, 2011; “Đảng bộ thành phố Hà
Nội lãnh đạo phát triển giáo dục phổ thông từ năm 2001 đến năm 2010”, của Đỗ Lê
Phương, luận văn Thạc sĩ Lịch sử, Đại học Quốc gia Hà Nội, 2012...
Những công trình nghiên cứu trên chủ yếu đề cập về vấn đề giáo dục – đào
tạo trên cả nước nói chung và ở các địa phương nói riêng. Ở Hải Phòng có một
công trình nghiên cứu về quá trình Đảng bộ Hải Phòng lãnh đạo phát triển giáo dục
phổ thông: “Đảng bộ thành phố Hải Phòng lãnh đạo sự nghiệp giáo dục phổ thông
trong thời kỳ 1986 - 2003”, tác giả Vũ Thị Kim Yến, luận văn Thạc sĩ Lịch sử, Đại

học Quốc gia Hà Nội, 2005.
Các công trình nghiên cứu trên là cơ sở để tác giả kế thừa, tiếp cận các sự
kiện lịch sử và cũng cung cấp những gợi ý cần thiết để phân tích và so sánh trong
quá trình thực hiện luận văn.
3. Mục đích, nhiệm vụ nghiên cứu
3.1. Mục đích
- Trên cơ sở nghiên cứu, đề tài làm rõ quá trình Đảng bộ thành phố Hải
Phòng vận dụng đúng đắn, sáng tạo chủ trương của Trung ương Đảng về phát triển
sự nghiệp GDPT từ năm 2001 đến năm 2014.
- Khẳng định kết quả đạt được, những hạn chế và rút ra một số kinh nghiệm
trong lãnh đạo phát triển sự nghiệp GDPT của Đảng bộ thành phố Hải Phòng
những năm qua.
3.2. Nhiệm vụ
- Trình bày một cách hệ thống quan điểm, chủ trương của Đảng về phát triển
sự nghiệp GDPT và quá trình Đảng bộ thành phố Hải Phòng vận dụng những quan
điểm, chủ trương của Đảng vào điều kiện thực tế của địa phương.
- Phân tích, đánh giá kết quả đạt được, những hạn chế và rút ra một số kinh
nghiệm trong lãnh đạo thực hiện chủ trương phát triển sự nghiệp GDPT ở Hải
Phòng từ năm 2001 đến năm 2014.

9
Footer Page 11 of 126.


Header Page 12 of 126.

4. Đối tƣợng, phạm vi nghiên cứu
4.1. Đối tƣợng nghiên cứu
- Những quan điểm, chủ trương của Trung ương Đảng về phát triển sự
nghiệp giáo dục - đào tạo từ năm 2001 đến năm 2014.

- Quá trình Đảng bộ thành phố Hải Phòng lãnh đạo phát triển sự nghiệp
GDPT từ năm 2001 đến năm 2014.
4.2. Phạm vi nghiên cứu
Địa bàn nghiên cứu là Thành phố Hải Phòng. Thời gian nghiên cứu từ năm
2001 đến năm 2014. Lĩnh vực nghiên cứu là quá trình lãnh đạo phát triển sự nghiệp
GDPT của Đảng bộ Thành phố Hải Phòng.
5. Nguồn tƣ liệu, cơ sở lý luận và phƣơng pháp nghiên cứu
5.1. Nguồn tƣ liệu
Luận văn chủ yếu dựa vào các nguồn tư liệu là các Văn kiện, Nghị quyết của
Đảng Cộng sản Việt Nam từ Đại hội VIII đến Đại hội XI; các Văn kiện, Nghị quyết
của Đảng bộ Thành phố Hải Phòng từ năm 2001 đến năm 2014; báo cáo của Thành
ủy, UBND thành phố Hải Phòng; các văn bản của Bộ Giáo dục - Đào tạo; các báo
cáo của Sở Giáo dục - Đào tạo Hỉa Phòng. Phòng Giáo dục - Đào tạo các quận,
huyện, thị xã và một số trường tiêu biểu của thành phố Hải Phòng; các luận văn,
luận án, các công trình nghiên cứu của tập thể, cá nhân nhà khoa học có liên quan
đến đề tài và những tư liệu tham khảo thông qua phỏng vấn thực tế.
5.2 .Cơ sở lý luận
- Luận văn được thực hiện dựa trên cơ sở lý luận: Những nguyên lý cơ bản
của chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh và hệ thống quan điểm, chủ
trương của Đảng Cộng sản Việt Nam về GDPT.
- Luận văn dựa trên các Nghị quyết, chỉ thị, quyết định, chương trình phát
triển GDPT của Thành phố Hải Phòng từ năm 2001 đến năm 2014.
5.3. Phƣơng pháp nghiên cứu
Luận văn thực hiện chủ yếu dựa trên phương pháp lịch sử và phương pháp
logic. Ngoài ra, còn kết hợp các phương pháp khác như: thống kê, so sánh, phân
tích tổng hợp, đặc biệt là khảo sát thực tiễn.
10
Footer Page 12 of 126.



Header Page 13 of 126.

6. Những đóng góp về mặt khoa học của luận văn
- Luận văn góp phần hệ thống hóa chủ trương của Đảng Cộng sản Việt Nam
và sự vận dụng sáng tạo của Đảng bộ Thành phố Hải Phòng về phát triển GDPT từ
năm 2001 đến năm 2014.
- Phân tích, đánh giá một cách khách quan những kết quả, hạn chế và rút ra
một số kinh nghiệm trong quá trình Đảng bộ Thành phố Hải Phòng lãnh đạo phát
triển sự nghiệp GDPT từ năm 2001 đến năm 2014. Những kinh nghiệm được đúc
rút là cơ sở để Đảng bộ Thành phố tiếp tục lãnh đạo thực hiện phát triển sự nghiệp
GDPT trong những năm tiếp theo.
7. Kết cấu của luận văn
Ngoài phần mở đầu, kết luận, danh mục tài liệu tham khảo, phụ lục, luận văn
được kết cấu gồm 3 chương, 6 tiết.
Chương 1: Đảng bộ thành phố Hải Phòng lãnh đạo đổi mới Giáo dục phổ
thông từ năm (2001 - 2007).
Chương 2: Đảng bộ thành phố Hải Phòng tập trung đẩy mạnh phát triển sự
nghiệp Giáo dục phổ thông (2008 -2014).
Chương 3: Nhận xét và một số kinh nghiệm.

11
Footer Page 13 of 126.


Header Page 14 of 126.

Chƣơng 1:
ĐẢNG BỘ THÀNH PHỐ HẢI PHÒNG LÃNH ĐẠO ĐỔI MỚI GIÁO
DỤC PHỔ THÔNG (2001-2007)
1.1. Điều kiện tự nhiên, kinh tế - xã hội và thực trạng sự nghiệp giáo dục phổ

thông của Thành phố trƣớc năm 2001.
1.1.1. Lƣợc sử hình thành
Hải Phòng là một vùng đất cổ có con người sinh sống từ lâu đời, lại là vùng
đất lấn biển qua nhiều thế kỷ với lớp lớp cư dân khác nhau, ở Cái Bèo trên đảo Cát
Bà các nhà khảo cổ đã gặp di chỉ của văn hoá Hạ Long. Bước vào giai đoạn Phùng
Nguyên của thời đại đồ đồng có di chỉ Tràng Kênh với niên đại là 1455 ±100 năm
trước cồng nguyên. Cũng ở đây đã tìm thấy phấn hoa của loại lúa nước Oryza. Các
bộ lạc sinh sống trên mảnh đất này là cư dân nông nghiệp trồng lúa. Đến giai đoạn
Đông Sơn, có di chỉ mộ thuyền Việt Khê, tìm thấy 107 hiện vật, trong đó có 93
hiện vật đồng gồm công cụ sản xuất, vũ khí, nhạc khí.
Hải Phòng còn là vùng đất được mở mang dần về sau này. Theo kết quả của
nhiều nhà nghiên cứu về thủy văn và địa lý thì đường bờ biển thuở đầu công
nguyên có hình răng cưa, nhiều chỗ đất liền nhô ra và nhiều nơi biển ăn sâu vào.
Đất lấn ra biển từ cuối đời Hán cho tới giữa đời Đường (thế kỷ III - VIII). Từ thế
kỷ X đến XIX đất mở rộng dần về phía đông nam nhưng tốc độ chậm. Sự hình
thành của khu vực nội thành Hải Phòng cũng là một quá trình chuyển đổi từ vùng
đất nằm giữa kênh rạch thành xóm làng rồi trở thành thành phố.
Thời Lý, Hải Phòng thuộc Hồng Lộ. Thời Trần, Hồng Lộ lại gọi là Lộ Hải
Đông. Thời Lê, Hải Phòng thuộc Hải Dương thừa tuyên, sau đổi là xứ, là trấn. Tên
gọi Hải Phòng xuất hiện ở nửa sau thế kỉ XIX khi vua Tự Đức đặt Hải Dương
thương chính quan phòng (gọi tắt là Hải Phòng) tức đồn quan phòng và kiểm soát
thuế quan ở bến Ninh Hải. Tên gọi này sau được Giăng Đuy-puy ghi lại và trên
lược đồ của Pháp năm 1874 cũng đã thấy ghi hai chữ Hải Phòng. Nội thành Hải
Phòng nằm ở phía tây đồn quân Ninh Hải xưa, trên các xã, tổng Đông Khê, An
Dương, Gia Viên, An Biên. Cho nên, nhiều tên phố ở Hải Phòng ngày nay vẫn còn
in dấu tên làng xã xưa như: Hàng Kênh, An Biên, Dư Hàng, Vĩnh Niệm, Niệm
12
Footer Page 14 of 126.



Header Page 15 of 126.

Nghĩa, Hạ Lý, Thượng Lý, Lạc Viên,...
Quá trình hình thành lãnh thổ Hải Phòng là quá trình vươn ra biển cả, đắp đê
sông, đê biển, là quá trình con người tận dụng những gì thiên nhiên ban tặng và bắt
thiên nhiên mang lại. Vùng đất này đã nắm giữ một vị trí quan trọng của đất nước,
án giữ mặt phía đông. Một số cuộc xâm lược của nước ngoài cũng từ hướng này mà
vào đất liền. Đất Hải Phòng ngày nay chính là vùng biển của Hải Dương cũ và là
vành ngoài cùng của phên giậu phía đông của đất nước.
1.1.2. Điều kiện tự nhiên
Hải Phòng là thành phố lớn thứ ba của Việt Nam (sau thành phố Hồ Chí
Minh và thủ đô Hà Nội), có tổng diện tích tự nhiên là 1.519,2 km2, gồm cả hai
huyện đảo Cát Hải và Bạch Long Vĩ. Hải Phòng là trung tâm giao thông vận tải của
toàn bộ khu vực phía Bắc, nối các tỉnh phía Bắc Việt Nam với thị trường thế giới
qua hệ thống cảng biển.
Địa hình Hải Phòng đa dạng, bao gồm vùng biển - hải đảo, đồng bằng ven
biển (có độ cao từ 0,7 - 1,7 m so với mực nước biển) và núi. Đặc điểm địa hình này
tác động rõ nét tới sự phân bố dân cư (đông đúc ở thành phố, các thị xã, thị trấn,
thưa thớt ở vùng núi, đảo,...) cũng như sự phân bố mạng lưới trường học các cấp.
Mật độ dân số quá cao ở các quận nội thành như Lê Chân, Hồng Bàng đã ảnh
hưởng tới vấn đề trường học, nhà ở, bệnh viện, vệ sinh môi trường,... Trong khi đó
ở khu vực núi, hải đảo, dân cư thưa thớt, khó cho việc quy hoạch, thành lập trường
lớp. Mặt khác, ở những địa bàn xa, giao thông đi lại khó khăn như hai huyện đảo
Cát Hải và Bạch Long Vĩ, việc học của học sinh có thể bị gián đoạn, nhất là vào
mùa mưa bão, biển động.
Hải Phòng là thành phố công nghiệp, có diện tích đất nông nghiệp không
lớn, song có nhiều tiềm năng phát triển nông nghiệp và nông thôn theo hướng công
nghiệp hoá nông nghiệp. Với tài nguyên biển và rừng, thành phố còn có điều kiện
phát triển mạnh ngành du lịch và ngư nghiệp. Huyện đảo Cát Bà là trung tâm hội tụ
nghề cá của các tỉnh trong vùng và cả nước. Huyện đảo Bạch Long Vĩ nằm giữa

vịnh Bắc Bộ, trữ lượng cá cho phép khai thác lớn, nguồn lợi hải sản phong phú, đa
dạng. Đảo Bạch Long Vĩ cùng với đảo Cát Bà hình thành một tuyến đảo bổ sung và
13
Footer Page 15 of 126.


Header Page 16 of 126.

hỗ trợ cho nhau trong chiến lược phát triển nghề đánh cá xa bờ của thành phố.
Ngoài ra, trên năm nghìn ha mặt nước mặn xung quanh đảo Cát Bà, Bạch Long Vĩ
có điều kiện môi trường thuận lợi để nuôi đặc sản biển với công nghệ cao.
Sự phát triển mạnh của kinh tế thủy sản và du lịch đã ảnh hưởng lớn đến
ngành GDĐT. Trước hết, do đòi hỏi của nghề sông nước cần nhiều sức lao động,
nhất là nam giới, nên tỉ lệ học sinh bỏ học để phụ giúp gia đình làm kinh tế biển ở
vùng ven biển Hải Phòng cao. Với ngành du lịch biển, do đặc thù ngành hoạt động
chủ yếu trong mùa hè nên tỉ lệ học sinh bỏ học tham gia làm du lịch không cao
song đây cũng là một đặc điểm ngành GDĐT cần lưu tâm trong việc đào tạo nghề
cho các em.
Với vị trí địa lý và các đặc điểm điều kiện tự nhiên, với dân số và nguồn
nhân lực, Hải Phòng có lợi thế để đẩy mạnh chuyển dịch cơ cấu kinh tế theo hướng
công nghiệp và dịch vụ; hình thành và phát triển các doanh nghiệp theo hình thức
liên doanh, liên kết với nước ngoài. Đặc biệt với ưu thế cảng biển hiện nay và trong
tương lai, thành phố giữ vai trò to lớn đối với xuất nhập khẩu của vùng Bắc Bộ, có
điều kiện tiếp nhận và ứng dụng nhanh các thành tựu GDĐT, khoa học - kỹ thuật
và công nghệ, kỹ năng về quản lý từ nước ngoài một cách nhanh chóng. Điều này
tác động mạnh đến công tác quy hoạch đào tạo nguồn nhân lực phục vụ phát triển
kinh tế - xã hội của địa phương trong thời gian tới. Trong đó, thành phố cần chú ý
tới đặc điểm “hướng ngoại” (có cảng biển, sân bay) và yếu tố “biển” để hoạch định
chiến lược phát triển GDĐT phù hợp.
1.1.3. Các đặc điểm kinh tế - xã hội

Thực hiện chiến lược ổn định và phát triển kinh tế - xã hội thành phố giai
đoạn mới, nhịp độ tăng trưởng GDP bình quân hàng năm tăng 10,0%; giá trị sản
xuất công nghiệp tăng 22,7%, sản lượng hàng hoá thông qua cảng tăng 13,15%;
thành phố đầu tư khoảng 6 nghìn tỉ đồng/năm cho phát triển kinh tế - xã hội. Cơ
cấu kinh tế chuyển dịch đúng hướng, giảm dần tỷ trọng nông, lâm, thủy sản và dịch
vụ, phát huy thế mạnh công nghiệp, cảng biển, thương mại và hướng vào xuất
khẩu. Cơ sở hạ tầng, bộ mặt đô thị, nông thôn, hải đảo được đầu tư xây dựng, nâng
cấp và cải thiện rõ rệt. Số hộ đói nghèo từ 18% năm 1995 đã giảm còn 5,8% năm
14
Footer Page 16 of 126.


Header Page 17 of 126.

2001 và còn 4,5% năm 2004. Điều đó cũng có nghĩa là việc thực hiện quan điểm
công bằng trong giáo dục của Đảng ở Hải Phòng ngày càng có điều kiện được quán
triệt sâu rộng. Theo điều tra dân số năm 2003, dân số trung binh của Hải Phòng là
1.754.200 người, trong đó dân số thành thị chiếm 40% (701.300 người).
(80.147/833.428 người). Số lao động làm việc trong các ngành kinh tế quốc dân là
911.860 người, trong đó 44,4 % tổng số lao động làm việc trong lĩnh vực công
nghiệp và xây dựng; 15,9 % trong lĩnh vực giáo dục đào tạo; 0,5 % trong lĩnh vực
khoa học - công nghệ.
Về đặc trưng kinh tế - xã hội của dân số, Hải Phòng là địa phương có nhiều lợi
thế so với nhiều tỉnh, thành phố trong cả nước. Công tác dân số - kế hoạch hoá gia
đình được chú trọng về mọi mặt như: cơ sở vật chất kỹ thuật được tăng cường,
phương thức hoạt động được đổi mới, hoạt động truyền thông dân số được triển khai
đến tận xã, phường nên tỉ lệ sinh giảm đáng kể: từ 2,57% (1995) xuống 2,09%
(2001) và còn 1,80% (2005). Các hoạt động văn hoá - nghệ thuật, thể dục - thể thao
được tổ chức rộng rãi đến xã, phường với nội dung phong phú, hướng vào việc phát
huy bản sắc dân tộc, truyền thống của địa phương và sự tham gia của cộng đồng vào

các phong trào thể dục toàn dân, xây dựng các làng văn hoá, các hội thi hướng vào
các chủ đề gia đình - xã hội, nếp sống văn minh. Thành phố đã xây dựng được 16 thư
viện, 190 nhà văn hoá, cùng các làng văn hoá được hình thành, đáp ứng yêu cầu
nâng cao dân trí và tiến bộ xã hội. Các phương tiện thông tin đại chúng, nhất là phát
thanh, truyền hình, báo chí tìm bước được nâng cấp, đầu tư hiện đại.
Trên địa bàn thành phố có 23 bệnh viện, 24 phòng khám khu vực, 218 trạm
y tế xã, phường và 734 cơ sở y tế tư nhân. Tất cả các trạm y tế xã, phường đều có
bác sĩ, y sĩ.
Với những điều kiện tự nhiên, dân số, nguồn nhân lực, kinh tế - xã hội như
trên, ngành GDĐT Hải Phòng nói chung, GDPT nói riêng có nhiều thuận lợi để
phát triển, nhưng đồng thời cũng đứng trước nhiều thách thức. Một nhà báo của
Báo Giáo dục và Thời đại khi về Hải Phòng đã viết: “Thanh niên Hải Phòng nếu
không cẩn thận chỉ còn đứng chống cuốc nhìn đồng ruộng của mình mỗi ngày một
thu hẹp lại, nhìn từng đoàn người ở nơi khác, thậm chí ở nước khác đến để công
15
Footer Page 17 of 126.


Header Page 18 of 126.

nghiệp hoá, hiện đại hoá và cuối cùng trở về nhà đi làm thuê hầu hạ các ông chủ tư
bản mà thôi”. Đó là một thực tế. Khi đất nước, thành phố đổi mới, mở cửa, nhiều
doanh nghiệp nước ngoài vào Hải Phòng đầu tư; đất đai trồng trọt dần chuyển sang
làm nhà máy, xí nghiệp; lao động nông nghiệp chuyển dịch dần sang làm công
nghiệp, dịch vụ,... Trong bối cảnh đó, nếu lực lượng lao động được học hành chu
đáo, có trình độ văn hoá, kỹ thuật cao thì sẽ được sử dụng vào những vị trí quan
trọng, thu nhập cao, còn ngược lại, chỉ ở vị trí lao động cơ bắp với đồng lương rẻ
mạt.
Có thể thấy, dựa trên ưu thế từ biển (nguồn lợi tự nhiên và cảng biển), cùng
thế mạnh công nghiệp được hình thành khá sớm (từ thời Pháp thuộc), thành phố Hải

Phòng đã trở thành một trung tâm kinh tế của khu vực phía Bắc và cả nước. Ngay cả
trong thời kỳ cả đất nước gặp khó khăn, khủng hoảng, thành phố vẫn có những điểm
sáng trong phát triển kinh tế. Với thu nhập kinh tế khá, người dân Hải Phòng (nhất là
vùng đô thị) rất coi trọng và sẵn sàng đầu tư cho việc học tập của con em mình. Đây
là yếu tố vô cùng thuận lợi để GDĐT Hải Phòng phát triển nhanh hơn so với nhiều
vùng, miền trong cả nước.
Tuy nhiên, đời sống của một bộ phận dân cư ở khu vực miền núi, hải đảo
(thuộc huyện Thủy Nguyên, thị xã Đồ Sơn, huyện đảo Cát Hải, Bạch Long Vĩ) còn
khó khăn, không hoặc chưa quan tâm đến việc học tập của con cái. Vì thế, bên cạnh
những điểm sáng, những ưu thế vượt trội so với giáo dục cả nước, GDĐT Hải
Phòng nói chung, GDPT nói riêng vẫn chứa đựng những tồn tại, khó khăn chung
của ngành. Đây cũng chính là nguyên nhân khiến ngành GDĐT Hải Phòng chưa
đạt được tốc độ phát triển nhanh và mạnh như mong muốn.
Để đẩy mạnh sự nghiệp GDPT, Đảng bộ thành phố Hải Phòng khi đề ra các
chủ trương phát triển sự nghiệp giáo dục phải đặc biệt chú ý tới những đặc thù trên
để vận dụng sáng tạo đường lối của Trung ương vào tình hình cụ thể của địa
phương.
1.1.4. Truyền thống văn hóa- giáo dục
Hải Phòng là vùng đất ven biển với cư dân từ khắp nơi hội tụ đến. Sinh sống lâu
đời trên một vùng đất chua mặn, luôn luôn phải đối phó với biển khơi và bão tố để tồn
16
Footer Page 18 of 126.


Header Page 19 of 126.

tại và phát triển nên trước hết cư dân Hải Phòng là những con người cần cù và dũng
cảm, không chịu khuất phục trước thiên tai, địch hoạ.
Quá trình hình thành đất Hải Phòng cũng là quá trình hội tụ dân cư. Nhiều
người từ các miền trung du và đồng bằng kéo đến đây khai phá đất đai. Bên cạnh

đó có hiện tượng những dân cư sống trên sông biển, những vạn chài hoặc từ những
nơi xa xôi khác, bằng đường biển, đã lập nghiệp trên đất liền.
Lý Tử Tấn khi viết thông luận cho Dư địa chí của Nguyễn Trãi đã có nhận
xét chung: “Đạo Hải Dương đất tốt, người hung hãn. Thái Bình thì thuận tòng, thời
loạn thì cường ngạnh, từ Đinh, Lý đến giờ vẫn thế”. Phạm Quý Thích khi đề tựa
sách Hải Dương phong tục kỷ đại lược nói: “Thượng Hồng, Hạ Hồng và các huyện
Chí Linh, Thanh Lâm, phủ Nam Sách phong tục văn nhã, gần hợp với lễ, còn bảy
huyện khác thì phong tục hung hãn, vũ dũng, gần hợp với nghĩa, đây là nói đại khái
phong tục ngày thường”. Quá trình hội tụ cư dân cũng là quá trình hội tụ văn hoá.
Những nét đặc sắc của văn hoá nhiều miền đã hoà trộn, đan xen với nhau tạo nên
sắc thái riêng biệt và truyền thống văn hoá phong phụ và đa dạng của Hải Phòng.
Trong nhận thức của nhiều người, Hải Phòng không phải là “đất học” như
Nghệ Tĩnh, Nam Định,... Song nếu đi sâu tìm hiểu thì sự thực chưa hoàn toàn như
vậy. Lịch sử gần 800 năm thi cử Hán học của đất nước cho thấy cả nước có 46
người giành học vị Trạng nguyên thì Hải Phòng có 3 người. Huyện Thủy Đường
(nay là Thủy Nguyên) có 18 người, huyện Nghi Dương (nay là Kiến Thụy) 14,
huyện An Lão 8, huyện An Dương 7, huyện Vĩnh Lại (nay là Vĩnh Bảo) 18, huyện
Tiên Minh (nay là Tiên Lãng) 11 người đỗ tiến sĩ. Trong đó có nhiều tiến sĩ có
tiếng, nổi bật là Trạng Trình Nguyễn Bỉnh Khiêm – người từng cáo quan về ở ẩn,
dạy nhiều học trò thành tài như Phùng Khắc Khoan, Lương Hữu Khánh, Nguyễn
Dữ,...về Nguyễn Bỉnh Khiêm, Phan Huy Chú đã ghi rằng “có tài giỏi, lưu tiếng
nghìn đời” và sứ nhà Thanh cũng phải khen “An Nam lý học hữu Trình tuyển”
(người Nam giỏi lý học chỉ có Trình tuyển hầu Nguyễn Bỉnh Khiêm).
Về văn hoá lễ hội, các hội làng với những lễ thức nông nghiệp ở Hải Phòng
vẫn diễn ra như ở mọi địa phương khác trong vùng đồng bằng Bắc Bộ nhưng có
một điểm khác biệt là có sự đan xen văn hoá biển. Sự dung hoà, đan xen đó làm
17
Footer Page 19 of 126.



Header Page 20 of 126.

cho văn hoá Hải Phòng xưa không bị khép kín mà mở rộng, phong phú và đa dạng.
Tính cách của con người Hải Phòng và truyền thống văn hoá lâu đời là cơ sở
tạo nên tinh thần dũng cảm, sự năng động, sáng tạo, luôn nhạy bén với cái mới của
người dân thành phố Cảng, giúp họ có được những cách làm sáng tạo, những đề
xuất quan trọng để vượt qua những thời điểm khó khăn nhất. Tiêu biểu phải kể đến
chủ trương khoán sản phẩm trong nông nghiệp; xoá bỏ cơ chế nhiều giá nhằm bình
ổn thị trường; tăng cường kinh tế đối ngoại, mở rộng liên doanh, liên kết; đề xuất
quy chế dân chủ, thực hiện phương châm dân biết, dân bàn, dân làm, dân kiểm tra;
thực hiện các chương trình xã hội,... trong những năm đầu thực hiện công cuộc đổi
mới đất nước.
Truyền thống của địa phương sẽ giúp cho học sinh Hải Phòng sớm tiếp thu
được tinh hoa của thời đại trước những biến thiên của lịch sử, góp phần xây dựng
và phát triển kinh tế xã hội của thành phố qua các thời kỳ
1.2. Đảng bộ thành phố lãnh đạo đổi mới giáo dục phổ thông 2001- 2007.
1.2.1 Chủ trƣơng phát triển giáo dục phổ thông của Đảng bộ Hải Phòng trƣớc
năm 2001.
Bước sang những năm đầu thập kỷ 90 (thế kỷ XX), công cuộc đổi mới ở
Việt Nam tình hình kinh tế - xã hội Hải Phòng cũng rất phức tạp, được Thành ủy
tổng kết thành bốn yếu kém như sau: "Trị an lộn xộn, thành phố bẩn, đóng góp
ngân sách ít, thất thoát điện lớn". Sản xuất công nghiệp, thương mại, xuất khẩu bị
thiệt hại nặng nề,... Một số ngành khác gần như đổ vỡ hoàn toàn... về mặt xã hội,
lớn nhất và gay gắt nhất là vấn đề thiếu nhỡ việc làm... Vì vậy, đại bộ phận cán bộ,
đảng viên và quần chúng lo lắng, băn khoăn. Lòng tin vào sự lãnh đạo của Đảng,
vào chủ nghĩa Mác - Lênin, về con đường đi lên chủ nghĩa xã hội bị giảm sút
nghiêm trọng. Hơn 3000 đảng viên bỏ sinh hoạt. Trước những thử thách gay gắt đó,
Đảng bộ thành phố Hải Phòng vẫn kiên trì và kiên quyết đổi mới, tập trung đổi mới
vê kinh tế, từng bước đổi mới hệ thống chính trị, giữ vững ổn định chính trị để bảo
đảm đổi mới về kinh tế.

Từ ngày 23 đến ngày 27 – 4 - 1991, Đảng bộ thành phố tiến hành Đại hội
18
Footer Page 20 of 126.


Header Page 21 of 126.

đại biểu lần thứ X (vòng 1). Hơn 40 Đảng bộ trực thuộc Thành ủy báo cáo khá đầy
đủ các ý kiến xác đáng, phong phú của cán bộ, đảng viên và đại biểu nhân dân. Các
ý kiến đều tập trung vào các vấn đề cơ bản, có tính thời sự nóng hổi, có quan hệ
mật thiết đến vận mệnh của đất nước và thành phố. Giáo dục cũng là một vấn đề
giành được sự quan tâm lớn của Đảng bộ với chủ trương “đầu tư thích đáng cho sự
nghiệp GDPT”.
Trước thềm năm học mới 1991-1992, Thành ủy Hải Phòng có Kết luận số
14/TU (ngày 14-8-1992) về “Một số vấn đề GDĐT trước mắt cẩn giải quyết”.
Thành ủy đặt ra mục tiêu ngành học phổ thông phải duy trì phổ cập giáo dục tiểu
học và xoá mù chữ đạt tiêu chuẩn quốc gia, duy trì và phát triển GDPT trung học,
bảo đảm 25% thanh niên học hết THPT.
Đại hội Đảng bộ thành phố Hải Phòng lần thứ X (vòng 2) họp từ ngày 18
đến ngày 21 - 10 - 1991. Đại hội diễn ra trong bối cảnh tình hình kinh tế - xã hội
vẫn khó khăn: "bốn yếu kém" kéo dài, Liên Xô hoàn toàn tan rã (tháng 8- 1991);
các thế lực thù địch tăng cường bao vây, cấm vận, thực hiện âm mưu "diễn biến
hoà bình". Với yêu cầu quan trọng nhất là cùng với cả nước thoát khỏi khủng
hoảng kinh tế - xã hội, Đại hội đề ra mục tiêu "phấn đấu xây dựng Hải Phòng trở
thành thành phố Cảng có công nghiệp, nông nghiệp, ngư nghiệp, dịch vụ, văn hoá,
khoa học - công nghệ phát triển, trung tâm thương mại và du lịch vùng, an ninh,
quốc phòng vững mạnh''.
Quán triệt quan điểm Nghị quyết Đại hội Đảng lần thứ VII và Nghị quyết
Hội nghị TW lần thứ 4 (khoá VII) tháng 11-1992 đã xác định GDĐT là quốc sách
hàng đầu, Nghị quyết Đại hội Đảng bộ thành phố Hải Phòng lần thứ X khẳng định

"khoa học, công nghệ và giáo dục đào tạo là động lực trực tiếp có tính then chốt
trong phát triển kinh tế - xã hội của thành phố".
Nghị quyết đặt ra mục tiêu mà ngành GDĐT của thành phố hướng tới trong
5 năm 1991 - 1995:
"Mục tiêu giáo dục, đào tạo nhằm nâng cao dân trí, đào tạo nhân lực, bồi
dưỡng nhân tài, hình thành đội ngũ lao động có trí thức và có tay nghề, có năng lực
thực hành, tự chủ, năng động, sáng tạo, có tâm huyết làm cho dân giàu, nước mạnh,
19
Footer Page 21 of 126.


Header Page 22 of 126.

có đạo đức cách mạng, yêu nước, yêu chủ nghĩa xã hội".
Hải Phòng là địa bàn có nhiều lợi thế mở cửa về kinh tế, song cũng thường
xuyên phải trực tiếp đương đầu với âm mưu "diễn biến hòa bình" của các thế lực
thù địch. Thông qua giao lưu đường biển, đường không, đường bộ, các thế lực phản
động và những kẻ hám lợi đã nhập vào thành phố một khối lượng lớn văn hoá
phẩm độc hại nhằm thu lợi bất chính, đầu độc tinh thần, lôi kéo các tầng lớp nhân
dân, nhất là thanh thiếu niên, vào lối sống thực dụng, kích động bạo lực, làm mất
lòng tin của thế hệ trẻ thành phố vào tiền đồ của đất nước, làm xói mòn lý tưởng
cách mạng, đạo đức, lối sống và truyền thống tốt đẹp của dân tộc. Vì vậy, một lần
nữa, nghị quyết Đại hội Đảng bộ thành phố lần thứ X nhấn mạnh tới việc giáo dục
chính trị, đạo đức, luật pháp cho học sinh.
Ngành GDPT phải tiếp tục đổi mới, ổn định phát triển và nâng cao chất lượng;
hiện đại hoá một bước nội dung, phương pháp giáo dục, dân chủ hoá nhà trường và
quản lý giáo dục, trước hết là phải sắp xếp lại hệ thống các trường học, từng bước
hình thành những trường bán công, dân lập, tư thục,...
Đại hội xác định trong giai đoạn năm năm 1991-1995 ngành GDPT phải
thực hiện mục tiêu then chốt sau:

"Duy trì và nâng cao chất lượng phổ cập giáo dục tiểu học, phát triển cấp 2...
Ưu tiên đầu tư để xây dựng, củng cố trường trọng điểm, trường chuyên, lớp chọn,
đào tạo những học sinh giỏi. Chú ý đầu tư cho giáo dục ở hải đảo, công trợ cho xây
dựng các trường ở ngoại thành, từng bước tăng thêm đầu tư cho sự nghiệp GDĐT,
chăm lo cải thiện đời sống và nâng cao chất lượng đội ngũ giáo viên Hội nghị đại
biểu Đảng bộ thành phố Hải Phòng giữa nhiệm kỳ (khoá X) họp ngày 08-3-1994
tiếp tục coi GDĐT là một trong những lĩnh vực cần được ưu tiên hàng đầu. Nghị
quyết lần này của Đảng bộ đề cập đến nhiều vấn đề nhằm nâng cao dân trí, đào
tạo nhân lực, bồi dưỡng nhân tài như "Tiếp tục đa dạng hoá các loại hình đào tạo;
sắp xếp lại mạng lưới trường học, cải tiến nội dung phương pháp giảng dạy, kết
hợp chặt chẽ nâng cao chất lượng văn hoá, tay nghề với đạo đức, nếp sống, kỉ
cương pháp luật".
Để nâng cao chất lượng đào tạo cần phải đầu tư nhiều mặt: trước hết là tăng
20
Footer Page 22 of 126.


Header Page 23 of 126.

cường đầu tư cơ sở vật chất, trang thiết bị các trường học. Trong đó để khắc phục
tình trạng chênh lệch về chất lượng đào tạo giữa khu vực thành thị và nông thôn là
một thực tế của GDPT Hải Phòng thời gian qua, cần đẩy mạnh xây dựng trường
kiên cố cao tầng ở ngoại thành. Tiếp theo, phải xây dựng đội ngũ giáo viên và cán
bộ quản lý giáo dục có kiến thức chuyên môn, nghiệp vụ giỏi, có nhận thức, quan
điểm đúng đắn, say mê với nghề.
Để có đủ nguồn lực đầu tư cho giáo dục, hội nghị chỉ rõ phải tiếp tục thực
hiện phương châm "Nhà nước và nhân dân cùng làm" đồng thời tăng tỉ lệ ngân sách
dành cho GDĐT.
Tóm lại, Đảng bộ Hải Phòng đã quán triệt, lãnh đạo thực hiện triệt để chủ
trương đổi mới GDĐT của Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VI, VII của Đảng.

Đảng bộ thành phố đã vận dụng cụ thể vào địa phương, đề ra các chủ trương, biện
pháp phù hợp với tình hình thực tế, mang tính khả thi.
1.2.2. Đảng bộ thành phố Hải Phòng thực hiện chủ trƣơng của Trung ƣơng
Đảng về đổi mới giáo dục phổ thông năm 2001 -2007.
Đảng bộ thành phố Hải Phòng là bộ phận hợp thành của Đảng Cộng sản Việt
Nam, có đầy đủ tính chất, đặc điểm của đảng cầm quyền, đồng thời mang sắc thái
riêng của một thành phố miền núi phía Bắc.
Hải Phòng là một trong những địa phương thành lập chi bộ sớm nhất trong
cả nước. Đầu tháng 7 năm 1929, chi bộ cộng sản đầu tiên của hai thành phố Hải
Phòng, được thành lập. Năm 1929 Đảng bộ Đông Dương Cộng sản Đảng Hải
Phòng được thành lập. Đây là bước ngoặt lịch sử quan trọng, đánh dấu bước phát
triển mới của phong trào cách mạng Hải Phòng. Từ Đại hội lần thứ nhất (năm
1959) đến nay, Thành ủy Hải Phòng là cơ quan lãnh đạo cao nhất của Đảng bộ
thành phố giữa hai kỳ đại hội Đảng bộ thành phố, có nhiệm vụ lãnh đạo, chỉ đạo cả
hệ thống chính trị phục vụ nhân dân các dân tộc trong thành phố tổ chức thực hiện
thắng lợi đường lối, chủ trương, mục tiêu, nhiệm vụ mà nghị quyết đại hội đảng bộ
thành phố đã đề ra trong từng thời kỳ.
* Nội dung Thành ủy lãnh đạo phát triển giáo dục phổ thông
Lãnh đạo phát triển giáo dục có nội dung, phạm vi rộng lớn, trong tất cả các
21
Footer Page 23 of 126.


Header Page 24 of 126.

lĩnh vực của đời sống xã hội, liên quan đến tất cả hoạt động của các cấp, các ngành,
mọi tổ chức và của cả hệ thống chính trị. Vì vậy phát triển giáo dục phải đặt dưới
sự lãnh đạo của Thành uỷ. Sự lãnh đạo đó được thể hiện tập trung ở những nội
dung sau:
- Xác định mục tiêu, nhiệm vụ giáo dục ở địa phương

Tiếp tục quán triệt quan điểm giáo dục – đào tạo là quốc sách hàng đầu, đầu
tư cho giáo dục là đầu tư cho phát triển của Đảng, Đại hội lần thứ XV, XVI của
Đảng bộ thành phố Hải Phòng đề ra chủ trương, nhiệm vụ phát triển giáo dục ở địa
phương, tạo sự chuyển biến cơ bản, toàn diện trong phát triển giáo dục; nâng cao
chất lượng giáo dục toàn diện, đổi mới nội dung, phương pháp dạy và học, hệ thống
trường, lớp và đội ngũ cán bộ quản lý và giáo viên; thực hiện xã hội hoá giáo dục,
củng cố thành tựu phổ cập giáo dục tiểu học; đẩy nhanh tiến độ phổ cập giáo dục
trung học cơ sở; tăng ngân sách nhà nước cho giáo dục theo nhịp độ tăng trưởng
kinh tế; tăng cường giáo dục chính trị tư tưởng, đạo đức, pháp luật cho học sinh;
thực hiện công bằng xã hội trong giáo dục, tạo điều kiện cho người nghèo có cơ hội
học tập.
Trên cơ sở chủ trương, đường lối của Đảng, quy định của Bộ Giáo dục và
Đào tạo, Thành ủy lãnh đạo chính quyền cụ thể hoá chính sách và tổ chức quản lý
thống nhất giáo dục của thành phố. Trong đó chú trọng chính sách đầu tư ngân
sách, quy hoạch, kế hoạch phát triển giáo dục.
- Lãnh đạo xây dựng quy mô, mạng lưới trường, lớp học: Bao gồm phát triển
hợp lý quy mô, đa dạng các loại hình trường lớp ở các ngành học, bậc học. Xây
dựng thêm các trường, lớp học đảm bảo đáp ứng nhu cầu học tập của nhân dân.
Cùng với sự phát triển kinh tế - xã hội, nhu cầu học tập của người dân ngày càng
tăng, cần thiết phải xây dựng mới, mở rộng và kiên cố hoá trường, lớp học đảm bảo
nâng cao chất lượng giáo dục. Ở những nước có nền giáo dục đạt hiệu quả cao thì
quy mô phát triển giáo dục phải do nhu cầu và trình độ phát triển của nền kinh tế
quyết định và chỉ được phép phát triển quy mô trên cơ sở đủ điều kiện đảm bảo
chuẩn chất lượng. Sự lãnh đạo của Thành ủy cũng trên cơ sở như vậy. Đối với việc
giáo dục, chất lượng là quan trọng nhất, do đó phải tính toán quy mô giáo dục phù
22
Footer Page 24 of 126.


Header Page 25 of 126.


hợp với khả năng tăng trưởng kinh tế ở địa phương. Đối với việc nâng cao dân trí,
có thể cho phép khuyến khích phát triển quy mô theo nhu cầu học tập của nhân
dân, nhưng có sự quản lý của chính quyền để đảm bảo chất lượng giáo dục.
- Lãnh đạo nâng cao chất lượng giáo dục: Đây là nhiệm vụ quan trọng nhất
và là mục tiêu cuối cùng của giáo dục. Cấp uỷ, chính quyền các cấp phải coi nhiệm
vụ phát triển giáo dục là ưu tiên hàng đầu, trong đó ngành giáo dục đào tạo có vai trò
đặc biệt quan trọng, vừa làm nhiệm vụ tham mưu cấp uỷ, chính quyền trong việc ban
hành chính sách nâng cao chất lượng giáo dục, đồng thời quản lý trực tiếp công tác
giảng dạy. Thành ủy lãnh đạo thực hiện chuẩn hoá về chương trình, nội dung giảng
dạy, quy trình kiểm tra, đánh giá chất lượng giáo dục, chuẩn hoá đội ngũ giáo viên,
trong đó chú ý chuẩn hoá phẩm chất đạo đức và chất lượng chính trị; chuẩn hoá về
cơ sở vật chất, trường, lớp, các trang thiết bị dạy và học. Chính quyền và ngành giáo
dục của thành phố chịu trách nhiệm chính trong việc thực hiện và quản lý tốt việc
nâng cao chất lượng giáo dục; tăng cường các nguồn lực cho giáo dục, coi đây là giải
pháp cơ bản tạo tiền đề cho phát triển giáo dục ở địa phương. Ngoài ngân sách địa
phương, khuyến khích các tổ chức xã hội đầu tư cho giáo dục.
Thành ủy lãnh đạo cơ quan kiểm soát, toà án cùng cơ quan thanh tra các cấp
giám sát, kiểm tra các cơ quan, đoàn thể, tổ chức xã hội thực hiện đúng chức năng,
nhiệm vụ, quyền hạn trong công tác giáo dục theo Hiến pháp, pháp luật. Phát hiện,
xử lý kịp thời các sai phạm của các thành viên trong xã hội, cũng như giải quyết
đúng pháp luật các khiếu nại, tố cáo trong lĩnh vực giáo dục. Tổ chức thanh tra việc
thực hiện đường lối, chủ trương, chương trình, kế hoạch giáo dục; việc giảng dạy
của giáo viên, việc học tập của học sinh, thực hiện hoặc kiến nghị các biện pháp xử
lý kịp thời để thực hiện các chương trình - mục tiêu; các kế hoạch giáo dục để công
tác giáo dục được thực hiện tốt ở mọi cấp, mọi ngành ở địa phương.
* Phƣơng thức Thành ủy lãnh đạo phát triển giáo dục phổ thông
Phương thức lãnh đạo của Đảng là hệ thống các phương pháp, hình thức mà
Đảng vận dụng để tác động vào các lực lượng, các tổ chức nhằm thực hiện tốt nội
dung lãnh đạo.

Để giáo dục phổ thông phát triển mạnh mẽ, đòi hỏi Thành ủy Hải Phòng
23
Footer Page 25 of 126.


×