Tải bản đầy đủ (.pdf) (48 trang)

Vai trò của giáo dục – đào tạo trong phát triển con người toàn diện ở việt nam hiện nay (Tóm tắt, trích đoạn)

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (471.26 KB, 48 trang )

ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
TRƢỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC XÃ HỘI VÀ NHÂN VĂN
*******

LÊ THỊ TÌNH

VAI TRÒ CỦA GIÁO DỤC - ĐÀO TẠO TRONG PHÁT TRIỂN
CON NGƢỜI TOÀN DIỆN Ở VIỆT NAM HIỆN NAY

Luận văn Thạc sĩ chuyên ngành: Triết học

HÀ NỘI - 2016


ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
TRƢỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC XÃ HỘI VÀ NHÂN VĂN

LÊ THỊ TÌNH

VAI TRÒ CỦA GIÁO DỤC - ĐÀO TẠO TRONG PHÁT TRIỂN
CON NGƢỜI TOÀN DIỆN Ở VIỆT NAM HIỆN NAY

Chuyên ngành

: Triết học

Mã số

: 60 22 03 01

Giảng viên hướng dẫn



: TS. Nguyễn Văn Sơn

Chủ tịch hội đồng

Giảng viên hƣớng dẫn

PGS.TS Dƣơng Văn Thịnh

HÀ NỘI – 2016

TS. Nguyễn Văn Sơn


CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan đây là công trình nghiên cứu của riêng tôi dưới sự
hướng dẫn của TS. Nguyễn Văn Sơn. Các nhận định, giả thuyết, kết luận nêu
ra trong luận văn là kết quả nghiên cứu nghiêm túc, độc lập của bản thân trên
cơ sở tìm hiểu, nghiên cứu các tài liệu khoa học đã được công bố.
Hà Nội, ngày 28 tháng 12 năm 2016

Học viên

Lê Thị Tình


LỜI CẢM ƠN
Tôi xin bày tỏ tình cảm quý trọng và tri ân chân thành và sâu sắc nhất
tới TS. Nguyễn Văn Sơn là tấm gương nghiên cứu khoa học mẫu mực, là cán
bộ hướng dẫn khoa học đã trực tiếp chỉ bảo tận tình, hướng dẫn và động viên

giúp đỡ tôi trong suốt quá trình thực hiện và hoàn thiện luận văn này.
Tôi cũng xin chân thành cảm ơn các Thầy, Cô đang công tác trong
trường Đại học Khoa học xã hội và Nhân văn – Đại học Quốc gia Hà Nội, đặc
biệt là các thầy cô trong Khoa Triết học đã tạo mọi điều kiện thuận lợi, chia
sẻ, động viên, có những ý kiến khoa học quý báu trong suốt thời gian tôi học
tập tại Khoa và để tôi có thể hoàn thành luận văn này.
Cuối cùng, tôi xin được gửi lời cảm ơn sâu sắc tới gia đình, bạn bè đã
luôn ủng hộ và giúp đỡ để tôi thực hiện tốt luận văn này.
Tôi xin chân thành cảm ơn!
Hà Nội, ngày 28 tháng 12 năm 2016

Học viên

Lê Thị Tình


MỤC LỤC
MỞ ĐẦU .......................................................................................................... 3
Chƣơng 1: LÝ LUẬN CHUNG VỀ VAI TRÒ CỦA GIÁO DỤC – ĐÀO
TẠO VÀ QUAN ĐIỂM CỦA ĐẢNG CỘNG SẢN VIỆT NAM
VỀ PHÁT TRIỂN CON NGƢỜI TOÀN DIỆN ....................... 11
1.1. Vai trò của giáo dục – đào tạo trong phát triển lịch sử ........................ 11
1.1.1. Vai trò của giáo dục – đào tạo trong phát triển kinh tế - xã hội ... 11
1.1.2. Vai trò của giáo dục – đào tạo trong phát triển con người........... 17
1.2. Quan điểm của Đảng Cộng sản Việt Nam về vị trí, vai trò và phát triển
con người toàn diện ..................................................................................... 25
1.2.1. Quan điểm của Đảng Cộng sản Việt Nam về vị trí, vai trò của con
người trong công cuộc đổi mới đất nước ................................................ 26
1.2.2. Quan điểm của Đảng Cộng sản Việt Nam về phát triển con người
toàn diện trong công cuộc đổi mới đất nước ........................................... 32

KẾT LUẬN CHƢƠNG 1 .............................................................................. 43
Chƣơng 2: THỰC TRẠNG, PHƢƠNG HƢỚNG VÀ GIẢI PHÁP NHẰM
PHÁT HUY VAI TRÒ CỦA GIÁO DỤC – ĐÀO TẠO TRONG
PHÁT TRIỂN CON NGƢỜI TOÀN DIỆN Ở VIỆT NAM
HIỆN NAY .................................................................................... 45
2.1 Thực trạng về vai trò của giáo dục – đào tạo trong phát triển con người
toàn diện ở Việt Nam .................................................................................. 45
2.1.1. Những thành tựu chủ yếu của giáo dục – đào tạo trong phát triển
con người toàn diện ở Việt Nam trong những năm vừa qua. ................. 45
2.1.2. Những hạn chế chủ yếu của giáo dục – đào tạo trong phát triển con
người toàn diện ở Việt Nam những năm vừa qua ................................... 50

1


2.1.3. Nguyên nhân của những hạn chế trong việc phát huy vai trò của
giáo dục – đào tạo đối với sự phát triển con người toàn diện ở Việt Nam
trong những năm vừa qua ....................................................................... 60
2.2 Một số phương hướng và giải pháp cơ bản nhằm phát huy vai trò của
giáo dục – đào tạo trong việc phát triển con người toàn diện ở Việt Nam
hiện nay ....................................................................................................... 65
2.2.1. Một số phương hướng nhằm phát huy vai trò của giáo dục – đào
tạo phát triển con người Việt Nam trong thời gian tới............................ 65
2.2.2. Một số giải pháp cơ bản nhằm phát huy vai trò của giáo dục – đào
tạo đối với sự phát triển con người toàn diện ở Việt Nam hiện nay ....... 72
KẾT LUẬN CHƢƠNG 2 .............................................................................. 80
KẾT LUẬN .................................................................................................... 81
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO ..................................................... 83

2



MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Ngày nay, sự phát triển của khoa học - kỹ thuật, xu thế hội nhập và toàn cầu
hóa đời sống kinh tế đã trở thành tất yếu. Việc hội nhập, phát triển mở ra nhiều triển
vọng và nguy cơ cho các nước trong quá trình phát triển. Trên thực tế, mục tiêu
kinh tế của các nước có sự giống nhau, đều hướng tới sự phát triển tối đa, trong khi
điều kiện tự nhiên, văn hóa, con người và lịch sử phát triển lại có sự khác biệt. Vấn
đề đặt ra là, sự lựa chọn chiến lược phát triển trở thành yếu tố quyết định đến việc
phát huy lợi thế, tranh thủ phát huy tối đa sức mạnh của mình cho mục tiêu kinh tế
đó. Trong quá trình tìm kiếm mô hình phát triển, nhiều nước lựa chọn con đường
phát triển dựa trên nguồn tài nguyên dồi dào, phong phú; nhiều nước phát triển dựa
trên mô hình phát huy vai trò của tri thức con người cho việc phát triển kinh tế - xã
hội. Mỗi mô hình đều đã mang lại những thành công nhất định. Tuy nhiên, nếu như
tài nguyên thiên nhiên ngày càng trở nên cạn kiệt và mang lại giá trị kinh tế thấp; thì
trí tuệ - với tư cách nguồn lực không giới hạn đã khắc phục được những hạn chế đó
và ngày càng trở thành sự lựa chọn của nhiều quốc gia. Nhưng nguồn lực con người
không phải là một dạng “tài nguyên” thông thường mà nó bị chi phối bởi nhiều yếu
tố như: lịch sử, văn hóa, ý thức hệ, các giá trị tinh thần và giá trị Người. Do đó, vấn
đề đặt ra là phát huy sức mạnh tri thức cho sự phát triển kinh tế - xã hội nhưng phải
đảm bảo sự hài hòa, toàn diện và giải phóng con người.
Sự nghiệp xây dựng chủ nghĩa xã hội dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản
Việt Nam đã đạt được nhiều thành tựu to lớn. Đặc biệt, sau 30 năm đổi mới, đất
nước đã thoát khỏi khủng hoảng và đạt mức thu nhập trung bình của thế giới. Hơn
nữa, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã khẳng định mục tiêu chung của chủ nghĩa xã hội là
độc lập, tự do cho dân tộc, hạnh phúc cho nhân dân; đó là làm sao cho nước ta được
hoàn toàn độc lập, dân ta được hoàn toàn tự do, đồng bào ta ai cũng có cơm ăn, áo
mặc, ai cũng được học hành. Kế thừa và phát huy tinh thần đó, một trong những đặc
trưng của xã hội xã hội chủ nghĩa mà Đảng, Nhà nước và nhân dân ta xây dựng là

con người được giải phóng khỏi áp bức, bất công, có cuộc sống ấm no, tự do, hạnh

3


phúc và phát triển toàn diện. Chủ nghĩa xã hội không phải là cái có sẵn, mà là công
trình do quần chúng nhân dân xây dựng nên dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản.
Quá trình này không diễn ra theo con đường bằng phẳng mà là quanh co, phức tạp
đòi hỏi phải xác định mục tiêu, bước đi cụ thể. Để thực hiện mục tiêu con người
được giải phóng khỏi áp bức, bất công, có cuộc sống ấm no, tự do, hạnh phúc, phát
triển toàn diện không thể không nói đến vai trò của giáo dục – đào tạo. Bởi lẽ, giáo
dục – đào tạo vừa là yếu tố quan trọng nhất góp phần phát huy vai trò của tri thức
cho sự phát triển kinh tế - xã hội, vừa là yếu tố góp phần bồi dưỡng, phát triển nhân
cách, đời sống tinh thần để con người phát triển một cách toàn diện. Xuất phát từ
những lý do trên, chúng tôi đã chọn Vai trò của giáo dục – đào tạo trong phát triển
con người toàn diện ở Việt Nam hiện nay làm đề tài luận văn thạc sĩ.
2. Tình hình nghiên cứu đề tài
Có lẽ hiếm có một chủ đề nào mà lại được quan tâm nhiều như vấn đề giáo
dục và con người. Bởi lẽ, sự phát triển kinh tế - xã hội, sự tiến bộ của nhân loại đều
xuất phát từ vấn đề con người, trong đó “tri thức là sức mạnh” được hình thành,
phát triển chủ yếu từ quá trình giáo dục – đào tạo. Vì vậy, có rất nhiều công trình
nghiên cứu ở các cấp độ khác nhau. Trong những năm gần đây, cùng với công cuộc
đổi mới đất nước, nhận thức về vai trò của giáo dục – đào tạo, đối với sự nghiệp
phát triển con người nói riêng và sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước
nói chung ngày càng được quan tâm nghiên cứu. Chúng ta có thể kể đến những
công trình tiêu biểu sau:
Thứ nhất, nhóm các công trình nghiên cứu về lĩnh vực giáo dục, vai trò của
giáo dục phải kể đến một số công trình tiêu biểu sau:
Công trình Từ chiến lược phát triển giáo dục đến chính sách phát triển
nguồn nhân lực của Viện Phát triển giáo dục xuất bản năm 2002 là sự tập hợp kết

quả nghiên cứu của một số nhà khoa học, quản lý ở nhiều lĩnh vực khoa học kinh tế
và xã hội khác nhau. Trong đó, có đề xuất chính sách phát triển nguồn nhân lực
nhằm triển khai thành công các mục tiêu trong chiến lược giáo dục – đào tạo để
phát triển nguồn nhân lực chất lượng cao.

4


Công trình Trí thức giáo dục đại học Việt Nam thời kỳ đẩy mạnh công
nghiệp hóa, hiện đại hóa của Nguyễn Văn Sơn do Nhà xuất bản Chính trị quốc gia,
Hà Nội phát hành năm 2002. Cuốn sách đã trình bày những vấn đề cơ bản về trí
thức giáo dục đại học Việt Nam thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa.
Trong đó, cuốn sách nhấn mạnh đến thực trạng nhằm cung cấp thêm cơ sở cho việc
đổi mới, phát triển nền giáo dục đại học Việt Nam.
Công trình Kết quả đào tạo sau đại học tại Trung tâm khoa học xã hội và
nhân văn quốc gia 1978 – 2003 của Trung tâm Khoa học xã hội và nhân văn quốc
gia do Nhà xuất bản Khoa học xã hội phát hành năm 2003 đã tổng kết kết quả đào
tạo tại Trung tâm giai đoạn 1978 – 2003. Đồng thời, phân tích một số vấn đề có tính
lý luận và thực tiễn giáo dục đại học và đề xuất một số biện pháp cơ bản thúc đẩy
đào tạo sau đại học ở Trung tâm cho giai đoạn tiếp theo.
Công trình Giáo dục với phát triển nguồn nhân lực phục vụ công nghiệp hóa,
hiện đại hóa của tác giả Nguyễn Thị Hồng Vân được công bố trên Tạp chí Phát
triển giáo dục (Số 4 - 2005) đã phân tích vai trò của giáo dục với phát triển nguồn
nhân lực, đặc biệt là nhân lực chất lượng cao; công trình cũng chỉ ra thực trạng và
một số vấn đề bất cập của giáo dục. Trên cơ sở đó đề xuất một số ý kiến đổi mới
giáo dục – đào tạo đáp ứng yêu cầu phát triển nguồn nhân lực phục vụ công nghiệp
hóa, hiện đại hóa đất nước.
Công trình Những vấn đề giáo dục hiện nay, quan điểm và giải pháp do Nhà
xuất bản Tri thức, Hà Nội phát hành năm 2008 đã phân tích quan điểm coi giáo dục
– đào tạo là quốc sách hàng đầu; phân tích một số vấn đề lý luận và thực tiễn về

giáo dục – đào tạo ở nước ta và một số nước trên thế giới. Từ đó, xác định một số
quan điểm cơ bản về giáo dục – đào tạo ở nước ta cần phải nhận thức đúng và đề
xuất giải pháp, kiến nghị nhằm đổi mới giáo dục – đào tạo phát triển nguồn nhân
lực chất lượng cao đáp ứng yêu cầu của thời kỳ mới.
Công trình Giáo dục và đào tạo: phát triển nguồn nhân lực trong thế kỷ XXI
của Trần Khánh Đức do Nhà xuất bản Giáo dục Hà Nội phát hành năm 2010. Cuốn
sách đề cập và phân tích khá sâu sắc tình hình giáo dục và đào tạo nguồn nhân lực;

5


vai trò của giáo dục và đào tạo đối với phát triển nguồn nhân lực nước ta trong thế
kỷ XXI; từ đó, đề xuất một số giải pháp nhằm thúc đẩy, đổi mới giáo dục và đào tạo
đáp ứng yêu cầu phát triển nguồn nhân lực của đất nước.
Công trình Phát triển giáo dục và đào tạo nguồn nhân lực, nhân tài, Một số
kinh nghiệm của thế giới (Chỉ đạo biên soạn - Tạ Ngọc Tấn) của Học viện Chính trị
- hành chính quốc gia do Nhà xuất bản Chính trị quốc gia, Hà Nội phát hành năm
2012. Cuốn sách đã phân tích khá sâu sắc những vấn đề cơ bản về nguồn nhân lực,
nhân tài và phát triển giáo dục, đào tạo nguồn nhân lực, nhân tài của một số nước
trên thế giới, rút ra những kinh nghiệm bổ ích cho Việt Nam trong việc đổi mới căn
bản, toàn diện giáo dục nước ta.
Ngoài những công trình tiêu biểu trên còn có nhiều luận văn, luận án và các
bài nghiên cứu công bố trên các tạp chí. Như vậy, có thể nói các công trình trên đây
đã phản ánh bức tranh tương đối đầy đủ cả về lý luận và thực tiễn về vấn đề giáo
dục – đào tạo đối với sự phát triển nguồn nhân lực nói riêng và con người nói
chung. Ở mức độ nhất định, các công trình đề xuất các giải pháp nhằm phát triển
giáo dục, góp phần vào sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước.
Thứ hai, nhóm công trình liên quan đến lĩnh vực con người và phát triển con
người, trong đó phải kể đến một số công trình:
Công trình, Triết học Mác – Lênin về con người và việc xây dựng con người

Việt Nam thời kỳ công nghiệp hóa, hiện đại hóa của tác giả Vũ Thiện Vương xuất
bản năm 2001. Trong đó, tác giả đã phân tích quan điểm của triết học Mác – Lênin
về bản chất con người - cái bản chất luôn tồn tại một cách hiện thực với phương
thức đặc thù là hoạt động có ý thức mà bằng hoạt động này con người đã sáng tạo ra
lịch sử. Tác giả cũng phân tích những luận điểm cơ bản của chủ nghĩa Mác – Lênin
về giải phóng con người. Đồng thời, tác giả còn phân tích những yêu cầu của sự
nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa đối với việc xây dựng con người Việt Nam
hiện đại. Đánh giá thực trạng và đặt ra những vấn đề đối với việc xây dựng con
người Việt Nam trước và trong đổi mới. Trên cơ sở đó, tác giả đề xuất 3 phương
hướng và 4 nhóm giải pháp để xây dựng con người Việt Nam.

6


Công trình Chủ nghĩa Mác – Lênin và công cuộc đổi mới ở Việt Nam xuất
bản năm 2002 của tác giả Đặng Hữu Toàn. Tác giả đã đi sâu phân tích vai trò của
chủ nghĩa Mác – Lênin đối với công cuộc đổi mới ở Việt Nam; quan điểm của các
nhà sáng lập chủ nghĩa Mác – Lênin và quan điểm của Đảng Cộng sản Việt Nam về
thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội, đặc biệt tác giả đã dành riêng một phần cuốn
sách để luận giải học thuyết Mác về con người, giải phóng con người và vấn đề phát
triển con người Việt Nam.
Ngoài ra, còn có các công trình như: Quan điểm Hồ Chí Minh về con người
và bản chất con người xuất bản năm 2002 của tác giả Đặng Xuân Kỳ; Tư tưởng Hồ
Chí Minh về con người và chiến lược trồng người xuất bản năm 1997 của tác giả
Trần Thành.
Công trình Nghiên cứu con người và nguồn nhân lực đi vào công nghiệp
hóa, hiện đại hóa của tác giả Phạm Minh Hạc công bố năm 2001. Trong tác phẩm
này, tác giả đã phân tích những đặc điểm lịch sử, văn hóa, kinh tế, xã hội, sự tác
động của khoa học công nghệ và phân tích thành tựu, kinh nghiệm của một số nước
phát triển, phân tích, làm rõ vai trò phương pháp luận của chủ nghĩa Mác – Lênin

đối với việc nghiên cứu con người; tư tưởng Hồ Chí Minh về văn hóa và quan điểm
của Đảng cộng sản Việt Nam về phẩm chất của con người Việt Nam.
Cuốn Về phát triển toàn diện con người thời kỳ công nghiệp hóa, hiện đại
hóa xuất bản năm 2001 của tác giả Phạm Minh Hạc. Nội dung cơ bản của cuốn sách
là phân tích cơ sở khoa học của chiến lược phát triển toàn diện con người Việt Nam
giai đoạn 1996 – 2000, đồng thời nêu lên một số định hướng chiến lược và một số
giải pháp nhằm xây dựng, phát triển con người Việt Nam về mặt đạo đức, trí tuệ,
thẩm mỹ…Đặc biệt, cuốn sách đã cụ thể hóa trong một phạm trù nhất định về mục
tiêu đào tạo của nhà trường, chủ yếu ở hệ thống phổ thông và xây dựng chiến lược
giáo dục toàn diện nhằm phục vụ sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước.
Về các công trình, nhóm công trình, tạp chí viết về vấn đề vai trò của trí tuệ
trong việc góp phần phát triển nguồn nhân lực toàn diện, gồm các công trình sau:

7


Bài Nguồn nhân lực trong công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước công bố
trên Tạp chí Triết học, số 3 – 1994 của tác giả Nguyễn Trọng Chuẩn; Trí tuệ Nguồn lực vô tận của sự nghiệp phát triển xã hội công bố trên Tạp chí Triết học, số
1 – 1993 của tác giả Phạm Ngọc Trầm; Phát huy yếu tố con người trong lực lượng
sản xuất công bố trên Tạp chí Triết học, số 1 – 1993 của tác giả Nguyễn Đình Hòa;
Nguồn tài nguyên con người trong quá trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất
nước công bố trên Tạp chí Thông tin lý luận, số 11 – 1994 của tác giả Nguyễn Quan
Du; Giáo dục – đào tạo – nền tảng của chiến lược con người công bố trên Tạp chí
Cộng sản, số 3 – 1993 của tác giả Phạm Tất Dong; Phát triển giáo dục- đào tạo là
điều kiện bảo đảm công nghiệp hóa, hiện đại hóa công bố trên Tạp chí Đại học và
Giáo dục chuyên nghiệp, số 4 – 1995 của tác giả Lưu Đình Mạc; Nguồn nhân lựcđộng lực của công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước công bố trên Tạp chí Triết
học, số 1 – 1996 của tác giả Nguyễn Thế Nghĩa.
Về cơ bản, các công trình trên ít, nhiều đề cập đến vấn đề con người, vấn đề
giáo dục – đào tạo dưới các góc độ, cấp độ và các giai đoạn khác nhau. Trong
khuôn khổ của luận văn thạc sĩ, chúng tôi cố gắng phân tích những tác động cụ thể

của giáo dục – đào tạo đối với việc phát triển con người toàn diện ở Việt Nam hiện
nay, với mong muốn góp phần xây dựng con người Việt Nam hiện đại, toàn diện.
Trong điều kiện mới, hoàn cảnh mới, đặc biệt trong công cuộc đổi mới căn bản và
toàn diện giáo dục – đào tạo hiện nay, việc nghiên cứu làm sáng tỏ vai trò của giáo
dục – đào tạo trong việc xây dựng con người mới, con người xã hội chủ nghĩa thời
kỳ công nghiệp hóa, hiện đại hóa và hội nhập quốc tế là việc làm cần thiết và
không có sự trùng lặp với các công trình đã công bố.
3. Mục đích và nhiệm vụ của luận văn
* Mục đích: Luận văn nghiên cứu làm rõ về tình hình phát huy vai trò của
giáo dục – đào tạo trong phát triển con người toàn diện ở Việt Nam hiện nay.
* Nhiệm vụ:
- Phân tích vai trò của giáo dục – đào tạo trong phát triển lịch sử và con
người nói chung.

8


- Phân tích thành tựu và hạn chế trong việc phát huy vai trò của giáo dục –
đào tạo trong phát triển con người toàn diện ở Việt Nam hiện nay trên ba mặt: đạo
đức, thể lực và trí tuệ.
- Đưa ra một số phương hướng và giải pháp cơ bản nhằm phát huy vai
trò của giáo dục – đào tạo trong việc phát triển con người toàn diện ở Việt Nam
hiện nay.
4. Đối tƣợng và phạm vi nghiên cứu
* Đối tƣợng nghiên cứu:
Vai trò của giáo dục – đào tạo trong phát triển con người toàn diện ở Việt
Nam trong hiện nay.
* Phạm vi nghiên cứu:
Giáo dục – đào tạo luôn là mối quan tâm của mọi quốc gia, dân tộc trên thế
giới trong đó có Việt Nam. Ngày nay, vai trò của giáo dục – đào tạo tác động lên

mọi lĩnh vực từ kinh tế, chính trị đến văn hóa, xã hội, đặc biệt đối với con người.
Trong phạm vi nghiên cứu của luận văn thạc sĩ, tác giả chỉ tập trung nghiên cứu về
vai trò của giáo dục – đào tạo trong phát triển con người toàn diện ở Việt Nam hiện
nay dựa trên ba yếu tố: đạo đức, thể lực và trí tuệ.
5. Cơ sở lý luận và phƣơng pháp nghiên cứu
* Cơ sở lý luận của luận văn
Luận văn thực hiện trên cơ sở lý luận, phương pháp luận duy vật biện
chứng và duy vật lịch sử, chủ nghĩa Mác – Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, các
quan điểm của Đảng Cộng sản Việt Nam về văn hóa, giáo dục, đạo đức và nhất
là về con người.
* Phƣơng pháp nghiên cứu
Thực hiện luận văn, tác giả sử dụng các phương pháp nghiên cứu: phân tích tổng hợp; lịch sử - logic; khái quát hóa. Ngoài ra, tác giả còn kết hợp một số
phương pháp như hệ thống hóa, đối chiếu, so sánh, thống kê…để làm rõ vấn đề mà
luận văn đề cập đến.

9


6. Đóng góp của luận văn
Về mặt lý luận: Luận văn góp phần làm rõ những vấn đề căn bản trong việc
phát huy vai trò của giáo dục – đào tạo trong phát triển con người toàn diện ở
Việt Nam hiện nay; đồng thời xây dựng một số phương hướng và giải pháp cơ
bản nhằm phát huy vai trò của giáo dục – đào tạo trong phát triển con người toàn
diện ở Việt Nam.
Về mặt thực tiễn: Luận văn có thể dùng làm tài liệu tham khảo cho việc
nghiên cứu về vấn đề liên quan đến giáo dục và phát triển con người.
7. Cấu trúc của luận văn
Ngoài phần Mở đầu, Kết luận, Danh mục tài liệu tham khảo, nội dung của
luận văn gồm 2 chương, 4 tiết.


10


Chƣơng 1
LÝ LUẬN CHUNG VỀ VAI TRÒ
CỦA GIÁO DỤC – ĐÀO TẠO VÀ QUAN ĐIỂM CỦA ĐẢNG CỘNG SẢN
VIỆT NAM VỀ PHÁT TRIỂN CON NGƢỜI TOÀN DIỆN

1.1.

Vai trò của giáo dục – đào tạo trong phát triển lịch sử

1.1.1. Vai trò của giáo dục – đào tạo trong phát triển kinh tế - xã hội
Trước hết, phải khẳng định rằng, trình độ phát triển của lực lượng sản xuất là
yếu tố quyết định nhất đối với sự phát triển của mọi dân tộc, quốc gia cũng như tiến
trình phát triển chung của nhân loại. Trong đó, vai trò của con người với tư cách
chủ thể của mọi hoạt động và sáng tạo ra lịch sử. Với việc sử dụng tri thức để cải
biến giới tự nhiên theo mục đích của mình, con người đã từng bước góp phần vào
sự phát triển xã hội. Quá trình phát triển đó phụ thuộc vào khả năng nắm bắt bản
chất và quy luật của giới tự nhiên – tri thức. Khi con người sử dụng tri thức kinh
nghiệm trong quá trình sống và hoạt động, ở mức độ nhất định đã mang lại hiệu quả
nhất định. Tuy nhiên, để đạt tới trình độ phát triển cao, đòi hỏi con người hiểu biết
sâu sắc hơn về giới tự nhiên và khi ấy, vai trò của tri thức khoa học ngày càng đóng
vai trò quyết định đối với sự phát triển kinh tế - xã hội.
Khi nói về vai trò của tri thức đối với sự nghiệp giải phóng giai cấp, Ph.
Ăngghen đã khẳng định: sự nghiệp giải phóng giai cấp công nhân luôn đòi hỏi phải
có những kỹ sư, bác sĩ, các nhà bác học, và các chuyên gia khác. Giai cấp công
nhân cần thiết lập quyền lãnh đạo của mình không phải chỉ ở bộ máy chính trị, mà
họ phải cần đến những kiến thức khoa học vững chắc chứ không phải những luận
điệu huênh hoang, rỗng tuếch. Quan điểm của các nhà mácxít khi đề cập đến con

người cũng cho rằng, con người không thể đối diện với thực tế khách quan chỉ bằng
những dự định, mệnh lệnh và mơ ước tuyệt đẹp… mà con người trong thời đại ngày
nay phải là con người có năng lực hoạt động thực tiễn.
Trong thời đại ngày nay, tận dụng thời cơ, vượt qua thách thức không phải
là công việc của riêng quốc gia nào mà là mục tiêu của mọi quốc gia. Trên thực tế,
Nhật Bản đã xây dựng thành công những thành phố công nghệ trải rộng trên cả

11


nước, với ý định dẫn đầu nhân loại vào làn sóng văn minh mới. Hoa Kỳ đang cố níu
lại vị trí siêu cường kinh tế của mình bằng mọi cách, kể cả sử dụng vũ lực quân sự.
Các nước thuộc cộng đồng kinh tế châu Âu đang cố gắng bứt lên trong cuộc cạnh
tranh quyết liệt để sánh ngang với Nhật Bản và Mỹ. Các “con rồng” châu Á tuy đi
sau nhưng cũng đã làm được những điều phi thường về kinh tế… Tất cả những
quốc gia này đã làm nên những điều kỳ diệu trong phát triển kinh tế - xã hội, mặc
dù họ không phải là những nước giàu tài nguyên, khoáng sản. Song, với quan điểm
giáo dục và chiến lược về con người đúng đắn, họ đã tạo dựng một nền tảng vững
chắc cho sự phát triển kinh tế - xã hội. Trên cơ sở nhận thức được vai trò của giáo
dục – đào tạo, sức mạnh của tri thức đã góp phần thúc đẩy các cuộc cách mạng khoa
học – kỹ thuật và xã hội thông tin tạo ra bước ngoặt trong lịch sử của loài người.
Cuộc chạy đua giữa các quốc gia ngày nay thực chất là sự chạy đua về khai thác,
phát huy và sử dụng tri thức trong các lĩnh vực của đời sống xã hội. Thực tiễn đã
chứng minh rằng, trong tất cả yếu tố tạo nên sự thành công của các quốc gia, đặc
biệt sự phát triển vượt trội về kinh tế không có một yếu tố nào quan trọng hơn giáo
dục – đào tạo. Bởi lẽ, lịch sử văn minh nhân loại như một dòng chảy bất tận không
ngừng. Trong dòng chảy lịch sử ấy, xuất phát từ yêu cầu nội tại của sự phát triển
kinh tế, của sản xuất vật chất đòi hỏi phải có những tri thức. Chủ thể của mọi quá
trình sản xuất, của mọi tư liệu lao động, của quan hệ tổ chức quản lý là con người,
trong đó giáo dục – đào tạo là công cụ khai mở tri thức mới. Do vậy, sẽ là sai lầm

khi không đánh giá đúng vị trí, vai trò của giáo dục – đào tạo trong các quá trình
phát triển kinh tế - xã hội, và “mỗi thời đại lịch sử, phương thức chủ yếu của sản
xuất kinh tế và trao đổi, cùng với cơ cấu xã hội do phương thức đó quyết định, đã
cấu thành cơ sở cho lịch sử chính trị của thời đại và lịch sử của sự phát triển trí tuệ
của thời đại, cái cơ sở mà chỉ có thể xuất phát từ đó mới cắt nghĩa được lịch sử”
[41, tr. 523]. Chủ nghĩa Mác đã tìm ra câu trả lời cho động lực làm nảy sinh tri thức
mới phục vụ cho quá trình sản xuất, hay nói cách khác, tri thức là động lực chính
viết nên lịch sử văn minh nhân loại, mà mỗi khi tri thức hay phát minh mới ra đời
đều đánh dấu một bước tiến mới của nhân loại.

12


Khi nghiên cứu sự phát triển của lịch sử loài người, đặc biệt là sự phát triển
nhảy vọt về chất của lực lượng sản xuất, nhà tương lai học người Mỹ - Alvin Toffler
đã phác họa bức tranh của toàn bộ lịch sử nhân loại thông qua ba làn sóng văn
minh: Làn sóng thứ nhất với giai đoạn văn minh nông nghiệp, làn sóng thứ hai với
giai đoạn văn minh công nghiệp, làn sóng thứ ba với giai đoạn văn minh hậu công
nghiệp. Trong đó, làn sóng thứ ba – văn minh hậu công nghiệp được đánh dấu từ
những năm 50 của thế kỷ XX. Đó là vào những năm 1956, năm đầu tiên ở Hoa Kỳ,
số công nhân mặc “áo cổ trắng” và nhân viên dịch vụ đã vượt về số lượng so với
nhân viên mặc “áo cổ xanh”. Biểu tượng của làn sóng thứ ba là chiếc máy tính. Đó
là sự lên ngôi của truyền thông, thông tin và tri thức khoa học.
Trong lịch sử phát triển, loài người đã trải qua nhiều giai đoạn với những
phương thức và huy động mọi nguồn lực khác nhau cho sự phát triển. Có những
giai đoạn, con người chủ yếu sử dụng sức mạnh cơ học để tạo ra của cải vật chất,
sức mạnh vật chất, tài nguyên cho sự phát triển. Và như thế, “con người chỉ có thể
vận dụng sức lực đến một mức độ nào đó mà thôi. Của cải cũng cùng một cách thể
hiện như vậy. Tiền của không thể mua hết tất cả, dù là núi vàng, núi bạc cũng có
ngày khánh tận” [62, tr. 47]. Để vượt qua giới hạn này đòi hỏi vai trò của tri thứ


c

với tư cách nguồ n lực vô ha ̣n cả về lươ ̣ng và chấ t . Đặc biệt, trong thời đa ̣i ngày nay
tri thức ngày càng đóng vai trò quan trọng , quyết định đối với quá trình sản xuất
cũng như quá trình phát triể n . Và rằng, “tri thức không bị hạn chế như vậy, ngược
lại, chúng ta có thể truy tầm nó mãi mãi đến tối đa” [62, tr. 47]. Hơn nữa , “tri thức,
với tư cách là yếu tố sản xuất độc đáo, sẽ thay thế đất đai, tài nguyên, sẽ phá vỡ giới
hạn địa lí, không gian, văn hóa, sẽ vượt qua lãnh thổ quốc gia, dân tộc, chủng tộc,
trở thành “sức mạnh vô địch” trong xã hội. Tri thức, với tư cách là nguồn tài nguyên
chủ chốt sẽ thay đổi về cơ bản kết cấu xã hội, sáng tạo ra động lực phát triển mới,
đồng thời, thông qua sự chuyển hóa hiện thực của các cá thể thay đổi tiến trình của
sự sống” [66, tr. 10]. Không chỉ đế n ngày nay con người mới nhâ ̣n ra tri thức là
nguồ n gố c của của cải và sự giàu có của xã hô ̣i mà ngay từ cuố i thế kỷ XVI đầ u thế
kỷ XVII , Nhà triết học duy vật Anh Ph . Bêcơn đã đánh giá rất cao vai trò của tri

13


thức và đi đế n khẳ ng đinh
̣ “tri thức là sức mạnh” , vì thế, tri thức phải trở thành công
cụ để con người nhận thức bất cứ sự vật nào tồn tại trong tự nhiên và trong thế giới
loài người. Sự tìm tòi thứ chân lý ấy là sự thực hiện tồn tại do trí tuệ con người, bởi
vì con người được giao cho thiên chức kiểm soát thế giới bao la và sự khám phá
bằng trí tuệ chân chính của mình, bắt thế giới phục vụ cho nhu cầu của mình. Bởi vì
mục đích cốt tủy của tri thức khoa học xét đến cùng là trang bị cho con người
phương tiện hiện thực và năng lực biến đổi thế giới.
Có thể nói, với sức ma ̣nh của tri thức , loài người đã tạo ra những biến đổi về
chất chưa từng có trong lực lượng sản xuất. Một thực tế chắc chắn là, với sự gia
tăng sức mạnh của tri thức , khoa học, công nghệ, nguồ n gố c của cải không còn dựa

nhiều vào cơ bắp và tài nguyên thiên nhiên , mà chủ yếu dựa vào tri thức , khoa học
và công nghệ. Đặc biệt, với xu thế toàn cầ u hoá các liñ h vực của đời số ng xã hô ̣i , sự
bùng nổ thông tin với sự ứng dụng các công nghệ mới đã trở thành một vũ khí cạnh
tranh có tính chiến lược trong kinh doanh, một lực thúc đẩy then chốt trong hệ
thống sáng tạo của cải mới. Kết quả của những biến đổi đó là các vấn đề an sinh xã
hội cũng được giải quyết từng bước trong cơ cấu xã hội . Và “chúng ta đương nhiên
vui mừng khi thấy rằng chỉ một thành quả khoa học như máy hơi nước của Jame
Watt, trong 50 năm đầu tồn tại của nó, đã đem lại cho thế giới lợi ích nhiều hơn so
với những giá phải trả cho công việc phát triển khoa học kể từ lúc bắt đầu” [43, tr.
607]. Tuy nhiên, tri thức không phải cái tự nhiên có sẵn trong giới tự nhiên mà phải
thông qua quá triǹ h tác đô ̣ng qua la ̣i giữa giới tự nhiên với bô ̣ naõ con người . Hơn
nữa, để đạt được độ sâu sắc và bản chất đòi hỏi con người cần thiết phải hệ thống
hoá, lôgíc hoá và có “công cu ̣” cho quá trình mở mang , nâng cao tri thức. Và như
thế , giáo dục – đào ta ̣o là mô ̣t trong những yế u tố đóng

vai trò quan tro ̣ng , quyế t

đinh
̣ nhấ t cho sự phát huy, phát triển tri thức của mỗi cá nhân cũng như của toàn thể
xã hội. Vì thế Đảng ta đã khẳng định : “Giáo dục và đào tạo cùng với khoa học và
công nghệ là quốc sách hàng đầu, là nền tảng và động lực thúc đẩy công nghiệp
hoá, hiện đại hoá đất nước” [21, tr. 94 – 95]. Không chỉ thể hiện sự nhất quán,
xuyên suốt trong quan điểm phát triển, Đảng ta tiếp tục nhấn mạnh và coi đầu tư

14


cho giáo dục – đào tạo là đầu tư cho sự phát triển. Giáo dục – đào tạo, khoa học công nghệ không chỉ nâng cao dân trí, mà còn “phát triển nguồn nhân lực, bồi
dưỡng nhân tài, góp phần quan trọng phát triển đất nước, xây dựng nền văn hoá và
con người Việt Nam. Phát triển giáo dục và đào tạo cùng với phát triển khoa học và

công nghệ là quốc sách hàng đầu; đầu tư cho giáo dục và đào tạo là đầu tư phát
triển” [22, tr. 77].
Trong thời đại hội nhập như hiện nay, khoa học công nghệ bùng nổ thì càng
không thể thiếu vai trò của giáo du ̣c

– đào ta ̣o – yế u tố chính góp phần nâng cao

trình độ dân trí , phát triển khoa học công nghệ và tăng năng suốt lao động

. Theo

Becker (1964), nhà kinh tế đoạt giải Nobel năm 1992 nhấ n ma ̣nh: không có đầu tư
nào mang lại nguồn lợi lớn như đầu tư vào nguồn nhân lực, đặc biệt là đầu tư vào
giáo dục. Việc thực hiện những mục tiêu cải cách giáo dục đã thực sự đem lại
những chuyển biến về trình độc học vấn trong cộng đồng người dân, đây là một yếu
tố thuận lợi mang tính nội sinh trong việc đẩy mạnh các hoạt động đào tạo nghề
cũng như giải quyết việc làm cho người dân.
Điều đó cho chúng ta thấy, khi người dân đạt được một trình độ học vấn nhất
định họ sẽ có khả năng tiếp thu thông tin cũng như khả năng phát huy chuyên môn
của mình một cách tốt nhất. Vì vậy, trình độ của nguồn nhân lực càng cao, khả năng
thúc đẩy sự phát triển của lực lượng sản xuất càng mạnh mẽ , sản phẩm do họ m ang
lại có giá trị cao nhờ vào hàm lươ ̣ng tri thức ẩ n dấ u trong sản phẩ m . Mặt khác, một
điều mà chúng ta dễ dàng nhận ra đó là việc đầu tư cho giáo dục – đào tạo sẽ làm
tăng năng suất cho chính bản thân họ , từ đó sẽ làm nâng cao chất lượng cuộc sống .
Hơn thế nữa , người lao đô ̣ng vừa là người ta ̣o ra của cải , vừa là lực lươ ̣ng sáng ta ̣o
ra kỹ thuật công nghệ và trực tiếp sử dụng chúng vào quá trình phát triển kinh tế .
Do đó , ta có thể nhận thấy việc nâng cao trình độ học vấn và đào ta ̣o kiến thức
chuyên môn sẽ quyế t đinh
̣ trực tiế p đế n năng suất và hiệu quả lao đô ̣ng sản xuấ t . Ở
phạm vi vĩ mô, giáo dục làm tăng kỹ năng lao động , tăng năng suất và dẫn đến thúc

đẩy tăng trưởng kinh tế - mô ̣t trong những tiề n đề chủ yế u cho sự phát triể n con
người. Do vậy, giáo dục được xem như là một hoạt động đầu tư làm tăng vốn nhân

15


lực, có ích cho tăng trưởng kinh tế trong dài hạn. Chính vì thế, giáo dục – đào tạo
được coi là quốc sách. Nhiều nghiên cứu ở các nước phát triển chỉ ra rằng, ở những
quốc gia mà người dân có trình độ học vấn cao thường có trình độ phát triển cao
hơn. Hầ u như các học giả đều cho rằng , đào tạo là yếu tố sản xuất quan tro ̣ng trong
hàm lượng sản xuất của nền kinh tế. Sự đầu tư cho giáo dục – đào tạo sẽ làm tăng
chất lượng lao động và thúc đẩy tăng trưởng kinh tế.
Đối với nước ta , phát triển giáo dục – đào ta ̣o luôn đươ ̣c coi là một động lực
quan trọng thúc đẩy sự nghiệp công nghiệp hóa – hiện đại hóa đất nước, là điều kiện
phát huy nguồn nhân lực con người, yếu tố cơ bản để phát triển xã hội, tăng trưởng
kinh tế nhanh và bền vững. Phát triển nguồn nhân lực là quá trình tạo ra sự biến đổi
về số lượng và chất lượng . Về phương diê ̣n số lươ ̣ng , nước ta đang ở giai đoa ̣n dân
số vàn g – với lực lươ ̣ng lao đô ̣ng dồ i d ào. Tuy nhiên, nế u chỉ dựa vào số lươ ̣ng thì
cũng chỉ như là dựa vào sức ma ̣nh “cơ bắ p” . Vì thế, viê ̣c cầ n thiế t và để tố i ưu hoá
“dân số vàng” đòi hỏi phải phá t huy vai trò của giáo dục

– đào ta ̣o nhằ m nhanh

chóng tri thức hoá lực lượng lao động của xã hội biểu hiện ở sự hình thành và hoàn
thiện từng bước về thể lực, kiến thức, kỹ năng, trình độ và nhân cách nghề nghiệp,
đáp ứng nhu cầu hoạt động, lao động cá nhân và sự phát triển của xã hội.
Giáo dục – đào tạo nâng cao chất lượng lao động còn được thể hiện qua việc
tích lũy vốn, tăng thu nhập người lao động. Giáo dục – đào tạo cũng là công cụ để
thế hệ trước truyền lại cho các thế hệ những tư tưởng , văn hoá cùng những giá tri ̣
tinh thầ n và sự tiến bộ về khoa học công nghệ . Với đấ t nước ta hiê ̣n nay , giáo dục –

đào tạo còn hướng đế n thực hiện mục tiêu : “Nâng cao dân trí, đào tạo nhân lực , bồi
dưỡng nhân tài” hình thành đội ngũ lao đô ̣ng có tri thức , có tay nghề, có năng lực
thực hành, tự chủ, năng động, sáng tạo, có đạo đức cách mạng, tinh thần yêu nước
và yêu chủ nghĩa xã hội. Giáo dục – đào tạo gắn liền với học hành , những điều học
sinh học trong nhà trường cầ n gắn với nghề nghiệp và cuộc sống

. Giáo dục – đào

tạo giúp đào tạo lớp người có kiến thức cơ bản, làm chủ kỹ năng nghề nghiệp, có ý
thức vươn lên về khoa học, công nghệ, xây dựng đội ngũ công nhân lành nghề, đào
tạo các chuyên gia, các nhà khoa học, nhà văn hóa, nhà kinh doanh, nhà quản

16


lý nhằm phát huy mọi tiềm năng của đội ngũ trí thức để tạo nguồn lực trí tuệ và
nhân tài cho đất nước.
Đối với Việt Nam hiện nay vẫn còn là một quốc gia chậm phát triển so với
thế giới. Dường như chúng ta nhận thức một cách muộn màng về vai trò của giáo
dục – đào ta ̣o trong viê ̣c ta ̣o ra nguồ n tri thức

phục vụ cho sự phát triển của đất

nước. So với sự thức tỉnh của một nền kinh tế thứ hai thế giới như Nhật Bản hay
“con rồng châu Á” như Singapore , nền kinh tế thứ 10 thế giới như Hàn Quốc , thì
Việt Nam còn châ ̣m . Tuy vậy, trong thời gian vừa qua , Đảng ta đã có quan điể m và
chủ trương đúng đắ n về giáo du ̣c , các hoạch định và quản lý giáo dục và cũng là cơ
sở cho viê ̣c huy đô ̣ng mo ̣i nguồ n lực của xã hô ̣i cho giáo duc – đào ta ̣o. Đây là cơ sở
để chúng ta tin tưởng về sự rút ngắn khoảng cách với các nước trong khu vực cũng
như trên thế giới, bằng cuộc cách mạng tri thức thông qua viê ̣c không ngừng đẩy

mạnh đầu tư cho giáo dục.
Có thể nói, giáo dục – đào tạo trong thời đại ngày nay đã trở thành động lực
hàng đầu để phát triển kinh tế - xã hội. Theo ước tính , đào tạo được nâng lên một
bậc thì năng suất lao động bình quân trên toàn xã hội tăng 5%. Sở dĩ, giáo dục – đào
tạo có vai trò to lớn như vậy là bởi, nó tạo ra đội ngũ những nhà khoa học, các
chuyên gia giỏi, những kỹ sư, thợ lành nghề bậc cao trên các lĩnh vực kinh tế , khoa
học, công nghê ̣ và văn hoá . Nhờ đó, có thể sáng tạo, vận dụng thành tựu của khoa
học - kỹ thuật tiên tiến, công nghệ mới, chế tạo ra những nguyên liệu thay thế cho
các nguồn tài nguyên thiên nhiên và những sản phẩm không có sẵn trong tự nhiên,
hơn nữa, tri thức góp phần mang lại những cách thức quản lý mới đem đến hiệu quả
kinh tế cao. Và vì thế , giáo dục – đào tạo là yếu tố then chốt, trực tiếp quyết định
việc nâng cao trình độ học vấn, trình độ khoa học - kỹ thuật, tổ chức quản lý, năng
lực hoạt động của thực tiễn lao động.
1.1.2. Vai trò của giáo dục – đào tạo trong phát triển con người
Thật vậy, giáo dục – đào tạo không chỉ đóng vai trò quan trọng đối với sự
phát triển của lịch sử, mà còn có ý nghĩa vô cùng to lớn đối với sự phát triển con
người. Về phương diê ̣n xã hội, giáo dục thể hiện vai trò trong viê ̣c xây dựng và phát

17


triển xã hội dân chủ , là yế u tố quyết định của nền dân chủ , về phương diê ̣n cá nhân ,
“một nền giáo dục tốt có thể bổ sung các khiếm khuyết trong cuộc sống gia đình và
thực tiễn xã hội”, bởi vì “mọi thành viên trong xã hội đều được chia sẻ các giá trị và
các thành quả của nền giáo dục” [10, tr. 488]. Từ đó, có thể nhận thấy vai trò của
giáo dục – đào tạo được thể hiện trên một số phương diện chủ yếu sau:
Một là, giáo dục – đào tạo góp phầ n phát triển đạo đức , nâng cao đời văn
hóa, thẩm mỹ và tinh thần của con người.
Trước yêu cầ u của thực tiễn , Đảng ta đã tiế n hành công cuô ̣c đổ i mới toàn
diện. Công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước là bước đi tiế p theo và cu ̣ thể hoá trên

phương diê ̣n kinh tế . Tuy nhiên, để thực hiện mục tiêu dân giàu , nước ma ̣nh, xã hội
công bằ ng, dân chủ và văn mi nh thì không chỉ có kinh tế , mà còn đòi hỏi sự phát
triể n đồ ng bô ̣ mo ̣i mă ̣t trong đời số ng xã hội . Đặc biệt coi trọng việc giáo dục , bồi
dưỡng những phẩm giá của con người Việt Nam

. Trong đó , viê ̣c chú tro ̣ng bồ i

dưỡng, giáo dục đạo đức truyền thống dân tộc , đa ̣o đức cách ma ̣ng là nề n tản g, gố c
rễ cho viê ̣c hình thành đa ̣o đức con người trong thời kỳ mới. Đạo đức của người lao
động trong thời kỳ mới , thời kỳ công nghiệp hóa , hiện đại hóa đòi hỏi là đạo đức
trung thực và sáng tạo , tâ ̣n tuy ,̣ tự giác, khẩn trương, tích cực, có sự nhâ ̣n thức rõ ý
thức về nghĩa vụ, bổn phận, trách nhiệm. Nó đáp ứng những chuẩn mực, giá trị của
đạo đức xã hội. Mà dấu hiệu trưởng thành đạo đức của nó là sự thống nhất giữa lời
nói và việc làm, giữa nhận thức và hành động, giữa động cơ và hiệu quả.
Cùng với trí lực và năng lực, đạo đức góp phần hoàn chỉnh những nhân tố
chủ yếu trong cấu trúc nhân cách của con người xã hội. “Công nghiệp hóa, hiện đại
hóa đòi hỏi sự phát triển con người, thực chất là một sự phát triển nhân cách. Nó là
sự phát triển ở trình độ chín muồi, sản phẩm tổng hợp ở sự giáo dục và tự giáo dục,
nắm bắt những kinh nghiệm xã hội vào con người qua những nỗ lực tự giác của nó,
biến thành kinh nghiệm cá nhân, được thể nghiệm trong lao động và lối sống của cá
nhân. Nhân cách theo đó là diện mạo đặc trưng cho chất lượng phát triển của cá
nhân, là sự thể hiện của cá nhân với một hệ thống chức năng xã hội của nó trong
hoạt động để khẳng định những giá trị xã hội của nó, được xã hội đánh giá thông

18


qua uy tín và ảnh hưởng của nó tới cá nhân khác, một nhân cách khác và tới xã hội
nói chung” [3, tr. 12]. Hơn nữa , trong giai đoa ̣n hiê ̣n nay , sự phát triể n và tác đô ̣ng
bởi kinh tế thi trươ

̣
̣ ̣o đức truyề n thố ng
̀ ng đâu đó đã có sự sói mòn những giá tri đa

.

Mă ̣c dù kinh tế thị trư ờng đã góp phầ n đưa đấ t nước ta từng bước thoát khỏi nghèo
nàn, lạc hậu. Tuy nhiên , nếu các chủ thể tham gia vào quá trình kinh tế đó không
nhâ ̣n thức đươ ̣c hoă ̣c không đươ ̣c đinh
̣ hướng thì nguy cơ tha hoá

, chạy theo lợi

nhuận, đi ngược lại những suy nghĩ và hành động nhân tính, vô đạo đức trong ứng
xử sẽ ngày càng hiện hữu và nguy cơ xa dời mục tiêu

, lý tưởng giải phóng con

người ngày càng trở thành mục tiêu xa vời và mang tính giáo điều .
Giáo dục – đào tạo không chỉ có ý nghĩa về mặt làm giàu tri thức cho con
người, mà còn góp phần làm giàu thêm đời sống văn hóa. Hơn nữa, còn phát hiện,
sáng tạo những giá trị còn tiềm ẩn trong đời sống nhân dân và có khả năng “hóa
thân”, “thẩm thấu” vào từng yếu tố của lực lượng sản xuất, trong quan hệ sản xuất
và kiến trúc thượng tầng. Vì vậy, giáo dục – đào tạo luôn luôn là nền tảng đối với
chiến lược phát triển con người. Văn hóa và con người là hai vấn đề thống nhất biện
chứng với nhau. Mọi vấn đề của con người cũng là vấn đề của văn hóa. Phát huy
nhân tố con người cũng chính là quá trình phát huy những giá trị văn hóa cho sự
nghiệp phát triển kinh tế - xã hội của đất nước. Đặc biệt, trong bối cảnh toàn cầu
hóa và hội nhập quốc tế hiện nay, để phát triển đất nước bền vững, không một quốc
gia, dân tộc nào không xác định con người – với tư cách nền tảng văn hóa là nguồn

lực nội sinh quan trọng nhất cho sự phát triển bền vững. Đảng ta đã khẳng định văn
hóa là “nền tảng tinh thần vững chắc, sức mạnh nội sinh quan trọng của phát triển,
còn con người là “trung tâm của chiến lược phát triển, đồng thời là chủ thể của phát
triển” [22, tr. 75-76].
Thời đại ngày nay – sự phát triển của khoa học - kỹ thuật đã tạo điều kiện
cho sự phát triển cơ sở vật chất, cho sự phát triển kinh tế - xã hội, trong đó có con
người và văn hóa trên cả hai phương diện chất và lượng. Mặt khác, chỉ khi nào con
người phát triển đến một trình độ văn hóa nhất định mới nhận thức và giải quyết
được những yêu cầu to lớn, những nhiệm vụ phức tạp và mới mẻ mà sự nghiệp công

19


nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước đã đặt ra. Đó không chỉ là giá trị kinh tế thuần
túy, mà còn là những giá trị Người với tư cách chủ thể xã hội. Việc tăng trưởng kinh
tế nhanh trong cơ chế thị trường càng đòi hỏi chúng ta phải giữ gìn những cội
nguồn văn hóa dân tộc. Bởi vì “bất cứ sự phát triển nào về kinh tế, khoa học, công
nghệ, mà dẫn tới những khủng hoảng những giá trị văn hóa và bản lĩnh văn hóa của
con người Việt Nam, làm mất đi bản sắc dân tộc của nền văn hóa Việt Nam, làm
xấu đi quan hệ vốn có giữa những người Việt Nam hôm nay đều có thể kéo theo
những hiểm họa không dễ gì khắc phục” [40, tr. 13].
Văn hóa là những giá trị vật chất và tinh thần do con người sáng tạo ra qua
hàng ngàn năm lịch sử. Nền văn hóa Việt Nam được tạo dựng trong suốt chiều dài
lịch sử dân tộc. Những tinh hoa văn hóa của con người Việt Nam luôn là yếu tố nền
tảng tạo nên sức sống của dân tộc, là nguồn sức mạnh chiến thắng mọi kẻ thù, sức
mạnh đó luôn trường tồn và phát triển cùng dân tộc. Trong bối cảnh hội nhập, toàn
cầu hóa hiện nay, những giá trị văn hóa truyền thống là yếu tố riêng biệt, khẳng
định bản sắc của dân tộc mình trước các nền văn hóa khác. Đây là chất kết dính con
người, các cộng đồng người trong đại gia đình dân tộc Việt Nam. Đồng thời, là giá
trị mà mọi con dân đất Việt hướng về cội nguồn, vun đắp cho sự phát triển và là cơ

sở để tiếp thu tinh hoa văn hóa nhân loại.
Mỗi một dân tộc đều có quyền tự hào về văn hóa truyền thống của dân tộc
mình. Những giá trị văn hóa đó luôn được coi là tốt, là đẹp, là có ích đối với nhu
cầu con người ở mỗi thời đại. Nó không chỉ có vai trò tạo dựng nên hệ giá trị chuẩn
mực chung cho một dân tộc, mà đối với từng cá thể trong dân tộc ấy cũng chịu sự
tác động bởi giá trị truyền thống này. Bởi “một khi những quan niệm giá trị đó hình
thành và định hình thì nó có tác dụng chi phối những nhận thức, quan niệm, hành
vi, tình cảm của con người trong mỗi cộng đồng ấy” [60, tr. 715]. Bởi vậy, việc giáo
dục – đào tạo thế hệ trẻ không thể không quan tâm đến việc giáo dục đạo đức, nhân
cách, tâm hồn và truyền thống văn hóa của đất nước. Những giá trị ấy vốn định hình
nên nhận thức, quan niệm, hành động của con người trước hiện thực xã hội. Đây
được coi là một trong những nhiệm vụ của giáo dục – đào tạo trong giai đoạn hiện

20


nay. “xây dựng con người Việt Nam giàu lòng yêu nước, có ý thức làm chủ, trách
nhiệm công dân, có tri thức, sức khỏe, lao động giỏi, sống có văn hóa, nghĩa tình, có
tinh thần quốc tế chân chính” [22, tr. 40] là mục tiêu không chỉ của giáo dục – đào
tạo, mà còn là mục tiêu mà Đảng và Nhà nước ta luôn hướng tới. Bởi lẽ, văn hóa và
phát triển văn hóa được coi là nền tảng tinh thần vững chắc, và là sức mạnh nội sinh
của sự phát triển.
Mục tiêu xây dựng nền văn hóa và con người Việt Nam được Đảng rất quan
tâm. Đảng ta cho rằng: “Mục tiêu xây dựng nền văn hóa và con người Việt Nam
phải phát triển toàn diện, hướng đến chân – thiện – mỹ, thấm nhuần tinh thần dân
tọc, nhân văn, dân chủ và khoa học; xây dựng văn hóa thực sự trở thành nền tảng
tinh thần vững chắc của xã hội; xây dựng con người Việt Nam phát triển toàn diện.
Đảng đặc biệt nhấn mạnh “đúc kết và xây dựng hệ giá trị văn hóa và hệ giá trị
chuẩn mực của con người Việt Nam thời kỳ công nghiệp hóa, hiện đại hóa và hội
nhập quốc tế” [23, tr.29]. Có thể nói, văn hóa có vai trò vô cùng quan trọng cho sự

phát triển của con người. Một môi trường văn hóa lành mạnh sẽ tạo điều kiện để
xây dựng con người Việt Nam đẹp về nhân cách, đạo đức, tâm hồn, nâng cao trách
nhiệm xã hội và ý thức công dân. Văn hóa thực sự là nền móng cho sự phát triển
nhân cách và tâm hồn con người. Một nền văn hóa tốt, một nền văn hóa đẹp phải là
một nền văn hóa có giáo dục.
Hai là, giáo dục – đào tạo góp phần phát triển trí tuệ.
Giáo dục có thể hiểu là quá trình được tổ chức có ý thức hướng tới mục đích
khơi gợi hoặc biến đổi nhận thức, năng lực, tình cảm, thái độ của người học theo
hướng tích cực. Nghĩa là góp phần hoàn thiện nhân cách người học bằng những tác
động có ý thức từ bên ngoài, góp phần đáp ứng các nhu cầu tồn tại và phát triển của
con người trong xã hội đương đại. Giáo dục – đào tạo giúp cho con người nhận thức
ngày càng sâu hơn, rộng hơn về giới tự nhiên, về đời sống xã hội và những quy luật
để vận dụng vào trong hoạt động thực tiễn. Những tri thức khoa học con người có
được không chỉ giúp các chủ thể hoạt động thực tiễn đạt hiệu quả cao, mà còn là cơ
sở để tự hoàn thiện bản thân mình và sáng tạo ra những giá trị mới. Vì thế, lịch sử

21


×