Tải bản đầy đủ (.pdf) (26 trang)

Tư tưởng hồ chí minh về “dân” và vai trò của nhân dân trong sự nghiệp cách mạng việt nam tt

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (342.58 KB, 26 trang )

VIỆN HÀN LÂM
KHOA HỌC XÃ HỘI VIỆT NAM
HỌC VIỆN KHOA HỌC XÃ HỘI

NGUYỄN THỊ THU TRANG

TƢ TƢỞNG HỒ CHÍ MINH VỀ “DÂN” VÀ VAI TRÒ CỦA
NHÂN DÂN TRONG SỰ NGHIỆP
CÁCH MẠNG VIỆT NAM

Chuyên ngành: Triết học
Mã số: 60 22 03 01

TÓM TẮT LUẬN VĂN THẠC SĨ TRIẾT HỌC

HÀ NỘI
1 - 2017


Công trình được hoàn thành tại: Học viện Khoa học xã hội.
Người hướng dẫn khoa học: PGS.TS. TRẦN NGUYÊN VIỆT

Phản biện 1: PGS. TS. Phạm NGọc Anh
Phản biện 2: TS. Trần Thanh Giang

Luận văn sẽ được bảo vệ trước Hội đồng chấm luận văn thạc sĩ
họp tại: Học viện Khoa học Xã hội vào lúc:
16 giờ, ngày 10 tháng 4 năm 2017

Có thể tìm hiểu luận văn tại:
Thư viện Học viện khoa học xã hội




MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Chủ tịch Hồ Chí Minh là người cộng sản vĩ đại, vị anh hùng giải
phóng dân tộc, chiến sĩ quốc tế lỗi lạc đã đấu tranh không mệt mỏi, hiến
dâng cả đời mình vì tổ quốc, vì nhân dân, vì độc lập tự do cho dân tộc, vì
hoà bình và công lý trên thế giới. Với tình cảm yêu nước thương dân vô hạn
cả cuộc đời mình Người chỉ có duy nhất một mong muốn: “Tôi chỉ có một
sự ham muốn, ham muốn tột bậc, là làm sao cho nước ta được hoàn toàn
độc lập, dân tộc ta được hoàn toàn tự do, đồng bào ai cũng có cơm ăn, áo
mặc, ai cũng được học hành” [36, tr. 187]. Nhân dân trong trái tim của Hồ
Chí Minh giữ một vị trí vô cùng quan trọng bởi dân là gốc của nước, là
ngọn nguồn sức mạnh, là lực lượng to lớn của Đảng, của cách mạng nếu
không có sự ủng hộ của nhân dân thì làm sao có thể làm nên sự nghiệp lớn
lao.
Chủ tịch Hồ Chí Minh là người sáng lập và lãnh đạo Đảng, Người
nhận thấy được rằng sức mạnh của Đảng và nhà nước là dựa trên sức mạnh
và sự ủng hộ của nhân dân cho nên mọi công tác của Đảng đều phải dựa
vào dân, tin tưởng ở nhân dân, phải thu hút trí tuệ, sức sáng tạo của nhân
dân, đồng thời chịu sự giám sát của nhân dân. Dù ở đâu, làm gì Người nhắc
nhở mọi đảng viên đều phải nhớ nước phải lấy dân làm gốc bởi: “Gốc có
vững, cây mới bền. Xây lầu thắng lợi trên nền nhân dân” [44, tr. 502]. Và
dù ở đâu, trong ý thức cũng như hành động của mỗi cấp uỷ, tổ chức đảng,
mỗi cán bộ, đảng viên đều phải xuất phát từ lợi ích và nguyện vọng chính
đáng của quần chúng nhân dân, phải phát huy tối đa quyền làm chủ của
nhân dân, đáp ứng nhu cầu và lợi ích thiết thực của nhân dân, nhằm nâng
cao đời sống vật chất tinh thần của nhân dân, tạo cho nhân dân một cuộc
sống ấm no hạnh phúc.
Tuy nhiên, hiện nay có một bộ phận không nhỏ cán bộ, đảng viên

từ trung ương đến địa phương có sự suy thoái và tư tưởng chính trị, đạo
đức, lối sống với những biểu hiện khác nhau như sự phai nhạt về lý tưởng,
sa vào chủ nghĩa cá nhân ích kỷ, cơ hội, thực dụng, tham ô, tham nhũng,

1


lãng phí, quan liêu, cửa quyền… . Nhiều chủ trương, chính sách của Đảng
và Nhà nước đưa ra chưa thực sự hiệu quả, chưa xuất phát từ nguyện vọng
và lợi ích thiết thực của nhân dân. Từ đó, gây nên sự thiếu tin tưởng, mất
dần lòng tin, sự ủng hộ của nhân dân đối với Đảng và nhà nước cũng như
mất đi sức mạnh của nhân dân trong công cuộc xây dựng và phát triển đất
nước dẫn đến nguy cơ đe doạ đến sự tồn vong của quốc gia, dân tộc. Chính
vì vậy, Đảng và nhà nước ta phải có sự đánh giá lại, nhận thức sâu sắc hơn
về vai trò của quần chúng nhân dân và đặc biệt quan trọng, là phải biết
chăm lo cho cái gốc của mình là nhân dân, bám rễ trong nhân dân, phát huy
sức mạnh tổng hợp của nhân dân.
Từ lí do trên, tôi chọn đề tài “Tư tưởng Hồ Chí Minh về “dân” và
vai trò của nhân dân trong sự nghiệp cách mạng Việt Nam” cho luận văn
thạc sĩ triết học với hy vọng góp phần nhỏ bé của mình vào việc làm sáng tỏ
một số phương diện lý luận và thực tiễn trong nghiên cứu tư tưởng của Hồ
Chí Minh.
2. Tình hình nghiên cứu đề tài
Tư tưởng Hồ chí Minh về “dân” và vai trò của nhân dân trong sự
nghiệp cách mạng Việt Nam đã thu hút được sự quan tâm nghiên cứu của
các nhà khoa học với nhiều khía cạnh khác nhau và những cách tiếp cận
khác nhau. Cho đến nay, đã có rất nhiều các công trình nghiên cứu vấn đề
này. Trong phạm vi của luận văn, tôi xin trình bày khái quát một số hướng
nghiên cứu sau đây:
Thứ nhất, nhóm các báo, tạp chí và sách chuyên khảo

Nguyễn Cương: “Triết lý “Lấy sức dân, của dân, tài dân, làm lợi
cho dân” của Chủ tịch Hồ Chí Minh và sự nghiệp xây dựng Nhà nước pháp
quyền xã hội chủ nghĩa hiện nay”, Tạp chí Cộng sản, số 814 (13/8/2010), tr.
38 - 41. Bài viết đã phân tích một cách sâu sắc triết lý: “Lấy sức dân, của
dân, tài dân, làm lợi cho dân” cuả Hồ Chí Minh. Từ đó vận dụng triết lý ấy
trong xây dựng nhà nước pháp quyền của dân, do dân và vì dân.
GS.TS Hoàng Chí Bảo: “Tìm hiểu phương pháp Hồ Chí Minh” (tái
bản), Nxb Chính trị - Hành Chính, Hà Nội, 2011. Cuốn sách đã trình bày

2


quan điểm của tác giả khi nghiên cứu phương pháp Hồ Chí Minh, tác giả
cho rằng không thể tách rời tư tưởng, phong cách, đạo đức, lối sống với
nhân cách của Người. Công trình này gồm có mười nội dung chính, trong
đó, ở nội dung thứ sáu tác giả có đề cập đến quan điểm của Hồ Chí Minh về
vai trò của nhân dân, đó là: Từ “Dân” đến “Dân chủ” và “Dân vận” trong tư
tưởng, phương pháp và phong cách Hồ Chí Minh.
PGS.TS Phạm Ngọc Anh: “Phát huy các nguồn lực của dân làm lợi
cho dân theo tư tưởng Hồ Chí Minh”, Nxb Chính Trị Quốc Gia, Hà Nội,
2012. Trong công trình này, tác giả đã trình bày quan niệm của Hồ Chí
Minh về nhu cầu và lợi ích chính đáng của nhân dân; về các nguồn lực vốn
có trong nhân dân, từ đó đánh giá thực trạng các nguồn lực ấy và đề ra các
giải pháp phát huy tối đa các nguồn lực của nhân dân có thể làm lợi cho dân
trong công cuộc đổi mới đất nước.
Thứ hai, nhóm các đề tài và công trình khoa học các cấp
PGS.TS Phạm Hồng Chương (chủ nhiệm) (2004) “Tư tưởng Hồ
Chí Minh về dân chủ và sự vận dụng trong sự nghiệp đổi mới hiện nay”.
Trong công trình này, tác giả đã nêu khái quát về tư tưởng dân chủ của Hồ
Chí Minh, phân tích làm sáng tỏ những nội dung của dân chủ qua các lĩnh

vực cụ thể, đồng thời làm rõ vai trò của tư tưởng Hồ Chí Minh với việc giáo
dục ý thức chính trị cho mọi người dân trong xã hội.
Thứ ba, các luận văn, luận án triết học
Luận án tiến sĩ: “Tư tưởng Hồ Chí Minh về vai trò của quần chúng
nhân dân đối với sự nghiệp bảo vệ an ninh tổ quốc hiện nay”, Hà Trọng
Thà, Đại học Khoa học Xã hội và Nhân văn (Đại học Quốc gia thành phố
Hồ Chí Minh), 2013. Luận án này đã trình bày cơ sở thực tiễn và tiền đề lý
luận cho sự hình thành tư tưởng Hồ Chí Minh về vai trò của nhân dân. Trên
cơ sở phân tích những nội dung cơ bản trong tư tưởng Hồ Chí Minh về vai
trò của quần chúng nhân dân đối với sự nghiệp bảo vệ an ninh tổ quốc, luận
án đã làm rõ thực trạng vận dụng tư tưởng Hồ Chí Minh về vai trò của nhân
dân trong sự nghiệp bảo vệ an ninh tổ quốc ở Việt Nam.

3


Luận văn thạc sĩ: “Sự phát triển từ tư tưởng thân dân của Nguyễn
Trãi đến tư tưởng dân chủ của Hồ Chí Minh”, Cao Phan Giang, Đại học
Cần Thơ, 2010. Luận văn đã làm rõ những nội dung tư tưởng thân dân của
Nguyễn Trãi và tư tưởng dân chủ của Hồ Chí Minh; tập trung phân tích mối
liên hệ và sự phát triển từ tư tưởng thân dân của Nguyễn Trãi đến tư tưởng
dân chủ của Hồ Chí Minh.
Nhìn chung, các công trình nghiên cứu và bài viết trên, ở mức độ nhất
định, đã chỉ ra được những nội dung cơ bản xoay quanh vấn đề tư tưởng về
dân, tư tưởng về vai trò của nhân dân, tư tưởng về “lấy dân làm gốc” trong
sự nghiệp cách mạng Việt Nam của Hồ Chí Minh…Tuy nhiên, các quan
điểm trên còn hết sức rời rạc chưa đưa ra được đầy đủ, chính xác tư tưởng
của Hồ Chí Minh về “dân”, và vai trò của nhân dân. Không chỉ ra được ý
nghĩa to lớn của tư tưởng “dân” và vai trò của nhân dân đối với sự nghiệp
cách mạng nước ta. Chính vì vậy, tôi lựa chọn vấn đề này làm đề tài nghiên

cứu.
3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu
3.1. Mục đích
Tập trung phân tích những nội dung cơ bản trong tư tưởng của Hồ
Chí Minh về “dân”, về vai trò của nhân dân trong sự nghiệp cách mạng Việt
Nam, trên cơ sở đó làm rõ ý nghĩa của tư tưởng Hồ Chí Minh về “dân” và
vai trò của nhân dân trong sự nghiệp cách mạng Việt Nam.
3.2. Nhiệm vụ
- Trình bày và phân tích bối cảnh xã hội và những tiền đề cơ bản
cho sự hình thành tư tưởng Hồ Chí Minh về “dân” và vai trò của nhân dân
trong sự nghiệp cách mạng Việt Nam.
- Phân tích và làm rõ những nội dung cơ bản trong tư tưởng Hồ Chí
Minh về “dân” và vai trò của nhân dân trong sự nghiệp cách mạng Việt
Nam.
- Làm rõ ý nghĩa tư tưởng Hồ Chí Minh về “dân” và vai trò của
nhân dân trong sự nghiệp cách mạng Việt Nam.

4


4. Phƣơng pháp luận và phƣơng pháp nghiên cứu
4.1. Phương pháp luận
Luận văn được tiến hành trên cơ sở phương pháp luận là những
nguyên lý của chủ nghĩa Mác – Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh và quan điểm
của Đảng cộng sản Việt Nam về quần chúng nhân dân và vai trò của quần
chúng nhân dân trong lịch sử.
4.2. Phương pháp nghiên cứu
Đề tài được thực hiện dựa trên việc vận dụng phương pháp luận
nghiên cứu của chủ nghĩa Mác - Lênin kết hợp với một số phương pháp
nghiên cứu khoa học khác: kết hợp lịch sử với logic, so sánh, tổng hợp, khái

quát hoá, trừu tượng hoá…
5. Đối tƣợng và phạm vi nghiên cứu
5.1. Đối tượng nghiên cứu
Luận văn tập trung nghiên cứu vấn đề tư tưởng “dân” và vai trò của
nhân dân trong hệ thống tư tưởng Hồ Chí minh trên một số khía cạnh chủ
yếu.
5.2. Phạm vi nghiên cứu
Luận văn nghiên cứu tư tưởng và ý nghĩa tư tưởng Hồ Chí minh về
“dân” và vai trò của nhân dân trong sự nghiệp cách mạng Việt Nam.
6. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn của luận văn
6.1. Ý nghĩa lý luận
Trên cơ sở phân tích một cách có hệ thống nội dung cốt lõi trong tư
tưởng Hồ Chí Minh về “dân” và vai trò của nhân dân. Luận văn góp phần
làm rõ ý nghĩa của tư tưởng Hồ Chí Minh về “dân” và vai trò của nhân dân
trong sự nghiệp cách mạng Việt Nam.
6.2. Ý nghĩa thực tiễn
Luận văn có thể sử dụng làm tài liệu tham khảo phục vụ công tác
nghiên cứu, học tập giảng dạy triết học, Hồ Chí Minh học.
7. Cơ cấu của luận văn
Ngoài phần mở đầu, kết luận, danh mục tài liệu tham khảo, luận
văn gồm 2 chương và 4 tiết.

5


Chƣơng 1
BỐI CẢNH LỊCH SỬ XÃ HỘI VIỆT NAM ĐẦU THẾ KỶ XX
VÀ NHỮNG TIỀN ĐỀ CƠ BẢN CHO SỰ HÌNH THÀNH QUAN
NIỆM CỦA HỒ CHÍ MINH VỀ NHÂN DÂN VÀ VAI TRÒ CỦA
NHÂN DÂN

1.1. Bối cảnh lịch sử xã hội Việt Nam đầu thế kỷ XX
1.1.1. Bối cảnh lich sử xã hội Việt Nam đầu thế kỷ XX
Giữa thế kỷ XIX, chủ nghĩa tư bản phương tây có sự chuyển biến
mạnh mẽ từ giai đoạn tự do cạnh tranh sang giai đoạn độc quyền. Nền kinh
tế hàng hoá phát triển mạnh đặt ra yêu cầu bức thiết về vấn đề thị trường, từ
đó dẫn tới những cuộc chiến tranh xâm lược của các nước đế quốc phương
tây với các quốc gia phương đông. Chiến tranh thế giới lần thứ I (1914 1918) nổ ra do mâu thuẫn giữa các nước đế quốc về vấn đề thuộc địa hết
sức gay gắt.
Đầu thế kỷ XX, V. I Lênin sau khi đã nghiên cứu tìm hiểu kĩ học
thuyết Mác, ông đã bảo vệ và phát triển học thuyết ấy lên một trình độ cao
hơn. Chính những tiền đề lý luận được V.I.Lênin phát triển đã đựợc Hồ Chí
Minh vận dụng và phát triển một cách sáng tạo vào hoàn cảnh cụ thể của
nước ta trong công cuộc đánh đuổi quân xâm lược và xây dựng đất nước
sau khi giành được độc lập.
Xã hội Việt Nam cuối thế kỷ XIX đầu thế kỷ XX vẫn là một xã hội
phong kiến đặc thù. Tuy nhiên, triều đình nhà Nguyễn lại thi hành những
chính sách đối nội, đối ngoại hết sức bảo thủ phản động (chính sách “bế
quan toả cảng”, “cấm đạo và sát đạo”…), không mở ra cho nước ta cơ hội
để tiếp xúc và bắt nhịp với sự phát triển của thế giới bên ngoài. Từ đó
không phát huy được những thế mạnh của cả dân tộc và đất nước, không
thể chống lại âm mưu thôn tính và nô dịch của chủ nghĩa thực dân phương
tây.
Năm 1858, thực dân Pháp nổ súng tấn công xâm lược nước ta.
Triều đình nhà Nguyễn hèn nhát, bạc nhược từng bước đầu hàng dâng nước

6


ta cho giặc, với việc kí kết Hiệp ước Ácmăng năm 1883 và Hiệp ước
Patơnốt năm 1884 đã chính thức biến nước ta thành thuộc địa của Pháp.

Chính sách cai trị của thực dân Pháp cuối thế kỷ XIX đầu thế kỷ
XX đã làm Việt Nam biến đổi một cách sâu sắc, toàn diện trên tất cả các
lĩnh vực: kinh tế, chính trị, văn hóa, xã hội.
Với truyền thống yêu nước nồng nàn, ngay từ khi thực dân Pháp nổ
súng xâm lược, nhân dân ta đã anh dũng đứng lên chống lại quân cướp
nước và bè lũ tay sai bán nước. Hồ Chí Minh nhận thấy các phong trào yêu
nước cuối thế kỷ XIX, đầu thế kỷ XX đều thất bại do chưa có đường lối
đúng đắn, chưa tập hợp được lực lượng của đông đảo quần chúng nhân dân.
Dù rất khâm phục tinh thần cứu nước của các bâc tiền bối, nhưng không tán
thành các con đường cứu nứơc ấy, Hồ Chí Minh quyết tâm ra đi tìm đường
cứu nước mới. Sau nhiều năm bôn ba tìm đường cứu nước nghiên cứu thực
tiễn và kinh nghiệm của cách mạng thế giới. Hồ Chí Minh đã tiếp thu
những quan điểm của chủ nghĩa Mác - Lênin về vai trò của quần chúng
nhân dân, nhân dân là ngưới sáng tạo ra lịch sử, liên minh công nông là cơ
sở vững chắc để xây dựng lực lượng cách mạng... từ đó tìm ra con đường
giải phóng dân tộc đó là: con đường cách mạng vô sản với tinh thần dựa
vào sức mình là chính.
1.1.2. Khái quát cuộc đời và sự nghiệp của Chủ tịch Hồ Chí
Minh
Chủ tịch Hồ Chí Minh tên khai sinh là Nguyễn Sinh Cung sinh
ngày 19 tháng 5 năm 1890, tại làng Hoàng Trù, xã Chung Cự, tổng Lâm
Thịnh, nay thuộc xã Kim Liên, huyện Nam Đàn, tỉnh Nghệ An. Xuất thân
từ một gia đình nhà nho yêu nước, lớn lên trên vùng quê nghèo lam lũ
nhưng rất ham học và có truyền thống yêu nước.
Với tấm lòng yêu nước thương dân, tư duy chính trị sắc bén, Hồ
Chí Minh đã suy ngẫm về nguyên nhân thất bại của những phong trào yêu
nước lúc bấy giờ và nung nấu quyết tâm ra đi tìm đường cứu nước giành
độc lập cho dân tộc. Ngày 5 tháng 6 năm 1911, Hồ Chí Minh khi đó lấy tên
là Văn Ba đã rời bến cảng Nhà Rồng trên chiếc tàu Amiral Latuche Tréville


7


với hành trang là tình yêu quê hương đất nước, là khát vọng tìm hiểu, học
hỏi, tiếp thu nền văn minh các nước tiến bộ trên thế giới để quay về giúp
nước, cứu dân. Năm 1917, với thắng lợi của cách mạng tháng Mười Nga và
sự ra đời của Quốc tế Cộng Sản đã đưa Hồ Chí Minh đến với chủ nghĩa
Mác - Lênin. Chính từ đây Hồ Chí Minh đã tìm ra con đường cứu nước
đúng đắn cho dân tộc là con đường cách mạng vô sản.
Năm 1919, Hồ Chí Minh tham gia hoạt động trong phong trào công
nhân Pháp và gia nhập Đảng xã hội Pháp. Tháng 6 năm 1919, Hồ Chí Minh
thay mặt những người Việt Nam yêu nước gửi tới Hội nghị các nước đế
quốc thắng trận họp tại Versailes (Pháp) Bản yêu sách gồm 8 điểm. Tháng 7
năm 1920, Hồ Chí Minh đọc được bản “Sơ thảo lần thứ nhất những luận
cương về vấn đề dân tộc và vấn đề thuộc địa” của Lênin. Tháng 12 năm
1920, tại Đại hội Đảng Xã hội Pháp lần thứ 18 họp tại Tous, Hồ Chí Minh
đã bỏ phiếu tán thành việc gia nhập Quốc tế Cộng Sản và tham gia thành
lập Đảng Cộng sản Pháp. Năm 1921, Hồ Chí Minh tham gia Hội Liên hiệp
các dân tộc thuộc địa, nhằm mục đích tuyên truyền cách mạng thúc đẩy
phong trào đấu tranh giành độc lập dân tộc ở các nước thuộc địa. Tháng 6
năm 1923, Hồ Chí Minh rời Pháp sang Liên Xô. Tại đây Hồ Chí Minh vừa
hoạt động cách mạng, vừa học tập, nghiên cứu Chủ nghĩa Mác – Lênin và
công cuộc xây dựng chủ nghĩa xã hội của nước Nga Xô Viết. Năm 1925,
Hồ Chí Minh đến Quảng Châu (Trung Quốc) tham gia thành lập Hội Liên
hiệp các dân tộc bị áp bức ở Á Đông, lập ra Việt Nam Thanh niên Cách
mạng đồng chí Hội, chuẩn bị điều kiện cho sự ra đời của Đảng Cộng sản ở
Việt Nam. Ngày 3 tháng 2 năm 1930, tại Cửu Long (Hương Cảng, Trung
Quốc), Hồ Chí Minh chủ trì Hội nghị hợp nhất các tổ chức cộng sản trong
nước thành lập nên Đảng cộng sản Việt Nam. Từ năm 1930 đến năm 1940,
tuy hoạt động cách mạng ở nước ngoài, nhưng Hồ Chí Minh vẫn thường

xuyên theo dõi, chỉ đạo phong trào cách mạng ở nước nhà.
Năm 1941, Hồ Chí Minh trở về nước trực tiếp lãnh đạo phong trào
cách mạng trong nước. Sau khi đã chuẩn bị đầy đủ về lực lượng, sách lược
chiến đấu và nhận thấy thời cơ đã đến. Tháng 8 năm 1945, Hồ Chí Minh

8


triệu tập Hội nghị lần thứ 8 của Ban Chấp hành Trung ương Đảng, Hội nghị
đã thông qua quyết định tổng khởi nghĩa, thành lập Ủy ban khởi nghĩa toàn
quốc. Ngày 16 tháng 8 năm 1945, Hồ Chí Minh chủ trì Đại hội Quốc dân
tại Tân Trào (Tuyên Quang), Đại hội đã nhất trí với chủ trương tổng khởi
nghĩa và bầu ra Uỷ ban giải phóng dân tộc Việt Nam (tức chính phủ lâm
thời) cử Hồ Chí Minh làm chủ tịch. Thay mặt Chính phủ lâm thời, Hồ Chí
Minh đã phát lệnh tổng khởi nghĩa giành chính quyền trong cả nước.
Hưởng ứng lời kêu gọi của Hồ Chí Minh, cả dân tộc Việt Nam đã nhất tề
đứng lên tiến hành tổng khởi nghĩa giành chính quyền về tay nhân dân.
Ngày 2 tháng 9 năm 1945, tại quảng trường Ba Đình lịch sử thay
mặt Chính phủ lâm thời Hồ Chí Minh đọc Bản tuyên ngôn độc lập khai sinh
ra nước Việt Nam dân chủ cộng hoà, Hồ Chí Minh được bầu làm chủ tịch
nước đầu tiên của Việt Nam Dân chủ Cộng hòa và đã cùng Đảng lãnh đạo
nhân dân xây dựng đất nước, bảo vệ chính quyền cách mạng còn non trẻ.
Tháng 9 năm 1945, thực dân Pháp âm mưu quay trở lại xâm lược nước ta
một lần nữa. Chúng đánh chiếm miền Nam rồi chuyển dần xâm chiếm miền
Bắc. Hồ Chí Minh lại tiếp tục lãnh đạo Đảng và toàn dân ta tiến hành cuộc
kháng chiến chống Pháp đi đến thắng lợi vẻ vang với chiến thắng lịch sử
Điện Biên Phủ (1954).
Hiệp định Géneva được kí kết, miền Bắc được giải phóng hoàn
toàn. Miền Nam bị đế quốc Mĩ xâm lược với âm mưu biến miền Nam Việt
Nam thành thuộc địa kiểu mới. Hồ Chí Minh cùng Trung ương Đảng lãnh

đạo nhân dân cả nước tiến hành đồng thời hai nhiệm vụ là xây dựng chủ
nghĩa xã hội ở miền Bắc và đấu tranh cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân
để giải phóng miền Nam tiến tới mục tiêu chung là thống nhất hai miền
Nam - Bắc, đưa cả nước đi lên chủ nghĩa xã hội. Năm 1960, tại Đại hội lần
thứ III của Đảng Lao động Việt Nam, Hồ Chí Minh được bầu làm Chủ tịch
Ban chấp hành Trung ương Đảng Lao động Việt Nam. Ngày 2 tháng 9 năm
1969, do tuổi cao sức yếu Chủ tịch Hồ Chí Minh đã qua đời ở tuổi 79 để lại
sự đau xót, nhớ thương tiếc nuối vô vàn trong toàn dân tộc Việt Nam và
nhân dân thế giới. Có thể nói, cuộc đời và sự nghiệp cách mạng vĩ đại của

9


Hồ Chí Minh là một tấm gương sáng ngời cho mọi thế hệ người Việt học
tập và noi theo.
1.2. Những tiền đề cơ bản cho sự hình thành quan niệm Hồ Chí
Minh về “dân” và vai trò của nhân dân
1.2.1. Gía trị truyền thống văn hoá của dân tộc và quan niệm của
về dân và vai trò của nhân dân trong lịch sử tƣ tƣởng Việt Nam
Truyền thống văn hóa tốt đẹp của dân tộc Việt Nam
Trong những giá trị truyền thống ấy, đầu tiên phải kể đến chủ nghĩa
yêu nước và ý chí kiên cường, bất khuất đánh đuổi giặc ngoại xâm của nhân
dân ta trong lịch sử.
Một trong những giá trị truyền thống quý báu nữa của dân tộc
không thể không nhắc đến là tinh thần nhân bản, truyền thống đoàn kết
tương thân, tương ái, giúp đỡ lẫn nhau của mọi tầng lớp nhân dân Việt Nam
đã được hình thành và củng cố qua hàng ngàn năm lịch sử, nó trở thành
truyền thống bền vững ăn sâu vào tiềm thức mỗi con người Việt Nam.
Có thể nói, người Việt Nam ta sống rất chan hoà, gắn bó, yêu
thương lẫn nhau, sống có tình có nghĩa, thuỷ chung trước sau như một.

Lịch sử tư tưởng Việt Nam
Lịch sử của dân tộc ta cũng đã có những tư tưởng hết sức sâu sắc và
tiến bộ về vai trò và sức mạnh của nhân dân, coi dân là gốc của nước, có
dân mới có nước. Vai trò của nhân dân cũng được thể hiện qua các truyền
thuyết, sự tích của dân tộc từ ngàn đời xưa để lại.
Lịch sử tư tưởng triết học Việt Nam cũng đã có rất nhiều nhà tư
tưởng đưa ra những quan niệm hết sức đúng đắn, tích cực về “dân” và vai
trò và sức mạnh của nhân dân.
Trần Quốc Tuấn (1228 - 1300) là một nhà chính trị, nhà văn, nhà
quân sự kiệt xuất của Việt Nam thời nhà Trần. Ông đã nhận thức được tiềm
lực to lớn của nhân dân về kinh tế, quân sự, bảo đảm vững chắc cho nền
độc lập, chủ quyền của đất nước.
Nguyễn Trãi (1380 - 1442) là một nhà tư tưởng lớn, một vị danh
nhân văn hóa dân tộc, anh hùng dân tộc thế kỷ XV đã đưa ra tư tưởng về

10


“dân”, vai trò và sức mạnh to lớn của nhân dân. Khái niệm “Dân” của
Nguyễn Trãi gồm tất cả những tầng lớp lao động trong xã hội đó là: sĩ,
nông, công, thương. “Dân” là lực lượng đông đảo chiếm đại đa số trong xã
hội, họ là những người lao động bình dị, những con người nghèo khổ đang
ngày đêm lao động miệt mài làm ra của cải để nuôi sống xã hội, những
người đang giúp nhà vua xây dựng một đất nước giàu mạnh, thái bình.
“Dân” trong tư tưởng của Nguyễn Trãi có vai trò quyết định đối với sự phát
triển của lịch sử, quyết định sự tồn tại hay tiêu vong của một triều đại bởi
người chở thuyền là dân mà người làm lật thuyền cũng là dân.
Lê Quý Đôn (1726 - 1784), là một vị quan dưới triều Lê Trung
Hưng, đồng thời là một nhà thơ, nhà bác học lớn của Việt Nam thế kỷ
XVIII. “Dân” trong tư tưởng của Lê Quý Đôn là gốc của nước. Lê Quý Đôn

từng khẳng định rằng, lòng dân có liên quan đến sự hưng thịnh của một đất
nước, nếu được lòng dân thì đất nước sẽ được hưng thịnh, nếu để mất lòng
dân thì coi như là mất nước.
Đặng Huy Trứ (1825 - 1874), là một trong những nhà cải cách đầu
tiên của Việt Nam thời kì cận đại, là ông tổ của nghề nhiếp ảnh ở Việt Nam,
và là người đầu tiên đưa kĩ nghệ đóng tàu phương Tây du nhập vào nước ta.
Nhân dân trong tư tưởng của Đặng Huy Trứ được ông coi là cái gốc, đồng
thời cũng chính là sức mạnh của đất nước, bởi vậy, cần quan tâm đến cái
gốc là nhân dân.
Đầu thế kỷ XX thực dân Pháp đặt ách đô hộ xâm lược Vịêt Nam,
phong trào đấu tranh yêu nước của nhân dân diễn ra hết sức sôi nổi. Lúc
này Phan Bội Châu (1867 - 1940) là một danh sĩ, nhà cách mạng yêu nước
đang tìm đường cứu nước cứu dân với phong trào Đông du đưa các chí sĩ
yêu nước sang Nhật để học tập, nhờ Nhật Giúp đỡ đánh đuổi giặc Pháp.
Trong tư tưởng của Phan Bội Châu dân là chủ của nước, nước là của dân:
“Dân là dân nước, nước là nước dân” [75, tr. 243]. Đặc biệt Phan Bội Châu
thấy được vai trò to lớn, không thể thiếu của dân.
1.2.2. Tinh hoa văn hóa nhân loại
Lịch sử tư tưởng phương Đông

11


Khái niệm “Dân” trong tư tưởng của Nho giáo là lực lượng đông
đảo nhất, chiếm đại bộ phận dân cư, dù có nhiều tầng lớp khác nhau nhưng
điểm chung căn bản của họ là cùng một địa vị, vai trò trong xã hội, là tầng
lớp đối lập với tầng lớp thống trị và đều chịu sự cai trị của nhà cầm quyền
là vua, quan phong kiến. Quan niệm về “dân” và vị trí, vai trò của nhân dân
được thể hiện rõ nét qua tư tưởng của một số nhà triết học tiêu biểu của Nho
giáo là: Khổng tử, Mạnh tử.

Khổng Tử (551 - 479 TCN) là nhà tư tưởng, nhà triết học, nhà
chính trị, nhà giáo dục nổi tiếng, là người đã sáng lập ra Nho giáo - một
trong những học thuyết chính trị - xã hội, triết học lớn nhất của Trung Quốc
và phương Đông cổ đại. Dân trong quan niệm của Khổng Tử là thần dân
trăm họ, là “bá tính” chịu sự cai quản, thống trị của người có quyền lực cao
nhất là vua. Khái niệm dân của Khổng Tử được đưa ra dựa trên sự phân
chia con người trong xã hội thành hai hạng người là quân tử và tiểu nhân.
Khổng Tử cũng có những tư tưởng trọng dân và vì dân hết sức sâu sắc.
Theo Khổng Tử, đức tin của dân giữ một vai trò vô cùng quan trọng, nếu
thiếu lòng tin của nhân dân thì chính quyền sớm muộn cũng sẽ sụp đổ.
Khổng Tử không chỉ quan tâm đến việc nuôi dân, dưỡng dân về mặt vật
chất, mà còn chủ trương tăng cường giáo hoá dân và coi nhẹ hình phạt, xem
đó là việc chăm lo đời sống tinh thần cho nhân dân.
Mạnh tử (372 - 289 trước Công nguyên) là đại biểu xuất sắc của
Nho giáo thời Chiến Quốc, là người nối tiếp phát triển tư tưởng của Khổng
Tử. Trong tư tưởng của Mạnh Tử, dân là những người lao động chân tay,
họ đã và đang sản xuất ra mọi của cải vật chất nhằm duy trì sự tồn tại của
xã hội. Theo Mạnh Tử, dân gồm ba hạng người là công, nông, thương. Do
tiếp thu và phát triển tư tưởng của Khổng Tử nên Mạnh Tử cũng có quan
niệm dân là những người không có địa vị gì về kinh tế, chính trị, xã hội; có
trình độ hiểu biết và đạo đức thấp kém chịu sự sai khiến, điều khiển của
tầng lớp thống trị. Tuy nhìn nhận vị trí của dân ở góc độ là kẻ bị trị, nhưng
Mạnh Tử lại đánh giá rất cao vai trò của dân đối với sự tồn vong và phát
triển của một quốc gia.

12


Mạnh tử rất chú trọng đến việc chăm lo đời sống no đủ cho nhân
dân, ông còn chủ trương tăng cường giáo hoá dân, giảm nhẹ hình phạt.

Có thể nói, tư tưởng “trọng dân”, “tín dân” “dân vi quý”, quan tâm
chăm lo đến đời sống vật chất, tinh thần cho nhân dân, coi nhẹ hình phạt
tăng cường giáo hoá dân của Khổng Tử và Mạnh Tử đã trở thành những tư
tưởng tiền đề làm nền tảng cho các học thuyết chính trị nói chung và quan
niệm về “dân”, vai trò của nhân dân của Hồ Chí Minh nói riêng.
Chủ nghĩa tam dân của Tôn Trung Sơn: Hồ Chí Minh đã tiếp thu tư
tưởng chủ nghĩa tam dân của Tôn Trung Sơn đó là: Dân tộc độc lập, dân
quyền tự do, dân sinh hạnh phúc. Tư tưởng này hết sức đề cao lợi ích của
nhân dân và nó cũng trở thành ba nguyên tắc “Độc lập - Tự do - Hạnh
Phúc” của nước Việt Nam dân chủ cộng hoà hoà do Hồ Chí Minh sáng lập
sau này.
Lịch sử tư tưởng phương tây
Tư tưởng của nền văn hoá dân chủ và cách mạng phương tây có tác
động rất lớn trong việc hình thành tư tưởng của Hồ Chí Minh về dân và vai
trò của nhân dân. Khi quan niệm về dân các nhà tư tưởng tư sản phương tây
cho rằng dân là người ủy quyền cho chính phủ để phục vụ lợi ích của dân
và dân có quyền thay thế chính phủ nếu chính phủ không làm tròn trách
nhiệm của mình. Tuy nhiên, trên thực tế vị thế này của dân chỉ thuộc về một
số ít người trong xã hội đó là những nhà tư sản, những người có của cải,
còn đại đa số vẫn là những kẻ bị trị, có địa vị thấp kém trong xã hội.
Tuyên ngôn nhân quyền và dân quyền của Cách mạng Pháp năm
1791 đưa ra tư tưởng về quyền tự do, bình đẳng của con người. Tuyên ngôn
độc lập của nước Mỹ năm 1776 đã khẳng định những quyền cơ bản của con
người mà không ai có thể phủ nhận được. Hồ Chí Minh tiếp thu, vận dụng
để hình thành nên tư tưởng về quyền của dân tộc, nhân dân. Trong bản
Tuyên ngôn độc lập khai sinh ra nước Việt Nam Dân chủ Cộng hoà, Chủ
tịch Hồ Chí Minh đã mở đầu bản tuyên ngôn bằng việc trích dẫn hai tuyên
ngôn bất hủ trên của hai tên đế quốc sừng xỏ Pháp và Mỹ như lời khẳng

13



định đanh thép về quyền độc lập, tự do của nhân dân, của dân tộc Việt
Nam.
1.2.3.Chủ nghĩa Mác - Lênin
* Quan điểm của chủ nghĩa Mác – Lênin về quần chúng nhân dân
Các nhà sáng lập ra chủ nghĩa Mác đã đưa ra khái niệm hết sức
đúng đắn và đầy đủ về quần chúng nhân dân: “Con người là chủ thể sáng
tạo ra lịch sử, nhưng không phải theo phương thức, hành vi đơn lẻ, rời rạc,
cô độc của mỗi con người mà theo phương thức liên kết những con người
thành sức mạnh cộng đồng xã hội có tổ chức, có lãnh đạo của những cá
nhân hay các tổ chức chính trị, xã hội nhất định nhằm giải quyết các nhiệm
vụ lịch sử trên tất cả các lĩnh vực kinh tế, chính trị, văn hoá của xã hội cộng đồng, đó chính là quần chúng nhân dân” [11, tr. 176-177].
Quần chúng nhân dân được tạo thành bởi những lực lượng cơ bản
sau: Thứ nhất, là những người lao động đã đem sức lực, trí tuệ của mình để
sản xuất ra của cải vật chất và các giá trị tinh thần cho xã hội - đây là hạt
nhân cơ bản của quần chúng nhân dân; Thứ hai, những bộ phận dân cư
chống lại giai cấp thống trị áp bức, bóc lột, đối kháng với quần chúng nhân
dân; Thứ ba, những giai cấp, tầng lớp thông qua hoạt động trực tiếp hoặc
gián tiếp trên tất cả các lĩnh vực của đời sống xã hội của mình thúc đẩy xã
hội phát triển, tiến bộ.
*Quan điểm của chủ nghĩa Mác – Lênin về vai trò của quần chúng
nhân dân
Chủ nghĩa duy vật lịch sử của triết học Mác - Lênin đã khẳng định:
“Quần chúng nhân dân là chủ thể sáng tạo chân chính ra lịch sử, lực lượng
quyết định sự phát triển của lịch sử. Do đó, lịch sử trước hết và căn bản là
lịch sử hoạt động của quần chúng nhân dân trên tất cả các lĩnh vực của đời
sống xã hội” [12, tr. 178].
Trong tiến trình phát triển của xã hội loài người, quần chúng nhân
dân đóng vai trò là chủ thể sáng tạo ra lịch sử, quyết định tiến trình phát

triển của lịch sử, vai trò ấy được thể hiện trên các khía cạnh sau:

14


Thứ nhất, quần chúng nhân dân là lực lượng sản xuất cơ bản của
mọi xã hội. Quần chúng nhân dân không ai khác, chính là những người lao
động sản xuất ra của cải vật chất cho xã hội.
Thứ hai, trong quá trình sáng tạo ra của của vật chất, quần chúng
nhân dân đồng thời cũng là lực lượng trực tiếp hoặc gián tiếp sáng tạo ra
các giá trị văn hoá tinh thần của xã hội.
Thứ ba, quần chúng nhân dân là lực lượng và động lực cơ bản của
mọi cuộc cách mạng và các cuộc cải cách trong lịch sử.
Tiểu kết chƣơng 1
Qua phân tích ở trên cho thấy, xã hội Việt Nam đầu thế kỷ XX là
xã hội thuộc địa nửa phong kiến với sự thống trị, áp bức, bóc lột hết sức tàn
bạo của thực dân Pháp về kinh tế, chính trị, văn hoá, đời sống nhân dân vô
cùng cực khổ. Các mâu thuẫn trong xã hội hết sức gay gắt, trong đó nổi lên
hàng đầu là mâu thuẫn giữa dân tộc ta với thực dân Pháp, do đó nhu cầu
bức thiết đặt ra là phải giành độc lập cho dân tộc. Các phong trào yêu nước
diễn ra hết sức sôi nổi, mạnh mẽ song đều thất bại, chứng tỏ phải có một
con đường cứu nước đúng đắn mới có thể đưa dân tộc ta thoát khỏi đêm
trường nô lệ. Trước tình cảnh ấy, Hồ Chí Minh vị lãnh tụ vĩ đại của cả dân
tộc Việt Nam sau nhiều năm bôn ba tìm đường cứu nước đã bắt gặp ánh
sáng của chủ nghĩa Mác - Lênin và tìm ra con đường cứu nước đúng đắn đó
là: giải phóng dân tộc theo con đường cách mạng vô sản. Có thể nói, Hồ
Chí Minh đến với chủ nghĩa Mác - Lênin từ yêu cầu của sự nghiệp giải
phóng dân tộc và thông qua hoạt động cách mạng thực tiễn. Vì vậy, Hồ Chí
Minh đã nắm bắt được linh hồn của chủ nghĩa Mác - Lênin, vận dụng sáng
tạo vào cách mạng Việt Nam và trong thời đại mới để hình thành và hoàn

chỉnh quan niệm về nhân dân và vai trò của quần chúng nhân dân trong sự
nghiệp đấu tranh giành độc lập cho dân tộc và trong công cuộc xây dựng
chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam.
Có thể nói, một trong những tiền đề cơ bản quan trọng nhất mà nếu
không có tiền đề ấy Hồ Chí Minh sẽ không thể đưa ra được hệ thống tư

15


tưởng hết sức toàn diện sâu sắc về mọi vấn đề cơ bản của cách mạng Việt
Nam nói chung và tư tưởng của về “dân” và vai trò của nhân dân nói riêng.
Hồ Chí Minh đã nghiên cứu, tiếp thu một cách sáng tạo quan điểm của chủ
nghĩa Mác - Lênin về quần chúng nhân dân, coi quần chúng nhân dân là
chủ thể sáng tạo ra lịch sử, là chủ thể quyết định tiến trình phát triển của
lịch sử. Vai trò của quần chúng nhân dân cũng được chủ nghĩa Mác Lênin
đưa ra một cách hết sức ngắn gọn, súc tích mà đầy đủ ý nghĩa: quần chúng
nhân dân là lực lượng sản xuất cơ bản tạo ra mọi của cải vật chất cho xã
hội; trong quá trình sản xuất tạo ra của cải vật chất nhân dân cũng sáng
tạo ra những giá trị tinh thần; quần chúng nhân dân là động lực cơ bản của
mọi cuộc cách mạng và cải cách trong xã hội. Chủ nghĩa Mác - Lênin đã
xây dựng nên tiền đề cơ bản nhất giống như nền móng vững chãi của một
ngôi nhà mà từ đó Hồ Chí Minh đã xây nên công trình tư tưởng đồ sộ của
mình. Trong những tưởng đặc sắc ấy, không thể không nhắc đến và đi sâu
nghiên cứu tư tưởng về „dân” và vai trò của nhân dân trong sự nghiệp cách
mạng Việt Nam.

16


Chƣơng 2

MỘT SỐ NỘI DUNG CƠ BẢN TRONG
TƢ TƢỞNG HỒ CHÍ MINH VỀ “DÂN” VÀ VAI TRÒ CỦA NHÂN
DÂN TRONG SỰ NGHIỆP CÁCH MẠNG VIỆT NAM
2.1. Quan niệm của Hồ Chí Minh về “dân” và vai trò của nhân
dân trong sự nghiệp cách mạng Việt Nam
2.1.1. Quan niệm của Hồ Chí Minh về “dân”
Có thể thấy, nét nổi bật trong quan niệm của Hồ Chí Minh về “dân”
là lòng yêu thương những người cùng khổ, bao gồm toàn thể nhân dân Việt
Nam và nhân dân các nước thuộc địa.
Khái niệm “dân” được Hồ Chí Minh sử dụng với những khái niệm
đồng nghĩa khác như: nhân dân, dân ta, dân chúng, đồng bào… Tùy từng
trường hợp cụ thể mà các khái niệm trên được Người sử dụng cho phù hợp
với ngữ cảnh. Mặc dù vậy, khái niệm “dân” vẫn được Hồ Chí Minh sử dụng
nhiều nhất vì nó súc tích, ngắn gọn, gần gũi, dễ hiểu đối với mỗi con người
Việt Nam.
“Dân” trong tư tưởng của Hồ Chí Minh là một khái niệm có nội
hàm rất sâu rộng và có tính nhân văn sâu sắc. Dân là toàn thể dân tộc Việt
Nam bao gồm tất cả mọi người thuộc các cộng đồng dân tộc khác nhau (kể
cả dân tộc đa số và dân tộc thiểu số) sinh sống trên lãnh thổ Việt Nam và cả
những kiều bào đang sống ở nước ngoài không phân biệt già trẻ, gái trai,
giàu nghèo, tôn giáo, tín ngưỡng.
Theo Hồ Chí Minh “dân” là một tập hợp đông đảo quần chúng, là
mỗi một con người Việt Nam cụ thể, mỗi một “con rồng cháu tiên”, là anh
em ruột thịt.
Khái niệm “Dân” của Hồ Chí Minh không phải là một khối đồng
nhất mà bao gồm các giai cấp, tầng lớp, các giới, các thế hệ, các đoàn thể
khác nhau. Họ có thái độ chính trị, địa vị kinh tế và vai trò xã hội khác
nhau, nhưng có cùng một sự thống nhất về lợi ích chung.

17



“Dân” trong quan niệm của Hồ Chí minh còn là bốn phương vô sản
anh em, tức bao hàm cả quốc tế và nhân loại, đó là đại gia đình giai cấp
công nhân toàn thế giới, là bạn bè khắp năm châu bốn bể.
2.1.2. Quan niệm của Hồ Chí Minh về vai trò của nhân dân trong
sự nghiệp cách mạng Việt Nam
Thứ nhất, “dân” là gốc của nước, nước lấy dân làm gốc
Tư tưởng “dân là gốc của nước”, “nước lấy dân làm gốc” hết sức
tiến bộ của Nho giáo. Tư tưởng này đã được Hồ Chí Minh thấm nhuần và
tiếp thu một cách sâu sắc trong suốt cuộc đời hoạt động cách mạng của
mình. Theo Người, nước là do dân lập nên, đất nước mà không có dân thì
đâu còn là đất nước, dân với nước gắn bó mật thiết với nhau. Vì vậy, dân là
gốc của nước và nước phải lấy dân làm gốc.
Tiếp thu tư tưởng “lấy dân làm gốc” của Nho giáo, Hồ Chí Minh đã
kế thừa những yếu tố tích cực trong tư tưởng Nho giáo như thái độ quý
trọng dân, thấy được sức mạnh to lớn của dân, quan tâm đến đời sống của
nhân dân, lo cho dân, gần gũi dân, cư xử đúng mực với dân.
Thứ hai, sự nghiệp cách mạng là của quần chúng nhân dân
Trên cơ sở tiếp thu tư tưởng lấy dân làm gốc của Nho giáo, cùng
với truyền thống đấu tranh dựng nước và giữ nước của dân tộc, học thuyết
Mác - Lênin về vai trò của quần chúng nhân dân trong đấu tranh cách
mạng, Hồ Chí Minh đã có tư tưởng hết sức đầy đủ, đúng đắn về vai trò và
sức mạnh của nhân dân. Người đánh giá rất cao vai trò, sức mạnh của nhân
dân trong sự nghiệp đấu tranh giải phóng dân tộc, công cuộc xây dựng và
bảo vệ tổ quốc. Với Người, có dân là có tất cả, tin ở dân, dựa vào dân, tập
hợp và phát huy sức mạnh của toàn dân là nguyên tắc cơ bản trong chiến
lược cách mạng của Người.
Đánh giá rất cao vai trò của quần chúng nhân dân trong đấu tranh
cách mạng giành độc lập dân tộc, Hồ Chí Minh coi sức mạnh vĩ đại và năng

lực sáng tạo vô tận của quần chúng là nhân tố then chốt đảm bảo thắng lợi.
Nhân dân trong tư tưởng, tình cảm của Hồ Chí Minh vừa là gốc của
nước, vừa là nguồn sức mạnh, là lực lượng to lớn của Đảng, của cách mạng.

18


Lòng tin của Hồ Chí Minh đối với nhân dân không chỉ ở chỗ thấy được vai
trò sức mạnh của nhân dân khi làm cách mạng mà còn ở chỗ thấy được
những khả năng tiềm ẩn của họ. Sức mạnh đoàn kết của nhân dân là nguyên
nhân của mọi thành công, mọi thắng lợi trong sự nghiệp cách mạng giải
phóng dân tộc, trong xây dựng và bảo vệ tổ quốc.
Thứ ba, “dân” là chủ của đất nước, của xã hội và của chính bản
thân mình
Theo quan điểm của Hồ Chí Minh, dân chủ nghĩa là quyền lực
thuộc về nhân dân, nhân dân tự quy định, tự quyết định lấy cuộc sống vận
mệnh của mình. Nhân dân làm chủ đất nước, xã hội, làm chủ chính bản thân
mình
Nhân dân là người chủ của đất nước, làm chủ đất nước, nhưng làm
sao để nhân dân là người chủ thực sự. Để thực hiện quyền làm chủ của
mình, không những nhân dân phải có quyền, mà quan trọng là nhân dân
phải có năng lực làm chủ.
Hồ Chí Minh chỉ ra vai trò làm chủ của nhân dân trên mọi mặt của
đời sống xã hội đó là chính trị, kinh tế, văn hóa - xã hội.
Vai trò làm chủ của nhân dân trong lĩnh vực chính trị: Người giải
thích rất ngắn gọn dân chủ tức là dân là chủ, dân làm chủ, mọi quyền hành
và lực lượng đều của nhân dân, mọi công việc đều do dân do đó thành quả
của nền dân chủ mới thuộc về đại đa số nhân dân chứ không phải của số ít
một bộ phận dân cư. Vì vậy, thực hiện dân chủ trong chính trị phải thừa
nhận quyền lực của đa số nhân dân trong việc xây dựng, bảo vệ và sử dụng

quyền lực nhà nước. Đó là bản chất của dân chủ và cũng là bản chất của
chủ nghĩa xã hội. Quan điểm của Hồ Chí Minh về xây dựng hiến pháp dân
chủ, xác định quyền làm chủ của nhân dân trong thực tiễn là những quan
điểm cơ bản cho việc xây dựng thể chế chính trị dân chủ đó là xây dựng nhà
nước của dân, do dân và vì dân.
Vai trò làm chủ của nhân dân trong lĩnh vực kinh tế: Theo Hồ Chí
Minh dân chủ trong lĩnh vực kinh tế phải đảm bảo quyền làm chủ của nhân
dân trên cả ba mặt của quan hệ sản xuất đó là nhân dân sở hữu đối với tư

19


liệu sản xuất, nhân dân làm chủ trong việc tổ chức, quản lý sản xuất và phân
phối sản phẩm sản xuất ra, trong đó quan trọng nhất là quyền sở hữu của
nhân dân đối với tư liệu sản xuất.
Giá trị thực tế của nhân dân làm chủ trong lĩnh vực kinh tế là đời sống vật
chất và tinh thần của người dân được nâng cao, nhân dân không chỉ biết đến
độc lập, tự do mà còn được ăn no, mặc ấm, được lao động, học tập, được
quan tâm cả về mặt vật chất lẫn tinh thần.
Vai trò làm chủ của nhân dân trong lĩnh vực văn hóa: Tư tưởng của
Hồ Chí minh về dân làm chủ trong văn hóa là văn hóa phải phục vụ cho
nhân dân và do nhân dân xây dựng.
Vai trò làm chủ của nhân dân trong lĩnh vực văn hóa của Hồ Chí
Minh được thể hiện qua việc xây dựng nền giáo dục toàn diện mang tính
nhân dân và xây dựng đời sống văn hóa mới cho nhân dân.
2.2. Ý nghĩa của tƣ tƣởng Hồ Chí Minh về “dân” và vai trò của
nhân dân trong sự nghiệp cách mạng nƣớc ta hiện nay
2.2.1. Ý nghĩa về mặt lý luận
Tư tưởng của Hồ Chí Minh về dân và vai trò của nhân dân là sự kế
thừa, vận dụng, phát triển sáng tạo tinh hoa lý luận của dân tộc và nhân loại.

Khi đưa ra quan niệm của mình về dân và vai trò của nhân dân, Hồ Chí
Minh đã đưa nhân dân về đúng vị trí tương xứng với vai trò, sức mạnh của
mình đó là nhân dân là chủ, nhân dân làm chủ thực sự của đất nước.
Tư tưởng về dân mà Hồ Chí Minh đã trở thành tư tưởng chỉ đạo
cho việc tập hợp lực lượng toàn dân vào một mặt trận thống nhất trong các
thời kỳ cách mạng Việt Nam, và là một trong những di sản tư tưởng vô giá
của toàn Đảng, toàn dân ta.
Hiểu được sâu sắc sức mạnh của nhân dân trong cách mạng giải
phóng dân tộc, Hồ Chí Minh đã chủ trương thành lập Mặt trận dân tộc
thống nhất rộng rãi trong nhiều thời kỳ nhằm tập hợp, đoàn kết toàn thể
nhân dân Việt Nam yêu nước không phân biệt già, trẻ, gái, trai, giàu, nghèo,
không phân biệt tôn giáo, tín ngưỡng, xu hướng chính trị, khơi dậy lòng yêu
nước tinh thần đoàn kết dân tộc trong họ để cùng nhau giải phóng dân tộc.

20


Tư tưởng về dân và vai trò của nhân dân của Hồ Chí Minh đã giúp
chúng ta thấy được sự cần thiết của việc xây dựng khối đại đoàn kết toàn
dân tộc để từ đó phát huy được sức mạnh của toàn thể nhân dân vào công
cuộc xây dựng đất nước.
Nghiên cứu, vận dụng đúng đắn tư tưởng của Hồ Chí Minh về dân
và vai trò nhân dân là chúng ta đang đi đúng hướng đến mục tiêu của chủ
nghĩa xã hội, bởi vì mục tiêu cao nhất của chủ nghĩa xã hội mà chúng ta
đang xây dựng là giải phóng con người, giải phóng nhân dân lao động.
2.2.2. Ý nghĩa về mặt thực tiễn
Trong giai đoạn phát triển mới của đất nước với việc đổi mới mô
hình tăng trưởng, phát triển nhanh, hiệu quả và bền vững trên tất cả các mặt
của đời sống xã hội hiện nay. Hồ Chí Minh thấy rõ sức mạnh của dân như
một sức mạnh giải phóng, giải phóng ý thức tư tưởng, giải phóng mọi tiềm

năng xã hội, nhờ đó phát huy được mọi khả năng sáng tạo, làm nở rộ những
tài năng sáng kiến của nhân dân, tạo ra những nguồn lực dồi dào cho tiến bộ
và phát triển xã hội
Tin vào dân, gắn bó với nhân dân, hiểu rõ về nhân dân, thấy được
vai trò của nhân dân để có thể xây dựng Đảng ngày một trong sạch vững
mạnh hơn. Có thể nói, nhiệm vụ chống suy thoái về tư tưởng, đạo đức, lối
sống trong cán bộ, đảng viên hiện nay sẽ không thành công nếu không biết
dựa vào dân.
Sự vận dụng và tiếp thu tư tưởng Hồ Chí Minh về dân và vai trò
của nhân dân của Đảng và Nhà nước ta được thể hiện hết sức cụ thể thông
qua Chỉ thị 05 CT/TW của Bộ Chính trị khóa XII về “Đẩy mạnh học tập và
làm theo tư tưởng, đạo đức, phong cách Hồ Chí Minh” và Nghị quyết
Trung ương 4 (Khóa XII) về xây dựng và chỉnh đốn Đảng.
Những quan điểm của Người về dân, vai trò nhân dân, đã từng
bước được hiện thực hóa trong các đường lối, chính sách của Đảng và Nhà
nước đặc biệt là trong thời kỳ đổi mới với xu hướng quốc tế hóa, toàn cầu
hóa, lựa chọn chế độ chính trị mà người dân được làm chủ đất nước, làm

21


chủ xã hội và chính bản thân mình một cách thực sự chứ không chỉ trên
danh nghĩa.
Tiểu kết chƣơng 2
Dân” trong tư tưởng của Hồ Chí Minh là những người trong cùng
một quốc gia, một cộng đồng, một lãnh thổ, một dân tộc thống nhất, là
“quốc dân”, là đồng bào. Họ là những người có chung một nguồn cội,
chung một tổ tiên, dòng họ, là “con cùng một bọc”, là “con lạc cháu hồng”,
là “con cháu Việt Nam” đều là anh em ruột thịt một nhà nên sống chết,
sướng khổ vui buồn có nhau. Nhân dân là những người Việt Nam yêu nước,

những người đang góp công sức xây dựng đất nước, là lực lượng cách mạng
Việt Nam. Nhân dân không chỉ bó hẹp trọng phạm vi quốc gia, dân tộc mà
theo Người nhân dân còn là bốn phương vô sản, là anh em quốc tế và nhân
loại. Vai trò của nhân dân trong sự nghiệp cách mạng Việt Nam trong tư
tưởng Hồ Chí Minh có thể khái quát lại như sau: nhân dân là gốc của nước,
nước phải lấy dân làm gốc; sự nghiệp cách mạng là của quần chúng nhân
dân; nhân dân là chủ của đất nước, của xã hội và của chính bản thân mình.
Tư tưởng của Hồ Chí Minh về nhân dân và vai trò của nhân dân, thể hiện sự
thấm nhuần về quan điểm giai cấp, quan điểm quần chúng của chủ nghĩa
Mác - Lênin đồng thời có tính sáng tạo, phù hợp với điều kiện thực tiễn của
nước ta.
Trong suốt cuộc đời hoạt động cách mạng của mình, Hồ Chí Minh
luôn đề cao vai trò của nhân dân, luôn hướng về nhân dân và giành cả cuộc
đời mình phấn đấu cho tự do, hạnh phúc của nhân dân. Với Người yêu dân,
tin dân trước hết phải nhận thức được đúng đắn vai trò của quần chúng nhân
dân, phải thấy được “dân” là nhân tố quyết định đối với mọi thắng lợi của
cách mạng Việt Nam. Thấm nhuần tư tưởng của Hồ Chí Minh về “dân” và
vai trò của nhân dân, Đảng và Nhà nước ta phải cố gắng tạo điều kiện hơn
nữa để có thể phát huy được tối đa vai trò, sức mạnh, tính tích cực chủ
động, sáng tạo của mỗi một người dân Việt Nam và cả dân tộc vào công
cuộc bảo vệ và xây dựng tổ quốc.

22


KẾT LUẬN
Tư tưởng về “dân” và vai trò của quần chúng nhân dân của Hồ
Chí Minh trong sự nghiệp cách mạng Việt Nam gồm những điều cốt lõi sau:
thứ nhất là sự tin tưởng của Hồ Chí Minh vào sức mạnh, năng lực sáng tạo,
năng lực cách mạng vô tận của nhân dân. Thứ hai là Người luôn nhắc nhở

Đảng và Nhà nước phải biết phát huy, vận động, tổ chức, lãnh đạo quần
chúng nhân dân. Sức mạnh của nhân dân là vô cùng, vô tận nhưng sức
mạnh ấy phải được huy động, tổ chức lãnh đạo để đi đúng hướng, phù hợp
với những nhiệm vụ của cách mạng trong từng thời kì, từng giai đoạn. Thứ
ba là Hồ Chí Minh luôn căn dặn mọi cán bộ, Đảng viên phải luôn quan tâm,
lắng nghe theo sát nguyện vọng của nhân dân để có thể hiểu được điều gì
dân thiếu, điều gì dân cần, để có thể tiếp thu học hỏi ý kiến của quần chúng
nhân dân trên cơ sở đó đưa ra được chủ trương đúng đắn hợp lòng dân, vì
dân và kịp thời sửa chữa những chủ trương chính sách chưa phù hợp.
Nhận thức đúng đắn vai trò của quần chúng nhân dân, Hồ Chí
Minh đã hiến dâng cả cuộc đời mình vì sự nghiệp giải phóng dân tộc và
hạnh phúc của nhân dân. Tư tưởng Hồ Chí Minh về nhân dân và vai trò của
nhân dân có nội dung rộng lớn, sâu sắc, đầy sáng tạo. Tư tưởng ấy giúp
chúng ta tìm thấy sức mạnh trong công việc của mình, dù ở bất nơi nào, địa
vị ra sao, lĩnh vực gì, nếu biết dựa vào dân, phát huy quyền làm chủ của
nhân dân, thật sự tôn trọng và học hỏi nhân dân thì nhất định sẽ thành công.

23


×